Vốn là điều kiện không thể thiếu để một Doanh nghiệp được thành lập và tiến hành các hoạt động sản xuất, kinh doanh. Trong mọi loại hình Doanh nghiệp vốn phản ánh nguồn lực chính để đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Để sản xuất, tiêu thụ một loại hàng hoá nào đó, Doanh nghiệp thuê nhà quản lý mua sắm các yếu tố vật chất cần thiết như máy móc, thiết bị, dự trữ, đất đai và lao động. Điều đó có nghĩa là Doanh nghiệp đã đầu tư vào các tài sản. Để đầu tư vào các tài sản Doanh nghiệp phải có vốn. Có thể hiểu vốn là lượng tiền ứng trước thoả mãn các yếu tố đầu vào của Doanh nghiệp. Trong mỗi Doanh nghiệp, vốn đều bao gồm hai bộ phận là vốn chủ sở hữu và vốn vay, mỗi bộ phận này được cấu thành bởi nhiều khoản mục khác nhau tuỳ theo tính chất của chúng.
Vốn kinh doanh của Doanh nghiệp là toàn bộ nguồn vốn đầu tư vào tài sản của Doanh nghiệp, bao gồm nguồn vốn đầu tư vào tài sản cố định và tài sản lưu động. Với mỗi loại hình Doanh nghiệp khác nhau thì cơ cấu vốn đầu tư vào hai loại tài sản này là khác nhau. Đối với các Doanh nghiệp sản xuất thì vốn đầu tư vào tài sản cố định chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn, đối với các Doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực thương mại thì tỷ trọng vốn đầu tư vào tài sản lưu động lại lớn hơn.
63 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 947 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư vào tài sản lưu động của công ty Cổ phần thương mại dược phẩm Quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
4.683.229.037
10.364.962.927
10.793.934.900
2
Tổng nợ phải trả
1.415.245.355
6.956.114.343
6.766.997.050
3
Vốn lưu động
4.200.202.274
9.988.441.353
10.523.918.514
4
Doanh thu
30.475.569.000
50.428.900.160
70.753.077.704
5
Lợi nhuận trước thuế
372.199.559
408.848.585
618.089.265
6
Lợi nhuận sau thuế
267.983.683
294.370.981
445.024.270
Những số liệu trong bảng tóm tắt các số liệu tài chính cho thấy khoản mục tổng tài sản, doanh thu và lợi nhuận của công ty tăng liên tục qua các năm. Năm 2005 giá trị tổng tài sản tăng gần 2,21 lần, đạt con số 10.364.962.927 VND. Chỉ số doanh thu tăng nhanh qua các năm, trung bình mỗi năm tăng hơn 2tỷ VND. Lợi nhuận sau thuế năm 2006 tăng xấp xỉ 1,7 lần so với năm 2004. Những con số trên cho thấy trong ba năm đi vào hoạt động công ty luôn kinh doanh có lãi, lợi nhuận sau thuế tăng ngày càng nhanh hơn.
Để thấy rõ hơn tình hình tài chính của công ty tôi đi vào phân tích cụ thể báo cáo tài chính của công ty qua các năm 2005 và 2006.
Phân tích báo cáo tài chính năm 2005, 2006
BẢNG CÂN ĐỐI KẾ TOÁN
Ngày 31/12/2005
Tài sản
Mã số
Số cuối năm
I
Tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn
100
6,500,213,108
1
Tiền mặt tại quỹ
110
15,408,857
2
Tiền gửi ngân hàng
111
655,653,496
3
Phải thu của khách hàng
114
4,006,552,029
4
Các khoản phải thu khác
115
9,810,677
5
Thuế GTGT được khấu trừ
117
12,266,431
6
Hàng tồn kho
118
1,800,882,618
II
Tài sản cố định, đầu tư dài hạn
200
450,183,307
1
Tài sản cố định
210
416,506,398
Nguyên giá
211
521,190,000
Giá trị hao mòn luỹ kế
212
(104,683,602)
2
Chi phí trả trước dài hạn
216
33,676,909
Cộng tài sản
250
6,950,396,415
Nguồn vốn
Mã số
Số cuối năm
I
Nợ phải trả
300
5,173,581,319
1
Nợ ngắn hạn
310
5,173,581,319
Vay ngắn hạn
311
2,898,975,334
Phải trả cho người bán
312
2,274,605,985
Thuế và các khoản phải nộp NN
314
0
Các khoản phải trả ngắn hạn khác
315
0
II
Nguồn vốn chủ sơ hữu
400
1,776,815,096
1
Nguồn vốn kinh doanh
410
1,500,000,000
Vốn góp
411
1,500,000,000
2
Lợi nhuận chưa phân phối
419
276,815,096
Cộng nguồn vốn
6,950,396,415
Phân tích tình hình tài chính của công ty cổ phần thương mại dược phẩm Quốc tế thông qua việc phân tích các chỉ số tài chính. Các tỷ số tài chính được chia thành bốn nhóm chính là nhóm tỷ số về khả năng thanh toán, nhóm tỷ số về khả năng cân đối vốn, nhóm tỷ số về khả năng hoạt động và nhóm tỷ số về khả năng sinh lãi.
Nhóm tỷ số về khả năng thanh toán:
Khả năng thanh toán hiện hành = tài sản lưu động / nợ ngắn hạn = 1,26
Khả năng thanh toán nhanh = (tiền + phải thu ngắn hạn)/ nợ ngắn hạn = 0,91
Nhóm tỷ số về khả năng cân đối vốn và thanh toán dài hạn
Tỷ số nợ = tổng nợ/ tổng tài sản = 0,74
Tỷ số tổng nợ/ vốn chủ sở hữu = 3,4
Nhóm tỷ số về khả năng sinh lời
Doanh lợi tổng tài sản = lợi nhuận sau thuế/ tổng tài sản = 0,04
Doanh lợi vốn chủ sở hữu = lợi nhuận sau thuế/ vốn chủ sở hữu = 0,2
Từ những chỉ số đã tính toán ta có thể đưa ra một số nhận xét về tình hình tài chính cuả công ty năm 2005 như sau:
Khả năng thanh toán trong ngắn hạn của công ty ở mức an toàn. Tỷ số khả năng thanh toán ngăn hạn là 1,26 có nghĩa là 1đồng nợ ngắn hạn được đảm bảo bởi 1,26 đồng tài sản lưu động và tỷ số thanh toán nhanh là 0,91 cho biết 1 đồng nợ ngắn hạn đựơc đảm bảo bởi 0,91 đồng tiền và khoản phải thu ngắn hạn. Có thể thấy khả năng thanh toán của công ty ở mức an toàn là do công ty có một lượng tiền lớn trong khoản mục phải thu của khách hàng. Đây là đặc điểm chung của các công ty thương mại thuộc ngành dược, công ty cung cấp thuốc cho khách hàng nhưng không thể thu tiền ngay, thời gian trung bình để thu hồi hết nợ là 3 tháng. Một đặc điểm khác là tài sản của công ty phần lớn nằm tại khoản mục phải thu của khách hàng và hàng tồn kho.
Tỷ số tổng nợ / tổng tài sản cho biết phần trăm tổng tài sản của doanh nghiệp được tài trợ bởi nợ. Tại công ty cổ phần thương mại dược phẩm Quốc tê 74% tổng tài sản của công ty được tài trợ bởi nợ. Là một công ty thương mại nên tài sản của công ty chủ yếu là tài sản lưu động và nguồn vốn công ty sử dụng là vốn quay vòng. Do chưa thu được tiền ngay khi bán hàng cho khách nên khoản phải trả cho người bán của công ty ở mức cao và công ty phải đi vay nợ ngắn hạn để trả tiền cho nhà cung cấp.
Xem xét hai tỷ số về khả năng sinh lời ta thấy, trong một chu kỳ kinh doanh 1 đồng vốn đầu tư vào tài sản tạo ra 0,04 đồng lợi nhuận sau thuế và nếu đầu tư 1 đồng vốn chủ sở hữu tạo ra 0,2 đồng lợi nhuận sau thuế. Chỉ số doanh lợi vốn chủ sở hữu phản ánh thu nhập trực tiếp của cổ đông.
