Không có mức tiêu chuẩn chung cho doanh nghiệp. Về nguyên tắc, chỉ số tỷ lệ vốn không được vượt quá giới hạn an toàn cho phép để tránh nguy cơ của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ.
Theo báo cáo chưa đầy đủ của 24 bộ ngành, đến cuối tháng 12/1999 tổng số nợ của DNNN xác định phải thu và trả lãi là 6000 tỷ đồng (tương đương với giá trị dự toán ban đầu của tuyến đường Hồ Chí Minh dài 1700 km). Số nợ này hiện đang rất khó xử lý vì:
- công nợ phát sinh quá lâu
- hồ sơ tài liệu thất lạc
- Giám đốc, kế toán trưởng, những cán bộ làm công tác thanh toán nợ cũ đã nghỉ hoặc thuyên chuyển công tác
Gây khó khăn rất lớn trong công tác đối chiếu nợ, xác định trách nhiệm và xử lý nợ. Nhiều trường hợp chi phí đòi nơh còn nhiề hơn cả nợ.
32 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1057 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nâng cao hiệu quả quản lý tài chính trong các doanh nghiệp nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục Lục
Lời mở đầu 3
Nội dung 4
Những vấn đề lý luận chung 4
1. lý luận chung về tài chính 4
Khái niệm tài chính 4
tài chính nói chung 4
tài chính doanh nghiệp 4
các chỉ số tài chính 4
chỉ số thanh khoản 4
chỉ số tỷ lệ vốn 5
chỉ số hiệu quả hoạt động 5
chỉ số lợi nhuận 5
các chỉ số đánh giá cổ phiếu công ty 5
hệ thống tài chính quốc gia 6
tài chính nhà nước 6
tài chính doanh nghiệp 6
tài chính trung gian 7
tài chính hộ gia đình 8
thị trường tài chính 8
khái niệm 8
chức năng của thị trường tài chính 8
cấu trúc 9
các chính sách tài chính 12
các chính sách tài chính quốc gia 12
b. các chính sách tài chính trong DNNN 14
2. quản lý tài chính 14
2.1 quản lý tài chính là gì? 14
2.2 hệ thống quản lý tài chính trong các DNNN 15
a. quản lý ngân sách 15
b. quản lý vốn bằng tiền 15
c. quản lý công nợ phải thu, phải trả 16
d. kế toán doanh nghiệp 17
e. kế toán theo chuẩn mực quốc tế 17
2.3 vai trò của quản lý tài chính đối với các doanh nghiệp 19
II. Thực trạng quản lý tài chính và các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý tài chính trong các DNNN 22
thực trạng quản lý tài chính trong các DNNN hiện nay 22
các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý tài chính trong các doanh nghiệp nhà nước. 25
Kết luận 30
Tài liệu tham khảo 31
Lời mở đầu
Việt Nam, ở thời kỳ trước đổi mới, trong khuôn khổ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, khu vực DNNN giữ một vai trò đặc biệt. Nó được đồng nhất với kinh tế XHCN. Đổi mới kinh tế mà thực chất là chuyển sang nền kinh tế thị trường, kinh tế nhà nước phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế.
Hơn 10 năm qua nền kinh tế nhà nước đã hình thành và phát triển đồng bộ hơn. Từng bước đổi mới cơ chế, chính sách quản lý tài chính đối với DNNN, chuyển từ cơ chế quản lý hành chính sang mở rộng quyền tự chủ tài chính, quyền tự chủ kinh doanh và chế độ tự chịu trách nhiệm của các DNNN. Tạo điều kiện thuận lợi về tài chính để khuyến khích kinh doanh; bước đầu xử lý có kết quả các vấn đề nợ quá hạn giữa các doanh nghiệp và giữa các doanh nghiệp với ngân hàng; thực hiện ưu đãi tài chính, đẩy nhanh quá trình sắp xếp lại, đa dạng hóa các hình thức sở hữu của các doanh nghiệp được triển khai khá mạnh mẽ và đem lại kết quả nhất định. Theo đánh giá của các chuyên gia: “Tốc độ tăng trưởng của các DNNN còn chậm, hiệu quả sử dụng vốn và sức cạnh tranh của các DNNN còn thấp, chưa tương xứng với tiềm lực và lợi thế sẵn có. Nhiều doanh nghiệp chưa thực hiện tốt việc bảo toàn và phát triển vốn, tình trạng ăn vào vốn, mất vốn vẫn còn” Chính vì vậy, đổi mới căn bản chính sách, hoàn thiện, nâng cao hiệu quả quản lý tài chính DNNN là vấn đề cấp thiết.
Em chọn đề tài “Nâng cao hiệu quả quản lý tài chính trong các DNNN” mong sự đóng góp nhỏ nhoi của mình giúp ích được phần nào. Do trình độ còn hạn chế nên không tránh khỏi những sai lầm, thiếu sót mong thầy và các bạn đọc góp ý để bài viết của em được hoàn thiện hơn. Em xin trân thành cảm ơn!
Nội Dung
Những vấn đề lý luận chung
Lý luận chung về tài chính
Khái niệm tài chính
Tài chính nói chung
Tài chính là những quan hệ thu chi tiền tệ, qua đó hình thành nên những quỹ tiền tệ tập chung (Ngân sách Nhà nước) và không tập chung (vốn của các doanh nghiệp và quỹ hộ gia đình), và sử dụng quỹ tiề tệ đó để thực hiện những mục tiêu nhất định (mục tiêu phát triển kinh tế, tích lũy và tiêu dùng).
Tài chính là phạm trù kinh tế lịch sử khách quan bởi nó gắn liền với sự ra đời, tồn tại và hoạt động của nhà nước. Tài chính phát triển trong mối quan hệ hữu cơ với nền sản xuất hàng hóa và quan hệ hàng hóa-tiền tệ.
Tài chính doanh nghiệp và tầm quan trọng của nó
Đó là tổng hợp các quan hệ kinh tế được biểu hiện bằng tiền tệ gắn liền với việc hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ của doanh nghiệp để phục vụ cho mục đích sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Tài chính doanh nghiệp là “cái gốc của nề tài chính quốc gia”, là tài chính cơ sở, là nơi tạo ra nguồn tiền để xây dựng nền tài chính quốc gia. Vì vậy sự lành mạnh của tài chính doanh nghiệp có ảnh hưởng tới nền tài chính quốc gia.
Các chỉ số tài chính
Chỉ số thanh khoản
Là khả năng của doanh nghiệp chuyển tài sản thành tiền mặt (hoặc tương đương với tiền mặt) mà không bị mất mát nhiều về tài sản. Chỉ số này hết sức nhạy cảm, nó nói lên khả năng thanh toán của doanh nghiệp cho nên nó là chỉ số quan trọng để đánh giá hiệu quả tài chính trong doanh nghiệp.
Chỉ số tỷ lệ vốn
Chỉ số này bao gồm:
vốn vay / vốn tự có của doanh nghiệp
vốn ngắn hạn / vốn dài hạn
Không có mức tiêu chuẩn chung cho doanh nghiệp. Về nguyên tắc, chỉ số tỷ lệ vốn không được vượt quá giới hạn an toàn cho phép để tránh nguy cơ của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ.
