Đề tài Nâng cao hiệu quả kinh tế - Xã hội của XKLĐ Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế

Luật pháp của nước nhập khẩu LĐ là một trong những yêu cầu khắt khe và thường xuyên cũng là yếu tố nhạy cảm dễ bị vi phạm. Mỗi Quốc Gia có một hệ thống pháp luật khác nhau, thậm chí đôi khi trái ngược nhau, hoặc quá khắt khe đối với người LĐ. Hoặc cũng có khi là phi lý. Tuy nhiên, là một nước XKLĐ chúng ta phải chấp nhận những quy định và hoạt động XKLĐ phải được hoạt động trong khuôn khổ pháp luật đó. Tìm hiểu về pháp luật của nước nhập khẩu LĐ để hoạt động XKLĐ được chủ động hơn trong các cuộc đàm phán và ký kết hợp đồng.

doc29 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1212 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nâng cao hiệu quả kinh tế - Xã hội của XKLĐ Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A. MỞ ĐẦU I. Sự cần thiết phải nghiên cứu. Xuất khẩu lao động được Đảng và Nhà Nước ta xác định là 1 lĩnh vực kinh tế đối ngoại quan trọng, là bộ phận của chính sách giải quyết việc làm, được Quốc Hội đưa vào chỉ tiêu kế hoạch hàng năm.Trong những năm qua công tác XKLĐ đã thu được một số kết qủa khả quan góp phần tạo việc làm, xóa đói giảm nghèo, cải thiện đời sống cho người lao động. Theo số liệu thống kê của cục quản lý lao động nước ngoài(Bộ LĐTB-XH) chỉ tính từ năm 1999 đến nay cả nước đã có 282.600 lượt người đi làm việc ở nước ngoài nâng tổng số lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài hiện nay lên khoảng 400.000 nghìn người. Ngoài những thị trường XKLĐ truyền thống: Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, các nước Trung Đông, những năm gần đây đã mở rộng thêm thị trường Malaysia, Anh, Canada, ÚcThu nhập của những người đi XKLĐ ở nước ngoài bình quân năm khoảng 1,5 tỷ USD, góp phần cải thiện đời sống cho người lao động và gia đình họ, tăng nguồn vốn đầu tư cho phát triển sản xuất. So với các ngành khác thu nhập người XKLĐ có hiệu qủa cao, vốn đầu tư ít, đem lại lợi ích về nhiều mặtĐặc biệt trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế như ngày nay để phát huy được hiệu quả kinh tế xã hội của XKLĐ cần phải có những yếu tố đóng góp tích cực hơn nữa như:cơ chế chính sách về XKLĐ ngày càng được hoàn thiện, tạo hành lang pháp lý thông thoáng hơn cho hoạt động XKLĐ, Nhà Nước phải quan tâm đầu tư nghiên cứu phát triển thị trường tiếp nhận lao động Việt Nam, tổ chức các hoạt động đối ngoại xúc tiến mở rộng thị trường ngoài nước, hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc mở rộng và khai thác thị trường, mô hình liên thông liên kết giữa các địa phương và các doanh nghiệp XKLĐ đã nâng cao chất lượng tuyển chọn LĐ và hiệu quả quản lý LĐ nước ngoài Bên cạnh những ưu điểm trên,công tác XKLĐ hiện nay còn có rất nhiều hạn chế: chính sách, pháp luật về XKLĐ nhiều nhưng chuiwa đồng bộ, chưa theo kịp với tình hình thực tế, sự phối hợp của các cơ quan chức năng là chưa chặt chẽ, thiếu những bước chiến lược tầm quốc gia về XKLĐ,thủ tuc cấp phép hoạt động XKLĐ và chuyên gia, công tác định hướng phát triển thị trường ra nước ngoài còn nhiều bất cậpDo vậy việc đánh giá thực trạng XKLĐ của nước ta và rút ra nguyên nhân, đề ra những giải pháp nhằm tăng cường công tác XKLĐ về mọi mặt đang đặt ra rất cấp bách hiện nay, nhất là chúng ta đang đứng trước vu thế hội nhập ngày càng sâu rộng với kinh tế khu vực và thế giới. Xuất phát từ sự cần thiết đó em đã lựa chon đề tài: “Nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội của XKLĐ Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế”. B. NỘI DUNG Chương 1 Cơ sở khoa học về nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội của XKLĐ trong điều kiên hội nhập kinh tế quốc tế 1.1: XKLĐ là tất yếu khách quan đối với nền kinh tế nước ta trong giai đoạn hiện nay, mang lại lợi ích về nhiều mặt. Trước hết, đối với nước ta sự phát triển và LĐ là một trong những vấn đề kinh tế - xã hội phức tạp chẳng những trong giai đoạn hiện nay mà còn trong nhiều năm tới. Việc tăng dân số cũng đồng nghĩa với việc tăng nguồn LĐ. Trong 10 năm (1996-2005) lực lượng LĐ tăng suốt thời gian này với mức tăng trung bình là 9,222 triệu người/năm với tỷ lệ 2,3%/năm, năm 2005 đã lên tới 44,4 triệu người. Trong khi đó, mặc dù tỷ lệ thất nghiệp có xu hướng giảm trong giai đoạn 1996-2005, nhưng vẫn ở mức tương đối cao, năm 2005 là 2,1%. XKLĐ đã góp phần giải quyết việc làm cho một bộ phận các đối tượng chính sách, bộ đội xuất ngũ, thanh niên đến tuổi LĐ chưa có việc làm, góp phần thực hiện chương trình xóa đói giảm nghèo của Đảng và Nhà Nước ta. Đồng thời nó cũng tạo việc làm cho hàng vạn LĐ trong nước có việc làm do các khâu tổ chức, quản lý, dịch vụcho số LĐ ra nước ngoài làm việc mang lại. Nền kinh tế nước ta đang bước vào cơ chế thị trường do vậy đặt ra cho LĐ Việt Nam rất nhiều thách thức trước mắt, đó là sự loại thải những LĐ không có trình độ, khả năng làm việc yếu kém. Vì vậy, để giải quyết việc làm cho những LĐ trình độ chuyên môn yếu kém là một vấn đề khó khăn. Chính điều này đã làm tỷ lệ thất nghiệp của Việt Nam đứng ở mức cao trên thế giới (theo Liên Hợp Quốc là khoảng 7-8%), trong đó khu vực thành thị khoảng 9-11%. Nếu theo đánh giá của thế giới, một nước có tỷ lệ thất nghiệp dưới 3% là bình thường, 4-7% là lớn và trên 9% là nguy hiểm thì tỷ lệ thất nghiệp của nước ta là đáng báo động, đặc biệt là khu vực thành thị. Còn ở khu vực nông thôn tỷ lệ thất nghiệp cũng không xác định được vì không thể thấy người LĐ thất nghiệp, họ làm việc rất nhiều, làm theo mùa vụ quanh năm và các công việc ở nông thôn thì được tạo ra rất nhiều, nhưng thu nhập của họ tạo ra rất ít. Mặt khác, đất nước ta còn khó khăn về kinh tế chưa thể tạo ra nhiều chỗ làm trong nước. Do vậy đòi hỏi Đảng ta và Nhà Nước phải có những chính sách về dân số, LĐ, việc làm để giảm bớt gánh nặng thất nghiệp. Trong đó XKLĐ được coi là một trong những biện pháp quan trọng: Hai là, XKLĐ góp phần tiết kiệm vốn đầu