Để thấy sự phát triển của công ty qua các năm ta đi và phân tích tình hình tài chính của công ty trong năm 2006 và so sánh với năm 2005
BẢNG CÂN ĐỐI KẾ TOÁN
Ngày 31/12/2006
Tài sản
Mã số
Số cuối năm
I
Tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn
100
9,653,266,528
1
Tiền mặt tại quỹ
110
38,565,872
2
Tiền gửi ngân hàng
111
290,458,317
3
Phải thu của khách hàng
114
6,453,977,249
4
Các khoản phải thu khác
115
5
Thuế GTGT được khấu trừ
117
3,871,063
6
Hàng tồn kho
118
2,866,394,027
II
Tài sản cố định, đầu tư dài hạn
200
363,497,160
1
Tài sản cố định
210
327,493,074
Nguyên giá
211
521,190,000
Giá trị hao mòn luỹ kế
212
(193,696,926)
2
Chi phí trả trước dài hạn
216
36,004,086
Cộng tài sản
250
10,016,763,688
Nguồn vốn
Mã số
Số cuối năm
I
Nợ phải trả
300
7,365,120,921
1
Nợ ngắn hạn
310
7,365,120,921
Vay ngắn hạn
311
2,200,335,172
Phải trả cho người bán
312
5,120,374,472
Thuế và các khoản phảI nộp NN
314
32,411,277
Các khoản phải trả ngắn hạn khác
315
30,000,000
II
Nguồn vốn chủ sơ hữu
400
2,651,642,767
1
Nguồn vốn kinh doanh
410
2,000,000,000
Vốn góp
411
2,000,000,000
2
Lợi nhuận chưa phân phối
419
651,642,767
Cộng nguồn vốn
430
10,061,763,688
Chỉ số về khả năng thanh toán
Khả năng thanh toán ngắn hạn = tài sản lưu động/ nợ ngắn hạn = 1,26
Khả năng thanh toán nhanh = (tiền + phải thu)/ nợ ngắn hạn = 0,92
Chỉ số về cơ cấu vốn
Tỷ số nợ = tổng nợ/ tổng tài sản = 0,74
Tỷ số tổng nợ/ vốn chủ sở hữu = 3,4
Chỉ số về khả năng sinh lời
Khả năng sinh lời của tổng tài sản = 0,04
Khả năng sinh lời của vốn chủ sở hữu = 0,2
Sang năm 2006 các chỉ số phân tích tài chính về khả năng thanh toán trong ngắn hạn của công ty vẫn được duy trì ở mức tốt. Phần trăm tổng tài sản của công ty được tài trợ bởi nợ ở mức ổn định. Có thể nói những con số tương đối về các tỷ số phân tích công ty vân duy trì được ở mức tột. Xem xét con số tuyệt đối qua hai năm 2005 và 2006 ta thấy khoản mục tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn tăng 1,49 lần; năm 2005 giá trị tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn là 6,500,213,108 VND; giá trị này năm 2006 là 9,653,266,528 VND. Nguồn vốn chủ sở hữu tăng gấp 2 lần lên con số 2,000,000,000 VND năm 2006. Do công ty đang kinh doanh có lãi, các cổ đông tin tưởng vào sự phát triển mạnh của công ty trong tương lai nên lợi nhuận được giữ lại để đầu tư vào chu kỳ kinh doanh tiếp theo.
Một số chỉ tiêu phân tích tài chính năm 2007 của Công ty cổ phần thương mại dược phẩm Quốc tế:
Chỉ số về khả năng thanh toán:
Khả năng thanh toán ngắn hạn = tài sản lưu động/ nợ ngắn hạn = 1,45
Khả năng thanh toán nhanh = (tiền + phải thu)/ nợ ngắn hạn = 0,8
Chỉ số về khả năng sinh lời:
Khả năng sinh lời của tổng tài sản = 0,05
Khả năng sinh lời của vốn chủ sở hữu = 0,05
Chỉ tiêu về khả năng thanh toán của Công ty ở mức an toàn. Chỉ tiêu khả năng sinh lời của nguồn vốn giảm so với hai năm 2005 và 2006. Khả năng sinh lời của vốn chủ sở hữu được xác định theo công thức Lợi nhuận sau thuế/ vốn chủ sở hữu, chỉ tiêu này thấp cho thấy khả năng sinh lời của vốn chủ sở hữu giảm, điều này có nghĩa là phần lợi nhuận không chia mà các cổ đông tiếp tục đầu tư vào Công ty đã không đem lại lợi nhuận cho mỗi đồng vốn chủ sở hữu bỏ ra. Lợi nhuận tăng lên chưa tương xứng với số vốn bỏ ra.
Có thể khẳng định công ty cổ phần thương mại dược phẩm Quốc tế là một doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả. Trong ba năm đi vào hoạt động Công ty đều có doanh thu ở mức tương đối cao. Lợi nhuận sau thuế của công ty trong năm 2004 là 267.983.683 VND, năm 2005 là 294.370.981 VND và năm 2006 là 445.024.270 VND. Chỉ tiêu tổng tài sản của công ty tăng nhanh qua các năm. Năm 2004 giá trị tổng tài sản của công ty là 4.683.229.037 VND, đến năm 2007 con số này là 10.793.934.900 VND. Những thành quả công ty đã làm được đã cho thấy phần nào sự lớn mạnh của công ty. Đời sống cán bộ nhân viên công ty ngày càng được cải thiện. Tổng quỹ lương năm 2006 là 2,046,000,000 VND, mức lương bình quân/tháng của cán bộ nhân viên công ty là 3,278,846 VND. Mức lương cao nhất trả cho ban lãnh đạo công ty là 5,000,000 VND, mức lương thấp nhất là 2,500,000 VND. Mức lương công ty trả cho cán bộ nhân viên ở mức tương đối cao, đảm bảo đời sống cho cán bộ nhân viên công ty.
Số lượng và chủng loại thuốc công ty phân phối trên thị trường về ngày càng tăng. Công ty nhập thuốc từ các hãng có uy tín trên thế giới từ các quốc gia như Pháp, Nga, Hàn Quốc, Singapo Đối với thị trường trong nước, công ty mua và đặt hàng tại các cơ sở sản xuất thuốc có uy tín như Công ty dược phẩm Trung ương I, Công ty dược phẩm TW II, Công ty dược phẩm Imexpharm, Công ty liên doanh dược phẩm Việt Trung Việc công ty nhập thuốc từ những công ty dược phẩm có uy tín có ý nghĩa rất quan trọng trong việc tạo lập một vị trí vững chắc cho công ty trên thị trường. Mục tiêu hoạt động của công ty là cung cấp cho người tiêu dùng những sản phẩm tốt nhất với giá thành hợp lý nhất và hiệu quả chữa bệnh cao nhất. Và để công ty có thể phát triển mạnh thì uy tín phải được đặt lên hàng đầu.
2.1.2.3 Nguyên nhân
Trong giai đoạn nền kinh tế đất nước đang có những biến chuyển mạnh mẽ, công cổ phần thương mại dược phẩm Quốc tế đã rất năng động, nhạy bén để hoà nhập vào nền kinh tế thị trường sôi động và cạnh tranh gay gắt. Sự nhạy bén trong công tác quản lý và điều hành công ty là đòn bẩy tích cực cho sự phát triển của công ty. Các nhà lãnh đạo công ty đã không ngừng có những thay đổi tích cực phù hợp với xu thế phát triển chung của đất nước cùng với việc nâng cao trình độ của các trình dược viên và lựa chọn những loại thuốc chất lượng đã tạo cho công ty một chỗ đứng vững chắc trên thị trường. Công ty ngày càng mở rộng thị trường phân phối thuốc bằng cách tăng cường mạng lưới trình dược viên bệnh viện và trình dược viên nhà thuốc. Thi trường tiêu thụ thuốc của công ty được mở rộng trên cơ sở bền uy tín và chất lượng. Mạng lưới trình dược viên được mở rộng đã nâng cao doanh số thuốc bán ra của công ty. Nguyên nhân chính dẫn tới sự phát triển của công ty là những chính sách bán hàng đúng đắn của công ty và hoạt động có hiệu qủa của đội ngũ trình dược viên.
