Từ những thực tiễn và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước đối với các chương trình dự án sử dụng vốn ODA. Em xin mạnh dạn đưa ra một số những kiến nghị như sau:
Thứ nhất: Nguồn vốn ODA là nguồn vốn chủ yếu phục vụ xây dựng cơ bản và hỗ trợ ngân sách, do đó cần chú ý, đẩy nhanh việc thoả thuận với bên tài trợ nhằm giải ngân nhanh các nguồn vốn đã được cam kết. Việc giải ngân nhanh một số nguồn vốn của các dự án ODA có ý nghĩa quan trọng trong việc đẩy nhanh việc tăng thu ngân sách, giải quyết tốt hơn các vấn đề thuộc cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội đồng thời tiếp tục khẳng định với các nhà tài trợ về tính hiện thực trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam.
Thứ 2: Cần có cách tiếp cận tổng hợp theo ngành hoặc theo chương trình dự án đối với nhu cầu về ODA.
Gần đây các nhà tài trợ có xu hướng tập trung hơn cả về lĩnh vực tài trợ cũng như vùng địa lý và trên cùng một địa bàn lãnh thổ có nhiều nhà tài trợ cùng hoạt động. Tình hình nói trên có mặt tích cực là tập trung được ngồn lực ở trong và ngoài nước để hỗ trợ một cách tổng hợp có hiệu quả cho sự phát triển của một lĩnh vực cụ thể, song bên cạnh đó cũng gây tình trạng trùng lặp các khoản viện trợ, gây lãng phí nguồn lực của Chính phủ cũng như của nhà tài trợ. Giải pháp để khắc phục tình trạng này là cần thay đổi cách tiếp cận đối với các nhu cầu ODA riêng lẻ, chuyển sang hỗ trợ một cách tổng hợp dựa trên các quy hoạch hoặc chương trình phát triển ngành, từ đó sẽ thúc đẩy quy hoạch của Chính phủ trong thời gian tới sẽ góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với các chương trình dự án ODA.
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với các chương trình dự án sử dụng nguồn vốn ODA, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trợ không trực tiếp điều hành dự án nhưng có thể tham gia gián tiếp dưới hình thức nhà thầu hoặc hỗ trợ chuyên gia. Tuy nước chủ nhà có quyền quản lý sử dụng vốn ODA, nhưng thông thường danh mục dự án ODA phải có sự thoả thuận với các nhà tài trợ.
@ Nguồn vốn ODA gồm viện trợ không hoàn lại và các khoản viện trợ ưu đãi. Tuy vậy nếu quản lý và sử dụng vốn ODA kém hiệu quả sẽ có nguy cơ gánh nặng nợ nần trong tương lai.
@ Các nước nhận vốn ODA phải hội đủ một số những điều kiện nhất định mới được nhận tài trợ.
@ ODA chủ yếu dành hỗ trợ cho các dự án đầu tư vào các cơ sở hạ tầng, như giao thông vận tải, giáo dục, y tế...
@ Các nhà tài trợ là các tổ chức viện trợ đa phương (bao gồm: Tổ chức thuộc tổ chức LHQ, liên minh châu Âu, IMF, WB, ADB,...) và các tổ chức viện trợ song phương.
@ ODA phụ thuộc vào mối quan hệ chính trị và quan điểm chính trị của các nước viện trợ và các nước nhận viện trợ.
@ Có sự cạnh tranh gay gắt trong việc thu hút vốn ODA.
3.3 Các hình thức chủ yếu cung cấp vốn ODA:
Vốn viện trợ phát triển chính thức ODA được cung cấp dưới các dạng như sau:
@ Hỗ trợ cán cân thanh toán: Gồm các khoản ODA được cung cấp dưới dạng tiền mặt hoặc hàng hoá để hỗ trợ ngân sách của chính phủ.
@ Hỗ trợ theo chương trình: Gồm các khoản ODA được cung cấp để thực hiện một chương trình nhằm đạt được một hoặc nhiều mục tiêu với tập hợp các dự án thực hiện trong một thời gian xác định và địa điểm cụ thể.
@ Hỗ trợ kỹ thuật: Đây là các khoản ODA hỗ trợ phát triển thể chế, tăng cường năng lực của các cơ quan Nhà nước, chuyển giao công nghệ, thộng qua cung cấp chuyên gia, cung cấp trang thiết bị nhằm đào tạo đội ngũ cán bộ tại nước nhận vốn hỗ trợ hoặc ở nước ngoài, hỗ trợ nghiên cứu điều tra cơ bản (lập quy hoạch nghiên cứu khả thi). Một dự án hỗ trợ kỹ thuật có thể bao gồm một hoặc tất cả các nội dung trên.
@ Hỗ trợ theo dự án: ODA được cung cấp để thực hiện dự án xây dựng cơ bản bao gồm xây lắp trang thiết bị hoặc chỉ đơn thuần cung cấp trang thiết bị. Trong nội dung dự án xây dựng cơ bản có thể bao gồm cả nhiệm vụ tư vấn , đào tạo cná bộ Việt Nam tại chỗ hoặc gửi ra nước ngoài.
4. Tầm quan trọng của nguồn vốn ODA trong sự nghiệp phát triển kinh tế ở các nước đang phát triển và ởViệt Nam:
4.1 Vai trò của ODA trong chiền lược phàt trỉên của các nườc đang phát triển:
Nguồn vốn OĐA có một vai trò quan trọng đồi vời sự phàt triển của các nước đang phát triển thể hiện rõ nét ở các khía cạnh sau..
Thứ nhất: ODA có vai trò bổ xung cho nguồn vốn trong nước trong thời kì đầu của công cuộc công nghiệp hoá đất nước. Việc huy động vốn trong nước vẫn rất khó khăn nên ODA là nguồn quan trọng trong việc bổ xung cho nguồn vốn trong nước.
Thứ hai: ODA dưới dạng viện trợ không hoàn lại giúp cho các nước nhận viện trợ tiếp thu những thành tựu khoa học, công nghệ hiện đại và phát triển nguồn nhân lực.
Thứ ba: ODA giúp các nước đang phát triển hoàn thiện cơ cấu kinh tế.
Đối với các nước đang phát triển, khó khăn kinh tế là điều không thể tránh khỏi, trong đó nợ nước ngoài và thâm hụt cán can thanh toán quốc tế ngày một gia tăng là tình trạng phổ biến. Để giải quyết vấn đề này, các quốc gia đều phải cố gắng hoàn thiện cơ cấu kinh tế.
Thứ tư: ODA tăng khẳ năng thu hút vốn FDI và tạo điều kiện để mở rộng đầu tư phát triển trong nước ở các nước đang phát triển.
Thứ năm: Xét vế mặt tổng thể ODA là những công cụ quan trọng hỗ trợ các nước đang phát triển và chậm phát triển thực hiện chiến lược xoá đói giảm nghèo.
4.2 Huy động vốn ODA để đẩy nhanh tốc độ công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam:
Tranh thủ nguồn vốn viện trợ phát triển chính thức để thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội là một chủ chương lớn của Đảng và Nhà nước trong thời kỳ mở của. Nghị quyết đại hội đảng lần thứ VIII đã nhấn mạnh đến nhiệm vụ tranh thủ thu hút vốn ODA đa phương và song phương, tập trung chủ yếu cho việc xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội và nâng cao trình độ khoa học công nghệ, quản lý đồng thời dành một phần vốn tín dụng đầu tư cho ngành nông lâm ngư nghiệp, sản xuất hàng tiêu dùng và ưu tiên viện trợ không hoàn lại cho vùng chậm phát triển.
Đối với nước ta nhu cầu về vốn để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá rất lớn vì vậy chúng ta cần phải tranh thủ mọi nguồn vốn trong đó có ODA và các nguồn viện trợ khác. Trong những năm trước đây nguồn viện trợ ODA chủ yếu là NGO và từ các nước thành viên hội đồng tương trợ kinh tế (trước hết là Liên xô) và các nước DAC, OPEC.
Vì vậy huy động nguồn vốn ODA để đẩy nhanh tốc độ công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta là công việc hết sức cần thiết tạo tiền đề cho nền kinh tế phát triển đồng thời nó cũng là động lực giúp đỡ cho việc thu hút FDI ngày càng nhiều vào Việt Nam.