tư tạo việc làm trong nước. Đẻ có một chỗ làm mới cho người LĐ có tay nghề cao ở ngành công nghiệp nặng trong nước cần phải có 100 triệu đồng, cho người có tay nghề trung bình cần khoảng 30-50 triệu đồng, hoặc để tạo một chỗ làm việc cho LĐ đơn giản trong tiểu thủ công nghiệp cũng cần 5-10 triệu đồng. Bình quân trong 10 năm 1980-1990, hàng năm ta đưa đi được hơn 28 ngàn LĐ, chiếm khoảng 3% lục lượng LĐ tăng thêm hàng năm, lượng vốn đầu tư tạo việc làm tiết kiệm được tính bình quân khoảng 1.000 tỷ đồng. Với số lượng LĐ và chuyên gia đang làm việc ở nước ngoài hiện nay là 400.000 nguời, cũng ít nhất tiết kiệm được trên 4.200 tỷ đồng đầu tư tạo việc làm trong nước. Còn theo Vụ LĐ Văn Hóa (Bộ Kế Hoạch – Đầu Tư ) bình quân một chõ làm với trang bị kỹ thuật như hiện nay là 39,3 triệu đồng thì giảm được ít nhất 15720 tỷ đồng đầu tư tạo việc làm trong nước. Ba là, nâng cao trình độ chuyên môn cho người LĐ, quá trình làm việc ở nước ngoài đã giúp cho người LĐ nâng cao trình độ chuyên môn ngoại ngữ, tiếp thu công nghệ, tác phong sản xuất công nghiệp, kinh nghiệm và trình độ quản lý. Khi trở về nước người LĐ sẽ góp phần cải tạo cơ cấu LĐ mất cân đối ở trong nước và từng bước đáp ứng các yêu cầu của sự nghiệp CNH – HĐH, góp phần hình thành ngồn nhân lực có kỹ thuật cao ở trong nước. Một bộ phận người LĐ sau hồi hương đã đầu tư mở DN tư nhân, các cơ sở sản xuất nhỏ tạo thêm việc làm cho gia đình và xã hội, góp phần phát triển kinh tế địa phương. Bốn là, tăng thu nhập cho người LĐ và tăng thu ngoại tệ cho đất nước. Qua việc than gia XKLĐ người LĐ sẽ cải thiện nguồn thu nhập và đời sống gia đình họ, đồng thời tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước. 1.2: Các đặc điểm, hình thức và tầm quan trọng của XKLĐ.       1.2.1- Khái niệm, nguyên nhân, điều kiện, đặc điểm, các hình thức XKLĐ. * Khái niệm XKLĐ: XKLĐ là đưa người lao động ra làm việc ở nước ngoài bằng những hình thức thích hợp nhằm tạo ra thu nhập về ngoại tệ và giải quyết một phần áp lực việc làm trong nước. Ở Việt Nam, XKLĐ và chuyên gia là một hoạt động kinh tế - xã hội góp phần phát triển nguồn nhân lực, giải quyết việc làm, tạo thu nhập và nâng cao tay nghề cho người LĐ, tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước và tawng cường quan hệ hợp tác quốc tế giữa nước ta với các nước. * Nguyên nhân dẫn đến XKLĐ. - Những biến động về nhu cầu sức LĐ trên phạm vi toàn cầu do sự phát triển không đồng đều về các yếu tố đầu vào của quá trình tái sản xuất giữa các quốc gia làm nảy sinh nhu cầu trao đổi quốc tế về hàng hóa sức LĐ. - Sự chênh lệch về thu nhập và mức sống giữa các nước ngày càng trở thành lực hút người LĐ từ nước có thu nhập thấp và mức sống thấp sang nước có thu nhập và mức sống cao. - Chênh lệch về mức tăng dân số tự nhiên giữa các nước trở thành lực đẩy từ các nước có mức tăng dân số tự nhiên cao sang nước có mức tăng dân số thấp hơn. - Do tác động của toàn cầu hóa và nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế của mỗi quốc gia. - Nhu cầu tăng thu ngoại tệ, tăng thu ngân sách, thu nhập, nâng cao trình độ tay nghề cho người đi làm việc ở nước ngoài. * Những điều kiện thực hiện XKLĐ. - Phải làm cho sức LĐ biến thành hàng hóa, tức là thành đối tượng mua bán giữa các nước. - Phải phá vỡ hàng rào về quan hệ xã hội: phong kiến, gia trưởng, hủ tục lạc hậu - Sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế Tư Bản Chủ Nghĩa vượt ra ngoài phạm vi một nước làm cho người LĐ cũng bị quốc tế hóa. Trong tình hình đó “vốn đi đâu, người công nhân phải theo đó”. Luồng di chuyển quốc tế của vốn quyết định hướng và lượng của sức LĐ di cư theo. - Sự hoàn thiệ không ngừng của các phương tiện giao thông vận tải, công nghệ thông tin đã thúc đẩy mạnh mẽ quá trình di chuyển quốc tế sức LĐ nói chung, XKLĐ nói riêng và sự phát triển của thị trường LĐ thế giới. * Đặc điểm của XKLĐ. Các nước phát triển có trình độ khoa học công nghệ cao, hiện đại, hệ thống giáo dục tiên tiến lại dư thừa vốn tư bản, do đó thực hiện đầu tư ra nước ngoài nhằm thu lợi nhuận tối đa. Cùng với vốn và công nghệ là XKLĐ có trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao, một mặt nhằm đào tạo huấn luyện, chuyển giao cho các nước sở tại. Mặt khác, nhằm thu hồi lại chi phí đào tạo đã bỏ ra cũng như tạo điều kiện cho đội ngũ LĐ này kiếm thêm việc làm, tăng thu nhập. Các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam, với đắc điểm nổi bật là dân số tăng nhanh, việc làm thiếu, trình độ tay nghề thấp,XKLĐ chủ yếu là LĐ phổ thông và LĐ tay nghề trung bình đến làm việc trong các lĩnh vực bị thiếu hụt công nhân để tăng thu nhập và tích lũy ngoại tệ, giảm sức ép về giải quyết việc làm trong nước, đào tạo nguồn nhân lực. * Các hình thức XKLĐ. + Cá nhân nguời LĐ tự tìm việc làm ở nước ngoài: Đây là hình thức XKLĐ ra đời sớm nhất và phổ biến nhất với các nước có biên giới chung. Thông qua các thông tin như: Internet, người thân + Lao động đi làm việc ở nước ngoài thông qua các doanh nghiệp XKLĐ. Dưới hình thức này các doanh nghiệp XKLĐ khai thác tìm kiếm dối tác, chủ thuê LĐ nước ngoài, ký kết các hợp đồng LĐ theo quy định của nước tiếp nhận và pháp luật nước XKLĐ. + Lao động đi làm việc theo công trình thầu khoán, liên doanh, liên kế, hợp tác trực tiếp, đầu tư ra nước ngoài. + Lao động đi làm việc ở nước ngoài thông qua hiệp định, thỏa thuận, cam kết của Chính Phủ. + Lao động đi làm việc ở nước ngoài thông qua các hợp đồng thực tập, nâng cao tay nghề. 1.2.2- Tầm quan trọng XKLĐ với Việt Nam trong điều kiện hội nhập nền kinh tế quốc tế. Trước hết, XKLĐ cho phép phát huy lợi thế so sánh và nhân công, khai thác tối đa yếu tố ngoại lực trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Việt Nam có nguồn LĐ dồi dào và trẻ, giá nhân công tương đối thấp, đây là lợi thế mà không phải quốc gia nào cũng có được, là tiềm năng quan trọng cho XKLĐ. XKLĐ là quá trình tham gia và hội nhập thị trường LĐ quốc tế nhằm khai thác tối ưu yếu tố ngoại lực, cho phép sử dụng yếu tố so sánh về nhân công để di chuyển một bộ phận LĐ Việt Nam ra nước ngoài vừ giải quyết việc làm, vừa tạo khoáng trống đưa công nghệ có hàm lượng vốn và kỹ thuật cao vào sản xuất. Hai là, XKLĐ góp phần tạo công an việc làm cho người LĐ, giảm thất nghiệp, góp phần xóa đói giảm nghèo. Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001-2010 vạch rõ: “Giải quyết việc làm là yếu tố quyết định để phát huy nhân tố con người, ổn định và phát triển kinh tế, làm lành mạnh xã hội, đáp ứng nguyện vọng chính đáng và yêu cầu bức xúc của nhân dânĐẩy mạnh XKLĐ, xây dựng và thực hiện đồng bộ, chặt chẽ cơ chế, chính sách về đào tạo nguồn LĐ, đưa LĐ ra nước ngoài, bảo vệ quyền lợi và tăng uy tín người LĐ Việt Nam ở nước ngoài”. Ba là, XKLĐ góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Chất lượng nguồn nhân lực là năng lực sinh thể, văn hóa, đạo đức, tư tưởng và sự thống nhất với kỹ năng lao động theo nghề nghiệp của người có năng lực LĐ ở một nước, một địa phương. Mặt khác, người LĐ được làm việc trong môi trường công nghiệp hiện đại, buộc họ phải tuân thủ nghiêm ngặt kỷ luật LĐ, tác phong công nghiệp, đó cũng chính là quá trình rèn luyện tác phong cho người LĐ theo tiêu chuẩn của người công nhân hiện đại. Bốn là, XKLĐ tạo thu nhập cho người LĐ tăng nguồn thu cho Nhà Nước, tăng tích lũy và đầu tư. Thực tiễn cho thấy một người LĐ đi làm việc ở nước ngoài với thời hạn 36 tháng, khi trở về nước họ tích lũy được ít nhất là 150 triệu VNĐ. Với số tiền đó không chỉ họ thoát nghèo mà còn có khả năng đầu tư để sản xuất kinh doanh theo sở trường và khả năng của mình. XKLĐ làm tăng thu nhập quốc gia GNI bằng cách làm tăng GDP thông qua các khoản thu dịch vụ tăng như phí dịch vụ XKLĐ, tiền bán vé máy bay và làm tăng thu nhập yếu tố thuần thông qua khoản thu nhập của LĐ xuất khẩu gửi về nước. Năm là, XKLĐ góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu LĐ xã hội theo yêu cầu của CNH-HĐH, kinh tế tri thức và kinh tế thị trường. Sáu là, XKLĐ góp phần tiếp cận, khám phá và thúc đẩy ứng dụng công nghệ tiên tiến trong tiến trình CNH-HĐH. Bảy là, tăng cường hội nhập, mở rộng giao lưu quốc tế và hình thành cộng đòng người Việt Nam ở nước ngoài. Tóm lại, nâng cao hiệu quả XKLĐ là yêu cầu khách quan đối với quá trình CNH-HĐH và phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta đem lại lợi ích đa dạng trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.          1.3: Các chỉ tiêu, nguyên tắc và các nhân tố ảnh hưởng đến nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội của XKLĐ trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.       1.3.1- Khái niệm và các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh tế xã hội của XKLĐ. * Khái niệm hiệu quả kinh tế - xã hội của XKLĐ: Là chỉ tiêu phản ánh mối quan hệ biện chứng giữa hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội của XKLĐ với các nguồn lưc để tạo ra nó nhằm thực hiện mục tiêu: giải quyết việc làm, tạo thu nhập và nâng cao trình độ tay nghề cho người LĐ, tăng nguồn thu và dự trữ ngoại tệ, phát triển nguồn nhân lực, khám phá và tiếp nhận các bí quyết công nghệ, tăng cường quan hệ hợp tác quốc tế giữa nước ta với các nước. Khi xem xét hiệu quả kinh tế - xã hội của XKLĐ phải xem xét trên cả hai khía cạnh kinh tế và xã hội trong mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau, trong sự kết hợp lợi ích cá nhân và gia đình người LĐ với lợi ích của Nhà Nước. *Chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh tế - xã hội của XKLĐ: Thứ nhất, chỉ tiêu hiệu quả kinh tế của XKLĐ. Hiệu quả kinh tế - xã hội của XKLĐ là chỉ tiêu biểu hiện hiệu quả hoạt động của XKLĐ về mặt kinh tế trong một thời kỳ nhất định. Chỉ tiêu kiệu quả kinh tế thường được xem xét qua 2 chỉ tiêu cụ thể: + Hiệu quả kinh tế tuyệt đối của XKLĐ: là hiệu số giữa tổng thu từ XKLĐ trừ đi chi phí đầu tư cho XKLĐ trong một thời kỳ nhất định. Es = T – C Trong đó: Es : là hiệu quả kinh tế tính bằng tiền T : là tổng thu từ XKLĐ bằng tiền C : là tổng chi phí đầu tư cho XKLĐ tính bằng tiền + Hiệu quả kinh tế tương đối của XKLĐ : là tỷ lệ tính bằng phần trăm giữa tổng thu tương ứng với tổng chi phí đầu tư cho XKLĐ trong một thời kỳ nhất định. Er (%) = R / C x 100% Trong đó: Er (%) : là hiệu quả kinh tế tương đối tính bằng % T : là tổng thu từ XKLĐ bằng tiền C : là tổng chi đầu tư cho XKLĐ bằng tiền Thứ hai, chỉ tiêu hiệu quả xã hội của XKLĐ. Là chỉ tiêu phản ánh sự biến đổi ngày càng tăng về số lượng và chất lượng trong các vấn đề xã hội như:giảm thất nghiệp, xóa đói giảm nghèo, nâng cao mức sống dân cư, đảm bảo sự công bằng xã hộido XKLĐ mang lại trong từng thời kỳ nhất định. Hiệu quả xã hội của XKLĐ được đánh giá qua các nội dung sau: Tạo thêm việc làm, giảm thất nghiệp. Góp phần xóa đói giảm nghèo. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Nâng cao thu nhập và đời sống cho cá nhân và gia đình người đi XKLĐ. Hình thành và phát triển cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài. 1.3.2- Nguyên tắc nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội của XKLĐ. Một là, kết hợp hài hòa giữa hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội trong XKLĐ Hai là, kết hợp hài hòa giữa lợi ích Nhà Nước với lợi ích người đi XKLĐ. Ba là, kết hợp hài hòa lợi ích người đi XKLĐ với doanh nghiệp XKLĐ và cơ sở đào tạo lao động cho xuất khẩu. Bốn là, giải quyết đúng đắn giữa lợi ích doanh nghiệp và lợi ích Nhà Nước trong XKLĐ . Năm là, giải quyết hợp lý về lợi ích của nước XKLĐ với nước tiếp nhận LĐ. Các nhân tố ảnh hưởng tới nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội của xuất khẩu lao động. 1.3.3.1: Các nhân tố bên ngoài. a) Cung cầu của thị trường lao động quốc tế. Đối với lĩnh vực XKLĐ đó là thị trường LĐ quốc tế.Cung cầu của thị trường LĐ quốc tế là nhân tố quan trọng quyết định giá cả, số lượng cũng như cách thức cung ứng hoặc tuyển dụng LĐ của các doanh nghiệp XKLĐ. Cung cầu của thị trường LĐ thế giới có tác động tới hoạt động XKLĐ như sau: Thứ nhất, khi có sự khan hiếm lao động ở lĩnh vực hay một quốc gia nào đó, ngay lập tức giá cả (tiền lương) được trả cao hơn để thu hút LĐ vào làm việc.