Là một công ty thương mại nên hoạt động bán hàng của công ty là hoạt động quan trọng bậc nhất. Để tạo được chỗ đứng vững chắc trong nền kinh tế công ty đã tạo lập uy tín cho mình bằng cách cung cấp trên thị trường những loại thuốc tốt nhất, có nguồn gốc xuất xứ đảm bảo uy tín và với giá cả hợp lý nhất. Để sản phẩm đến tay người tiêu dùng một cách nhanh nhất công ty đã có hàng loạt các chính sách quảng cáo, khuyến mãi hợp lý. Nhận thấy vai trò quan trọng của quảng cáo đối với mỗi sản phẩm công ty cung cấp trên thị trường nên công ty rất chú trọng quảng cáo các loại thuốc trên các phương tiện thông tin đại chúng như quảng cáo trên các kênh truyền hình, trên các tạp chí về y dược như báo Sức khoẻ & Đời sống.. Việc quảng cáo sản phẩm trên các phương tiện thông tin đại chúng có ý nghĩa rất lớn trong việc tạo ra nhận thức về một sản phẩm mà trước đây người tiêu dùng chưa có nhận thức nào. Các chiến dịch quảng cáo nhằm mục tiêu báo cho thị trường biết sự tồn tại của sản phẩm. Quảng cáo được thiết kế để truyền đạt những tác dụng của các loại thuốc được công ty cung cấp trên thị trường. Bằng những chương trình quảng cáo đơn giản nhưng hiệu quả công ty đã đưa sản phẩm đến với người tiêu dùng. Song song với các chính sách quảng cáo là chiến lược khuyến mãi của công ty. Mục tiêu của khuyến mãi nhằm thúc đẩy, hỗ trợ và khuyến khích nỗ lực bán hàng của lực lượng bán hàng. Nhằm động viên những người trung gian hỗ trợ một cách nhiệt tình và tích cực trong việc tiếp thị các sản phẩm của công ty. Nhằm khuyến khích người tiêu dùng thử hoặc tiếp tục sử dụng những sản phẩm cụ thể của công ty. Những chính sách khuyến mãi hấp dẫn đã khuyến khích các bệnh viện và nhà thuốc tiêu thụ dược phẩm do công ty cung cấp. Chính sách khuyến mãi đã thu hút được những nhà thuốc mới và khuyến khích các nhà thuốc này tiếp tục đặt hàng công ty. Hoạt động khuyến mại của công ty gắn với ba nhóm đối tượng chính là lực lượng bán hàng, người trung gian và với khách hàng.
Các hoạt động khuyến mãi nhằm vào lực lượng bán hàng của công ty nhằm động viên những nhân viên bán hàng nỗ lực thêm để theo đuổi mục tiêu bán hàng của công ty. Tăng toàn bộ mức bán hàng không chỉ là mục tiêu rộng lớn của nỗ lực này mà công ty còn đặt ra các mục tiêu ngắn hạn như : tìm được các đại lý mới, đẩy mạnh doanh số một số sản phẩm cụ thể hay sản phẩm đang trong thời vụ, giới thiệu các chương trình khuyến mãi cho người trung gian, tăng quy mô đặt hàng, tăng năng suất bán hàng và giảm chi phí bán hàng. Có nhiều chiêu thức khuyến mãi để khuyến khích lực lượng bán hàng như: hội nghị bán hàng, thi đua, các tổ chức đoàn thể trong nội bộ công ty mỗi yếu tố này đều có một mục đích đặc biệt nhưng chúng có chung một mục tiêu- động viên lực lượng bán hàng.
Người trung gian là thành phần mở rộng lực lượng bán hàng của công ty và do vậy cũng có những nhu cầu về thông tin, hỗ trợ và động viên. Chương trình khuyến mãi hợp lý của công ty đối với người trung gian đã giúp công ty có được sự hỗ trợ và hợp tác giữa những người trung gian và chúng tạo cho công ty những lợi thế ngắn hạn trong kinh doanh so với các đối thủ cạnh tranh. Một chính sách khuyến mãi thương mại liên tục sẽ tạo ra những lợi ích như đảm bảo về mặt phân phối cho những sản phẩm mới hoặc sản phẩm cải tiến, tăng hay giảm hàng tồn kho của các đại lý Một chương trình tốt sẽ bù trừ các hoạt động cạnh tranh, cải thiện việc phân phối các sản phẩm trưởng thành, thu hút sự tham gia của thành phần trung gian vào các chương trình khuyến mãi dành cho người tiêu dùng, cung cấp thông tin về sản phẩm mới hay sự phát triển sản phẩm và nói chung là nâng cao mức độ trung thành của người trung gian đối với công ty. Các hội nghị đại lý định kỳ do công ty tổ chức cung cấp cho người trung gian các thông tin cần thiết về các sản phẩm mới, những cải tiến sản phẩm, các chiến dịch quảng cáo sắp tới của công ty và các hoạt động khuyến mãi đặc biệt. Hội nghị không chỉ là phương tiện để phổ biến tài liệu và thao diễn minh hoạ sản phẩm mà còn tạo diễn đần quý báu cho các quản trị viên của công ty và trình dược viên kêu gọi các đại lý hỗ trợ tích cực các hoạt động khuyến mãi của công ty.
Một phương pháp khác công ty sử dụng để xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa công ty và các nhà thuốc là các cuộc thi bán hàng. Các hình thức ưu đãi thương mại đối với người trung gian giúp củng cố hệ thống phân phối bán lẻ. Các nhà thuốc và bệnh viện là những khách hàng chính của công ty do vậy công ty luôn có những chính sách ưu đãi hợp lý để khuyến khích các nhà thuốc đặt hàng thuốc tại công ty.
Khuyến mãi đối với người tiêu dùng nhằm khuyến khích người tiêu dùng dùng thử lần đầu, tiếp tục mua, hoặc tăng cường mua sản phẩm. Những biện pháp này của công ty đã thu hút được người tiêu dùng thử sản phẩm mới, thu hút thêm khách hàng mới, khuyến khích khách hàng cũ sử dụng lại sản phẩm và mua sản phẩm thường xuyên hơn. Ngoài ra, việc khuyến mãi đối với khách hàng. Chúng có thể thúc đẩy việc mua hàng đã qua mùa và bù trừ và vô hiệu hoá các hoạt động khuyến mãi cạnh tranh.
Khuyến mãi đối với người tiêu dùng bao gồm các kỹ thuật như: tổ chức các cuộc thi cho người tiêu dùng, và xổ số trúng thưởng, phiếu mua hàng ưu đãi, hàng mẫu dùng thử, quà tặng, những hình thức ưu đãi cho người tiêu dùng.
Quà tặng là những món hàng được biếu không hay bán với giá giảm cho người mua hàng để khuyến khích họ mua một loại hàng nào đó. Mục tiêu cơ bản của một chiến dịch tặng quà là tăng số lượng bán ra, ngoài ra tặng quà còn có một số mục tiêu khác nữa là : bù trừ tác động của các sản phẩm cạnh tranh, lôi kéo khách hàng đang sử dụng những nhãn hiệu cạnh tranh chuyển sang sử dụng nhãn hiệu của công ty và trở thành người sử dụng thường xuyên. Tạo ra sự trung thành với nhãn hiệu và hấp dẫn người mua mua lại sản phẩm của công ty. Bù trừ với sự đình trệ do ảnh hưởng thời vụ. Các hình thức quà tặng phổ biến nhất là quà tặng trực tiếp và quà tặng người nhận phải trả tiền cho quà tặng trao tay.
Quà tặng trực tiếp là quà tặng đi thẳng đến tay người mua hàng, cho không vào thời điểm bán hàng. Có bốn loại chính là quà kẹp vào gói hàng, quà để trong gói hàng và quà là vật chứa đựng hàng.
Quà kẹp vào gói hàng là quà tặng được đính kèm vào bao bì của sản phẩm hay là đựơc để trong một bao bì đặc biệt vừa chứa sản phẩm của công ty vừa chứa luôn quà. Qùa kẹp vào gói hàng tạo được sự đáp ứng nhanh chóng của khách hàng vì quà tặng hiện ra ngay trước mắt cũng như khuyến khích người bán hàng trưng bày nhiều hơn. Quà kẹp trong gói hàng đặc biệt rất hữu ích trong việc làm tăng mức độ sử dụng sản phẩm trong trường hợp quà tặng được sử dụng bổ sung cho sản phẩm chính.
Quà trong gói hàng thực sự nằm hẳn trong bao bì của sản phẩm. Nó có thể là tặng vật hay phiếu mua hàng với giá ưu đãi.
Có thể lấy ví dụ chương trình khuyến mãi Xuân Mậu Tý của công ty đối với khách hàng. Chương trình khuyến mãi của công ty áp dụng từ ngày 01/01/08 đến 31/01/08 đối với 5 mặt hàng: Ibacap, Ibaneuron, Ibaliver, Ibapharton, Ibamentin.