Theo báo cáo chưa đầy đủ của 24 bộ ngành, đến cuối tháng 12/1999 tổng số nợ của DNNN xác định phải thu và trả lãi là 6000 tỷ đồng (tương đương với giá trị dự toán ban đầu của tuyến đường Hồ Chí Minh dài 1700 km). Số nợ này hiện đang rất khó xử lý vì:
công nợ phát sinh quá lâu
hồ sơ tài liệu thất lạc
Giám đốc, kế toán trưởng, những cán bộ làm công tác thanh toán nợ cũ đã nghỉ hoặc thuyên chuyển công tác
Gây khó khăn rất lớn trong công tác đối chiếu nợ, xác định trách nhiệm và xử lý nợ. Nhiều trường hợp chi phí đòi nơh còn nhiề hơn cả nợ.
Chỉ số hiệu quả hoạt động
Căn cứ vào nó để đánh giá hoạt động của doanh nghiệp có hiệu quả hay không. Mỗi doanh nghiệp có những chỉ số hiệu quả khác nhau như số đơn đặt hàng, doanh thu
Chỉ số lợi nhuận
Là tỷ số giữa lợi nhuận sau thuế và số vốn của doanh nghiệp (hay số cổ phiếu, số công nhân làm việc)
Các chỉ số đánh giá lợi nhuận công ty
Thông qua các chỉ số này có thể đánh giá tình hình hoạt động của công ty nói chung. Có hai chỉ số cơ bản được được công bố hàng ngày trên bảng điện tử tại sở giao dịch hay trên các phương tiện thong tin đại chúng. Đó là:
Chỉ số giá / thu nhập (chỉ số P/E, Price/Earning) là tỷ số giữa giá cả hiện tại của của chứng khoán với lợi nhuận thu được của mỗi cổ phiếu. Ví dụ, nếu vào lúc đóng cửa, giá chứng khoán của công ty A là 41,625 USD và lợi nhuận của năm vừa rồimà công ty báo cáo giả sử là 5,5 triệu USD thì tỉ lệ P/E của A là 7,5 – tức là chứng khoán này được bán với mức giá gấp 7,5 lần lợi nhuận.
Hệ số giá / giá trị ghi sổ ( chỉ số P/B Price/Book Value) là hệ số so sánh giá cổ phiếu (CP) của một công ty với tổng tài sản của mỗi cổ phần.
P/B cho từng CP = giá trị thị trường của mỗi cổ phiếu / giá trị ghi sổ của từng cổ phiếu. Trong đó giá trị ghi sổ là giá trị của công ty qua bảng tổng kết tài sản, bao gồm cổ phiếu thường, thu nhập giữ lại và vốn bổ sung.
Khi so sánh hệ số P/E hay P/B của từng công ty với các công ty khác trong một ngành ta thấy chúng thường cao đối với các công ty có tiềm năng tăng trưởng ( nếu các yếu tố khác không thay đổi) nhưng thấp hơn đối với các công ty có độ rủi ro cao hơn.
Hệ thống tài chính quốc gia
Tài chính nhà nước
Bộ phận tài chính này có lien quan trực tiếp tới việc hình thành và sử dụng các quỹ tập trung, chủ yếu là ngân sách nhà nước và dự trữ ngoại hối. Đó là tiền đề vật chất để bộ máy nhà nước hoạt động nhằm thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của mình trong quản lý kinh tế-xã hội.
b. Tài chính doanh nghiệp
Đó là tổng hợp các quan hệ kinh tế được biểu hiện bằng tiền tệ gắn liền với việc hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ của doanh nghiệp để phục vụ cho mục đích sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Tài chính doanh nghiệp là “cái gốc của nề tài chính quốc gia”, là tài chính cơ sở, là nơi tạo ra nguồn tiền để xây dựng nền tài chính quốc gia. Vì vậy sự lành mạnh của tài chính doanh nghiệp có ảnh hưởng tới nền tài chính quốc gia.
Tài chính trung gian
Tài chính trung gian có chức năng huy động những nguồn tài chính nhàn rỗi để tạo vốn cho nền kinh tế quốc dân (không sáng tạo ra nguồn tài chính, nhưng tập hợp được các nguồn tài chính, nên được gọi là tài chính trung gian).
Tài chính trung gian bao gồm:
+ Hệ thống ngân hàng hai cấp. Đó là:
Ngân hàng nhà nước-là cơ quan của chính phủ và là ngân hàng trung ương của nước Việt Nam.
Các tổ chức tín dụng: là các tổ chức thành lập và hoạt động theo luật các tổ chức tín dụng. Ở Việt Nam những tổ chức này bao gồm:
Các ngân hàng thương mại quốc doanh
Ngân hàng thương mại cổ phần
Ngân hàng phát triển
Ngân hàng chính sách
Ngân hàng liên doanh
Chi nhánh ngân hàng nước ngoài
Ngân hàng hợp tác có mức vốn điều lệ từ 50 tỷ đồng trở lên.
Trong hệ thống ngân hàng thì ngân hàng nhà nước hoạt động với tư cách ngân hàng của chính phủ và ngân hàng của các ngân hàng, có chức năng chủ yếu là quản lý việc cung ứng tiền tệ của nền kinh tế, và thực hiện chính sách tín dụng của chính phủ. Trong hệ thống tài chính trung gian thì ngân hàng thương mại được gọi là trái tim của nền kinh tế. Vì vậy, ngân hàng thương mại có mạnh thì hệ thống tài chính quốc gia mới mạnh.
Hoạt động của hệ thống ngân hàng gắn liền với chính sách tín dụng. Vấn đề đặt ra là ngân hàng phải đưa ra chính sách lãi suất như thế nào để vừa đảm bảo huy động được tiền gửi vào ngân hàng (đặc biệt là trung và dài hạn), vừa đảm bảo cho ngân hàng thương mại bảo toàn được vốn và kinh doanh có lãi, và vừa khuyến khích các doanh nghiệp tiếp cận được với nguồn vốn ngân hàng.
+ các tổ chức tài chính phi ngân hàng. Bao gồm:
các công ty bảo hiểm
công ty cho thuê tài chính
công ty khai thác tài sản thế chấp
Có rất nhiều kênh huy động vốn, trong đó ngân hàng, thị trường chứng khoán và bảo hiểm là ba kênh quan trọng nhất.
Tài chính hộ gia đình
Tài chính hộ gia đình mạnh => sức mua lớn => tiết kiệm và tiêu dùng được nâng cao => kích thích đầu tư và tiêu thụ được sản phẩm của các doanh nghiệp => tài chính doanh nghiệp lành mạnh => tiếp tục đầu tư => sự lành mạnh của tài chính quốc gia
Thị trường tài chính
Khái niệm
Thị trường tài chính là thị trường trong đó nguồn tài chính được chuyển từ người có vốn dư thừa sang người thiếu vốn. Thị trường tài chính là tổng hòa các mối quan hệ cung cầu về vốn.
Chức năng của thị trường tài chính
hai chức năng cơ bản nhất của thị trường tài chính là :
dẫn vốn từ người dư thừa vốn tới người cần vốn.
ngoài ra nó còn thể hiện chức năng giám sát thông qua sự vận động của nguồn tài chính.