Đồng thời khi đó không chỉ tiền lương của người LĐ mà cả lợi nhuận của DN cũng tăng lên nên cũng thu hút nhiều DN hơn quan tâm tới việc cung ứng LĐ vào khu vực này. Thứ hai, cung cầu trên thị trường LĐ quốc tế sàng lọc những LĐ không đáp ứng được nhu cầu của thị trường LĐ. Những LĐ có chất lượng kém sẽ không được lựa chọn vào “nguồn dự trữ” của các DN. ĐIều này thúc đẩy người LĐ tự giác rèn luyện, đào tạo tay nghề để tự nâng cao “chất lượng sức LĐ” của mình, tạo cơ hội cho mình trong quá trình tuyển chọn của các DN. Thứ ba, cung cầu trên thị trường LĐ thế giới cũng sàng lọc những doanh nghiệp XKLĐ không đảm bảo uy tín trong cung ứng dịch vụ của mình trên thị trường LĐ. b) Sự cạnh tranh giữa các quốc gia. Sự cạnh tranh trong XKLĐ không chỉ diễn ra giữa các DN XKLĐ mà còn giữa các quốc gia thể hiện ở chính sách của chính phủ nhằm đẩy mạnh XKLĐ.Khi đó cạnh tranh xuất hiện giữa các quốc gia, để nâng cao hiệu quả XKLĐ, tạo điều kiện hơn cho các DN XKLĐ trong cạnh tranh quốc tế, các chính phủ không còn ở ngoài cuộc đối với hoạt động của DN mà ngày càng can thiệp mạnh mẽ hơn về mặt quản lý Nhà Nước theo hướng đưa hoạt động XKLĐ đi vào khuôn khổ pháp luật. c) Quan hệ chính trị, kinh tế của nước xuất khẩu và nước nhập khẩu. Kinh tế giữa các quốc gia không thể tách rời thể chế chính trị và quan hệ chính trị giữa các Quốc Gia đó.Đặc biệt trong lĩnh vực XKLĐ, lĩnh vực liên quan đến con người, có nhiều yếu tố nhạy cảm thì quan hệ chính trị càng có ý nghĩa quan trọng. Nếu không có sự bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau về mặt chính trị, tôn giáo giữa các nước xuất khẩu và nhập khẩu LĐ thì không thể có sự di chuyển sức LĐ bởi sức LĐ gắn với con người cụ thể. Có ý chí, suy nghĩ và hoạt động vì lợi ích quốc gia mình một cách chủ động hoặc bị động. d) Phong tục, tập quán của các nước nhập khẩu LĐ. Yếu tố phong tục tập quán của nước nhập khẩu LĐ thường có ảnh hưởng mạnh tới cuộc sống hàng ngày của người lao động trong quá trình sinh sống ở nước ngoài. Ảnh hưởng này tác động tới khả năng làm việc của người LĐ bởi thông thường người LĐ phải tuân thủ theo những thói quen và yêu cầu của các phong tục tập quán đó. Nếu có sự khác biệt quá lớn về phong tục, tập quán sẽ khó khăn hơn cho người LĐ và đôi khi gây ra những mâu thuẫn giữa chủ sử dụng LĐ và người làm thuê. Trong trường hợp này, vai trò của quản lý Nhà Nước về hoạt động XKLĐ là rất quan trọng. Nó có nhiệm vụ định hướng cho người LĐ những sự khác biệt đó để chuẩn bị trước khi xuất cảnh sao cho hạn chế tới mức thấp nhất những mâu thuẫn có thể xảy ra. e) Luật pháp của nước nhập khẩu LĐ. Luật pháp của nước nhập khẩu LĐ là một trong những yêu cầu khắt khe và thường xuyên cũng là yếu tố nhạy cảm dễ bị vi phạm. Mỗi Quốc Gia có một hệ thống pháp luật khác nhau, thậm chí đôi khi trái ngược nhau, hoặc quá khắt khe đối với người LĐ. Hoặc cũng có khi là phi lý. Tuy nhiên, là một nước XKLĐ chúng ta phải chấp nhận những quy định và hoạt động XKLĐ phải được hoạt động trong khuôn khổ pháp luật đó. Tìm hiểu về pháp luật của nước nhập khẩu LĐ để hoạt động XKLĐ được chủ động hơn trong các cuộc đàm phán và ký kết hợp đồng. 1.2.3.2: Các nhân tố bên trong. a) Quan điểm của Nhà Nước về hoạt động XKLĐ. Với mỗi cách nhìn khác nhau về vai trò của hoạt động XKLĐ sẽ dẫn tới cách quản lý khác nhau. Ở nước ta trước đây hoạt động XKLĐ thường không mang ý nghĩa kinh tế, kinh doanh vì vậy các DN XKLĐ không phải là cơ quan kinh doanh mà là cơ qun hành chính thực hiên các nhiệm vụ được giao của Nhà Nước mà chủ yếu là nhiệm vụ chính trị. Nhưng đến nay, khi bước vào cơ chế thị trường quan điểm về vai trò của hoạt động XKLĐ đã được thay đổi dẫn đến việc hình thành hàng loạt các DN XKLĐ hoạt động độc lập về tài chính, có doanh thu, chi phí và lợi nhuận.Chính vì quan điểm này nên hoạt động XKLĐ đã trở nên sôi động hơn và trở thành mootj trong nhũng yếu tố quan trọng thúc đẩy XKLĐ phát triển. b) Trình độ, cơ cấu lao động, cơ cấu ngành nghề. Chất lượng và số lượng LĐ ảnh hưởng tới định hướng và cách thức quản lý Nhà Nước về XKLĐ của Chính Phủ. Chất lượng kém, số lượng ít, cơ cấu không phù hợp sẽ buộc các chính sách và biện pháp quản lý Nhà Nước đề ra phải tập trung mạnh hơn vào công tác tạo nguồn LĐ thông qua hệ thống đào tạo, tuyển chọn và cả việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nước để đảm bảo sao cho lực lượng LĐ nguồn có chất lượng và cơ cấu phù hợp với nhu cầu của thị trường LĐ. Một lý do thông thường là các nước XKLĐ không có cơ hội lựa chọn thị trường mà chính là thị trường chọn họ.Vì vậy, việc chuẩn bị lực lượng LĐ xuất khẩu phù hợp với yêu cầu của thị trường LĐ ở các nước khác nhau sẽ tạo cơ hội tốt hơn trong việc mở rộng và phát triển thị trường. c) Luật pháp trong quản lý. Luật pháp là công cụ quản lý vĩ mô quan trọng nhất của Nhà Nước. Khi có một hệ thống luật pháp đầy đủ, việc quản lý Nhà Nước sẽ đơn giản và dễ dàng hơn. Nguyên nhân của những tồn tại này, hạn chế của XKLĐ thường tập trung ở chỗ chưa có được một hệ thống pháp luật thống nhất và bao quát cũng như các pháp chế để tổ chức thực hiện pháp luật một cách nghiêm túc. Đôi khi luật pháp đã được ban hành song pháp chế, chế tài chưa nghiêm thì các chính sách, luật pháp cũng không thể phát huy tác dụng có hiệu quả. d) Vai trò của Chính phủ trong XKLĐ. Đối với lĩnh vực XKLĐ, Chính phủ là cơ quan quản lý vĩ mô, ban hành các cơ chế thông thoáng, chính sách thuận lợi tạo điều kiện cho các DN XKLĐ hoạt động. Các cơ chế, chính sách được Chính phủ ban hành càng hoàn thiện, sát thực tế hơn thì hiệu quả hoạt dộng của các DN XKLĐ càng cao. Chương 2 Thực trạng về hiệu quả kinh tế xã hội của XKLĐ Việt Nam.           2.1: Quá trình hình thành