4.3 Những nguồn vốn ODA quan trọng đối với Việt Nam.
Viện trợ phát triển ODA dù là song phương hay đa phương đều gắn với yếu tố chính trị và sự ổn định của chính trị là điều kiện tiên quyết để tranh thủ viện trợ phát triển ODA. Đối với Việt Nam ta thì thu hút nguồn viện trợ ODA của phương Tây không dễ dàng, nước ta chỉ bắt đầu tiếp cận thực sự với ODA khi vấn đề Campuchia được giải quyết dứt điểm và đặc biệt là với sự nỗ lực ngoại giao và uy tín do sự thành công của đường lối đổi mới kinh tế đã ngày càng nhận được nhiều nguồn vốn ODA.
Trong thập kỷ 80 ngoài sự giúp đỡ của các nước XHCN, trong điều kiện thuận lợi Việt Nam đã bắt đầu nhận được sự hỗ trợ từ chương trình phát triển liên hợp quốc (UNDP) và tổ chức này đã hỗ trợ cho Việt Nam trong việc tiếp cận với các tổ chức viện trợ quốc tế.
Từ đầu thập kỷ 90 với sự kết thúc của chiến tranh lạnh đối tượng trực tiếp nhận vốn ODA được mở rộng rất nhiều, do vậy tình trạng cạnh tranh thu hút vốn ODA trở nên đặc biệt gay gắt. Tuy nhiên nước ta vẫn huy động được nguồn vốn này một cách đáng kể, các tổ chức viện trợ ODA chủ yếu là: Chính phủ Nhật Bản, IMF, WB, ADB. Ngoài ra chúng ta còn tranh thủ được nguồn vốn ODA từ các tổ chức tài chính đa phương khác như hội phát triển kinh tế (IDA), công ty tài chính quốc tế (IFC). Các cơ quan chuyên môn của LHQ trong đó có một số các tổ chức đã có văn phòng thường trú tại Hà Nội như: tổ chức Lương thực thế giới (FAO), tổ chức Giáo dục Khoa học và Văn hoá (UNESCO), tổ chức Y tế thế giới (WHO), tổ chức phát triển công nghiệp LHQ (UNIDO) và chương trình phát triển LHQ (UNDP).
Đối với nguồn ODA song phương, Việt Nam đã nhận được viện trợ chủ yếu ở các nước phát triển và tổ chức hợp tác phát triển kinh tế thế giới OECD trong đó quan trọng nhất là Nhật Bản, Pháp, úc và các nước Bắc Âu. quỹ Koweit đã tài trợ một số dự án cho Việt Nam nhưng với số lượng vốn không lớn.
Chương II
thực trạng quản lý nhà nước đối với các
chương trình dự án sử dụng vốn ODA.
i. Quản lý nhà nước đối với việc huy động và sử dụng vốn ODA trong sự nghiệp phát triển kinh tế ở Việt nam.
Quản lý nhà nước về tình hình thu hút và giải ngân vốn ODA:
Tình hình thu hút vốn ODA:
Thu hút nguồn vốn viện trợ ODA vào Việt Nam có thể chia ra thành hai giai đoạn, giai đoạn trước khi Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ (trước năm 1991) và giai đoạn từ năm 1991 đến nay.
Giai đoạn trước khi Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ (Trước năm 1991).
Trong thời kỳ 1975 đến 1991 theo số liệu thống kê chưa đầy đủ, Việt Nam đã nhận được tổng nguồn vốn ODA khoảng 16 tỷ RUP chuyển đổi và 5 tỷ USD, riêng thời kỳ từ năm 1979 đến 1988 hàng năm các chính phủ và các tổ chức quốc tế viện trợ cho Việt Nam khoảng 130 đến 190 triệu USD. Giai đoạn này các nước viện trợ cho Việt Nam chủ yếu là Liên Xô và các nước trong khối SEV, trong đó Liên Xô là nước tài trợ lớn nhất. Tổng cộng Liên Xô đã viện trợ cho Việt Nam 12,6 tỷ RUP chuyển đổi với lãi suất 2,8%/ năm, trong đó nửa số viện trợ là viện trợ không hoàn lại. Sau khi Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ thì nguồn viện trợ phát triển chính thức ODA từ khu vực này cho Việt Nam bị gián đoạn.
Giai đoạn từ 1991 đến nay:
Từ năm 1991 đến năm 1993 các nước phương Tây và các tổ chức quốc tế dần khôi phục lại viện trợ cho Việt Nam nhưng còn ở mức khiêm tốn và chủ yếu để trả các khoản nợ ngắn hạn. Vốn ODA thời kỳ này do các nước Pháp, ý, úc, Nhật Bản, Canada, Bỉ,... đạt khoảng 500 triệu USD để trả các khoản nợ quá hạn cho IMF, WB. Tại các câu lạc bộ Paris, London đã xin xoá nợ cho Việt Nam một khoản lớn. Nguồn vốn ODA chỉ được phục hồi nhanh chóng sau khi Mỹ bãi bỏ cấm vận đối với Việt Nam năm 1993. Từ đó đến nay hàng năm các nhà tổ chức hội nghị tư vấn, nhóm các nhà tài trợ đã cam kết tài trợ cho Việt Nam với nguồn số liệu cụ thể trong bảng 1 như sau:
Bảng 1: Nguồn vốn ODA cam kết cho vay.
Đơn vị: tỷ USD
Năm
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
Vốn cam kết
1,81
1,94
2,26
2,43
2,4
2,2
2,1
2,8
Nguồn: Kinh tế và Dự báo 2/2000
Như vậy từ năm 1993 đến nay, thông qua 7 hội nghị nhóm tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam do WB tổ chức, lượng ODA được cam kết tài trợ cho nước ta đạt trên 17,9 tỷ USD. Riêng năm 1999 các nhà tài trợ đã cam kết viện trợ cho Việt nam 2,1 tỷ (trong đó chưa kể đến 0,7 tỷ hỗ trợ cải cách kinh tế), năm 2000 cam kết viện trợ là 2,8 tỷ USD trong đó 0,7 tỷ USD hỗ trợ đẩy nhanh quá trình cải cách kinh tế.
Như vậy dưới áp lực ngày càng tăng của cuộc khủng hoảng kinh tế và sự cạnh tranh gay gắt thu hút vốn ODA, nguồn vốn này được siết chặt và việc cam kết viện trợ bị chững lại thậm chí một số quốc gia còn bị cắt giảm, tuy vậy vốn cam kết viện trợ cho Việt Nam trong năm 2000 đã tăng lên so với năm 1999. Điều đó chứng tỏ rằng cộng đồng các nhà tài trợ đánh giá cao đường lối đổi mới kinh tế của Việt Nam và những thành quả mà Việt Nam đã đạt được, nhất là hiệu quả quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA ngày càng được nâng cao, cơ chế chính sách các văn bản pháp lý ngày càng được hoàn chỉnh, như quy chế đầu tư và xây dựng kèm theo nghị định 42/CP nay sửa đổi thành nghị định 52/CP của Thủ tướng chính phủ, quy chế quản lý và sử dụng nguồn vốn phát triển chính thức ODA kèm theo nghị định 87/CP của Thủ tướng chính phủ. Hàng năm Bộ Kế hoạch và Đầu tư cùng các bộ ngành tổng kết đánh giá hiệu quả các dự án sử dụng vốn ODA, xây dựng kế hoạch huy động vốn ODA và lập danh mục các dự án ưu tiên thu hút vốn ODA. Đây là cơ sở để các nhà tài trợ xem xét đánh giá tiến tới cam kết tài trợ.
Cùng với sự đẩy mạnh cơ cấu chính sách để nối lại các khoản viện trợ ODA thì Việt Nam hàng năm đã đào tạo các lớp cán bộ có trình độ năng lực để tiến hành đàm phán ký kết các điều ước, hiệp định khung và các khoản viện trợ ODA.
Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về nguồn vốn ODA bao gồm việc xác định chủ trương, phương hướng thu hút vận động vốn ODA, phân bổ việc sử dụng vốn ODA qua ngân sách Nhà nước. Ngoài ra còn có sự phối hợp chặt chẽ giữa Chính phủ và các nhà tài trợ, giữa các nhà tài trợ, giữa các cơ quan của chính phủ đến tất cả các khâu của quá trình tiếp cận và sử dụng vốn ODA, đặc biệt là các khâu:
@ Xây dựng chiến lược và các kế hoạch trung hạn phát triển kinh tế xã hội của quốc gia, các chương trình quốc gia trong một số lĩnh vực cụ thể.
@ Hình thành các chương trình dự án ODA.
@ Tổ chức thực hiện các chương trình dự án ODA.
@ Theo dõi đánh giá các chương trình dự án ODA.