Thị trường tài chính có ý nghĩa trong việc phân phối các nguồn tài chính. Thông qua hoạt động của các chủ thể trên thị trường tài chính, các nguồn tài chính được luân chuyển để cung và cầu gặp nhau. Quá trình luân chuyển vốn trên thị trường tài chính được thực hiện thông qua quá trình chuyển các nguồn tiết kiệm thành đầu tư, được thể hiện ở sơ đồ sau:
Các thị trường tài chính trực tiếp
thị trường tiền tệ
thị trường vốn(TTCK)
Cung về vốn
chính quyền các cấp
doanh nghiệp
hộ gia đình
người nước ngoài
Cầu về vốn
chính quyền các cấp
doanh nghiệp
hộ gia đình
người nước ngoài
Các tổ chức tài chính trung gian
các tổ chức nhận tiền gửi
các tổ chức tiết kiệm theo hợp đồng
các trung gian đầu tư
công ty tài chính
các tổ chức khác
Qua sơ đồ trên ta thấy được mức độ phát triển của thị trường tài chính có ý nghĩa quan trọng đối với việc khuyến khích tiết kiệm, khuyến khích đầu tư và quá trình vốn hóa trong nền kinh tế.
Cấu trúc của thị trường tài chính
Căn cứ vào bản chất, chức năng và phương thức hoạt động của các chủ thể tài chính và các công cụ giao dịch trên đó, hệ thông thị trường tài chính được phân làm 3 thị trường cơ bản:
Thị trường tiền tệ: là thị trường phát hành và mua bán các công cụ tài chính ngắn hạn, thông thường dưới 1 năm như tín phiếu kho bạc, các khoản vay giữa các ngân hàng, kỳ phiếu ngắn hạn, chứng chỉ tiền gửi, thương phiếu
Thị trường tiền tệ bao gồm hai bộ phận:
Thị trường tiền tệ liên ngân hàng: là nơi trao đổi vốn khả dụng giữa các tổ chức tài chính, nhất là giữa các ngân hàng thương mại theo quan hệ cung cầu. Thị trường liên ngân hàng biểu hiện mối quan hệ giữa các tổ chức tín dụng qua các nghiệp vụ vay và cho vay ngắn hạn trên thị trường. Lãi suất được hình thành dựa theo quan hệ cung cầu có tính chất bán buôn giữa các nhà chuyên môn kinh doanh tiền tệ hiểu biết lẫn nhau. Chênh lệch mức lãi suất giữa vay và cho vay thường là không cao. Điều này cho phép vòng quay các nguồn vốn tăng lên, vốn sử dụng linh hoạt hơn trên thị trường.
Thị trường mở: là thị trường vốn giữa các chủ thể trong nền kinh tế, trong đó bao gồm nội dung của cả thị trường liên ngân hàng. Khái niệm thị trường mở xuất phát từ lịch sử phát triển cho thấy bao giờ thị trường lien ngân hàng cũng phát triển trước, sau đó mới mở rộng ra các đối tượng khác ngoài ngân hàng. Ngân hàng trung ương thông qua nghiệp vụ thị trường mở có thể điều tiết lượng cung ứng tiền tệ trong nền kinh tế quốc dân.
Các đối tượng tham gia thị trường tiền tệ bao gồm ngân hàng trung ương, các ngân hàng thương mại, các tổ chức phi tài chính, các tổ chức tài chính phi ngân hàng, các cá nhân
Thị trường hối đoái: tương tự như thị trường tiền tệ, thị trường hối đoái là nơi giao dịch các công cụ tài chính tương đối ngắn hạ, nhưng chúng được định giá bằng các đồng tiền khác nhau, và ở thị trường hối đoái cũng chỉ có các giao dịch giữa các đồng tiền khác nhau mới được thực hiện.
Các đồng tiền được giao dịch trên thị trường hối đoái theo hai loại tỷ giá: tỷ giá giao ngay và tỷ giá có kỳ hạn.
Tỷ giá hối đoái là giá cả của một đơn vị tiền tệ của một nước được biểu hiện bằng đơn vị tiền tệ của nước khác.
Tỷ giá hối đoái nếu không có sự can thiệp của ngân hàng trung ương sẽ đựoc hình thành trên quan hệ cung cầu trên thị trường. Bản thân cung cầu ngoại tệ cũng chịu ảnh hưởng của rất nhiều nhân tố trái ngược nhau. Bởi vậy sự hình thành của tỷ giá hối đoái là cả một quá trình tổng hợp của nhiều yếu tố khác nhau. Tuy nhiên, những nhân tố chính ảnh hưởng đến sự hình thành và biến động của tỷ giá là sức mua của đồng tiền, cán cân thanh toán, lãi suất, chính sách tài chính và tiền tệ, yếu tố đầu tư, tâm lý và sự can thiệp của ngân hàng trung ương.
Các đối tượng tham gia thị trường hối đoái gồm có ngân hàng trung ương, ngân hàng thương mại và đội ngũ kinh doanh hối đoái.
Thị trường chứng khoán
Như ta thấy các hoạt động tấp nập của các sở giao dịch chứng khoán New York, Tokyo, Hong Kongvới những nhân vật dán mắt vào máy vi tính và luôn tay múa may ra hiệu. Trên tường của sở giao dịch là một hệ thống bảng đèn khổng lồ, chi chít những con số thông báo từng phút về giá chứng khoán (cổ phiếu, trái phiếu) của từng công ty tham gia, số lượng mua bán, giá mua bán, kỳ hạn
Thị trường chứng khoán là thị trường mua bán các loại chứng khoán. Chứng khoán là những chứng chỉ đầu tư hoặc ghi nhận nợ với sự đảm bảo đem lại thu nhập trong những thời hạn nhất định.
Chứng khoán bao gồm: trái phiếu (bond) do nhà nước phát hành, cổ phiếu (share) do các công ty phát hành, chứng chỉ (do các quỹ đầu tư phát hành) và các loại chứng khoán khác.
Cấu trúc của thị trường chứng khoán cơ bản gồm có thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp.
Thị trường chứng khoán sơ cấp là thị trường mua bán các loại chứng khoán mới phát hành lần đầu. Chức năng của nó là huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế.
Thị trường chứng khoán thứ cấp: là thị trường mua đi bán lại các chứng khoán sau khi chúng được bán ở thị trường sơ cấp. Thị trường này lại bao gồm thị trường tập trung (sở giao dịch chứng khoán) và thị trường phi tập trung OTC. Thị trường thứ cấp không làm tăng vốn trong nền kinh tế mà chức năng của nó là: tạo sự giao lưu vốn và đánh giá hiệu quả hoạt động của nền kinh tế ; hậu thuẫn mạnh mẽ cho thị trường chứng khoán sơ cấp.
Thị trường chứng khoán với tư cách là thị trường vốn dài hạn chỉ có thể phát triển trên cơ sở một nền kinh tế phát triển cao, hệ thống tiền tệ, tỷ giá ổn định, và hệ thống các thị trường vốn ngắn hạn đã được thiết lập, hoạt động trôi chảy có hiệu quả. Thị trường chứng khoán có chức năng cơ bản là:
Chức năng huy động vốn đầu tư
Chức năng khuyến khích tiết kiệm và đầu tư.
Chức năng công cụ di chuyển đầu tư, nhờ đó khoảng cách giữa người tiết kiệm và người đầu tư được xóa bỏ.
Chức năng khuyến khích cạnh tranh.
Chức năng hàn thử nền kinh tế.
Các chính sách tài chính
Nội dung các chính sách tài chính quốc gia
+ Chính sách huy động vốn: vốn được huy động từ hai nguồn chính là
nguồn vốn trong nước: bao gồm
Nguồn vốn từ ngân sách nhà nước: bởi lẽ ngân sách là có hạn cho nên Nhà nước về nguyên tắc chỉ nên đầu tư vào những lĩnh vực đòi hỏi vốn nhiều và có tỷ lệ lợi nhuận thấp vì tư nhân không muốn đầu tư, nhưng rất cần thiết cho sự phát triển của xã hội.