thị trường XKLĐ ở Việt Nam. Năm 1975, sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước thắng lợi; nước ta đối mặt với những khó khăn, thách thức to lớn cả về kinh tế, xã hội, ngoại giao. Đó là tốc độ tăng trưởng kinh tế thấp( khoảng 2,3 %/năm), hàng triệu LĐ không có việc làm, vốn đầu tư cho phát triển thấp, đất nước bị cấm vận, nhu cầu giải quyết việc làm và đào tạo nghề cho người LĐ để phát triển kinh tế, xây dựng lại đất nước hết sức cấp bách. Ngày 29/11/1980, Chính Phủ ra quyết định số 362/CP về việc đưa một bộ phận LĐ Việt Nam ra nước ngoài làm việc có thời hạn và bồi dưỡng nâng cao tay nghề nhằm giải quyết việc làm cho một bộ phận thanh niên ta, thông qua hoạt động hợp tác nhờ các nước anh em đào tạo đội ngũ LĐ có tay nghề vững, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế nước ta sau này. Đại Hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, tháng 12/1986, chủ trương: Mở rộng hợp tác lao động với nước ngoài kết hợp với việc đào tạo tay nghề cho thanh niên và nâng cao trình độ chuyên gia, lựa chọn người đúng tiêu chuẩn, bố trí co cấu ngành nghề hợp lý, quản lý chặt chẽ về tổ chức và tư tưởng. Đại Hội Đại Biểu toàn quốc của Đảng lần thứ VII (tháng 6/1991)xác định: Chương trình quốc gia về giải quyết việc làm hướng vào việc phát triển một số ngành và địa bàn trọng điểm, tạo được nhiều việc làmxây dựng kết cấu hạ tầng, mở mang các ngành dịch vụ XKLĐ. Ngày 02/04/2002, quốc hội khóa XKLĐ, kỳ họp thứ 11 tiếp tục thông qua việc sửa đổi, bổ sung 56 nội dung của Luật LĐ 1994 nhằm thúc đẩy sự hình thành và phát triển thị trường LĐ trong nước và tạo hành lang pháp lý đẩy mạnh XKLĐ. Ngày 17/7/2003, chính phủ ban hành nghị đinhj số 81/2003/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Bộ Luật LĐ về XKLĐ. Ngày 11/11/2005, chính phủ tiếp tục ban hành nghị định số 141/2005/NĐ-CP về việc Quản lý người LĐ có thời hạn ở nước ngoài.  2.2: Đánh giá hiệu quả kinh tế xã hội của XKLĐ       2.2.1- Những kết quả đạt được. 2.2.1.1- Về hiệu quả kinh tế của XKLĐ. Thứ nhất, mức sinh lời của XKLĐ. Thực tế cho thấy mức sinh lời của lao động làm việc ở nước ngoài so với làm việc ở trong nước theo từng nhóm ngành là gấp 3 lần đối với nông nghiệp, 8 lần với ngành công nghieepjchees biến và xây dựng, gấp 12 lần đối với dịch vụ gia đình và xã hội. Thứ hai, tiết kiệm vốn đầu tư tạo việc làm cho người lao động Bảng 1- Mức tiết kiệm vốn đầu tư tạo việc làm giai đoạn 2000-2008. Năm Số lao động XK(người) Suất đầu tư(TRđ/ người) Khoản tiết kiệm(trđ) 2000 12.560 _ _ 2001 18.470 56,055 1.035.336 2002 12.240 19,548 239.269 2003 21.810 15,969 348.284 2004 31.500 38,055 1.198.733 2005 36.000 13,120 478.460 2006 46.122 17,745 818.435 2007 75.000 110.071 8.255.325 2008 67.447 15,810 1.066.337 Bình quân/năm 1.680.022 Nguồn: Bộ LĐ Thương Binh và Xã Hội Số liệu trên biểu cho thấy tuy số lượng LĐ ra nước ngoài làm việc chưa nhiều nhưng bình quân hàng năm XKLĐ đã tiết kiệm được gần 1.700 tỷ đồng vốn đầu tư xã hội để tạo việc làm. Lượng vốn này có thể dùng để đầu tư phát triển các ngành sử dụng nhiều vốn, công nghệ cao đẩy mạnh tốc độ CNH-HĐH. Như vậy xét trên góc độ tiết kiệm vốn đầu tư, XKLĐ là hoạt động mang lại lợi ích kép vừa tạo việc làm trong nước, vừa tiết kiệm vốn đầu tư tạo việc làm trong nước cho người lao động. Thứ ba, tăng nhập cho doanh nghiệp tăng thu nhập quốc gia. XKLĐ góp phần hình thành một nghề kinh doanh mới, nghề dịch vụ giới thiệu giới thiệu việc làm ngoài nước và tạo nên hệ thống doanh nghiệp hoạt động XKLĐ và phục vụ XKLĐ. Hàng năm các doanh nghiệp XKLĐ đóng góp đáng kể vào việc làm tăng GDP thông qua dịch vụ XKLĐ và các dịch vụ phụ trợ cho XKLĐ. Bảng 2- Mức tăng GDP, GNI từ XKLĐ. Đơn vị: Triệu USD Năm 2004 2005 2006 2007 2008 Mức gia tăng GDP từ XKLĐ 30 30 30 30 30 Số tiền LĐ chuyển về nước 1.250 1.400 1.450 1.500 1.600 Mức gia tăng GNI từ XKLĐ 1.280 1.430 1.480 1.530 1.630 Nguồn: Cục quản lý lao động nước ngoài Như vậy, hàng năm XKLĐ góp phần làm tăng GNI thêm gần 1,5 tỷ USD. Thứ tư, tích lũy từ XKLĐ trong tổng tích lũy của nền kinh tế. Bảng 3- Tỷ trọng tích lũy từ XKLĐ trên tổng số tích lũy của nền kinh tế. Chỉ tiêu 2004 2005 2006 2007 2008 Tổng tích luỹ (Tỷ VNĐ) 130.771 150.033 177.983 217.434 253.686 Tổng tích luỹ (Triệu USD) 9239 10.147 11.676 14.051 16.154 Tích luỹ từ XKLĐ (Tr. USD) 1.250 1.400 1.450 1.500 1.600 Tỷ trọng 13,53% 13,8% 12,42% 10,68% 9,9% Tỷ giá TB 14.155 14.785 15.244 15.475 15.704 Nguồn: Cục quản lý lao động nước ngoài Bảng số liệu cho thấy tỷ trọng tiết kiệm từ XKLĐ chiếm xấp xỉ 10% tổng tích lũy của nền kinh tế. Thứ năm, thu ngoại tệ cho đất nước với số lượng lớn và hệ số xuất khẩu ròng cao. Những năm qua, XKLĐ là hoạt động mang lại nguồn thu ngoại tệ lớn góp phần làm tăng dự trữ ngoại tệ và cải thiện cán cân thanh toán quốc tế trong điều kiện cán cân thương mại luôn thâm hụt. Bảng 4- Tổng trị giá xuất – nhập khẩu giai đoạn 2004-2008. Đơn vị: Triệu USD XK hàng hoá NK Hàng hoá Chênh lệch XKLĐ Cân đối 2004 14.482,7 15.636,5 -1.153,8 1.250 96,2 2005 15.029,2 16,217,9 -188,7 1.400 122,3 2006 16.706,1 19.745,6 -3.039,5 1.450 -1.589,5 2007 20.149,3 25.555,8 -5.106,5 1.500 -3.606,5 2008 26.504,2 31.953,9 -5.449,7 1.600 -3.849,7 Nguồn: Cục quản lý lao động nước ngoài Thứ sáu, tăng nhanh tích lũy và vốn đầu tư khu vực tư nhân. NGười đi lao động ở nuocs ngoài có thu nhập cao hơn từ 6-10 lần lao động làm việc trong nước, người lao động tích lũy được một nguồn vốn tối thiểu để tự đầu tư hoặc liên kết đầu tư dưới hình thức các công ty cổ phần nhằm phát triển sản xuất kinh doanh, tạo thêm việc làm mới, góp phần thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng. Tuy nhiên do lao động VIệt Nam chủ yếu là lao động đơn giản, trình độ chuyên môn thấp nên thu nhập chưa caoso với lao động các nước khác cùng làm việc hoặc lao động nước sở tại. Thứ bảy, tạo ra các khoảng trống lao động, khám phá và tiếp nhận các công nghệ tiên tiến hiện