Mặt khác trong bối cảnh khủng hoảng khu vực, thiên tai trong nước và nhiều yếu tố bất lợi khác nhưng năm 1998 nền kinh tế Việt Nam vẫn tiếp tục tăng trưởng, chính trị, xã hội và kinh tế vĩ mô ổn định. Đó là điều kiện cực kỳ quan trọng để các nhà tài trợ công nhận và cam kết tiếp tục hỗ trợ vốn ODA cho Việt Nam với số lượng lớn. Giám đốc của WB tại Việt Nam cũng đánh giá rằng số tiền mà các nước cam kết như vậy cho Việt Nam là xứng đáng, ông cho rằng thời gian qua ODA được Việt Nam sử dụng một cách hữu hiệu và Việt Nam đang tiến hành cải tổ kinh tế một cách nghiêm túc.
Cho đến nay Việt Nam đã thiết lập quan hệ với 24 nhà tài trợ song phương, 15 nhà tà trợ đa phương và hơn 300 tổ chức phi chính phủ với tổng số vốn ODA các nhà tài trợ cung cấp cho Việt Nam lên đến 17,9 tỷ USD, trong tổng số vốn ODA đuợc các nhà tài trợ cam kết thì Nhật Bản, WB và ADB là ba nhà tài trợ lớn nhất họ cam kết vốn tài trợ chiếm tới 70%.
1.2 Tình hình giải ngân vốn ODA.
Giải ngân vốn ODA được coi là thước đo năng lực tiếp nhận và sử dụng vốn hỗ trợ phát triển, sau khi nhà tài trợ cam kết về nguồn vốn phía Viêt Nam lập dự án khả thi sử dụng vốn đó theo điều kiện đã thoả thuận ban đầu với nhà tài trợ, sau đó Chính phủ sẽ thành lập ban quản lí dự án chịu trấch nhiệm về việc thực hiện dự án theo tiến độ giải ngân, nhà tài trợ sẽ căn cứ vào tiến độ thực hiện của mỗi dự án làm căn cứ để giải ngân. Các dự án sẽ thực hiện một, hai năm đầu còn chưa hoàn toàn quen với các thủ tục và quy định của nhà tài trợ dẫn tới giải ngân vốn còn chậm nhưng về sau thực hiện tương đối trôi chảy. Xét về số tuyệt đối và số tương đối, số vốn giải ngân qua các năm đã tăng lên nhanh chóng theo từng năm. Số liệu vốn ODA được giải ngân trong Bảng 2 sau đây cho thấy điều đó.
Bảng 2: Vốn được giải ngân từ năm 1993 đến năm 1999.
Năm
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
Vốn giải ngân
(triệu USD)
431
725
737
958
1025
1430
1452
Vốn giải ngân/ Vốn cam kết (%)
22
36
31
39
42
60
53,7
Nguồn: Kinh tế châu á-Thái Bình Dương số 2 (27)/ 2000.
Như vậy tính đến năm 1999 Việt Nam đã giải ngân được khoảng 6.47 tỷ USD chiếm khoảng 42% vốn ODA đã cam kết. Số liệu giải ngân qua các năm được thể hiện cụ thể ở trong Bảng 2. Đặc biệt trong 6 tháng đầu năm 2000 vốn ODA được giải ngân là 875.4 triệu USD. Do đó tính từ năm 1993 đến tháng 6 năm 2000 chúng ta đã giải ngân được 7.346 tỷ USD. Với mực độ giải ngân như vậy là còn chậm do nhiều nguyên nhân gây ra trong đó nguyên nhân chủ yếu là do vấn đề về hiệu quả quản lý Nhà nước về nguồn vốn này còn nhiều mặt tồn tại cụ thể là:
@ Do những năm đầu chưa quen với thủ tục giải ngân nên các khâu chuẩn bị dự án, tiền khả thi, khả thi, thiết kế và thi công dự án với cơ chế chính sách chưa hoàn chỉnh.
@ Quá trình duyệt còn kéo dài thường mất từ một đến ba năm, phân bổ vốn chưa thực sự gắn với nhu cầu sử dụng vốn trong thực tế, có trường hợp ký hợp đồng khung với nước ngoài rồi mới làm thủ tục phê duyệt.
@ Khâu chuẩn bị dự án còn bị động, chưa có chiến lược, chương trình, lĩnh vực ưu tiên gọi vốn hỗ trợ từ nước ngoài. Quá trình chuẩn bị dự án giữa bên Việt Nam và phía nhà tài trợ nước ngoài còn chưa phối hợp hài hoà nên việc chuẩn bị dự án còn lúng túng, kéo dài thời gian thẩm định và phê duyệt dự án.
@ Quy trình đấu thầu phức tạp, tổ chức lỏng lẻo xuất hiện tình trạng chạy đua hạ giá bỏ thầu đến mức vượt qua hệ số an toàn về chất lượng công trình, các nguyên tắc và điều kiện đấu thầu theo thông lệ quốc tế chưa được làm quen và chưa công khai nên chưa đạt được những chuẩn mực và chất lượng các công trình không đảm bảo. Mặt khác những trang thiết bị phải mua từ các nhà tài trợ vốn ODA với giá cao, chuyển giao công nghệ, kỹ thuật lạc hậu, các khoản thanh toán, lương bổng phải trả rất cao cho các chuyên gia nước ngoài, chịu sự lệ thuộc vào thị trường kỹ thuật công nghệ của nước tài trợ.
@ Nhiều dự án do phía nước ngoài tài trợ thiết kế nhưng lại không nắm sát tình hình thực tế của Việt Nam nên phải mất nhiều thời gian điều chỉnh hoàn thiện.
@ Vấn đề giải ngân vốn ODA còn chưa hợp lý, không đúng tiến độ của các dự án đã ký kết từ trước nên gây cản trở cho việc giải ngân đối với các dự án tiếp theo và làm chậm tiến độ giải ngân chung.
@ Chính sách công tác đền bù và giải phóng mặt bằng, di dân, tái định cư chưa hợp lý dẫn tới một số dự án trong lĩnh vực giao thông chậm tiến độ thực hiện.
@ Chưa có khoản vốn đối ứng phù hợp để kêu gọi, thu hút được các khoản ODA cho những dự án có quy mô lớn.
@ Một số cán bộ địa phương còn có những sai lầm trong nhận thức coi ODA như một khoản “ trời cho”, “của chùa” nên không quan tâm đến chất lượng, hiệu quả của các dự án ODA. Có nhiều địa phương còn cho rằng “chạy” được càng nhiều vốn ODA càng tốt mà không quan tâm đến hiệu quả và khả năng trả nợ. Chúng ta cần hiểu rằng ODA không có nghĩa là cho không mà chủ yếu là các khoản vay ưu đãi sau này phải hoàn trả cả gốc lẫn lãi vì vậy nếu không sử dụng tốt nguồn vốn này thì sẽ để lại gánh nặng khá lớn trong tương lai.
@ Một khía cạnh khác là vốn ODA chưa được sử dụng hiệu quả nên cũng làm giảm tiến độ giải ngân nguồn vốn này như: Dự án cải tạo hệ thống cấp thoát nước TP Hồ Chí Minh cuối năm 1996 ADB đã quyết định tạm ngừng cấp vốn cho dự án này nguyên nhân do tiến độ thực hiện dự án còn chậm nên mới chỉ đưa vào sử dụng được 1.8 triệu USD trong tổng số vốn cấp cho dự án là 7 triệu USD; Một số dự án khác chưa được giải ngân do cuộc khủng hoảng tài chính trong khu vực như dự án cảng Hải Phòng, dự án nhà máy nước Thiện Tân, dự án Quốc lộ 18 (đoạn Chế Linh- Phả Lại)...
Từ những tồn tại trên dẫn đến việc giải ngân ODA không đạt được kế hoạch đề ra, bình quân trong bốn năm từ 1996 đến năm 1999 chỉ đạt hơn 1,1 tỷ USD/năm; tương đương với 70% kế hoạch đã đề ra. Tại hội nghị các nhà tài trợ cho Việt Nam (từ 11- 15/12/1999) ông Chủ tịch Ngân hàng Thế giới (WB) đã nói: “Việt Nam cần phải giải ngân mỗi năm nhanh hơn 1.5 tỷ USD trong vòng 8 năm tới mới có thể đẩy nhanh mức tăng trưởng”.
Hiện tại Việt Nam còn hơn 9 tỷ USD đã cam kết nhưng chưa được giải ngân, đây là một khối lượng vốn lớn nếu được giải ngân sẽ góp phần xây dựng một số những công trình quan trọng thúc đầy nền kinh tế phát triển. Nhưng để thực hiện được điều đó cần có một phương hướng thực hiện đúng đắn mà vấn đề của quản lý Nhà nước là hết sức quan trọng.