Nguồn vốn trong dân:
Nguồn vốn do phát triển hệ thống tài chính trung gian, đặc biệt là hệ thống các công ty tài chính như các công ty bảo hiểm, các quỹ phát triển và quỹ chính sách
nguồn vốn ngoài nước: bao gồm
Vốn đầu tư nước ngoài: vốn đầu tư nước ngoài có ý nghĩa vô cùng quan trọng tới sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Nó đáp ứng nhu cầu về vốn của các doanh nghiệp cho đầu tư và phát triển sản xuất kinh doanh., thúc đẩy tăng trưởng kinh tế; cải thiện cán cân thương mại, cán cân thanh toán quốc tế; tạo cơ hội đưa công nghệ, kỹ thuật mới vào đất nước; tạo công ăn việc làm cho xã hội
Nguồn tài trợ của các tổ chức quốc tế bao gồm viện trợ phát triển chính thức (ODA), viện trợ phát triển từ các luồng chính thức khác, các luồng tư nhân từ các phía cho vốnđây là một nguồn vô cung quan trọng giúp chúng ta có cơ hội phát triển cao hơn, rút ngắn khoảng cách với các nước khác. Vì vậy việc mở rộng các quan hệ nhà nước và phi nhà nước là hết sức quan trọng để tìm kiếm được nhiều hơn các nguồn viện trợ khác giúp các doanh nghiệp trong nước cũng như nền kinh tế phát triển.
Nợ quốc tế bao gồm nợ chính phủ và nợ thương mại. các khoản nợ quốc tế cũng giúp tăng nguồn vốn trong nền kinh tế tuy nhiên nó là con dao 2 lưỡi bởi có thể các khoản nợ không thể trả nổi.
+ Chính sách thuế
Thuế là nguồn thu theo nghĩa vụ được quy định bằng luật pháp. Thuế tồn tại qua các hình thái xã hội có nhà nước, là nguồn thu chủ yếu, ổn định của ngân sách nhà nước, là công cụ phân phối thu nhập quốc dân, không chỉ để có nguồn thu mà còn để điều chỉnh, can thiệp vào nền kinh tế, thực hiện điều tiết vĩ mô nền kinh tế, là công cụ bảo vệ kinh tế trong nước, giúp các doanh nghiệp trong nước cạnh tranh với nước ngoài. Vì vậy có thể nói thuế là một trong những công cụ tài chính quan trọng nhất của riêng nhà nước để điều hành sự phát triển của nền kinh tế và các quan hệ xã hội theo những mục tiêu đã định. Quản lý nhà nước về tài chính mà trong đó thuế là nguồn tài chính quan trọng nhất do nhà nước thực hiện và đại diện cho lợi ích toàn xã hội.
Thuế như một con dao hai lưỡi. Nếu thu nhiều thuế thì sẽ làm giảm vốn đầu tư trong doanh nghiệp kéo theo là sự sụt giảm trong sản xuất kinh doanh và sự phát triển của nền kinh tế. Nhưng nếu thu it thuế thì ngân sách lại eo hẹp, ảnh hưởng đến các mục tiêu vĩ mô. Cho nên việc đặt ra mức thuế phù hợp là vô cùng quan trọng để thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp và thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
+ Chính sách ngân sách nhà nước.
Các chính sách tài chính trong các DNNN
Chính sách kiểm soát chi phí
Chính sách phân phối nguồn ngân sách
Chính sách kiểm toán nội bộ
Các chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội
Chính sách huy động vốn đầu tư
Quản lý tài chính
2.1 Quản lý tài chính là gì?
Quản lý hiệu quả tài chính là một trong những nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu của bất kỳ doanh nghiệp nào. Với hệ thống quản lý tài chính được định hướng cho giải pháp đồng bộ các nhiệm vụ kế toán, kiểm soát và lập kế hoạch thu chi, hệ thống cho phép doanh nghiệp sử dụng hiệu quả tiền vốn của doanh nghiệp và thu hút đầu tư, nâng cao việc quản lý kinh doanh, lợi nhuận và khả năng cạnh tranh.
Sử dụng phân hệ quản lý tài chính cùng với cơ chế hỗ trợ cơ sở dữ liệu phân tán cho phép điều chỉnh hiệu quả việc quản lý tài chính tập đoàn và nghiệp đoàn, nâng cao tính minh bạch và thu hút đầu tư.
Các tính năng của phân hệ có thể được sử dụng cho giám đốc tài chính, cán bộ kế toán và phòng kinh tế kế hoạch, cũng như các phòng tài chính khác của doanh nghiệp.
Hệ thống quản lý tài chính trong doanh nghiệp
Quản lý ngân sách
Phân hệ thực hiện các chức năng cần thiết để xây dựng hệ thống hoạch định tài chính cho doanh nghiệp:
hoạch định việc lưu chuyển tiền tệ của doanh nghiệp ở bất kỳ thời điểm nào theo các phương diện thời gian, trung tâm trách nhiệm tài chính, dự án, số dư và phát sinh, phân tích bổ sung (mặt hàng, đối tác....);
dự báo hoạt động kinh doanh thực tế của doanh nghiệp trong từng lĩnh vực đã hoạch định;
lập báo cáo tổng hợp theo kết quả dự báo;
kiểm tra sự tương ứng của đơn đặt hàng dành cho chi phí sắp xếp nhân công theo các kỳ;
phân tích tài chính;
phân tích khả năng sử dụng vốn bằng tiền;
phân tích sai lệch dữ liệu dự tính và thực tế.
Quản lý vốn bằng tiền
Phân hệ quản lý vốn bằng tiền (quỹ tiền) thực hiện các chức năng cần thiết sau để quản lý hiệu quả việc lưu thông tiền tệ trong doanh nghiệp, kiểm tra việc thanh toán:
kế toán đa ngoại tệ theo số dư và biến động vốn bằng tiền;
ghi nhận việc thu chi tiền theo như hoạch định;
đặt dự phòng vốn bằng tiền cho việc thanh toán sắp tới tại các tài khoản ngân hàng và quỹ tiền mặt;
lập lịch thanh toán;
lập ra tất cả các chứng từ gốc cần thiết;
tích hợp với các hệ thống «internet-banking»;
khả năng phân bổ (thủ công và tự động) số tiền của một chứng từ thanh toán theo nhiều hợp đồng.
Quản lý công nợ phải thu, phải trả
Yếu tố quan trọng khi làm việc với đối tác là chức năng quản lý công nợ phải thu, phải trả. Trong phân hệ quản lý công nợ, với chính sách tín dụng linh hoạt, hệ thống cho phép nâng cao sức hấp hấp dẫn của doanh nghiệp đối với khách hàng và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thương trường.
Phân hệ quản công nợ có thể sử dụng trong cơ cấu tài chính, cung ứng và tiêu thụ của doanh nghiệp, cho phép tối ưu quản lý luồng tài chính và tài sản.
Việc sử dụng phân hệ cho phép phân tích sự thay đổi công nợ trong các kỳ và sử dụng 2 loại công nợ - thực tế và dự tính (hoãn lại). Công nợ thực tế liên quan đến các giao dịch hạch toán và thời điểm chuyển quyền sở hữu. Công nợ hoãn lại xuất hiện khi phản ánh trong hệ thống các sự kiện giống như đơn giao nhận hàng và đưa hàng tồn kho vào bán ký gửi, đơn đề nghị thanh toán và các sự kiện tương tự khác.