đại, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng CNH_-HĐH. 2.2.1.2- Về hiệu quả xã hội của xuất khẩu lao động. Thứ nhất, tạo việc làm, giảm thất nghiệp. Hiệu quả của XKLĐ thể hiện trước hết thông qua các chỉ tiêu: số việc làmđược giải quyết ở nước ngoài biểu hiện ở số lao động hàng năm, tỷ trọng lao động xuất khẩu trong tổng số lực lượng lao động xã hội và tỷ trọng lao động xuất khẩu trên tổng số lao động thất nghiệp. Thứ hai, góp phần xóa đói giảm nghèo Thứ ba, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Thứ tư, mở rộng quan hệ với bạn bè quốc tế, hình thành và phát triển cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài.        2.2.2- Những tồn tại và hạn chế. Kết quả đạt được chưa tương xưng với tiềm năng, số LĐ đưa đi còn ít, thị trường chỉ tập trung ở một số nước châu Á. Số LĐ Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài bình quân hàng năm chiếm khoảng 0,09% lưc lượng LĐ, trong khi tỷ LĐệ này của Philippines là 22,3%và In đônễia là 3,2%. Lao động đi làm việc ở nước ngoài chiếm khoảng 3%số LĐ được giải quyết việc làm mới hàng năm. Thị trường chủ yếu tập trung ở Đông Á với quy mô nhỏ và làm việc trong các ngành công nghệ cao ít. Đến nay mới chỉ khai thác được 4,5% thị trường LĐ Nhật Bản, 16% thị trường LĐ Hàn Quốc, 30% thị trường LĐ Đài Loan, và 4,1% thị trường LĐ Malayxia; các thị trường Tây Âu, Bắc Mỹ, Nam Mỹ có tiềm năng lơn nhưng chưa tiếp cận được hoặc mới ký được hợp đồng nhỏ le Thu nhập của người Việt Nam thấp hơn, phí môi giới phả trả cao hơn, và khoản tiền gửi về nước thấp hơn các nước khác. Các doanh nghiệp XKLĐ cạnh tranh bằng cách nâng phí môi giới, hạ thấp đơn giá tiền lương và điều kiện làm việc của người LĐ để giành giật hợp đồng, gây hỗn loạn giá cả sức LĐ và chi phí trên thị trường LĐ, làm cho thu nhập của LĐ Việt Nam thấp hơn LĐ các nước khác.   3. Chất lượng LĐ xuất khẩu thấp, LĐ qua đào tạo ít, trình độ ngoại ngữ, hiểu biết về xã hội và pháp luật kém, tỷ LĐệ vi phạm hợp đồng và pháp luật nước sở tại cao. Tỷ trọng LĐ có nghề bình quân khoảng 35,5% tổng số lao động xuất khẩu, hiểu biết pháp luật hạn chế và ý thức tổ chức kỷ luật kém, tác phong nông nghiệp kết hợp với động cơ làm giàu nhanh nên LĐ nước ta dễ vi phạm hợp đồng và pháp luật nước sở tại. Theo số liệu thống kê, năm 2004 tỷ lê LĐ Việt Nam bỏ trốn tại Anh là 100%, Nhật Bản là 34%, chiếm 42,1% tổng số LĐ nước ngoài bỏ trốn tại nước này, trong khi nước có tỷ lệ lao động trốn nhiều thứ hai là Indonexia cũng chỉ chiếm 5,58% tổng số lao động nước ngoài bỏ trốn tại Nhật Bản. Tại Đài Loan tỷ lỵ này xấp xỉ 10% làm cho Chính quyền Đài Loan phải đóng cửa thị trường LĐ dịch vụ gia đình và dịch vụ xã hội. Sức cạnh tranh của doanh nghiệp XKLĐ còn thấp. Tiềm lực tài chính và năng lực tổ chức quản lý của doanh nghiệp XKLĐ, nhất là doanh nghiệp kiêm XKLĐ chưa đủ sức cạnh tranh trên thị trường LĐ quốc tế. Vì vậy, trong 112 doanh nghiệp hiện nay chỉ có 3 doanh nghiệp được trên 10.000 lao động, 8 doanh nghiệp xuất khẩu được trên 5.000 lao động. Một số doanh nghiệp XKLĐ vi phạm chính sách, pháp luật chậm được phát hiện và XKLĐử lý, một số cá nhân lừa đảo hoặc tuyển mộ đào tạo đưa người LĐ đi nước ngoài bất hợp pháp vẫn còn tồn tại và có xu hướng gia tăng làm cho hiệu quả kinh tế - xã hội của XKLĐ bị giảm sút. Tổ chức tuyển chon và đưa LĐ đi làm việc ở nước ngoài thiếu công khai, minh bạch, thủ tục hành chính rườm rà, phức tạp, ách tắc, gây phiền hà và tồn thời gian, tiền bạc của người LĐ. Quản lý lao động ở nước ngoài còn thiếu nhiều bất cập, yếu kém, chưa xu lý và ngăn chặn tình trạng LĐ bỏ trốn, vi phạm hợp đồng LĐ, chưa bảo vệ kịp thời và đầy đủ lợi ích chính đáng của người LĐ làm việc ở nước ngoài, chưa có hình thức tổ chức thích hợp để tập hợp LĐ Việt Nam ở từng nước. Việc chuyển tiền về nước của người LĐ mang tính tự phát, khoản tiền chuyển về nước chưa được sử dụng có hiệu quả. Khi về nước người LĐ chưa được hướng dẫn kỹ, hỗ trợ phát triển kinh tế, bố trí làm việc trong các ngành nghề phù hợp gây lãng phí lớn nhân lực. Vai trò XKLĐ đối với xóa đói giảm nghèo còn mờ nhạt        2.2.3- Nguyên nhân của những tồn tại và hạn chế. 2.2.3.1- Nhận thức về hiệu quả kinh tế - xã hội của XKLĐ xòn hạn chế và quan điểm thiếu đồng nhất. Hiệu quả kinh tế - xã hội của XKLĐ chậm được làm rõ về mặt lý luận, thiếu đánh giá tổng kết thực tiễn, nên chưa đạt được sự đồng thuận cao trong toàn xã hội. Chậm hoạch định chiến lược, kế hoạch, quy hoạch XKLĐ, bước đi phù hợp gắn với phát triển kinh tế- xã hội của từng thời kỳ đất nước. Hoạt động XKLĐ chưa được quan tâm chỉ đạo, đầu tư nhân tài, vật lực đúng mức trên các mặt: khai thác và mở rộng thị trường, đào tạo nguồn nhân lực cho xuất khẩu. Quan điểm cho rằng XKLĐ chỉ nhằm mục tiêu giải quyết việc làm thì chạy theo số lượng LĐ đưa đi, không quan tâm tới chất lượng LĐ xuất khẩu, việc tuyển chọn và đào tạo qua loa đã gây hậu quả to lớn về kinh tế khi xảy ra sự cố. Quan điểm chỉ coi trọng hiệu quả kinh tế của XKLĐ thuần túy thì nhằm mục tiêu kiếm tiền thật nhanh bằng mọi giá, coi làm việc ở nuocs ngoài là thiên đường. Hậu quả của quan điểm này là tệ nạn lừa đảo người LĐ đi nước ngoài có thu nhập cao như: Nhật Bản, Hàn QuốcNgười LĐ đi làm việc ở các nước này coi lợi ích cá nhân là trên hết bỏ trốn hợp đồng, sống và làm việc bất hợp pháp ở nước sở tại. 2.2.3.2- Quản lý Nhà Nước về XKLĐ còn hạn chế. Hệ thống, cơ chế, chính sách về XKLĐ ban hành chậm, không đủ, không đồng bộ, một số vấn đề chưa được sửa đổi, bổ sung kịp thời theo yêu cầu của thực tiễn, đặc biệt là đảm bảo tính bình đẳng của chủ thể tham gia XKLĐ. Trong tổ chức thực hiện thiếu một cơ quan điều phối quốc gia về XKLĐ đủ mạnh đảm bảo sự phân phối chặt chẽ giữa các cơ quan từ trung ương tới địa phương, ở trong nước cũng như nước ngoài. Thiếu những quy định rõ ràng nhiệm vụ và quyền hạn của Bộ, ngành và UBND các cấp trong quá trình tổ chức XKLĐ. 2.2.3.3- Đầu tư các nguồn lực cho XKLĐ chưa tương xung yêu cầu. Chính sách và cơ chế đầu tư các nguồn lực, nhất là các nguồn lực tài chính cho nghiên cứu và triển khai thị trường, cho đào tạo cán bộ quản lý và cán bộ quản trị XKLĐ. Đầu tư cho XKLĐ chưa được bố trí trong kế hoạch Ngân Sách Nhà Nước hàng năm từ Trung Ương đến địa phương. 