Nhận thức được điều đó trong những năm gần đây Việt Nam đã có nhiều cố gắng trong việc cải cách thủ tục hành chính, các văn bản luật, dưới luật cũng như chính trị ngày càng ổn định làm yên tâm các nhà đầu tư rót vốn ODA vào Việt Nam và công tác giải ngân cũng được cải thiện đáng kể, cụ thể là: Từ năm 1995 đến năm 1999 tuy số vốn ODA cam kết cho Việt Nam không tăng là mấy, thậm chí trong 2 năm 1998 và 1999 vốn cam kết có xu hướng giảm, tuy nhiên số vốn được giải ngân qua các năm lại tăng lên rõ rệt, năm 1998 nguồn vốn ODA được giải ngân khoảng 1,43 tỷ USD cao hơn năm 1997 là 415 triệu USD và đạt tỷ lệ giải ngân trên số vốn cam kết là 60%, năm 1999 giải ngân được 1,452 tỷ USD đạt tỷ lệ giải ngân là 69%, đây là tỷ lệ cao nhất từ trước đến nay cả về mặt tuyệt đối và tương đối. Đặc biệt trong 6 tháng đầu năm 2000 vốn ODA được giải ngân là 876 triệu USD. Điều đó cho thấy rằng năng lực thực hiện các chương trình dự án ODA của các cơ quan quản lý có tiến bộ rất nhiều, năng lực quản lý Nhà nước được nâng cao. Qua đó ta thấy được vai trò và năng lực của Đảng và Nhà nước cũng như các ban ngành liên quan về việc quản lý đối với các chương trình dự án sử dụng vốn ODA từ đó tạo ra sự tin tưởng đối với các nhà tài trợ.
Bên cạnh đó nhà nước ta còn tổ chức tập huấn cho cán bộ 53 tỉnh về các văn bản liên quan đến đấu thầu của Chính phủ. Triển khai nghiên cứu thực hiện hệ thống theo dõi đánh giá các chương trình dự án ODA và nghiên cứu hướng dẫn quy trình rút vốn và lập kế hoạch vốn đối ứng cho các dự án.
Trong những năm gần đây đã có sự ưu tiên để bố trí nguồn vốn đối ứng trong nước nên tiến độ giải ngân đã tăng lên đáng kể. Sự thành công của việc giải ngân vốn ODA trong năm 1998 và năm 1999 một phần nhờ việc bố trí hợp lý nguồn vốn đối ứng trong nước cho các chương trình dự án, đặc biệt là các dự án có giá trị lớn hàng trăm triệu USD như: nhà máy nhiệt điện Phả Lại, nhà máy nhiệt điện Phú Mỹ I, cầu Mỹ Thuận đều được bố trí đầy đủ kịp thời theo tiến độ giải ngân.
Năm 1998 chính phủ cũng đã ban hành một số Nghị định mới về đền bù và giải phóng mặt bằng, hoàn thiện quy chế đấu thầu điều đó tạo điều kiện thuận lợi tháo gỡ được những vướng mắc lớn trong việc giải ngân nguồn vốn ODA. Chính phủ Việt Nam cũng đã có nhiều cố gắng trong việc cải cách thủ tục hành chính đơn giản hơn đã giúp tiến trình giải ngân nguồn vốn ODA được nhanh hơn.
Nhìn chung tiến độ giải ngân vốn ODA phải thực hiện theo một quy trình chặt chẽ từ khâu đàm phán ký kết hiệp định, chọn tư vấn, khảo sát lập dự án nghiên cứu khả thi đến khâu đấu thầu mua sắm máy móc thiết bị. Quy trình này nó đòi hỏi quá trình giải ngân vốn ODA quá dài, nhưng quá trình thực hiện giải ngân vốn ODA chậm chạp chủ yếu do phía Việt Nam.
Sử dụng vốn ODA trong sự nghiệp phát triển kinh tế ở Việt Nam.
Giai đoạn trước khi Liên Xô và các nước Đông Âuu sụp đổ (trước năm 1991).
Trước năm 1991 nguồn viện trợ phát triển chính thức ODA chủ yếu do Liên Xô và một số nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa cung cấp, nguồn vốn này đã góp phần tạo nguồn ngân sách của Nhà nước và đã giúp ta xây dựng một số công trình, cơ sở hạ tầng quan trọng trong nền kinh tế đến nay nó đang phát huy hiệu quả cung cấp nguồn lực lớn cho quá trình phát triển kinh tế xã hội như nhà máy thuỷ điện Hoà Bình công suất là 1920 KW, thuỷ điện Trị An công suất là 440 KW, nhà máy nhiệt điện Phả Lại công suất là 440 KW, xây dựng cầu Thăng Long...
Giai đoạn từ năm 1991 đến nay:
Sau khi Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ thì nguồn vốn ODA từ khu vực này đã bị cắt giảm, với quá ttrình đổi mới của đất nước nguồn viện trợ ODA đã được các nước phương tây và các tổ chức quốc tế nối lại viện trợ cho Việt Nam, nguồn vốn ODA này được ưu tiên sử dụng tập trung vào các lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế xã hội như năng lượng, giao thông vận tải, cấp thoát nước, nông lâm ngư nghiệp, giáo dục và đào tạo, y tế... Tỷ trọng ODA cụ thể đầu tư cho các ngành như sau: năng lượng 25%; giao thông vận tải 19%; tín dụng điều chỉnh cơ cấu 16%; nông lâm thuỷ sản 13%; y tế giáo dục 11%; cấp thoát nước 7% và các lĩnh vực khác chiếm 9%.
@ Lĩnh vực năng lượng: Các dự án năng lượng chủ yếu là đập thuỷ điện và nhà máy nhiệt điện, các dự án này có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hoá như các dự án: Dự án xây dựng nhà máy nhiệt điện Phú Mỹ i, Phú Mỹ ii, thuỷ điiện Yaly, thuỷ điện Hàm Thuận- Đa Mi, nâng cấp nhà máy nhiệt điện Phả Lại. Ngoài ra còn một số dự án khác như dự án nâng cấp hệ thống mạng lưới điện của thành phố Hà Nội, Hải Phòng, Huế và Thành phố Hồ Chí Minh.
@ Lĩnh vực giao thông vận tải: Ngành giao thông vận tải xác định nhu cầu đầu tư cơ sở hạ tầng công cộng thuộc lĩnh vực giao thông trong giai đoạn 1996- 2000 khoảng 5 tỷ USD và các dự án đường bộ chiếm 1/2 tổng số vốn đầu tư dự kiến cho toàn bộ ngành giao hông vận tải là 6,2 tỷ USD tương đương 15% tổng vốn đầu tư cho công trình công cộng trong đó nguồn vốn quan trọng nhất là vốn ODA. Hiện nay các nhà tài trợ đã cam kết tài trợ cho hàng chục dự án thuộc lĩnh vực giao thông vận tải với số vốn lên đến hàng tỷ USD trong đó có những dự án có giá trị lớn như dự án xây dựng cầu Mỹ Thuận, cầu Sài Gòn, dự án nâng cấp và cải tạo quốc lộ 5, quốc lộ 1 trên các đoạn Hà Nội - Vinh, Nha Trang- Thành phố Hồ Chí Minh, dự án cải tạo và nâng cấp từng đoạn quốc lộ 18, dự án cải tạo cảng Hải Phòng, cảng Sài Gòn và xây dựng cảng nước sâu Cái Lân, chương trình phát triển 5000 km đường giao thông nông thôn tại 15 tỉnh.