STT
Gói khuyến mại
Khuyến mại
Ngày trả quà KM
01
Đạt doanh số 500,000
12 lon Twister
02
Đạt doanh số 1,000,000
01 két Twister
Và với khách hàng mua các sản phẩm của công ty từ ngày 01/12/07 đến 31/1/08 đối với các sản phẩm Ibapharton, Ibasamine, Aceblu, Ibacap sẽ được nhận các quà tặng tương ứng:
STT
Chương trình khuyến mại
Khuyến mại
Ngày trả quà KM
01
1,000,000
01 két Twister
02
1,800,000
01 két bia Halida
03
3,000,000
01 két bia Halida
01 két Twister
Chương trình khuyến mãi của công ty trong dịp xuân Mậu Tý đã khuyến khích các đại lý tăng doanh số bán hàng, và từ đó doanh số thuốc bán ra của công ty cũng tăng lên nhanh hơn.
Lựa chọn được một hình thức quà tặng đúng đắn là một quyết định và đầy khó khăn. Công ty đã thuê những tư vấn viên chuyên nghiệp về quà tặng hay các hãng tư vấn quảng cáo đảm trách mọi công việc liên quan đến một chiến dịch tặng quà quảng cáo bao gồm: chọn lựu hình thức tặng quà, gửi thư, thẩm tra việc thực hiện, quảng cáo Công ty lựa chọn về quà tặng dựa trên các tiêu chí: quà tặng phải có một giá trị hiển nhiên đáng kể hơn cái giá phải trả, quà tặng phải là một sản phẩm hữu ích đối với người nhân, quà tặng không phải lúc nào cũng có sãn trên thị trường tức là khách hàng khó tìm thấy trên thị trường, quà tặng phải dễ gủi qua đường bưu điện, dễ dính vào hay đặt trong bao bì hàng hoá; quà tặng phải không có tính cạnh tranh với các sản phẩm khác có sẵn tại các cửa hàng cùng loại hay ngay trong cửa hàng; quà tặng phải rất quyến rũ làm sao cho khách hàng ước ao muốn sở hữu và quà tặng phải liên quan ở một mức độ nào đó với chương trình quảng cáo công ty.
Một trong các kỹ thuật công ty sử dụng để khuyến khích người tiêu dùng dùng thử sản phẩm mới hay sản phẩm cải tiến theo phương pháp này sản phẩm dùng thử được trao tận tay người tiêu dùng để dùng thử, với ý tưởng là hãy để sản phẩm tự nó quảng cao. Hàng mẫu là những phiên bản nhỏ hơn của sản phẩm thực tế, chứa đựng một lượng vừa đủ để người tiêu dùng có thể đánh giá được các tính chất của sản phẩm.
Có rất nhiều phương pháp phân phối hàng mẫu đến khách hàng tiềm năng. Phương pháp thích hợp nhất phải căn cứ vào các yếu tố như là loại, kích cỡ, khối lượng, khả năng hư hỏng của loại sản phẩm mẫu, số lượng và vị trí của người nhận, mức độ chọn lọc khả năng linh hoạt mong muốn. Không phải các loại tất cả hàng mẫu đều phát không cho khách hàng. Việc phân phối hàng mẫu bằng cách bán các gói hàng có kích cỡ nhỏ có tính chất giới thiệu gần đây đã được công ty áp dụng. Người tiêu dùng sẵn sàng dùng thử sản phẩm nếu họ có thể mua một lượng nhỏ với chi phí tối thiểu. Một chương trình hàng mẫu thường khá phức tạp đòi hỏi công ty phải có những nỗ lực đáng kể trong việc lên kế hoạch và thực hiện.
Đối với người tiêu dùng công ty có chính sách giảm giá trực tiếp, thưởng thêm hàng, hoàn tiền một phần hay phối hợp các hình thức trên. Giảm giá trực tiếp tạo ra cơ hội cho người tiêu dùng mua một sản phẩm ở một mức giá thấp hơn mức giá bình thường. Loại ưu đãi này thường mang hình thức là dấu hiệu “ hàng giảm giá xuất” hiện ở trên nhãn hay bao bì của sản phẩm. Công ty thường sử dụng hình thức ưu đãi này trong giai đoạn trái mùa. Ưu đãi bằng cách thưởng thêm hàng tạo cơ hội cho người tiêu dùng tạo cơ hội cho người tiêu dùng mua được một lượng sản phẩm nhiều hơn mà vẫn với giá bình thường. Một số biến thể công ty sử dụng là kết hợp giữa các loại thưởng thêm hàng của các sản phẩm khác nhau, trong đó người tiêudùng mua hai hay ba loại sản phẩm với giá thấp hơn tổng cộng hai ba mức giá cá biệt nếu như khách hàng mua riêng từng loại sản phẩm.
Công ty đã bỏ ra những khoản tiền lớn để đào tạo nhân viên về nghệ thuật bán hàng vì nhân viên bán hàng là gạch nối đơn nhất và quan trọng nhất với khách hàng. Công ty luôn chú trọng đào tạo đội ngũ trình dược viên có đầy đủ kiến thức về bán hàng và cùng với những kiến thức đã có được trong nhà trường để nâng cao chất lượng của hoạt động bán hàng.
Đào tạo đội ngũ cán bộ, nhân viên; không ngừng nâng cao chất lượng cũng như số lượng thuốc bán ra trên thị trường cùng với những chính sách bán hàng hấp dẫn là những việc Công ty cổ phần thương mại dược phẩm Quốc tế đã và sẽ làm để nâng cao hiệu quả hoạt động của đơn vị mình.
2.2 Thực trạng sử dụng vốn đầu tư vào tài sản lưu động của Công ty cổ phần thương mại dược phẩm Quốc tế
2.2.1 Đánh giá thực trạng sử dụng vốn đầu tư vào tài sản lưu động của Công ty cổ phần thương mại dược phẩm Quốc tế
a Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư vào tài sản lưu động
Là chỉ tiêu phản ánh hiệu quả của 1 đồng vốn đầu tư vào tài sản lưu động trong chu kỳ kinh doanh của Doanh nghiệp. Chỉ tiêu này càng cao thì hoạt động của Doanh nghiệp càng có hiệu quả.
Bảng: Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư vào tài sản lưu động của Công ty cổ phần thương mại dược phẩm Quốc tế.
Đơn vị tính VNĐ
Chỉ tiêu
Năm 2004
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2005/2004
Năm 2006/2005
Lượng
Tỷ trọng
Lượng
Tỷ trọng
Doanh thu thuần
30.475.569.000
50.428.900.160
70.753.077.704
19.953.331.160
65,47%
20,324,177,540
40,30%
Vốn đầu tư vào tài sản lưu động bình quân
3.600.101.137
7.094.321.814
10.256.179.930
3.494.220.047
97,05%
3,161,858,116
44,57%
Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư vào tài sản lưu động
8,47%
7,11%
6,90%
-1,36%
0,21%
Mức độ đảm nhiệm của vốn đầu tư vào tài sản lưu động
11,8%
14,07%
14,50%
2,27%
0,43%
Bảng trên cho thấy hai chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn đầu tư vào tài sản lưu động và mức đảm nhiệm của vốn đầu tư vào tài sản lưu động của Công ty cổ phần thương mại dược phẩm Quốc tế trong ba năm 2004- 2006.
Doanh thu thuần và vốn đầu tư vào tài sản lưu động bình quân của Công ty tăng liên tục qua các năm. Chỉ tiêu lợi nhuận sau thuế, năm sau tăng gấp đôi năm trước. Ba chỉ tiêu này bước đầu cho thấy Công ty hoạt động ngày càng có hiệu quả.
Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư vào tài sản lưu động của Công ty cổ phần thương mại dược phẩm Quốc tế trong ba năm 2004-2006 ở mức trung bình là trên 7% /năm. Năm 2004 hiệu quả sử dụng vốn đầu tư vào tài sản lưu động là 8,47%; đến năm 2005 chỉ tiêu này giảm nhẹ xuống mức 7,11% và năm 2006 là 6,90%. Chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn đầu tư vào tài sản lưu đông được xác định theo công thức Doanh thu/ vốn đầu tư vào tài sản lưu động, năm 2005 số vốn đầu tư vào tài sản lưu động của Công ty tăng xấp xỉ 100% trong khi lợi nhuận chỉ tăng gấp đôi, chính vì vậy hiệu quả sử dụng vốn đầu tư vào tài sản lưu động giảm. Năm 2004 là năm đầu Công ty đi vào hoạt động nên nguồn vốn của Công ty chưa lớn, đến năm 2005, sau một năm đi vào hoạt động Công ty dành số lợi nhuận giữ lại tiếp tục đầu tư mở rộng hoạt động kinh doanh nên vốn đầu tư vào tài sản lưu động của Công ty trong năm 2005 tăng gần 100%. Đây là nguyên nhân làm cho năm 2005 so với năm 2004 hiệu quả sử dụng vốn đầu tư vào tài sản lưu động của Công ty giảm 1,36%.
b Tốc độ chu chuyển của vốn đầu tư vào tài sản lưu động
Tốc độ chu chuyển của vốn đầu tư vào tài sản lưu động phản ánh trình độ sử dụng vốn đầu tư vào tài sản lưu động của Doanh nghiệp. Chỉ tiêu này được thể hiện bằng số vòng quay của vốn đầu tư vào tài sản lưu động trong một thời gian nhất định, thường là một năm. Một vòng quay của vốn đầu tư vào tài sản lưu động được tính từ khi vốn bắt đầu được đầu tư vào tài sản lưu động đến khi nó trở về hình thái ban đầu. Số vòng quay của vốn đầu tư vào tài sản lưu động càng lớn thì hiệu quả hoạt động càng cao và ngược lại.
