Đề tài Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại Công ty lắp máy và thí nghiệm cơ điện

Về thị trường: Công ty tiếp tục mở rộng thị trường, tìm kiếm và tham gia đấu thầu các công trình và hạng mục công trình của mọi thành phần đầu tư, tập trung khai thác những thị trường hiện tại như Hà Nội, Thanh hoá, Quảng Ninh, Lạng Sơn, Hải Phòng. tích cực tiếp cận những thị trường được coi là tiềm năng. ã Về sản xuất: Cơ cấu sản xuất xây lắp dự kiến chiếm 70% giá trị sản xuất kinh doanh, trong đó xây dựng các công trình công nghiệp và dân dụng chiếm 80% giá trị xây lắp, xây dựng các công trình giao thông, cấp thoát nước, trạm biến áp chiếm 20% giá trị xây lắp. Thương mại- Dịch vụ chiếm 30% giá trị sản xuất kinh doanh, trong đó chủ yếu là cung cấp dịch vụ ã Về nguồn nhân lực: Công ty tiến hành đào tạo, nâng cao trình độ nghiệp vụ cho cán bộ công nhân viên để đáp ứng đòi hỏi khắc khe của thị trường, không ngừng nâng cao chất lượng công trình. Thêm vào đó, Công ty chủ trương trẻ hoá đội ngũ cán bộ, kết hợp sự năng nổ, nhiệt tình sáng tạo của tuổi trẻ với kinh nghiệm của các thế hệ đi trước nhằm tạo ra động lực mới cho sự phát triển bền vững của Công ty. ã Về quản lý các nguồn lực tài chính: Với phương châm đáp ứng đủ cho nhu cầu, tự chủ cao trong quản lý, tiết kiệm trong sử dụng, góp phần sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực của Công ty.

doc73 trang | Chia sẻ: haianh_nguyen | Lượt xem: 1279 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại Công ty lắp máy và thí nghiệm cơ điện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
việc tận dụng vốn của đối tác là một trong các chính sách trong công tác quản lý vốn của mình. Để đánh giá khả năng chiếm dụng vốn của Công ty chúng ta xem xét tỷ lệ các khoản phải trả trong tổng vốn lưu động của Công ty qua các năm. Khả năng tận dụng vốn đối tác của Công ty trong những năm qua được mô tả trong bảng dưới đây: Bảng 16: Nguồn hình thành vốn lưu động của Công ty Đơn vị: triệu đồng Năm 2000 2001 2002 Chỉ tiêu Số tiền Tỷ trọng(%) Số tiền Tỷ trọng(%) Số tiền Tỷ trọng(%) Tổng vốn lưu động 9251.302 100 9439.772 100 10362.402 100 Nợ phải trả 6660.9 72 6986.472 74 7026.402 67.8 Nguồn vốn chủ sở hữu 2590.4 28 2454.3 26 3336.7 32.2 Nguồn: Báo cáo tài chính các năm từ 2000 đến 2002 Qua các số liệu bảng 16 chúng ta đã thấy: Trong những năm qua, trong cơ cấu nguồn hình thành vốn lưu động của Công ty thì lượng vốn lưu động dưới dạng các khoản phải trả luôn duy trì ở một tỷ lệ rất cao trên dưới 70%. Điều này chứng tỏ Công ty đã huy động và sử dụng một lượng khá lớn vốn vay ngắn hạn của chủ nợ và tận dụng rất nhiều vốn của đối tác. Vốn huy động chủ yếu là vốn vay ngắn hạn, nhờ vậy mà quá trình sản xuất kinh doanh được diễn ra liên tục. Cũng chính nhờ việc tận dụng tốt lượng vốn của đối tác mà Công ty đã không ngừng mở rộng được quy mô vốn lưu động nói riêng vốn kinh doanh nói chung, nhờ đó mở rộng quy mô hoạt động sản xuất kinh doanh. Quy mô vốn kinh doanh của Công ty trong những năm qua tuy tăng không nhiều nhưng vẫn đảm bảo đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh hiện tại. Trong khi đó, quy mô vốn lưu động của Công ty tăng nhanh, năm 2001 so với năm 2000 lượng tăng tuyệt đối là 188,420 triệu đồng tương ứng với tỷ lệ 2,037%, năm 2002 so với năm 2001 lượng tăng tuyệt đối là 922,669 triệu đồng tương ứng với tốc độ tăng là 9,74%. Tăng nhanh khả năng thanh toán Khả năng thanh toán của Công ty không ngừng được cải thiện, thể hiện ở chỗ: tất cả các hệ số phản ánh khả năng thanh toán của Công ty không ngừng tăng lên từ năm 2000 