Những công trình về cơ sở hạ tầng, giao thông nông thôn, công trình điện lực, thuỷ điện, điện khí hoá nông thôn và chương trình mở mạng điện thoại về nông thôn là những dự án phát triển kinh tế xã hội mang ý nghĩa sâu sắc và nó làm hạn chế những bất bình đẳng trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nước ta trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
@ Về lĩnh vực nông lâm nghư nghiệp: Trong lĩnh vực này các dự án đàu tư bằng nguôn vốn ODA đang được tập trung triển khai thực hiện như các dự án khôi phục hệ thống thuỷ lợi Bài thượng- Đô lương, dự án xây dựng hệ thống thuỷ lợi các tỉnh: Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Phú Yên và tp HCM; dự án củng cố đê Hà Nội; chương trình xây dựng đê biển năm tỉnh phía bắc (Ninh Bình, Nam Định, Thái Bình, Hải Phòng và Quảng Ninh); chương trình phục hồi nghề cá và nâng cấp một số cảng cá của 10 tỉnh ven biển, mua trang thiết bị động cơ công suất lớn cho tàu đánh cá, các kho đông lạnh và thiết bị kiểm tra chất lượng hải sản xuất khẩu. Tỷ trọng vốn ODA đầu tư cho lĩnh vực này chiếm 13% và sẽ tăng lên trong những năm tiếp theo vì trong 2 năm gần đây ODA được chú trọng đầu tư cho phát triển nông thôn trong đó có lĩnh vực nông nghiệp. Báo cáo của Việt Nam tại hội nghị tư vấn nhóm các nước tài trợ cho Việt Nam lần thứ 6 tại Paris tháng 12/1998 có viết: “Trong số các hiệp định đã ký kết trong 9 tháng đầu năm 1998 có nhiều dự án quan trọng nhất là các dự án trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn như công nghiệp hoá nông thôn, phát triển cơ sở hạ tầng, phát triển y tế giáo dục và xây dựng một số các trường đại học ở miền núi”. Theo dự kiến của Bộ trưởng bộ Kế hoạch Đầu tư Trần Xuân Giá thì nguồn vốn ODA năm 1999 và 2000 sẽ chú trọng cho các chương trình phát triển nông nghiệp nông thôn, xoá đói giảm nghèo, đặc biệt là đầu tư cho 1700 xã đặc biệt khó khăn.
@ Về văn hoá giáo dục: Thì tập trung vào các chương trìng xoá đói giảm nghèo, chương trình phủ xanh đất trống đồi trọc, chương trình giáo dục tiểu học do tổ chức UNICEF tài trợ, chương trình định canh định cư phát triển vùng kinh tế mới và chương trình dân số và kế hoạch hoá gia đình.
@ Lĩnh vực cấp nước sạch và vệ sinh môi trường: Xây dựng hệ thống cấp nước sinh hoạt cho tất cả các thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng, TP HCM và rất nhiều nguồn nước sạch vùng nông thôn đặc biệt là các vùng núi như Hoà Bình, Bắc Giang... và vùng đồng bằng sông Cửu Long đã và đang xây dựng và nâng cấp hệ thống cung cấp nước bằng nguốn vốn ODA.
@ Các ngành và các lĩnh vực khác có sử dụng vốn ODA như thông tin liên lạc có các dự án tổng đài điện thoại viễn thông nông thôn, dự án mở rộng mạng thông tin di động Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh;dự án tổng đài điện thoại viễn thông tại Hà Nội và TP HCM; công tác nghiên cứu quy hoach điều tra cơ bản như tăng cường trang thiết bị cho cho đài khí tượng thuỷ văn Phú Liễu, quy hoạch phát triển khu vực đồng bằng sông Cửu Long, đồng bằng sông Hồng, một số các khu vực kinh tế trọng điểm và nhiều dự án quy hoạch các ngành khác cũng được soạn thảo và sử dụng bằng nguồn vốn ODA như quy hoạch năng lượng điện, nghiên cứu nguồn lợi hải sản, nâng cao thể chế pháp luật, ngân hàng, tài chính và cải cách hành chính.
Như vậy nhìn chung mục tiêu và nội dung của các chương trình dự án sử dụng nguồn vốn ODA đều phù hợp với chủ chương, chính sách của Đảng và Nhà nước, đó là tập trung nguồn vốn ODA để đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, kinh tế xã hội trước hết là ngành năng lượng, giao thông vận tải , thuỷ lợi, đổi mới quản lý giáo dục tiểu học, phát triển y tế, văn hoá và hiện đại hoá hệ thống ngân hàng tài chính. Hiện nay đã có một số dự án hoàn thành đưa vào khai thác phát huy hiệu quả, đem lại lợi ích to lớn cho đất nước như: Nhà máy điện Phú MỹII; quốc lộ 1; quốc lộ 5; bệnh viện Chợ rẫy; bệnh viện Việt Đức (Hà nội); chương trình chăm sóc sức khoẻ; nâng cấp và xây dựng một số trường học bị bão lụt phá huỷ; nâng cấp khoa nông nghiệp trường Đại học Cần Thơ... trong các năm tới nguồn vốn ODA sẽ tiếp tục được đầu tư vào các lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng chiến lược. Đó chính là những lĩnh vực then chốt để đem lại phúc lợi xã hội cao và bảo đảm sự phát triển bền vững của Việt Nam khi bước vào thế kỷ XXI.
ii. Hoạt động quản lý nhà nước đối với các chương trình dự án sử dụng vốn ODA.
1. Qúa trình đàm phán ký kết điều ước quốc tế về ODA.
Thủ tướng Chính phủ chỉ định cơ quan thay mặt mình để chủ trì đàm phán điều ước quốc tế về ODA với bên nước ngoài, trường hợp điều ước quốc tế về ODA phải được đàm phán kí kết với danh nghĩa nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Thủ tướng Chính phủ trình Chủ tịch nước chỉ định cơ quan thay mặt Chủ tịch nước để chủ trì đàm phán điều ước quốc tế về ODA với bên ngoài.
Cơ quan chủ trì đàm phán ký kết điều ước quốc tế về ODA trình Thủ tướng Chính phủ, yêu cầu các bộ ngành địa phương cử người đại diện cùng tham gia đàm phán tuỳ theo nhiệm vụ và quyền hạn được quy định.
Trong quá trình đàm phán nếu nội dung điều ước quốc tế có thay đổi so với văn kiện chương trình dự án ODA đã dược duyệt thì cấp đã ra quyết định phê duyệt chương trình dự san sẽ quyết định nội dung cần sửa đổi. Các chương trình dự án có sử dụng vốn ODA do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt thì cơ quan chủ trì đàm phán trước khi trình Chính phủ xem xét để sửa đổi phải có ý kiến bằng văn bản của Bộ Kế hoạch và Đầu tư và ý kiến của các cơ quan liên quan đến các sửa đổi đó.
Cơ sở để đàm phán ký kết được về ODA là văn kiện đã được cấp có thẩm quyền nước ta phê duyệt.
2. Quá trình phê duyệt và tổ chức quản lý nhà nước về ODA.
2.1 Thẩm quyền phê duyệt nội dung các chương trình dự án sử dụng vốn ODA quy định như sau.
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt danh mục các chương trình dự án có sử dụng vốn ODA hàng năm kể cả những sửa đổi, bổ sung liên quan; các chương trình tín dụng có sử dụng vốn ODA; các chương trình sử dụng vốn ODA không hoàn lại có mức vốn từ 500.000 USD; tất cả các chương trình dự án sử dụng vốn ODA liên quan đến thể chế, chính sách, pháp luật, văn hóa thông tin, quốc phàng an ninh; các chương trình dự án sử dụng vốn ODA có vốn đầu tư nước ngoài tương dương dự án nhóm A theo điều lệ quản lý đầu tư và xây dựng.
Căn cứ vào danh mục chương trình dư án sử dụng vốn hàng năm đã được Chính phủ phê duyệt, Bộ trưởng, chủ tịch UBND tỉnh thành phố trực thuộc trung ương phê duyệt các chương trình dự án sử dụng vốn ODA thuộc các loại dự án tương đương dưới mức dự án nhóm A theo điều lê quản lý đầu tư xây dựng, đối vơi loại ODA không hoàn lại có mức vốn dưới 500.000 USD, trước khi phê duyệt cần có ý kiến thông nhất của Bộ trưởng Bô Kế hoạch và Đầu tư và Bộ trưởng Bộ quản lí ngành, trong trưòng hợp có ý kiến khác nhau cơ quan phê duyệt cần báo cáo Thủ tướng chính pủ phê duyệt quyết định.
2.2 Tổ chức quản lý nhà nước về ODA:
Chính phủ thống nhất quản lý Nhà nước về ODA bao gồm việc xác định chủ trương phương hướng thu hút, vận động oda, ký kết các điều ước quốc tế, phân bố việc sử dụng oda qua ngân sách Nhà nước.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư là cơ quan đầu mối trong việc sử dụng điều phối quản lý oda có các nhiệm vụ:
@ Cùng các cơ quan liên quan xây dụng chiến lược và kế hoạch vận động ODA của từng bên nước ngoài.
@ Hướng dẫn bộ, ngành, địa phương xây dựng các công trình dự án và tổng hợp trình chính phủ xem xét phê duyệt danh mục chương trình dự án trong từng thời kỳ từng năm, tổ chức các họt động vận động oda
@ Chuẩn bị nội dung tiến hành đàm phá ký kết với bên nước ngoài các điều ước quốc tế khung về ODA.