Bảng Tốc độ chu chuyển của vốn đầu tư vào tài sản lưu động
Đơn vị VNĐ
Chỉ tiêu
Năm 2004
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2005/2004
N¨m 2006/2005
Lîng
Tû träng
Lîng
Tû träng
Doanh thu thuần
30.475.569.000
50.428.900.160
70.753.077.704
1.995.333.116
2.032.417.754
Vốn đầu tư vào tài sản lưu động bình quân
3.600.101.137
7.094.321.814
10.256.179.930
3.494.220.677
3.161.858.116
Vòng chu chuyển của vốn đầu tư vào tài sản lưu động (vòng/ năm)
8,5
7,1
6,9
Kỳ chu chuyển của vốn đầu tư vào tài sản lưu động bình quân (ngày/ vòng)
43
51
52
Qua số liệu tính toán trên bảng ta thấy, vòng chu chuyển của vốn đầu tư vào tài sản lưu động năm 2004 là cao nhất là 8,5 vòng/ năm. Hai năm sau vòng quay của vốn đầu tư vào tài sản lưu động giảm dần, năm 2005 là 7,1 vòng/năm và năm 2006 là 6,9 vòng/ năm. Vòng quay của vốn đầu tư vào tài sản lưu động giảm tương ứng với kỳ chu chuyển của vốn đầu tư vào tài sản lưu động tăng dần qua các năm. Vòng quay của vốn đầu tư vào tài sản lưu động giảm có thể do rất nhiều nguyên nhân nhưng một nguyên nhân cơ bản là tốc độ tiêu thụ hàng hoá giảm, hàng tồn kho tăng. Theo các số liệu tính toán ở trên, vòng quay của vốn đầu tư vào tài sản lưu động của Công ty cổ phần thương mại dược phẩm Quốc tế có xu hướng giảm dần trong ba năm. Đây là điều không tốt đối với hoạt động của Công ty, nó cho thấy hoạt động của Công ty đang có xu hướng đi xuống.
Công ty cần có những biện pháp kịp thời để đẩy nhanh vòng quay của vốn đầu tư vào tài sản lưu động. Những biện pháp Công ty có thể thực hiện để nâng cao hiệu quả hoạt động của Công ty như:
- Công ty cần nghiên cứu và tính toán để có điểm đạt hàng hợp lý, tránh tình trạng hàng mới nhập về trong khi hàng cũ chưa tiêu thụ hết, hàng tồn kho còn nhiều, gây nên tình trạng ứ đọng vốn.
- Có chính sách bán hàng hợp lý, một chính sách chiết khấu hợp lý sẽ đẩy nhanh thời gian thanh toán của khách hàng, nhanh chóng thu hồi nợ từ khách hàng tránh tình trạng bị chiếm dụng vốn.
- Lựa chọn những loại thuốc có nhu cầu tiêu thụ lớn, bán hàng trực tiếp đến người tiêu thụ. Mở rộng thị trường cũng là một biện pháp tốt để nâng cao số lượng sản phẩm tiêu thụ.
Tốc độ chu chuyển của vốn đầu tư vào tài sản lưu động càng cao thì hiệu quả hoạt động của công ty càng cao, tạo điều kiện rút ngắn thời gian lưu thông hàng hoá, tiết kiệm vốn, tiết kiệm chi phí kinh doanh và tăng thu nhập cho Công ty. Một chỉ tiêu không kém phần quan trọng phản ánh hiệu quả sử dụng vốn đầu tư vào tài sản lưu động là Tốc độ chu chuyển của hàng tồn kho.
c Tốc độ chu chuyển của hàng tồn kho
Là một đơn vị kinh doanh hàng hoá nên hàng tồn kho và phải thu của khách hàng là hai khoản mục chiếm tỷ trọng lớn nhất trong vốn đầu tư vào tài sản lưu động của Công ty cổ phần thương mại dược phẩm Quốc tế. Hàng hoá tiêu thụ nhanh được thể hiện ở tốc độ chu chuyển của hàng tồn kho.
Bảng Tốc độ chu chuyển của hàng tồn kho
Đơn vị VNĐ
Chỉ tiêu
Năm 2004
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2005/2004
Năm 2006/2005
Lượng
Tỉ trọng
Lượng
Tỷ trọng
Doanh thu thuần
30.475.569.000
50.428.900.160
70.753.077.704
1.995.333.116
2.032.417.754
Giá vốn hàng bán
26.254.702.694
44.226.145.440
62.404.214.535
Hàng tồn kho bình quân
1.895.607.031
2.467.925.884
3.625.375.644
Vòng chu chuyển của hàng tồn kho (vòng/năm)
16
20
19
4
-1
Số ngày thanh lý hàng tồn kho
26
20
20
-6
0
Nguồn Báo cáo tài chính của Công ty cổ phần thương mại dược phẩm Quốc tế năm 2004, 2005, 2006
Bảng Tốc độ chu chuyển của hàng tồn kho cho thấy ba chỉ tiêu Doanh thu thuần, giá vốn hàng bán và hàng tồn kho bình quân tăng liên tục qua các năm. Doanh thu thuần tăng trung bình 20 tỷ một năm. Tính toán hai chỉ tiêu vòng chu chuyển của hàng tồn kho và số ngày thanh lý hàng tồn kô cho thấy hai chỉ tiêu của Công ty ở mức khá tốt và tăng theo chiều hướng tích cực. Năm 2004, vòng chu chuyển của hàng tồn kho là 16 vòng/năm, năm 2005 và năm 2006 lần lượt là 20 và 19 vòng/ năm. Đây là kết quả đáng mừng và Công ty cần phát huy. Hàng tồn kho càng chu chuyển được nhiều vòng trong một chu kỳ kinh doanh thì hiệu quả hoạt động của Doanh nghiệp càng được nâng cao, hàng hoá không bị ứ đọng trong kho quá lâu mà được tiêu thụ trong thời gian ngắn, và Công ty đang nỗ lực để đẩy nhanh hơn vòng quay của hàng tồn kho. Có được kết quả này là do Công ty có đội ngũ trình dược viên năng nổ, luôn bám sát hoạt động tại các nhà thuốc trên địa bàn Thành phố Hà Nội và nhà thuốc các tỉnh, đảm bảo lượng thuốc cung ứng ngày càng tăng về số lượng. Công ty cần phát huy thế mạnh của mình tại các nhà thuốc trên địa bàn các tỉnh để ngày càng mở rộng thị trường cung ứng thuốc của mình.
Một nguyên nhân dẫn đến vòng quay của hàng tồn kho của Công ty đạt mức khá tốt là trong quá trình mua cũng như bán hàng Công ty đã ký hợp đồng hết sức chặt chẽ đảm bảo cung ứng hàng hóa đúng thời gian, địa điểm, đảm bảo chất lượng và thanh toán đúng kỳ hạn. Công ty luôn có chính sách chiết khấu hợp lý và thưởng đối với những khách hàng thanh toán đúng hợp đồng. Trong hợp đồng thương mại của mình Công ty luôn có những điều khoản chặt chẽ quy định thời hạn giao hàng và trả tiền. Công ty cần phát huy hơn nữa những kết quả đã đạt được để hoạt động ngày càng có hiệu quả hơn.
d Tốc độ thu hồi công nợ
Nợ là vấn đề phát sinh đối với mọi Doanh nghiệp trong suốt quá trình hoạt động của mình. Đó là quá trình Doanh nghiệp trả chậm tiền hàng cho đối tác. Doanh nghiệp nào cũng muốn kéo dài thời gian trả tiền cho đối tác để tận dụng khoản phải trả này. Trong lĩnh vực dược phẩm, thời gian tiêu thụ của thuốc lâu nên thời gian thu hồi nợ từ khách hàng trung bình là 3 tháng. Trên thị trường hiện nay có rất nhiều Công ty tham gia vào lĩnh vực phân phối dược phẩm do đó tính chất cạnh tranh là rất lớn. Đề có được vị trí vững chắc trên thị trường Công ty cần có những biện pháp để thu hút khách hàng đồng thời giảm thiểu được thời gian trả nợ của khách hàng.