2.2.3.4- Công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về XKLĐ chưa được thực hiện sâu rộng và có hiệu quả nhằm tạo sự chuyển biến căn bản trong nhận thức của cán bộ Đảng viên và nhân dân. 2.2.3.5- Doanh nghiệp XKLĐ nhiều nhưng không mạnh, thiếu sự đồng thuận và cạnh tranh không lành mạnhđể giành giật đối tác nước ngoài cũng như nguồn lao động trong nước. Để giành giật đối tác nước ngoài doanh nghiệp XKLĐ hạ thấp tiền lương, phúc lợi và các điều kiện khác của người LĐ trong ký kết hợp đồng với phía nước ngoài. Để giành giật nguồn LĐ trong nước doanh nghiệp tìm mọi cách quảng cáo không đúng sự thật và hối lộ chính quyền cơ sở để tạo ra các vùng độc quyền tuyển LĐ gây thiệt hại cho người LĐ. 2.2.3.6- Công tác nghiên cứu dự báo thị trường lao động nước ngoài còn yếu làm cho việc đào tạo nguồn LĐ chưa đáp ứng kịp nhu cầu XKLĐ, nhất là những ngành thị trường LĐ quốc tế đang thiếu hụt. 2.2.3.7- Vai trò lãnh đạo của các cấp ủy Đảng còn hạn chế, sức mạnh của tổ chức quần chúng chưa được phát huy đúng mức. Ở nhiều địa phương các cấp Đảng ủy và các đoàn thể chưa thấy hết hiệu quả kinh tế- xã hội của XKLĐ là “ích nước lợi nhà” nên chưa tham gia vào việc tuyên truyền, vận động, tổ chức người lao động và gia đình họ thực hiện chính sách , pháp luật về XKLĐ. Do đó XKLĐ chưa trở thành một chương trình kinh tế - xã hội của địa phương, một phong trào quần chúng rộng rãi có khả năng phát huy nguồn lực cho XKLĐ . Chương 3 Kinh nghiệm nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội của XKLĐ ở một số nước. 3.1- Tổng quan kinh nghiệm XKLĐ ở 1 số nước.        3.1.1. Philippins. Philippins là một trong những nước XKLĐ lớn nhất trong khu vực Đông Nam Á. Người Philippines đi LĐ khắp nơi trên thế giới, số LĐ ở nước ngoài bình quân khoảng 7,5 triệu người và thu nhập trung bình đạt khoảng 5-6 tỷ USD/năm. Từ lâu Philippines đã coi XKLĐ là một trong những ngành kinh tế đối ngoại quan trọng của đất nước và có rất nhiều kinh nghiệm để tăng cường XKLĐ. Chúng ta tập trung nghiên cứu kinh nghiệm của Philippines qua một số nét sau: Thứ nhất là, cơ chế tổ chức XKLĐ: Bộ luật LĐ của Philippines ra đời năm 1973 đã đặt cơ sở về việc làm ngoài nước với quan điểm xúc tiến việc XKLĐ dư thừa cho đến khi nền kinh tế của đất nước phát triển tạo đủ việc làm cho mọi người trong độ tuối LĐ. Cục quản lý việc làm ngoài nước (POEA) là cơ quan duy nhất của Chính Phủ thực hiện chức năng tuyển mộ, bố trí và quản lý các khu vực tư nhân tham gia vào chương trình XKLĐ, và cấp giấy phép làm việc ở nước ngoài cho người LĐ khi có hợp đồng LĐ cá nhân. Thứ hai là, các chính sách phát triển thị trường, nguồn nhân lực và quản lý tài chính: Cục quản lý việc làm ngoài nước đã soạn thảo Chương trình tiếp thị và chiến lược tiếp thị với sự tham gia của trung tâm khu vực và các tùy viên LĐ để thường xuyên cập nhật thông tin về thị trường LĐ ngoài nước, tình hình LĐ Philippines ở nước ngoài nhằm giúp các công ty XKLĐ định hướng hoạt động và quảng cáo năng lực của tổ chức cung ứng và LĐ xuất khẩu Philippines trên thị trường LĐ quốc tế, Thứ ba là, về điều kiện cấp giấy phép hoạt động XKLĐ: Cục quản lý việc làm ngoài nước thực hiện cấp giấy phép hoạt động XKLĐ cho các công ty cung ứng việc làm trên biển, trên đất liền và các công ty xây dựng nhận thầu công trình ở nước ngoài. Một trong những điều kiện để được cấp giấy phép là các công ty phải nộp tiền mặt để ký cược và một khoản tiền bảo lãnh của công ty bảo lãnh, có vốn tối thiểu theo quy định nhằm đảm bảo quyền lợi cho người LĐ. Thứ tư là, Chương trình phúc lợi và bảo vệ công nhân: Chính phủ quy định các điều kiện tối thiểu dành cho LĐ đi làm việc ở nước ngoài mà bắt buộc các bên sử dụng LĐ Philippines phải đảm bảo như: tiền lương cho một giờ làm việc bình thường (8 giờ/ngày, 6 ngày/tuần), tiền làm thêm giờ (bằng 150% tiền lương làm việc bình thường). Thứ năm là, chính sách chuyển thu nhập của người LĐ nước ngoài về nước: Chính sách áp dụng chương trình khuyến khích người LĐ chuyển tiền thông qua tài khoản tiền gửi ngoại tệ dành cho người LĐ hồi hương, số dư tài khoản không thuộc đối tượng điều chỉnh của các đối tượng quy định về hối đoái hiện hành và phát hành các công trái ngoại tệ. Thứ sáu là, chính sách tái hòa nhập dành cho người LĐ hồi hương: Cính phủ đã xây dựng hệ thống chính sách đảm bảo cho người LĐ được nhận lại số tiền chưa được thanh toán hết hoặc các phúc lợi khác sau khi chấm dứt hợp đồng về nước thông qua quy định các công ty cung ứng LĐ xuất khẩu phải đồng chịu trách nhiệm với chủ sử dụng LĐ nước ngoài về những vi phạm của họ.       3.1.2. Hàn Quốc. Chúng ta có thể nghiên cứu kinh nghieemjcuar Hàn Quốc dưới góc độ sau: Một là, cơ chế tổ chức XKLĐ cho phép công dân Hàn Quốc được phép ra nước ngoài làm việc sau khi Bộ LĐ Hàn Quốc cho phép. Chính Phủ quản lý khu vưc tư nhân tham gia chương trình XKLĐ thông qua văn phòng an ninh làm thuê và quản lý quá trình tuyển dụng và sắp xếp việc làm ngoài nước thông qua Tổ hợp phát triển ở nước ngoài. Tổ chức này thực hiện các nhiệm vụ phát triển thị trường, tuyển chọn công nhân thông qua phỏng vấn và kiểm tra tay nghề, hồ sơ lý lịch và sức khỏe LĐ. Hai là, về các chính sách phát triển thị trường, nguồn nhân lực như: chính sách phát triển thị trường và đẩy mạnh việc làm, LĐ Hàn Quốc ra nước ngoài dưới nhiều hình thức khác nhau, trong đó hình thức thực hiện các công trình nhận thầu ở nước ngoài là nhiều nhất. Mọi công dân Hàn Quốc muốn đi làm việc ở nước ngoài phải dăng ký tại cơ quan LĐ ở địa phương. Việc tuyển mộ phải thông báo công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng, công tác đào tạo nghề cho XKLĐ được quan tâm đặc