@ Điều phối nguồn vốn ODA cho các chương trình dự án cụ thể
@ Phối hợp với bộ tài chính xác định danh mục chương trình dự án được ngân sách Nhà nước cấp phát ODA và vay lại vốn ODA.
@ Lập kế hoạch bố trí ưu tiên đầu tư và kịp thời cấp vốn đối ứng trong kế hoạch ngân sách hàng năm cho các chương trình dự án ODA thực hiện được sử dụng vốn ngân sách cấp phát theo đúng cam kết tại các điều ước quốc tế.
@ Thẩm định các chương trình dự án, theo dõi, kiểm tra thực hiện dự án và báo cáo tổng hợp tình hình thực hiện các chương trình dự án ODA.
Bộ Tài chính có những nhiệm vụ cụ thể như sau:
@ Phối hợp với các cơ quan liên quan chuẩn bị chương trình dự án, nội dung đàm phán và các điều ước quốc tế về ODA cho vay từ các điều ước quốc tế và giao nguồn vốn viện trợ ODA cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và là đại diện chính thức cho người vay trong các điều ước quốc tế đó.
@ Chịu trách nhiệm quản lý tài chính (cấp phát, cho vay, thu hồi lại vốn...) trình Thủ tướng Chính phủ quyết định.
@ Phê duyệt kế hoạch rút vốn hàng năm của ban quản lý các chương trình dự án có sử dụng nguồn vốn ODA.
@ Tổ chức hạch toán kế toán Ngân sách nhà nước đối với nguồn vốn ODA.
Ngân hàng nhà nước Việt Nam có nhiệm vụ như sau :
@ Phối hợp với các cơ quan liên quan chuẩn bị chương trình dự án, nội dung đàm phán các điều ước quốc tế cụ thể về ODA với các tổ chức tài chính quốc tế như WB, IMF, ADB sau khi các điều ước này có hiệu lực Ngân hàng Nhà nước Việt Nam bàn giao vốn và các thông tin liên quan cho Bộ Tài chính để thống nhất quản lý.
@ Phối hợp với vụ tài chính chỉ định các Ngân hàng thương mại thích hợp để uỷ quyền thực hiện vịêc cho vay lại ODA và thu hồi vốn trả nợ ngân sách.
@ Tổng hợp định kỳ và thông báo cho Bộ tài chínhd về tình hình rút vốn, thanh toán... ở các ngân hàng của các chương trình dự án sử dụng vốn ODA.
Bộ ngoại giao: Có nhiệm vụ phối hợp các cơ quan liên quan xây dựng và thực hiện chủ trương, phương hướng vận động ODA, chính sách đối tác trên cơ sở chính sách đối ngoại chung, thực hiện các thủ tục đối ngoại liên quan. Thông báo cho các cơ quan hữu quan Việt Nam về thời điểm có hiệu lực của các điều ước quốc tế về ODA đã được ký kết.
Bộ tư pháp: Có nhiệm vụ tham gia và cho ý kến về vấn đề pháp lý đối với các điều ước quốc tế.
Văn phòng chính phủ: Có nhiệm vụ giúp Thủ tướng Chính phủ kiểm tra, đôn đốc thực hiện quy chế quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA, tham gia công tác quản lý Nhà nước về ODA đối với các chương trình quản lý dự án trước khi trình Thủ tướng chính phủ.
Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường: Thực hiện quản lý nhà nước về môi trường đối với các chương trình dự án sử dụng vốn ODA thuộc diện phải báo cáo, đánh giá các tác động đến môi trường sinh thái.
Bộ Thương mại: Có nhiệm vụ phê duyệt danh mục nhập khẩu máy móc, thiết bị, vật tư, hàng hoá của các chương trình dự án sử dụng vốn ODA về cơ cấu nhập khẩu, đầu mối uỷ thác nhập khẩu.
Các Bộ và các cơ quan ngang bộ, cơ quan trực thuộc Chính phủ, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và các cơ quan Trung ương của các đoàn thể có nhiệm vụ chỉ đạo xây dựng các chương trình dự án sử dụng nguồn vốn ODA do mình phụ trách gửi lên Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các cơ quan liên quan để tổng hợp chung trong cả nước và tổ chức thực hiện các chương trình dự án theo thẩm quyền được giao.
3. Tổ chức thực hiện các chương trình dự án sử dụng nguồn vốn ODA.
Căn cứ vào điều ước quốc tế đã ký kết thì việc tổ chức thực hiện chương trình dự án có sử dụng vốn ODA phải thông qua đấu thầu trong nước và quốc tế. Việc tổ chức đấu thầu tại Việt Nam để thực hiện các chương trình dự án có sử dụng vốn ODA phải thực hiện theo quy chế đấu thầu ban hành kèm theo Nghị định 43/CP ngày 16- 07- 1996 nay sửa đổi thành Nghị định 88/CP ban hành ngày 01-09-1999.
Đối với công trình xây dựng cơ bản phải tuân theo quy chế quản lý và sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính thức ODA (Nghị định 87/cp ban hành ngày 05- 08- 1997). Trường hợp điều ước quốc tế về nguồn vốn ODA có những quy định khác thì tuân theo điều ước quốc tế đã ký kết (trong điều 22 của quy chế quản lý và sử dụng vốn ODA).
4. Những quy định về thuế đối với các chương trình dự án sử dụng vốn ODA.
4.1 Đối với thuế gián thu: Bao gồm thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế giá trị gia tăng.
Các chương trình dự án sử dụng vốn ODA được ngân sách Nhà nước hỗ trợ một phần vốn đối ứng thì chương trình dự án khi chưa xây dựng dự toán vốn đầu tư phải trình đủ các loại thuế gián thu nằm trong phần vốn đối ứng. Ngân sách nhà nước sẽ bảo đảm đủ số vốn đối ứng để nộp các loại thuế gián thu hoặc thực hiên ghi thu ghi chi qua ngân sách nhà nước. Riêng đối với vật tư hàng hoá máy móc thiết bị phương tiên vận tải nhập khẩu sử dụng bằng nguồn vốn ODA không hoàn lại được miễn thuế nhập khẩu và thuế tiêu thụ đặc biệt (nếu có) theo quy định của pháp luật về thuế nhập khẩu và thuế tiêu thụ đặc biệt.
Đối với các chương trình dự án sử dụng vốn ODA theo cơ chế vay lại từ ngân sách Nhà nước thì các chương trình dự án phải tổng hợp tính toán đầy đủ các nguồn vốn đầu tư để nộp các loại thuế gián thu theo pháp luật Việt nam quy định.
Đối với máy móc thiết bị phương tiện vận tải do các nhà thầu nước ngoài mang vào Việt Nam để phục vụ cho việc thi công công trình của các chương trình dự án sử dụng nguồn vốn ODA được miễn thuế nhập khẩu, khi hoàn thành công trình nếu muốn thanh lý những máy móc thiết bị phương tiện vận tải này thì phải nộp thuế nhập khẩu trong trường hợp bán tại thị trường Việt nam thì phải được bộ thương mại chấp thuận, phải nộp đầy đủ các loại thuế như: thuế nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt (nếu có) và các loại thuế khác theo quy định của pháp luật hiện hành.
4.2 Đối với các loại thuế trực thu : Bao gồm thuế lợi tức, thuế thu nhập cá nhân.
Đối với các nhà thầu tham gia chương trình dự án sử dụng vốn vốn ODA có lợi tức chịu thuế thì phải nộp thuế lợi tức theo quy định của thuế lợi tức.
Đối với các cá nhân làm việc cho các nhà thầu, ban quản lý chương trình dự án có sử dụng vốn ODA có thu nhập cao phải nộp thuế theo quy định của luật thuế thu nhập quy định đối với những người có thu nhập cao.
Trong trường hợp tổ chức cá nhân và nhà thầu nước ngoài đã đăng ký kinh doanh tại quốc gia đã ký hiệp định tránh đánh thuế hai lần với Việt Nam tham gia thực hiện chương trình dự án sử dụng vốn ODA thì việc nộp thuế lợi tức và thuế thu nhập cá nhân thì tuân theo hiệp định đã ký kết.
Chương iii
Một số vấn đề còn tồn tại và những giải pháp, kiến nghị nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với các chương trình dự án sử dụng vốn oda.
i. Một số vấn đề còn tồn tại trong hoạt động quản lý nhà nước đối với các chương trình dự án sử dụng vốn ODA.