Mục đích chính của phân hệ hạch toán công nợ là:
ghi chép việc xuất hiện công nợ của đối tác với công ty và công ty với đối tác:
thống kê các nguyên nhân xuất hiện công nợ;
hỗ trợ các phương pháp kế toán công nợ khác nhau (theo thỏa thuận, hợp đồng, các giao dịch kinh tế riêng);
phân tích tình trạng công nợ hiện tại và nhật ký thay đổi của nó.
Kế toán doanh nghiệp
Các tính năng quản lý kế toán doanh nghiệp được thực hiện trong hệ thống, bảo đảm hoàn toàn phù hợp với luật pháp Việt Nam và nhu cầu kinh doanh thực tế. Phương pháp luận được thông qua là sự phát triển tiếp theo của giải pháp kế toán, triển khai trong các sản phẩm của hệ thống “1C:DOANH NGHIỆP 7.7”.
Phân hệ kế toán doanh nghiệp bảo đảm quản lý kế toán theo đúng luật pháp của Việt Nam, theo tất cả các phần hành, trong đó có:
kế toán các giao dịch thương mại;
TSCĐ hữu hình và TSCĐ vô hình;
kế toán nguyên vật liệu, hàng hóa, sản phẩm;
kế toán chi phí và giá thành sản phẩm;
giao dịch vốn bằng tiền (tiền mặt và tiền gửi);
hạch toán thanh toán với đối tác;
thanh toán với người nhận tạm ứng;
kế toán tiền lương;
hạch toán với ngân sách.
Việc tổ chức của phân hệ kế toán quản trị bảo đảm mức độ tự động hóa cao khi lập báo cáo kế toán.
Hỗ trợ quản lý kế toán doanh nghiệp đối với nhiều pháp nhân trong cùng một cơ sở dữ liệu. Việc tổ chức kế toán này cho phép tự động hóa doanh nghiệp có cơ cấu tổ chức khá phức tạp.
Kế toán theo chuẩn mực quốc tế
Phân hệ kế toán theo chuẩn mực quốc tế, được soạn thảo bởi hãng «1C» nhờ sự hỗ trợ tư vấn của công ty PricewaterhouseCoopers, cung cấp cho phòng tài chính của nhà máy nền tảng phương pháp sẵn có để quản lý kế toán theo chuẩn mực quốc tế và có thể mô phỏng theo những đặc tính ứng dụng các chuẩn mực cho nhà máy cụ thể nào đó.
Phân hệ bao gồm hệ thống tài khoản riêng biệt theo chuẩn mực quốc tế, có thể điều chỉnh được bởi người sử dụng và bảo đảm các tính năng sau:
quản lý kế toán tài chính và chuẩn bị lập giống như báo cáo tài chính riêng biệt và báo cáo tài chính hợp nhất theo chuẩn mực quốc tế;
chuyển đổi phần lớn các bản ghi kế toán (bút toán) từ phân hệ kế toán doanh nghiệp theo các quy tắc mà có thể điều chỉnh một cách linh hoạt bởi người sử dụng;
quản lý song song kế toán theo chuẩn mực Việt Nam và quốc tế theo các phần hành, nơi có sự khác nhau giữa chuẩn mực Việt Nam và các yêu cầu của chuẩn mực quốc tế báo cáo tài chính (ví dụ, kế toán TSCĐ hữu hình và TSCĐ vô hình);
lập chứng từ chuẩn riêng (ví dụ, tính chi phí, kế toán hàng dự trự, kế toán tài sản và một loạt các nhiệm vụ khác), cũng như nhập bản ghi chép đã điều chỉnh ở chế độ “thủ công”.
Các tính năng của phân hệ cho phép:
giảm bớt đến mức tối thiểu hao phí lao động của việc quản lý kế toán theo chuẩn mực quốc tế đối với việc sử dụng dữ liệu kế toán theo chuẩn mực Việt Nam;
so sánh dữ liệu kế toán theo chuẩn mực Việt Nam và kế toán theo chuẩn mực quốc tế, phần kế toán nào làm giảm việc chỉnh lý dữ liệu trước khi soạn thảo báo cáo theo chuẩn mực quốc tế;
hợp nhất báo cáo theo nhóm nhà máy;
phân hệ cũng có thể được thiết lập để quản lý kế toán và so sánh báo cáo tài chính theo chuẩn mực của các nước khác, trong đó có US GAAP.
Vai trò của quản lý tài chính đối với doanh nghiệp
Một bản nhạc hay đồng nghĩa với việc các nốt nhạc được sắp xếp hợp lý. Trong đầu tư kinh doanh cũng vậy, mọi hoạt động sẽ được phối hợp nhịp nhàng, hài hòa và thành công sẽ dễ dàng hơn rất nhiều nếu bạn biết sắp xếp các yếu tố tài chính hợp lý và hiệu quả.
Tài chính công ty là hệ thống các quan hệ kinh doanh nảy sinh trong quá trình phân phối các khoản tiền gắn liền với việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền mặt của công ty để phục vụ cho yêu cầu sản xuất kinh doanh, trong đó, bộ máy kế toán sẽ điều hành toàn bộ hoạt động tài chính công ty. Vai trò của việc quản lý tài chính cũng rất quan trọng, nó tồn tại và tuân theo quy luật khách quan, và bị chi phối bởi các mục tiêu và phương hướng kinh doanh của công ty.
Khi bắt tay vào xây dựng các chiến lược sản xuất kinh doanh, có một điều vô cùng quan trọng mà không một công ty nào được phép bỏ qua là phải tính đến việc các yếu tố tài chính sẽ được quản lý như thế nào, xem các đồng vốn bỏ ra hiệu quả đến đâu, có đem lại lợi nhuận và hiệu quả kinh doanh như mong muốn ban đầu hay không. Có thể nói, tri thức quản lý tài chính là một yếu tố thiết yếu trong đầu tư và kinh doanh. Nếu không có kiến thức cơ bản về quản lý tài chính thì bạn không thể nào nhận ra được tình hình thực tế của những dự án đầu tư, của các kế hoạch kinh doanh cũng như thực trạng hoạt động của công ty.
Quản lý tài chính là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất trong công tác quản lý công ty, bao gồm lên kế hoạch sử dụng các nguồn vốn, đảm bảo thực hiện các dự án sản xuất và kinh doanh, theo dõi, đánh giá và điều chỉnh kịp thời kế hoạch tài chính, quản lý công nợ của khách hàng, của các đối tác để từ đó thực hiện báo cáo cho các cấp lãnh đạo. Những công việc như vậy rất cần cho nhà quản lý trong việc hoạch định nguồn lực tài chính.
Trong các công ty, tập đoàn kinh tế lớn như General Motor, Microsoft, Apple, Vodaphone... công tác quản lý tài chính được tách rời đối với công tác kế toán thống kê. Tại các hãng này, quản lý tài chính là những hoạt động tổng hợp, phân tích, đánh giá thực trạng về tài chính và đưa ra những quyết định về mặt tài chính ngắn hạn cũng như dài hạn của công ty.