2.2.2 Hạn chế trong việc sử dụng vốn đầu tư vào tài sản lưu động của Công ty cổ phần thương mại dược phẩm Quốc tế
Lượng vốn đầu tư vào tài sản lưu động của Công ty cổ phần thương mại dược phẩm Quốc tế chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn. Qua số liệu của bảng dưới đây chúng ta hãy xem Công ty đã sử dụng số vốn này như thế nào trong ba năm 2004 – 2006.
Đơn vị VNĐ
Chỉ tiêu
Năm 2004
Năm 2005
Năm 2006
Lượng
Tỷ trọng
Lượng
Tỷ trọng
Lượng
Tỷ trọng
Tổng tài sản
3.841.614.519
7.524.095.979
10.579.448.910
Vốn đầu tư vào tài sản lưu động
3.600.101.137
93,73%
7.094.321.814
94,28%
10.256.179.930
96,98%
1. Vốn bằng tiền
1.620.013.890
259.169.074
327.433.779,5
2. Phải thu
1.980.567.463
4.367.272.356
6.288.370.510
3. Hàng tồn kho
1.895.607.031
2.467.925.884
3.625.375.644
Nguồn Báo cáo tài chính của Công ty cổ phần thương mại dược phẩm Quốc tế năm 2004, 2005, 2006
Theo những số liệu thống kê trên bảng ta thấy vốn đầu tư vào tài sản lưu động chiến tỷ trọng rất lớn trong tổng vốn đầu tư vào tài sản. Và số vốn này liên tục tăng lên qua các năm. Năm 2006 vốn đầu tư vào tài sản lưu động chiếm 96,98% tổng nguồn vốn đầu tư vào tài sản, đạt mức 10.579.448.910 VNĐ. Điều này cho thấy Công ty không ngừng mở rộng quy mô kinh doanh cảu mình, lượng vốn đầu tư tăng liên tục.
Chỉ tiêu hàng tồn kho cũng tăng nhanh. Những phân tích ở mục 2.2.1 – c đã cho thấy hàng hoá của Công ty được tiêu thụ ngày càng nhiều và nhanh. Công ty cần có nhiều biện pháp phát huy kết quả này.
Một chỉ tiêu rất quan trọng mà tình hình quản lý tốt hay không tốt có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả sử dụng vốn đầu tư vào tài sản lưu động đó là khoản phải thu. Thực chất khoản phải thu là số vốn đầu tư vào tài sản lưu động của Công ty bị các Doanh nghiệp khác chiếm dụng. Khoản phải thu của Công ty cổ phần thương mại dược phẩm Quốc tế tăng liên tục qua ba năm. Có thể nói đây là vấn đề rất đáng quan tâm của Công ty.
Kỳ thu tiền bình quân cho biết số ngày trung bình Công ty thu hồi được nợ từ khách hàng.
kỳ thu tiền bình quân = phải thu/(Doanh thu/360)
Năm 2004: 24 ngày
Năm 2005: 32ngày
Năm 2006: 32 ngày
Khoản phải thu tăng nhanh, cộng thêm kỳ thu tiền bình quân dài và có xu hướng tăng là vấn đề rất đáng lo ngại. Số vốn của Công ty đang ngày càng bị chiếm dụng nhiều và trong thời gian dài hơn. Có thể thấy trong môi trường cạnh tranh khốc liệt như hiện nay, mỗi Doanh nghiệp cần có một phương thức phù hợp để thu hút khách hàng, cho khách hàng nợ với số tiền lớn hơn trong thời gian dài hơn có thể là một cách nhưng Công ty nên có những chính sách chiết khấu hấp dẫn để khách hàng nhanh chóng thanh toán tiền hàng cho Công ty. Việc bị chiếm dụng một lượng vốn lớn trong thời gian dài là vấn đề rất đáng lo ngại, nó sẽ làm giảm hiệu quả sử dụng vốn đầu tư vào tài sản lưu động của Công ty. Các nhà quản lý cần nghiền cứu kỹ thị trường và có những việc làm kịp thời để hạn chế tình trạng này.
Về chỉ tiêu vốn bằng tiền, có thể thấy lượng vốn này chiếm tỷ trọng không lớn. Tuy nhiên điều này không có gì đáng lo ngại vì như những phân tích ở trên thì tỷ số thanh toán của Công ty cổ phần thương mại dược phẩm Quốc tế ở mức an toàn. Điều này là rất tốt, nó cho thấy Công ty đã xác định được lượng tiền mặt tối ưu để tiến hành hoạt động kinh doanh của mình.
Qua những phân tích ở trên có thể thấy lượng vốn đầu tư vào tài sản lưu động của Công ty cổ phần thương mại dược phẩm Quốc tế tăng liên tục qua ba năm nhưng hiệu quả sừ dụng lượng vốn này thì chưa thật tối ưu. Nguyên nhân khách quan đối với một đơn vị hoạt động trong lĩnh vực dược phẩm là Công ty phải ứng trước tiền cho đơn vị sản xuất khi đặt hàng nhưng khi bán hàng cho khách Công ty lại không thể thu tiền ngay. Đặc thù này của lĩnh vực dược phẩm đã gây ra những hạn chế nhất định đến hoạt động của các Doanh nghiệp. Tuy nhiên hiệu quả sử dụng vốn đầu tư vào tài sản lưu động còn phụ thuộc rất nhiều vào công tác quản lý vốn của các nhà lãnh đạo Công ty. Có thể nói công tác quản lý vốn đầu tư vào tài sản lưu động của Công ty cổ phần thương mại dược phẩm Quốc tế chưa thật tốt. Vốn đầu tư vào tài sản lưu động tăng lên về lượng nhưng hiệu quả sử dụng lại không tương xứng với lượng vốn tăng lên đó. Các nhà lãnh đạo Công ty cần có những biện pháp cụ thể, phù hợp với tình hình hiện tại của nền kinh tế trong nước để có những tăng hiệu quả sử dụng vốn đầu tư vào tài sản lưu động của đơn vị mình.
Kết luận: có thể nói hiệu quả sử dụng vốn đầu tư vào tài sản lưu động của Công ty cổ phần dược phẩm Quốc tế ở mức chưa cao. Vốn đầu tư vào tài sản lưu động của Công ty hiện chưa được sử dụng một cách hiệu quả, Công ty bị các đơn vị khác chiếm dụng vốn trong thời gian dài và với số lượng lớn. Vốn đầu tư vào tài sản lưu động tăng liên tục qua các năm nhưng hiệu quả sử dụng không tăng tương ứng dẫn đến tình trạng lãng phí vốn. Công ty làm ăn có lãi nhưng để tồn tại và phát triển được trong giai đoạn hiện nay Công ty cần có những biện pháp tích cực để nâng cao hiệu quả hoạt động của mình, và một việc làm quan trọng là nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư vào tài sản lưu động.
CHƯƠNG 3
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN ĐẦU TƯ VÀO TÀI SẢN LƯU ĐỘNG CỦA CONG TY CỔ PHẦN THƯƠNG MẠI DƯỢC PHẨM QUỐC TẾ
3.1 Định hướng hoạt động của Công ty cổ phần thương mại dược phẩm Quốc tế
Nền kinh tế trong nước đang có những bước hội nhập mạnh mẽ với nền kinh tế các nước trong khu vực và trên thế giới và theo đó sự cạnh tranh của thị trường càng ngày càng gay gắt hơn. Sự canh tranh này từ cả trong nước và nước ngoài. Các Doanh nghiệp dược phẩm trong nước với xu thế phát triển khưâu sản xuất và đồng thời đẩy mạnh tiêu thụ trực tiếp. Điều này giúp cho các Doanh nghiệp có lợi thế rất lớn trong chính sách giá và chính sách khuyến mãi. Bên cạnh đó hàng hoá từ nước ngoài tràn vào thị trường trong nước ngày càng nhiều, gây ra không ít khó khăn cho các Doanh nghiệp trong nước. Hàng ngoại nhập với chất lượng cao, giá cả cạnh tranh, những chính sách bán hàng, khuyến mãi hấp dẫn người tiêu dùng, đội ngũ nhân viên với trình độ cao, được đào tạo bài bản và thường xuyên được bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ. Khách hàng của Doanh nghiệp yêu cầu về chất lượng của sản phẩm cũng như các dịch vụ đi kèm ngày càng cao. Tất cả đòi hỏi Doanh nghiệp phải không ngừng cố gắng nâng cao chất lượng sản phẩm đồng thời có những chính sách bán hàng, hậu bán hàng, khuyến mãi hấp dẫn khách hàng.