Trong quá trình quản lý Nhà nước đối với các chương trình dự án sử dụng vốn ODA, chúng ta đã đạt được những thành tựu nhất định trong quá trình phát triển kinh tế xã hội đất nước, ban đầu đã tạo dựng được sự tin tưởng đối với các nhà tài trợ, cung cấp nguồn vốn ODA. Tuy nhiên trong quá trình quản lý còn bộc lộ nhiều điểm hạn chế làm cho việc huy động và sử dụng nguồn vốn ODA kém hiệu quả không đúng tiến độ và kế hoạch đã đề ra, cụ thể là:
Thứ nhất: Việt Nam chưa có kinh nghiệm trong việc tiếp nhận vốn ODA, nhất là việc thực hiện các thủ tục có liên quan đến đấu thầu, thanh toán, chế độ báo cáo định kỳ, bố trí vốn đối ứng kịp thời. Và mặc dù đã có những cải cách về các vấn đề lập pháp, hành pháp, thủ tục hành chính...nhưng vẫn có những ách tắc, đặc biệt là ở cấp cơ sở như việc đền bù, giải phóng mặt bằng... đã làm ảnh hưởng rất nhiều đến khả năng có thể đẩy nhanh quá trình giải ngân nguồn vốn ODA.
Thứ hai: Công tác quản lý vốn ODA còn bị chồng chéo, chưa tách bạch rõ trách nhiệm của các cấp, làm giảm hiệu lực quản lý vốn ODA. Chẳng hạn một số dự án thuộc ngành cấp nước như: dự án cấp nước 6 thị xã (vốn của ADB), dự án cấp nước 7 thị xã (ADB), dự án cấp nước 6 thị xã (úc)... do chủ dự án thuộc Bộ xây dựng đồng thời chịu sự quản lý của các Uỷ ban nhân dân tỉnh được thụ hưởng như các dự án cấp nước này cũng dẫn đến những hạn chế trong công tác quản lý và điều hành dự án.
Thứ ba: Đối với các nhà tài trợ lại có quy định riêng và hầu như rất chưa hài hoà với quy định của Việt Nam. Nhìn chung, các bước triển khai đều phải trình phía đối tác của từng giai đoạn mất nhiều thời gian, phụ thuộc vào tiến độ giải quyết của phía đối tác.
Thứ tư: Trong những năm gần đây nước ta thường xuyên phải gánh chịu nhiều thiên tai nặng nề, gây nên những cảnh úng ngập, hạn hán ở nhiều nơi đã ảnh hưởng tới tiến độ thi công các công trình xây dựng của các dự án thuộc ngành giao thông, năng lượng, nông nghiệp - thuỷ lợi...
Thứ năm: Công tác quản lý ODA còn bị hạn chế rất nhiều, nhất là cấp quản lý của các địa phương, họ chưa hiểu hết về các công tác thực hiện, sử dụng nguồn vốn ODA, chẳng hạn công tác thẩm định còn sơ sài, chưa thực hiện tính toán thật chặt chẽ đến các khía cạnh hiệu quả kinh tế xã hội của các chương trình dự án, chưa có tính chủ động trong công tác quản lý vốn ODA, nhiều dự án khi tiến hành nghiên cứu khả thi đã không xác định rõ mục tiêu đầu tư, hạng mục đầu tư và tính đồng bộ giữa các khâu của quá trình đầu tư do đó làm cho việc quản lý thiếu chặt chẽ .
Thứ sáu: Về phía các nhà tài trợ, quy trình, thủ tục giải ngân của họ khá phức tạp, đòi hỏi phải có nhiều thời gian chuẩn bị, bình quân không dưới 24 - 27 tháng cho một dự án. Hơn nữa nhiều trường hợp các quy định của họ không rõ ràng, không nhất quán, họ thường đưa ra một số điều kiện có ảnh hưởng đến chính trị- văn hoá của Việt Nam. Do đó làm cho việc quản lý nguồn vốn ODA của phía Việt Nam bị bó hẹp trong phạm vi nhỏ không đúng với yêu cầu và quy định của nước ta.
Ngoài ra còn một số tồn tại khác như kinh nghiệm quản lý, trình độ ngoại ngữ của các nhà quản lý còn hạn chế do đó trong quá trình phân tích, đàm phán, ký kết các hợp đồng mua sắm, xây lắp, nhiều trường hợp phải điều chỉnh hồ sơ thanh toán. Công tác quản lý tài chính ODA của Chính phủ chưa tập trung vào một đầu mối, do đó dẫn đến trách nhiệm chưa rõ ràng trong việc theo dõi, quản lý và tổng hợp đánh giá hiệu quả sử dụng vốn vay ODA.
ii. Những giải pháp và kiến nghị để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với các chương trình dự án sử dụng nguồn vốn ODA.
1. Một số giải pháp để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với các chương trình dự án sử dụng vốn ODA.
Để khắc phục được những mặt tồn tại trong quá trình quản lý nhà nước đối với các chương trình dự án sử dụng nguồn vốn ODA xin trình bày một số giải pháp như sau:
1.1 Trước mắt cần chú trọng đến công tác đào tạo và nâng cao năng lực cán bộ, bồi dưỡng cho thông thạo chuyên môn nghiệp vụ, pháp luật, ngoại ngữ để nâng cao chất lượng đàm phán nhằm đạt được những yêu cầu tối thiểu, về lãi suất, thời hạn vay, thẩm định giá, định mức chi tiêu, phí tư vấn, chính sách đối với các chuyên gia trên cơ sở bình đẳng đôi bên cùng có lợi.
1.2 Tất cả các chương trình dự án sử dụng vốn ODA đều phải thực hiện tốt các khâu của quy trình dự án đầu tư, thực hiện đúng các quy định về đầu tư xây dựng trong nước và phù hợp với thông lệ quốc tế, đặc biệt là khâu lựa chọn dự án, đấu thầu xây lắp và mua sắm vật tư thiết bị, tư vấn,...
1.3 Đơn giản hoá và nâng cao chất lượng khâu thẩm định dự án, tổ chức đấu thầu, xét chọn thầu, đàm phán các hợp đồng vay đảm bảo tuân thủ đúng pháp luật trong nước và thông lệ quốc tế; công khai hoá các quy trình, thủ tục, thời hạn, trách nhiệm xử lý trong quá trình triển khai dự án.
1.4 Phân tích cụ thể các điều kiện vay, các diều kiện ràng buộc để bố trí sử dụng vốn hiệu quả, chấm dứt tình trạng sắp xếp nhà tài trợ rồi mới xây dựng dự án, kiên quyết loại bỏ dự án không có luận chứng kinh tế kỹ thuật khả thi, chủ động lựa chọn danh mục các dự án sử dụng vốn ODA theo mục tiêu đã định trước khi huy động vốn, khắc phục tình trạng bố trí sử dụng vốn dàn trải.
1.5 Nghiên cứu đồng bộ và có khoa học các biện pháp chuyển đổi các chương trình dự án ODA thành đầu tư trong nước, có biện pháp xin xoá nợ, mua bán nợ, tăng khả năng thanh toán trả nợ bằng hàng hoá trong nước sản xuất ra,... nhằm tạo ra khả năng trả nợ hoặc làm giảm nghĩa vụ trả nợ trong tương lai.
1.6 Các ngành, địa phương và các đơn vị xin sử dụng vốn ODA cần tính toán hiệu quả và xác định đầy đủ nghĩa vụ trả nợ, chịu trách nhiệm chính trong quá trình sử dụng vốn và đặt lợi ích quốc gia lên hàng đầu. Đối với một số lĩnh vực sử dụng vốn ODA với quy mô lớn cần phải nghiên cứu chính sách huy động và hoàn trả nợ trong từng giai đoạn, đảm bảo đầu tư sinh lời và có phương án thu một phần lệ phí để hoàn trả nợ nước ngoài.
1.7 Nhà nước thực hiện tốt chức năng định hướng trong quản lý kinh tế là điều kiện tiên quyết để nâng cao chất lượng và hiệu quả sử dụng nguồn vốn ODA. Đặc biệt chú trọng về chất lượng quy hoạch tổng thể các nguồn vốn đầu tư sao cho phù hợp và gắn liền với quy hoạch ngành, lãnh thổ, lĩnh vực ưu tiên, mặt hàng sản xuất chủ lực,... Từ đó sẽ lựa chọn dự án khả thi, dự án ưu tiên đầu tư từ nguồn vốn vay ODA.
1.8 Công tác vận động vốn ODA cần được đổi mới cơ bản về nội dung và phương thức thực hiện, chú trọng khâu soạn thảo điều khoản đề cương nghiên cứu khả thi (Terms of Reference - TOR), giao việc cho tư vấn cần mạnh dạn chối bỏ các nguồn vốn không đáp ứng yêu cầu, định hướng và hiệu quả đầu tư của nhà nước, nâng cao tính chủ động của phía Việt Nam với bên nước ngoài.