Chẳng hạn tại Vodaphone, bộ phận quản lý tài chính hàng ngày dựa vào các báo cáo kế toán, báo cáo doanh thu, chi phí, báo cáo nhân sự và tiền lương... do các bộ phận kế toán tài chính, kế toán quản trị, thống kê cung cấp, kết hợp với những yếu tố khách quan để tiến hành phân loại, tổng hợp, phân tích và đánh giá tình hình tài chính của Vodaphone, so sánh kết quả phân loại của kỳ này với kỳ trước của Vodaphone với các tập đoàn lớn khác trong lĩnh vực điện thoại di động. Bằng sự nhạy bén cần thiết, bộ phận quản trị tài chính có thể chỉ ra những mặt mạnh cũng như những thiếu sót của Vodaphone trong từng thời kỳ hoạt động.
Ngoài ra, công việc quản lý tài chính sẽ giúp giám đốc điều hành hoạch định chiến lược tài chính ngắn hạn và dài hạn của công ty dựa trên sự đánh giá tổng quát, cũng như từng khía cạnh cụ thể các nhân tố tài chính có ảnh hưởng quan trọng tới sự tồn tại của công ty, bao gồm: chiến lược tham gia vào thị trường tiền tệ, thị trường vốn, thị trường chứng khoán, xác định chiến lược tài chính cho các chương trình, các dự án của công ty, mở rộng hay thu hẹp sản xuất... Thông qua đó đánh giá và dự đoán có hiệu quả các dự án đầu tư, các hoạt động liên doanh liên kết, phát hiện âm mưu thôn tính công ty của các đối thủ cạnh tranh, đề xuất phương án chia tách hay sát nhập
Không thể phủ nhận rằng thị trường kinh doanh đang ngày một mở rộng hơn, một mặt mang lại những lợi ích dài hạn để công ty lớn mạnh thông qua việc mở rộng thị trường và đổi mới cơ chế quản lý kinh doanh theo yêu cầu cạnh tranh, mặt khác sẽ là thách thức không nhỏ đối với khả năng của công ty, buộc các công ty phải tổ chức lại cơ cấu sản xuất, chuyển dịch đầu tư và điều chỉnh các hoạt động cho phù hợp với những biến động của môi trường kinh doanh.
Thực trạng quản lý tài chính và các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý tài chính trong các doanh nghiệp nhà nước.
Thực trạng quản lý tài chính trong các DNNN hiện nay
Đây là nội dung được đưa ra tại hội nghị đổi mới doanh nghiệp nhà nước sáng 23-4 tại Hà Nội. Qua hơn ba năm thực hiện nghị định 199, các DNNN đã được trao nhiều quyền hơn, tự chủ hơn về tài chính, chủ động huy động các nguồn lực phục vụ phát triển kinh doanh và mở rộng hoạt động của doanh nghiệp.
Thế nhưng, Thứ trưởng Bộ Tài chính Trần Xuân Hà nói rằng vẫn còn nhiều hạn chế, vướng mắc đang tồn tại trong việc thực hiện cơ chế quản lý tài chính đối với các DNNN. Về vấn đề vốn, các tập đoàn, tổng công ty nhà nước khi thành lập đều xác định vốn điều lệ trên cơ sở vốn trong sổ sách, do vậy không phản ánh được thực chất nhu cầu và hiệu quả sử dụng vốn tại doanh nghiệp.
Một nguyên nhân khác khiến vấn đề vốn chủ sở hữu vẫn còn nhiều hạn chế là nhà nước chưa thực hiện được việc điều hoà vốn từ nơi thừa sang nơi thiếu giữa các doanh nghiệp này.
Theo phân tích của Thứ trưởng Trần Xuân Hà, nếu nhà nước không rót vốn bổ sung cho các doanh nghiệp thuộc sở hữu của mình thì việc các tổng công ty tự huy động vốn và tự chịu trách nhiệm về hiệu quả sử dụng vốn là không sai. Tính đến hết năm 2007, số vốn huy động của 70 tập đoàn, tổng công ty là 448.269 tỉ đồng, bằng 1,4 lần vốn chủ sở hữu.
Tuy nhiên, thực tế là nhiều tổng công ty có hệ số vay nợ trên vốn chủ sở hữu quá cao sẽ gây ra nhiều rủi ro trong thanh toán và làm cho hiệu quả đầu tư không cao do phải mang gánh nặng trả nợ và lãi cho ngân hàng quá nhiều.
Chẳng hạn, Tổng công ty Xây dựng công trình giao thông 5 (Cienco 5) có hệ số vay nợ trên vốn chủ sở hữu là 42 lần, Tổng công ty Xây dựng công trình giao thông 1 (Cienco 1) là 22,5 lần, Tập đoàn công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam (Vinashin) là 21,8 lần và Tổng công ty Lắp máy Việt Nam (Lilama) là 21,5 lần.
Về đầu tư của các DNNN, nhiều tập đoàn, tổng công ty hoạt động theo mô hình đa ngành, đa lĩnh vực đã đầu tư vào các ngành kinh doanh bên ngoài với tổng số vốn là 116.768 tỉ đồng.
Theo báo cáo của Bộ Tài chính, trong tổng số 70 tập đoàn, tổng công ty có đến 28 đơn vị góp vốn thành lập công ty chứng khoán, ngân hàng, công ty quản lý quỹ, công ty bảo hiểm, kinh doanh bất động sản với tổng giá trị vốn đầu tư lên tới 23.344 tỉ đồng, tức là bằng 8,7% vốn chủ sở hữu của nhà nước trong các tập đoàn.
Một số tổng công ty có tỷ trọng đầu tư trên tổng tài sản lớn như Tổng công ty Rượu bia nước giải khát Sài Gòn (Sabeco) là 17%, Tổng công ty Thuốc lá 15,1%, Tổng công ty Đường sông miền Nam 50,2%.
Cũng theo báo cáo của Bộ Tài chính, Tập đoàn Vinashin có tổng mức đầu tư vào các lĩnh vực chứng khoán, ngân hàng, bảo hiểm và bất động sản lên tới 3.323 tỉ đồng. Nhưng ông Phạm Thanh Bình, Chủ tịch HĐQT Vinashin lại nói rằng Vinashin đầu tư vào các ngành kinh doanh khác chỉ 2.200 tỉ đồng, chiếm 4,57% vốn chủ sở hữu.
“Chúng tôi chỉ đầu tư một ít vào lĩnh vực tài chính, bất động sản và đầu tư chủ yếu vào các công trình phúc lợi như nhà nghỉ, khu nghỉ dưỡng cho cán bộ công nhân viên, bệnh viện của ngành”, ông Bình trình bày tại hội nghị.
Chủ tịch Vinashin cũng giải thích thêm là do đặc thù của ngành công nghiệp nặng, cơ khí chế tạo đòi hỏi vốn đầu tư lớn trong khi đó vốn nhà nước cấp không nhiều nên tập đoàn phải vay ngân hàng, đầu tư sang ngành khác để “lấy ngắn nuôi dài” và có tiền tái đầu tư cho các dự án lớn.
Chưa có thống kê hay báo cáo chính thức nào về hiệu quả kinh tế của các dự án đầu tư ngoài ngành mà các tổng công ty, tập đoàn nhà nước thực hiện. Ngoài ra, không ít DNNN còn sử dụng vốn từ quỹ chứng khoán để đầu tư vào các ngành kinh doanh khác, mà theo ông Hà, hoạt động này ẩn chứa nhiều rủi ro, mạo hiểm trong bối cảnh thị trường chứng khoán đang sụt giảm mạnh.