Về thị trường tiêu thụ, có thể thấy Việt Nam là một nước đang phát triển do đó về cơ bản mô hình chung về tiêu thụ thuốc vẫn là: các loại thuốc thông thường như thuốc chống nhiễm khuẩn, giảm đau, giảm đau đã và vẫn chiếm tỷ trọng cao về giá trị tổng thuốc tiêu thụ. Các loại thuốc về tim mạch, tâm thần, các loại thực phẩm chức năng cũng được tiêu thụ ngày càng nhiều. Một số bệnh hiểm nghèo như AIDS, ung thư đang có xu hướng gia tăng tuy nhiên giá của những loại thuốc này còn khá cao so với thu nhập trung bình của người Việt Nam. Thị trường tiêu thụ thuốc ở Việt Nam có thể nói là rất tiềm năng, theo ước tính tổng lượng tiêu thụ thuốc của cả nước trong năm 2010 là 1800 đến 2000 USD, mức tiêu thụ trung bình trên đầu người là 18 – 20 USD. Công ty cần có những chính sách, chiến lược đúng đắn để có thể khai thác hết tiềm năng của thị trường trong nước, tạo cơ sở cho sự phát triển của mình.
Để khai thác thị trường một cách hiệu quả, phát huy được những thành tựu đã đạt được đồng thời ngày càng khẳng định vị trí của Công ty trên thị trường dược phẩm trong nước Công ty cố phần thương mại dược phẩm Quốc tế đã đề ra những chiến lược và kế hoạch cụ thể trong thời gian tới.
Trước hết về mặt hàng kinh doanh, Công ty có kế hoạch mở rộng mặt hàng kinh doanh trong thời gian tới. Những thuốc chuyên khoa, thực phẩm chức năng, các loại thuốc kháng sinh mới với chất lượng vượt trội, thuốc chữa ung thư, thực phẩm dưỡng sinh ... Công ty cũng dự kiến mở rộng mảng kinh doanh các loại máy móc và thiết bị y tế. Những máy móc dùng trong nghành y như máy siêu âm, chụp cắt lớp, mổ nội soi phải nhập ngoại, Công ty đang nỗ lực hết sức để cung cấp cho thị trường trong nước những thiết bị chất lượng góp phần bảo vệ sức khoẻ cho cộng đồng.
Về nguồn nhân lực: Công ty đã và đang tuyển chọn những dược sĩ, trình dược viên có trình độ, đẩy mạnh công tác huấn luyện nhằm nâng cao trình độ nghiệp vụ của cán bộ, nhân viên trong Công ty. Yếu tố con người là quan trọng đối với sự phát triển lâu dài của Công ty, do đó Công ty cũng đã có những chính sách thu hút nhân tài, có chính sách lương hợp lý.
Về thị trường tiêu thụ, Công ty tiếp tục khẳng định vị trí của mình trên những thị trường đã có và tiếp tục mở rộng thị trường ra các thị trường tiềm năng trong nước.
Công ty phát triển theo định hướng bền vững, không ngừng cải thiện đời sống cán bộ nhân viên, kết hợp phát triển kinh tế xã hội, con người và môi trường.
3.2 Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư vào tài sản lưu động của Công ty cổ phần thương mại dược phẩm Quốc tế.
Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư vào tài sản lưu động là việc làm nhằm mục đích đạt được kết quả kinh doanh cao nhất từ việc sử dụng vốn đầu tư vào tài sản lưu động có hạn. Để làm được điều này các nhà quản lý phải có những giải pháp và việc làm cụ thể, chi tiết đối với hoạt động kinh doanh của đơn vị mình. Phải đi vào chi tiết từng khoản mục trong mục vốn đầu tư vào tài sản lưu động, vận dụng ưu, nhược điểm của từng khoản mục vào hoạt động kinh doanh cụ thể một cách tối ưu.
Cụ thể đối với từng khoản mục như sau:
3.2.1 Quản lý tiền mặt và các chứng khoán thanh khoản cao
a Quản lý tiền mặt
Tiền mặt là tiền tồn quỹ, tiền trên tài khoản thanh toán của Doanh nghiệp trong ngân hàng. Tiền mặt bản thân nó là loại tài sản không sinh lãi, do vậy trong quản lý tiền mặt thì việc tối thiểu hoá lượng tiền mặt phải giữ là mục tiêu quan trọng nhất. Tuy nhiên việc giữ tiền mặt trong kinh doanh cũng là vấn đề cần thiết. Do những nguyên nhân sau:
Doanh nghiệp có những giao dịch hàng ngày cần tới tiền mặt như thanh toán cho khách hàng hay thu tiền từ khách hàng.
Bù đắp cho ngân hàng về việc ngân hàng cung cấp các dịch vụ cho Doanh nghiệp.
Đáp ứng nhu cầu về dự phòng trong trường hợp biến động không lường trước được của các luồng tiền vào và ra.
Hưởng lợi thế trong thương lượng mua hàng.
Trong hoạt động kinh doanh của Doanh nghiệp, việc gửi tiền mặt là cần thiết nhưng việc giữ đủ tiền mặt phục vụ cho kinh doanh có vai trò hết sức quan trọng. Khi mua các hàng hoá, dịch vụ nếu có đủ tiền mặt công ty có thể được hưởng lợi thế chiết khấu. Giữ đủ tiền mặt, duy trì tốt các chỉ số thanh toán ngắn hạn giúp Doanh nghiệp có thể mua hàng với những điều kiện thuận lợi và được hưởng mức tín dụng rộng rãi. Giữ đủ tiền mặt giúp Doanh nghiệp tận dụng được những cơ hội thuận lợi trong kinh doanh do chủ động trong các hoạt động thanh toán chi trả. Khi có đủ tiền mặt, giúp Doanh nghiệp đáp ứng được nhu cầu trong trường hợp khẩn cấp như đình công, hoả hoạn, chiến dịch maketing của đối thủ cạnh tranh, vượt qua khó khăn do yếu tố thời vụ và chu kỳ kinh doanh.
Quản lý tiền mặt đề cập đến việc quản lý tiền giấy và tiền gửi ngân hàng. Sự quản lý này liên quan chặt chẽ đến việc quản lý các loại tài sản gắn với tiền mặt như các loại chứng khoán có khả năng thanh khoản cao.
Các loại chứng khoán gần như tiền mặt giữ vai trò như một bước đệm cho tiền mặt. Vì nếu số dư tiền mặt nhiều Doanh nghiệp có thể đầu tư vào chứng khoán có khả năng thanh khoản cao, nhưng khi cần thiết cũng có thể chuyển đổi chúng sang tiền mặt một cách dễ dàng và ít tốn kém chi phí.
Trong kinh doanh, Doanh nghiệp cần một lượng tiền mặt và phải dùng nó để trả cho các hoá đơn một cách đều đặn. Khi lượng tiền này hết, Doanh nghiệp phải bán các chứng khoán thanh khoản cao để lại có lượng tiền như ban đầu.
Trong thực tiễn hoạt động kinh doanh của các Doanh nghiệp rất hiếm khi mà lượng tiền vào, ra của Doanh nghiệp lại đều đặn và dự kiến trước được, từ đó tác động đến mức dự trữ cũng không thể đều đặn như việc tính toán. Bằng việc nghiên cứu và phân tích thực tiễn, các nhà kinh tế học đã đưa ra mức dự trữ tiền mặt dự kiến dao động trong một khoảng tức là lượng tiền mặt dữ trữ sẽ biến thiên từ cận thấp nhất đến giới hạn cao nhất. Nếu lượng tiền mặt ở dưới mức thấp nhất thì Doanh nghiệp phải bán chứng khoán để có lượng tiền mặt ở mức dự kiến, ngược lại tại giới hạn trên Doanh nghiệp sử dụng số tiền vượt quá mức giới hạn để mua chứng khoán để đưa lượng tiền mặt về mức dự kiến.