1.9 Luật hoá các hoạt động đầu tư gián tiếp nước ngoài, trong đó có việc quản lý và sử dụng hiệu quả nguồn vốn ODA. Bởi lẽ, hiện tại chúng ta đã có khá nhiều văn bản pháp lý dưới luật trong lĩnh vực này, nhưng thực tế việc quản lý lại không đạt hiệu qủa vừa gây nên tình trạng quản lý chồng chéo giữa các cơ quan trong bộ máy Nhà nước vừa chưa tạo được hành lang pháp lý thống nhất để điều tiết có hiệu quả các hoạt động vay nợ nước ngoài.
1.10 Để có cơ sở phân định rõ trách nhiệm quyền hạn giữa các cơ quan hữu trách trong việc ra quyết định và quản lý nguồn vốn cũng như đơn giản hoá thủ tục hành chính cần thiết phải hoàn thiện thể chế để có một cơ quan chịu trách nhiệm toàn diện từ khâu chuẩn bị dự án đến khâu thực hiện và vận hành khai thác dự án. Có thể nghiên cứu thành lập cơ quan liên ngành (như Uỷ ban quốc gia về quản lý nợ) làm nhiệm vụ trả nợ tổng hợp, phân tích thông tin, đánh giá tình hình, xem xét trong mối quan hệ không tách rời với các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô như tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước (GDP), kim ngạch xuất nhập khẩu, cán cân thanh toán, bội chi ngân sách,... Để đề xuất chiến lược vay và trả nợ nước ngoài. Trong đó có việc vay và trả nợ vốn ODA.
2. Một số kiến nghị để thực hiện tốt các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với các chương trình dự án sử dụng vốn ODA.
Từ những thực tiễn và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước đối với các chương trình dự án sử dụng vốn ODA. Em xin mạnh dạn đưa ra một số những kiến nghị như sau:
Thứ nhất: Nguồn vốn ODA là nguồn vốn chủ yếu phục vụ xây dựng cơ bản và hỗ trợ ngân sách, do đó cần chú ý, đẩy nhanh việc thoả thuận với bên tài trợ nhằm giải ngân nhanh các nguồn vốn đã được cam kết. Việc giải ngân nhanh một số nguồn vốn của các dự án ODA có ý nghĩa quan trọng trong việc đẩy nhanh việc tăng thu ngân sách, giải quyết tốt hơn các vấn đề thuộc cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội đồng thời tiếp tục khẳng định với các nhà tài trợ về tính hiện thực trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam.
Thứ 2: Cần có cách tiếp cận tổng hợp theo ngành hoặc theo chương trình dự án đối với nhu cầu về ODA.
Gần đây các nhà tài trợ có xu hướng tập trung hơn cả về lĩnh vực tài trợ cũng như vùng địa lý và trên cùng một địa bàn lãnh thổ có nhiều nhà tài trợ cùng hoạt động. Tình hình nói trên có mặt tích cực là tập trung được ngồn lực ở trong và ngoài nước để hỗ trợ một cách tổng hợp có hiệu quả cho sự phát triển của một lĩnh vực cụ thể, song bên cạnh đó cũng gây tình trạng trùng lặp các khoản viện trợ, gây lãng phí nguồn lực của Chính phủ cũng như của nhà tài trợ. Giải pháp để khắc phục tình trạng này là cần thay đổi cách tiếp cận đối với các nhu cầu ODA riêng lẻ, chuyển sang hỗ trợ một cách tổng hợp dựa trên các quy hoạch hoặc chương trình phát triển ngành, từ đó sẽ thúc đẩy quy hoạch của Chính phủ trong thời gian tới sẽ góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với các chương trình dự án ODA.
Thứ ba: Trong phát triển quan hệ đối tác cần đề cao và tạo điều kiện cho phía Việt Nam phát huy vai trò làm chủ trong quá trình tiếp nhận ODA. Bởi vì các nhà tài trợ thường nhấn mạnh vai trò làm chủ của nước tiếp nhận viện trợ, coi đó như là “người cầm lái con thuyền phát triển“. Vai trò làm chủ của bên thụ hưởng viện trợ cần được đề cao ngay cả từ khâu đề xuất nhu cầu viện trợ, hình thành và thiết kế dự án, cần tổ chức thực hiện và theo dõi kết quả.
Thứ tư: Cải thiện và chia sẻ thông tin, đây là cơ sở quan trọng làm cho quan hệ đối tác trở nên thiết thực hơn. Chúng ta cần trao đổi thông tin với các nhà tài trợ, cũng như giữa các nhà tài trợ đã thực hiện viện trợ, để giúp các bên hiểu biết lẫn nhau hơn, sự phối hợp nhờ đó sẽ làm cho việc quản lý ODA có hiệu quả hơn, thiết thực hơn. Từ đó chúng ta cùng phân tích và đánh giá tình hình phát triển của Việt Nam nói chung cũng như trên một số lĩnh vực cụ thể.
Thứ năm: Cần tăng cường năng lực cán bộ ở các cấp vì đây là nhu cầu cấp thiết là điều kiện quan trọng để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với các chương trính dự án có sử dụng vốn ODA.
Kết luận
Là một nước có nền nông nghiệp lạc hậu, đời sống dân cư thấp, cơ sở hạ tầng nghèo nàn, do đó việc huy động và sử dụng nguồn vốn nước ngoài có một ý nghĩa quyết định cho sự phát triển kinh tế xã hội nước ta trong giai đoạn đầu của sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá, trong đó nguồn vốn ODA có vai trò rất quan trọng. Nhận thức được tầm quan trọng đó trong thời gian qua Đảng và Nhà nước ta đã và đang thực hiện đường lối mở cửa, đưa ra những chính sách, chiến lược nhằm thu hút những nguồn lực bên ngoài (trong đó thu hút nguồn vốn oda là mục tiêu hàng đầu), đặc biệt là chính sách nâng cao quản lý nhà nước đối với các chương trình dự án sử dụng vốn ODA. Chính vì thế mà từ năm 1993 đến nay các tổ chức viện trợ quốc tế đã cam kết cho Việt Nam vay 17,9 tỷ USD, số vốn được giải ngân qua các năm tăng lên rõ rệt, tính đến hết tháng 6/ 2000 đã giải ngân được 7,346 tỷ USD, do đó đã góp phần vào tăng trưởng kinh tế đạt tỷ lệ cao, cơ sở vật chất được hiện đại hoá và đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện. Song do một số những nguyên nhân khách quan và chủ quan nên tình hình giải ngân vốn ODA còn chậm, cơ chế chính sách còn nhiều bất hợp lý, cán bộ quản lý còn nhiều hạn chế về trình độ, kinh nghiệm cũng như chưa ý thức được vấn đề về nguồn vốn ODA. Chính vì vậy cần phải có cơ chế chính sách hợp lý, quán triệt đến tất cả các cấp bộ, ngành, địa phương để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với các chương trình dự án sử dụng vốn ODA, từ đó góp phần tích cực vào việc thúc đẩy phát triển kinh tế- xã hội, tạo điều kiện thuận lợi cho việc trả nợ vốn vay nước ngoài và đạt tỷ lệ cao trong tích luỹ nguồn vốn trong nước vì sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước.
Tài liệu tham khảo
Giáo trình Kinh tế Đầu tư - Đại học Kinh tế Quốc dân.
Giáo trình Kinh tế Phát triển - Đại học Kinh tế Quốc dân.
Sách kinh tế học các nước thế giới thứ ba.
Tạp chí thông tin Tài chính số 4, 17/ 1997; 11/ 1999.
Tạp chí Tài chính số 4, 6, 8/ 1997; 11/ 1999.
Tạp chí Phát triển kinh tế số 102/ 1999.
Tạp chí Kinh tế và Dự báo số 2/ 2000; 10+ 11/ 2000.
Tạp chí Ngân hàng số 2/ 1999.
Kinh tế châu á- Thái Bình Dương số 3/ 1999; 2/ 2000.
Quy chế quản lý Đầu tư và Xây dựng ban hành kèm theo Nghị định 52/ 1999/ CP ngày 08/07/1999 của Thủ tướng Chính phủ.
Quy chế quản lý và sử dụng nguồn vốn viện trợ phát triển chính thức ODA kèm theo Nghị định 78/ CP ngày 05/08/1997 của Thủ tướng Chính phủ.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- C0228.doc