Một vấn đề được Thứ trưởng Trần Xuân Hà đặt ra là cơ chế giám sát DNNN. Theo quy định, các DNNN phải thực hiện cơ chế giám sát doanh nghiệp, công khai tài chính và tình hình quản trị điều hành.
Tuy nhiên, theo đánh giá của Bộ Tài chính, công tác này còn nhiều hạn chế do nhiều công ty nhà nước chưa chấp hành nghiêm túc chế độ báo cáo. "Bản thân chúng tôi cũng không nhận được đầy đủ, kịp thời các báo cáo tài chính của doanh nghiệp. Nhiều nội dung liên quan đến vay nợ nước ngoài, đầu tư ra ngoài doanh nghiệp chưa được giám sát một cách chặt chẽ,” ông Hà cho biết.
Các DNNN thường xuyên mắc phải sai lầm trong quy hoạch tài chính.
Đưa ra những kế hoạch quá sức. Việc đưa ra những kế hoạch kinh doanh và ngân sách mang tính thực tế và phù hợp với thực lực của mình, luôn đảm bảo cho doanh nghiệp vừa thu được lợi nhuận, vừa phát triển bền vững trong thời gian dài.
Bỏ qua nhu cầu ngân sách trước mắt. Nếu như kế hoạch của bạn cho thấy, bạn cần có 5 triệu đồng để tung một sản phẩm ra thị trường, thì bạn không thể chỉ chuẩn bị 3 triệu cho nhu cầu đó. Đặc biệt, những người cho vay tiềm năng sẽ không muốn cho doanh nghiệp bạn vay nếu họ biết nguồn vốn đó chưa đủ để thực hiện kế hoạch, tức là nguồn vốn cho vay đó có độ rủi ro cao.
Quá tự tin vào chỉ tiêu doanh số. Trong kinh doanh, luôn có khoảng cách giữa việc hoàn tất giao dịch và việc hoàn tất thanh toán. Rất nhiều doanh nhân chỉ chú tâm vào chỉ tiêu doanh thu mà xem nhẹ vấn đề thanh toán nên có thể lâm vào thế đổ vỡ khi không thể thu được những gì đã bỏ ra.
Yếu kém trong khâu quảng cáo. Ai cũng biết, quảng cáo đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong hoạt động tiêu thụ sản phẩm. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp thực hiện quảng cáo một cách máy móc theo tỷ lệ phần trăm của doanh số trong cùng kỳ hoạt động của doanh nghiệp. Việc này dẫn đến nghịch lý là thời gian đầu cần quảng cáo nhiều nhất thì kinh phí cho quảng cáo xem ra lại ít nhất.
Cơ chế quản lý tài chính chưa khoa học, chưa hiệu quả bởi nó chưa hoàn toàn minh bạch.
Các phân hệ quản lý tài chính thường không rõ ràng do sự yếu kém trong quản lý tài chính.
Sự yếu kém trong phân tích các báo cáo tài chính và phân tích tài chính là điểm nổi bật trong các DNNN hiện nay.
Các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý tài chính trong các DNNN hiện nay.
Để có thể tranh thủ được các lợi ích của việc mở rộng thị trường và giải quyết những thách thức ngắn hạn, các công ty cần đặt ra một số nội dung trọng điểm trong công tác quản lý tài chính nhằm đảm bảo kết quả tốt nhất:
Thứ nhất, một nhà quản lý tài chính thành công luôn hiểu rõ tình hình tài chính như lòng bàn tay. Thông qua các báo cáo tài chính, những chuyên gia về quản lý tài chính sẽ phân tích các số liệu thu chi, thực trạng hoạt động của công ty lành mạnh hay không lành mạnh, từ đó để nhìn thấy tình hình thực tế ẩn giấu ở bên trong hoặc cũng từ việc phân tích mà thấy rõ cơ hội kinh doanh mới đưa công ty đến thành công.
Việc đọc và hiểu một báo cáo tài chính đồng nghĩa với việc nắm rõ tình hình nội bộ của công ty. Thông qua báo cáo tài chính, các chuyên gia quản lý tài chính có thể phán đoán nền tảng của công ty tốt hay xấu, biết được công ty đang phát triển hay suy yếu. Ngoài ra, các chuyên gia quản lý tài chính còn có thể chỉ ra hệ thống quản lý tài chính của công ty hoạt động hay không hoạt động.
Một số chuyên gia quản lý tài chính đã đúc kết thành kinh nghiệm rằng đối với bản báo cáo tài chính, bạn cần phải đọc kỹ từng dòng và suy nghĩ xem điều gì làm chưa tốt hay còn có thể làm được gì để hoàn thiện nghiệp vụ tài chính công ty. Chẳng hạn như tỷ lệ cổ phiếu là chỉ tiêu của nhà đầu tư bên ngoài, còn nhà đầu tư nội bộ cần những chỉ tiêu tài chính khác.
Một nhà quản lý tài chính cần phải hiểu báo cáo tài chính của công ty có thể ảnh hưởng thế nào đến các hoạt động của công ty. Từ đó thông qua phân tích để có thể biết được công ty có khả năng tiến hành đầu tư dự án nào đó hay không. Các con số có thể cho nhà quản lý biết sau khi công ty vay tiền đầu tư có thể phát sinh hiện tượng gì và cả những ảnh hưởng lâu dài của các khoản nợ đối với sự cân bằng thu chi. Bản báo cáo tài chính cũng là nơi để nhà quản lý tài chính biết những đầu tư của công ty có an toàn hay không, có phù hợp với thực trạng của công ty hay không. Từ đó có thể nhanh chóng phán đoán được khoản đầu tư này lỗ hay lãi trong một thời gian ngắn.
Thứ hai, chú trọng cơ chế quản lý nguồn vốn của công ty. Cơ chế quản lý điều hành nguồn vốn và các chi phí sản xuất kinh doanh cần được tăng cường theo hướng điều chỉnh cơ cấu thu chi phù hợp với việc cắt giảm các chi phí đầu vào. Cơ chế quản lý chi của công ty phải đảm bảo kế hoạch chi hợp lý, hiệu quả, đảm bảo kiểm soát được bội chi, tiến tới cân bằng vốn và doanh thu. Hệ thống quản lý tài chính, chi tiêu từng bước thực hiện vi tính hoá, đẩy mạnh phân cấp quản lý tài chính trong công ty và tăng tính tự chủ tài chính đối với các đơn vị trực thuộc của công ty. Cân đối tỷ lệ chi và phù hợp với mục tiêu phát triển kinh doanh trong từng thời kỳ và đảm bảo an toàn tài chính công ty.
Thứ ba, tập trung hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính, tránh sai lầm trong quy hoạch tài chính. Các công ty cần chủ động tiếp cận và tìm kiếm nguồn vốn đầu tư trên thị trường vốn, thị trường tài chính và phải coi chi phí đầu tư về vốn là một phần của hiệu quả đầu tư và sản xuất kinh doanh. Phải nắm rõ các báo cáo tài chính và phân tích tài chính một cách hiệu quả nhất.
Thứ tư, đẩy nhanh tiến trình nâng cao năng lực của bộ máy quản lý tài chính trong công ty. Đặc biệt phải khẩn trương hình thành đội ngũ chuyên gia quản lý tài chính có năng lực, trình độ chuyên môn, đáp ứng yêu cầu của các hoạt động kinh doanh. Bên cạnh đó, công ty cần xây dựng hệ thống thông tin quản lý tài chính hiệu quả để có thể quản lý được quá trình cạnh tranh ngày một cao, thu chi cũng ngày một lớn.