biệt. Theo quy định của chính phủ, người LĐ xin đi làm việc ở nước ngoài phải nộp 50% lệ phí sắp xếp việc làm, 50% còn lại do chủ thuê LĐ nộp. Lệ phí cấp giấy phép hoạt động XKLĐ, các công ty muốn được cấp giấy phép hoạt động XKLĐ phải xin phép và ký quỹ 100 triệu Won, tương đương 130.000 USD. Ba là, các chính sách khuyến khích XKLĐ, người LĐ Hàn Quốc trong thời gian làm việc ở nước ngoài còn được hưởng những ưu đãi của Chính Phủ như: thuế suất thu nhập thấp hơn trong nước, ưu đãi về nhà ở, Chính Phủ dành 10% quỹ nhà ở mới xây cho người LĐ hoàn thành hợp đồng trở về nước Bốn là, chính sách huy động tiền kiều hối và chương trình tái đào tạo dành cho LĐ hồi hương: Chính phủ quy định mọi công nhân khi đi làm việc ở nước ngoài đều phải đăng ký chuyển ít nhất 80% thu nhập về nước thông qua hệ thống ngân hàng nội địa, và coi đây là một điều kiện bắt buộc để nhận được thị thực xuất cảnh. 3.2- Bài học kinh nghiệm có thể tham khảo và áp dụng ở Việt Nam. Thứ nhất, về chủ trương và hành lang pháp lý đối với hoạt động XKLĐ Các nước đều coi XKLĐ là chiến lược, là quốc sách lâu dài đều có chương trình quốc gia về XKLĐ, thực hiện xã hội hóa triệt để. Vấn đề XKLĐ thường xuyên được đề cập trong các cuộc trao đổi cấp cao và được thể hiện trong các thỏa thuận song phương với nước ngoài. Các cơ quan ngoại giao và kinh tế của Chính Phủ thường xuyên theo dõi, cập nhật tình hình kinh tế-chính trị và nhu cầu của thị trường LĐ ngoài nước để khai thác và chiếm lĩnh. Họ đã đưa quan điểm xúc tiến việc làm ngoài nước và hoạt động XKLĐ của Bộ LĐ, để từ đó đưa ra các văn bản dưới luật thực hiện quản lý Nhà Nước từ khâu ký kết hợp đồng, tổ chức tuyển chọn, đưa đi, quản lý người LĐ làm việc ở nước ngoài cho đến khi hết hạn hợp đồng trở về nước, thực hiện các chế độ đảm bảo quyền lợi hợp pháp của Nhà Nước, các công ty cung ứng LĐ và người LĐ, các hình thức thưởng, phạt để xư lý các vấn đề phát sinh liên quan đến XKLĐ. Hệ thống pháp luật và các quy định dưới luật về XKLĐ minh bạch, chặt chẽ, nhưng cũng rất thông thoáng tạo chủ động cho người LĐ và các doanh nghiệp tham gia XKLĐ. Thứ hai, về cơ chế tổ chức, cấp giấy phép, tuyển chọn và quản lý LĐ làm việc ở nước ngoài. Các nước đều có bộ máy quản lý Nhà Nước về XKLĐ hoàn chỉnh, bao gồm các cơ quan quản lý Nhà Nước, đại diện của các công ty chuyên doanh, môi giới về XKLĐ tại nước sở tại. Ngoài ra, một số nước còn có tùy viên LĐ ở các cơ quan đại diện ngoại giao tại các nước tiếp nhận LĐ. Chính phủ khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia XKLĐ, kể cả các hình thức thăm thân, tự tìm việc làm ở nước ngoài. Tổng cục LĐ hoặc cục quản lý việc làm ngoài nước là cơ quan đại diện của Chính Phủ thực hiện cấp phép hoạt động XKLĐ cho các công ty và cá nhân tham gia thi trường LĐ ngoài nước. Bộ máy tuyển dụng của các nước đơn giản, gọn nhẹ, thủ tục thuận tiện, chi phí đi LĐ ở nước ngoài thấp, thời gian thẩm định và cấp giấy phép ngắn với chi phí thấp (khoảng 100USD)cho cả thời kỳ LĐ. Thứ ba, về chính sách thị trường, đa dạng hóa loại hình, xác định ngành nghề mũi nhọn để đẩy mạnh XKLĐ. Nhà Nước hỗ trợ các tổ chức kinh tế trong việc tìm kiếm, khai thác thị trường thông qua các hoạt động chính thức của Chính Phủ và các tổ chức cơ quan Ngoại Giao. Các nước đều tìm cách phát huy cao nhất lợi thế so sánh của LĐ nước mình, thể hiện qua sự đa dạng hóa về hình thức và ngành nghề. Dịch vụ giúp việc gia đình là lợi thế của Philippines, nhận thầu công trình là thế mạnh của Trung Quốc. Trong khi đò Thái Lan lại có chính sách cạnh tranh khéo léo, giữ uy tín nên LĐ Thái Lan luôn được đánh giá cao. Thứ tư, về chính sách đối với đào tạo nguồn nhân lực xuất khẩu, hỗ trợ XKLĐ, chính sách thuế, tỷ lệ sắp xêp việc làm, điều kiện để cấp giấy phépvà khuyến khích chuyển thu nhập về nước. Các nước đều đẩy mạnh XKLĐ đã qua đào tạo và thực hiện hỗ trợ đào tạo LĐ xuất khẩu thông qua các trung tâm đào tạo, bổ túc nghề, ngoại ngữ, cung cấp thông tin miễn phí. Các nước thực hiện hỗ trợ các công ty cung ứng LĐ và người LĐ bằng việc thành lập các quỹ hỗ trợ XKLĐ, không đánh thuế thu nhập với người LĐ ở nước ngoài, miễn thuế chuyển tiền về nước, áp dụng các biện pháp chuyển tiền về nước thông qua các ngân hàng nội địa, chính sách hỗ trợ vốn vay đối với LĐ trước khi đi XKLĐ và khi hồi hương, quy định giới hạn hợp lý về số tiền đặt cọc của người đi XKLĐ (ở Philippines chỉ khoảng 1000 USD), lệ phí sắp xếp việc làm, quy định mức lương tối thiểu của LĐ làm việc ở nước ngoài, thành lập các quỹ Phúc lợi Xã Hội để hỗ trợ tư pháp, trợ giúp vật chất cho người LĐ bị tai nạn, trả tiền vé về nước, phụ cấp cho gia đình họ khi gặp khó khănViệc áp dụng các chính sách khuyến khích XKLĐ cũng rất linh hoạt thích ứng với từng hoàn cảnh, điều kiện. C- KẾT LUẬN Trên đây đề án đã hệ thống hóa cơ sơ lý luận về XKLĐ, khẳng định tính tất yếu khách quan của XKLĐ trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế, hiệu quả kinh tế - xã hội của XKLĐ, đặc biệt đã đi sâu nghiên cứu nội dung nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội, bên cạnh đó nêu rõ việc XKLĐ nhằm đem lại lợi ích cho cả hai nước xuất cư và nhập cư LĐ, đó là: giải quyết sự dư thừa và thiếu hụt LĐ, tăng nguồn thu ngoại tệ cho ngân sách nhà nước, đồng thời tăng thu nhập, nâng cao tay nghề và trình độ chuyên môn cho cá nhân người LĐ tham gia hoạt động XKLĐ. Đồng thời trên cơ sở khảo sát kinh nghiệm của các nước Philippin, Hàn Quốc về hệ thống tổ chức, đề án cũng đã tổng hợp và rút ra bốn bài học kinh nghiệm quốc tế chung về chủ trương và cơ sở pháp lý đối với hoạt động XKLĐ; cơ chế tổ chức, cấp giấy phép, tuyển chọn và quản lý LĐ làm việc ở nước ngoài, chính sách đào tạo nguồn nhân lực, chính sách thuế, lệ phí sắp xếp làm việc qua đó xác định ngành nghề mũi nhọn để đẩy mạnh XKLĐ có thể vận dụng cho Việt Nam trong thời kỳ trước mắt. MỤC LỤC Trang

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc6018.doc
Tài liệu liên quan