Công ty cổ phần thương mại dược phẩm Quốc tế cần xác định cụ thể mức dự trữ tiền mặt hợp lý đối với đơn vị mình. Một lượng tiền mặt hợp lý có tác dụng rất lớn đối với khả năng thanh toán của Công ty và sẽ giúp Công ty có được
b Quản lý các khoản phải thu
Trong nền kinh tế thị trường, mua bán chịu là một việc không thể thiếu. Tín dụng thương mại có thể làm cho Doanh nghiệp trở nên giàu có và đứng vững trên thị trường nhưng cũng có thể đem đến những rủi ro cho hoạt động kinh doanh của Doanh nghiệp. Tín dụng thương mại tác động đến doanh thu bán hàng. Do được trả tiền chậm nên sẽ có nhiều người mua hàng hoá của Doanh nghiệp hơn, từ đó làm cho doanh thu tăng. Khi cấp tín dụng thương mại cho khách hàng thì tất nhiên Doanh nghiệp bị chậm trễ trong việc trả tiền. Tín dụng thương mại làm giảm chi phí tồn kho của hàng hoá. Tín dụng thương mại làm cho tài sản cố định được sử dụng có hiệu quả hơn và hạn chế phần nào hao mòn vô hình. Bên cạnh đó việc cấp tín dụng thương mại cho khách hàng có thể làm tăng chi phí hoạt động của Doanh nghiệp, tín dụng thương mại làm tăng chi phí đòi nợ, chi phí trả cho nguồn tài trợ để bù đắp sự thiếu hụt ngân quỹ. Thời hạn cấp tín dụng càng dài thì chi phí ròng càng lớn. Xác suất không trả tiền của người mua làm cho lợi nhuận bị giảm, nếu thời hạn cấp tín dụng càng dài thì rủi ro càng lớn. Những tác động này buộc các nhà quản lý phải so sánh giữa thu nhập và chi phí tăng thêm, từ đó để quyết định có nên cấp tín dụng thương mại cho khách hàng hay không. Để thực hiện được việc cấp tín dụng cho khách hàng thì vấn đề quan trọng của các nhà quản lý là phải phân tích khả năng tín dụng của khách hàng. Doanh nghiệp cần xây dựng một tiêu chuẩn tín dụng hợp lý sau đó là việc xác minh phẩm chất tín dụng của khách hàng tiềm năng. Nếu khả năng tín dụng của khách hàng phù hợp với tiêu chuẩn tối thiểu mà Doanh nghiệp đưa ra thì thì tín dụng thương mại có thể được cấp. Việc thiết lập các tiêu chuẩn tín dụng phải của các nhà quản trị tài chính phải đạt tới sự cân bằng thích hợp.
Thuốc là một mặt hàng đặc thù, có chu kỳ tiêu thụ khác so với các hàng hoá tiêu dùng thông thường. Khi cung cấp thuốc cho khách hàng Công ty thường không thể thu được tiền mặt ngay. Thời gian thu hồi nợ thường là ba tháng. Có thể nói việc chậm thu hồi nợ từ khách hàng đã gây cho công ty không ít khó khăn. Công ty cần có chính sách tín dụng phù hợp hơn để hạn chế việc bị chiếm dụng vốn, Cụ thể là chính sách chiết khấu, một chính sách chiết khấu hấp dẫn có thể đẩy nhanh tốc độ thu hồi công nợ của Công ty. Công ty cần xác định cụ thể mức dự trữ tiền mặt hợp lý đối với đơn vị mình để tránh tình trạng lãng phí vốn.
3.2.2 Quản lý dự trữ, tồn kho
Trong quá trình luân chuyển vốn lưu động phục vụ cho sản xuất kinh doanh thì việc tồn tại vật tư hàng hoá dự trữ, tồn kho là những bước đệm cần thiết cho quá trình hoạt động bình thường của Doanh nghiệp. Đối với một Doanh nghiệp thương mại như Công ty cổ phần thương mại dược phẩm Quốc tế thì dự trữ tồn kho là hàng hoá dự trữ để bán. Doanh nghiệp phải xác định được điểm đặt hàng mới và lượng dự trữ an toàn.
Về mặt lý thuyết, có thể giả định khi nào lượng hàng kỳ trước hết mới nhập kho lượng hàng mới. Trog thực tiễn hoạt động không một Doanh nghiệp nào để đến khi nguyên liệu hết rồi mới đặt hàng. Nhưng nếu đặt hàng quá sớm thì sẽ làm tăng lượng nguyên liệu tồn kho, điều này tương ứng với việc các khoản chi phí về hàng tồn kho của Doanh nghiệp cũng tăng lên. Do vậy Doanh nghiệp cần xác định thời điểm đặt hàng mới.
Thời điểm đặt hàng mới được xác định bằng số lượng nguyên liệu sử dụng mỗi ngày nhân (x) với độ dài thời gian giao hàng.
Lượng dự trữ an toàn là lượng dự trữ thêm vào lượng dự trữ tại thời điểm đặt hàng.
Tài sản lưu động là những tài sản thường xuyên biến động trong mỗi chu kỳ kinh doanh của Doanh nghiệp. Để đạt được hiệu quả sử dụng vốn đầu tư vào tài sản lưu động một cách hiệu quả nhất Doanh nghiệp phải phân tích kỹ càng những khoản mục cụ thể đối với đơn vị mình trong từng giai đoạn cụ thể của chu kỳ kinh doanh.
3.2.3 Đào tạo , bồi dưỡng cán bộ- hoàn thiện bộ máy quản lý
Đào tạo bồi dưỡng cán bộ là vấn đề quan trọng hàng đầu mà mỗi Doanh nghiệp luôn quan tâm để phát triển đơn vị mình về lâu dài. Để làm tốt được công tác này Doanh nghiệp cần tuân thủ những nguyên tắc sau:
- Xây dựng triết lý kinh doanh và một nền văn hoá công ty hướng vào con người và những mục tiêu phát triển lâu dài.
- Mục tiêu hướng vào khách hàng bằng những biện pháp cụ thể là đưa tới tay khách hàng những sản phẩm tốt nhất với giá cả hợp lý nhất.
- Không ngừng nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ trong Công ty, tuyển lựa những trình dược viên có trình độ, năng nổ hoạt động để hiệu quả của Công ty tại các nhà thuốc.
3.2.4 Nghiên cứu, dự báo nhu cầu thị trường
Thị trường là nơi hàng hoá của Công ty được tiêu thụ. Thị trường không những tác động đến đầu ra, đầu vào của Công ty mà còn quyết định đến quy mô và cách thức kinh doanh của Công ty.
Nghiên cứu thị trường Công ty sẽ biết được trên thị trường nào khả năng bán hàng của Công ty là triển vọng nhất. Công ty sẽ xác định được hướng hoạt động trong thời gian tới.
Nhu cầu của thị trường ảnh hưởng lớn đến lượng hàng hoá dự trữ điều chỉnh lại việc kinh doanh cho phù hợp.
Trong môi trường cạnh tranh gay gắt như hiện nay, mỗi Doanh nghiệp phải luôn đổi mới để thích ứng kịp thời với những thay đổi của nền kinh tế, đáp ứng kịp thời nhu cầu của thị trường. Khai thác thị trường, tạo lập được thế mạnh của Công ty trên thị trường, phát huy triệt để những thế mạnh của Công ty trong lĩnh vực hoạt động của mình là điều kiện quan trọng để Công ty tồn tại và phát triển.
3.2.5 Quảng cáo giới thiệu sản phẩm
Đây là một hoạt động quan trọng để Công ty giới thiệu sản phẩm của mình đến đông đảo người tiêu dùng. Hoạt động này quyết định lớn đến khâu tiêu thụ sản phẩm của Công ty. Công ty cần đa dạng hóa hoạt động quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng, đa dạng hoá phương thức quảng cáo như: quảng cáo trên đài, báo, tờ rơi, thông qua các hoạt động từ thiện
3.3 Kiến nghị
Các thủ tục hành chính: hiện nay Đảng và Nhà nước đã có nhiều biện pháp giảm thiểu các thủ tục hành chính để hoạt động của các Doanh nghiệp trên thị trường được nhanh chóng hơn. Bên cạnh đó vẫn còn một số khâu trong số các thủ tục hành chính còn nhiều bất cập. Các thủ tục hành chính đơn giản, thông thoáng là điều kiện thuận lợi để các Doanh nghiệp hoạt động kinh doanh, tận dụng được cơ hội kinh doanh và làm ăn có lãi.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Quản trị doanh nghiệp trong cơ chế thị trường Trường đại học KTQD
Giáo trình Tài chính doanh nghiệp Trường ĐH KTQD
Tạp chí Dược học
Báo thương mại
Phân tích hoạt động kinh doanh Trường ĐH KTQD
Giáo trình Kinh tế học phát triển Trường ĐH KTQD
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 7863.doc