Thứ năm, nhu cầu vốn sản xuất kinh doanh của công ty luôn có những biến động nhất định trong từng thời kỳ. Vì vậy, một trong những nhiệm vụ quan trọng của quản lý tài chính là xem xét, lựa chọn cơ cấu vốn sử dụng sao cho tiết kiệm, hiệu quả nhất:
Quản lý tài chính trong công ty phải tiến hành phân tích và đưa ra một cơ cấu nguồn vốn huy động tối ưu cho công ty trong từng thời kỳ.
Quản lý tài chính phải thiết lập một chính sách phân chia lợi nhuận một cách hợp lý đối với công ty, vừa bảo vệ được quyền lợi của chủ công ty và các cổ đông, vừa đảm bảo được lợi ích hợp pháp cho nhân viên; xác định phần lợi nhuận để lại từ sự phân phối này là nguồn quan trọng cho phép công ty mở rộng sản xuất kinh doanh hoặc đầu tư vào những lĩnh vực kinh doanh mới, sản phẩm mới, tạo điều kiện cho công ty có mức độ tăng trưởng cao và bền vững.
Quản lý tài chính trong công ty còn có nhiệm vụ kiểm soát việc sử dụng cả các tài sản trong công ty, tránh tình trạng sử dụng lãng phí, sai mục đích.
Thứ sáu, đẩy nhanh tiến trình cải cách hệ thống DNNN nhằm lành mạnh hoá tình hình tài chính của khu vực này. Kiên quyết xoá bỏ các bao cấp không hợp lý, không phù hợp với tiến trình hội nhập để hạn chế tư tưởng ỷ lại của các doanh nghiệp. Đồng thời đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp, có biện pháp xử lý dứt điểm các doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ kéo dài theo đúng Luật Phá sản.
Thứ bẩy, ban hành cơ chế nhằm xác định rõ nội dung, phạm vi quản lý nhà nước và chức năng của chủ sở hữu vốn nhà nước trong doanh nghiệp, quy định cụ thể về chức năng của chủ sở hữu, việc phân công, phân cấp, uỷ quyền cho các Bộ, ngành, UBND tỉnh thành phố thực hiện các quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu, Hội đồng quản trị là đại diện chủ sở hữu trực tiếp, đảm bảo cơ quan nhà nước không can thiệp trực tiếp vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp; sửa đổi quy định về cử người đại diện vốn nhà nước cho phù hợp với Luật Doanh nghiệp.
Thứ tám, hỗ trợ tài chính có điều kiện cho doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh hiệu quả và xuất khẩu thông qua việc: Tăng cường và đa dạng hoá các hình thức tín dụng xuất khẩu, tạo điệu kiện thuận lợi nhất cho các doanh nghiệp thanh toán xuất nhập khẩu, tiếp tục hoàn thiện các giải pháp ưu đãi tín dụng cho xuất khẩu phù hợp với các nguyên tắc của WTO cho phép; Hoàn thiện Quỹ hỗ trợ xuất khẩu theo cơ chế mới phù hợp với các nguyên tắc của WTO; Tiếp tục hoàn thiện cơ chế tín dụng hỗ trợ xuất khẩu phù hợp với các nguyên tắc WTO cho phép và Ngân hàng tín dụng xuất khẩu để tập trung toàn bộ các công cụ hỗ trợ tín dụng cho xuất khẩu vào một kênh duy nhất. Hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong quá trình nghiên cứu, phát triển, tiếp thị sản phẩm ra các thị trường mới.
Thứ chín, tháo gỡ các vướng mắc và tạo ra nhiều kênh huy động vốn kinh doanh và đầu tư phát triển cho doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Mở rộng hình thức phát hành trái phiếu, tín phiếu được áp dụng cho các loại hình doanh nghiệp, thí điểm loại trái phiếu được chuyển đổi thành cổ phần doanh nghiệp. Có chính sách khuyến khích doanh nghiệp được bổ sung vốn từ phần thuế thu nhập nộp tăng thêm so với năm trước.
Cuối cùng, sửa đổi, bổ sung cơ chế hỗ trợ tín dụng phát triển nhằm khắc phục tình trạng hỗ trợ dàn trải, tràn lan mà tập trung hỗ trợ đối với các dự án trọng điểm, dự án đầu tư có hiệu quả và có khả năng cạnh tranh. Việc hỗ trợ này thông qua hỗ trợ lãi suất sau đầu tư đối với doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả.
Kết luận
Cải cách DNNN là một yêu cầu cấp thiết được đặt ra hiện nay nhằm nâng cao năng lực hoạt động, tăng cường khả năng cạnh tranh và phát huy vai trò chủ đạo, quyền chủ động trong kinh doanh của doanh nghiệp.
Hiện nay, khu vực DNNN đang nắm trong tay hầu hết các ngành kinh tế chủ chốt và khối lượng vốn, tài sản quốc gia rất lớn. Do vậy, nếu tiếp tục hoạt động kém hiệu quả thì nó sẽ trở thành lực cản lớn nhất đối với sự cất cánh của toàn bộ nền kinh tế, làm cho tình hình tài chính tiền tệ trở nên tồi tệ và phức tạp hơn. Chính vì vậy, vấn đề cải cách và nâng cao hiệu quả quản lý tài chính của khu vực DNNN có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với nền kinh tế, với chính vấn đề DNNN có thể thực hiện được vai trò chủ đạo đích thực của mình hay khộng?
Để tiến hành cải cách có hiệu quả đòi hỏi phải tiếp tục đổi mới triệt để trong nhận thức, tư duy về khu vực DNNN, từ đó hình thành chiến lược cải cách nhất quán nhằm loại bỏ sự ôm đồm bất hợp lý của nhà nước đối với khu vực kinh tế này, chuyển hẳn sang phương châm “Nhà nước chỉ nắm cái lớn, cái then chốt”. Nhà nước thực hiện chức năng quản lý nền kinh tế bằng luật, điều chỉnh kinh tế bằng đòn bẫy kinh tế là chủ yếu chứ không phải bằng số lượng DNNN cồng kềnh, làm ăn thua lỗ. Tuy nhiên, để giải quyết vấn đề này phải có thời gian, song lộ trình phải rõ, quan điểm phải nhất quán. Điều quan trọng vẫn là bản thân các doanh nghiệp sẽ làm như thế nào mà thôi.
Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình khoa học quản lý I, II, nhà xuất bản Khoa học và kỹ thuật.
2. Giáo trình tài chính doanh nghiệp, nhà xuất bản Đại Học Kinh Tế Quốc Dân.
3. Giáo trình Lý thuyết tài chính – tiền tệ, nhà xuất bản Thống kê.
4. Giáo trình Chính sách kinh tế - xã hội, nhà xuất bản khoa học và kỹ thuật.
5. Saigon Times Online - Vẫn khó quản lý tài chính doanh nghiệp nhà nước .
6. MassoGroup - IR Vietnam Chính sách tài chính trong các doanh nghiệp toàn cầu.
7. VietNamNet - Giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp hội nhập có hiệu quả.
8. Giáo trình Hiệu quả và quản lý, nhà xuất bản khoa học và kỹ thuật.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 6221.doc