đến năm 2002. (Hệ số khả năng thanh toán chung các năm đều lớn hơn 1 và có xu hướng tăng, hệ số thanh toán chung các năm 2000, năm 2001, năm 2002 lần lượt là 1,357; 1,362 và 1,449. Hệ số khả năng thanh toán nhanh đều ở mức cao, hệ số khả năng thanh toán nhanh các năm 2000, 2001, 2002 lần lượt là 1,111; 1,087 và 1,239. Hệ số khả năng thanh toán tức thời các năm 2000, 2001, 2002 lần lượt là 0,003; 0,023 và 0,027). Kết quả này cũng có nghĩa là các khoản nợ của doanh nghiệp hoàn toàn có thể được thanh toán bằng tài sản của doanh nghiệp. Nó cho thấy nếu tình trạng xấu xảy công ty không phải sử dụng tài sản cố định để thanh toán nợ. Đối với các khoản nợ khẩn cấp đòi hỏi phải thanh toán ngay thì công ty vẫn có khả năng đảm bảo. Hạn chế duy nhất là khả năng thanh toán bằng tiền mặt hơi thấp. Có được những thành quả trên là nhờ vào sự năng động sáng tạo của ban lãnh đạo Công ty cùng sự cố gắng nỗ lực của toàn thể cán bộ công nhân viên trong Công ty. Đặc biệt là các đơn vị trực tiếp quản lý các nguồn vốn, tài sản của Công ty như phòng tài chính kế toán, phòng kinh tế kỹ thuật, phòng vật tư... đã thực hiện tốt vai trò quản lý của mình và cung cấp thông tin kịp thời cho ban lãnh đạo Công ty. Những yếu kém chủ yếu và nguyên nhân. Các yếu kém Bên cạnh những kết quả đạt được, trong công tác quản lý và sử dụng vốn lưu động tại Công ty còn nhiều bất cập cần khắc phục sớm. Sau đây là một số bất cập điển hình mà em mạnh dạn nêu ra để từ đó chúng ta cùng tìm hướng giải quyết. Mất cân đối trong cơ cấu vốn lưu động Kết quả phân tích kết cấu vốn lưu động của Công ty cho thấy: vốn lưu động của Công ty bao gồm bốn thành phần chính là tiền mặt, các khoản phải thu, vật tư hàng hoá tồn kho và một số tài sản lưu động khác tồn tại dưới dạng tạm ứng, chi phí chờ kết chuyển. Tuy nhiên, trong cơ cấu này, vốn lưu động dưới dạng các các khoản phải thu và vật tư hàng hoá tồn kho chiếm tỷ trọng quá lớn. Trong các năm từ 2000 đến 2002, tỷ trọng các khoản phải thu luôn chiếm một tỷ trọng trên dưới 75% vốn lưu động. Chính điều này dẫn đến, mặc dù Công ty chủ trương thực hiện chính sách chiếm dụng vốn của đối tác nhưng ngược lại chính Công ty cũng bị đối tác chiếm dụng một lượng lớn vốn lưu động của mình. Trong khi đó, Công ty lại duy trì một lượng tiền mặt quá ít, tỷ lệ tiền mặt chỉ chiếm không tới 2% trong tổng vốn lưu động. Điều này làm cho khả năng thanh toán tức thời của Công ty rất hạn chế. Đặc biệt là mỗi khi có nhu cầu tiền mặt phát sinh thì Công ty không còn cách nào khác là phải đi vay với chi phí cao. Chính những bất cập trong cơ cấu vốn lưu động làm cho hiệu quả vốn lưu động chưa đạt được như mong muốn. Tình trạng tồn đọng vốn còn kéo dài. Tồn đọng vốn là điều không thể tránh khỏi với bất kỳ doanh nghiệp nào hoạt động trong cơ chế hiện nay, đặc biệt lại càng không thể tránh khỏi với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây dựng. Bởi vì, đặc điểm nổi bật của các sản phẩm xây dựng là thời gian thi công kéo dài, có giá trị tài tài sản lưu động luân chuyển chiếm tỷ trọng lớn... Do đó, ứ đọng vốn là điều đương nhiên. Biểu hiện của tình trạng tồn đọng vốn là lượng vật tư hàng hoá tồn kho chiếm một tỷ trọng rất lớn trong tổng vốn lưu động. Nhưng ở Công ty tình trạng tồn đọng vốn kéo dài và thời gian ứ đọng dài. Các số liệu báo cáo tài chính của Công ty cho thấy: suốt từ năm 1997 đến năm 2000 giá trị vật tư hàng hoá tồn kho luôn chiếm tỷ trọng lớn trên dưới 20% vốn lưu động của Công ty. Các năm từ 2000 đến 2002, tỷ trọng các khoản vật tư hàng hoá tồn kho có giảm chút ít nhưng vẫn cao (trên dưới 18% vốn lưu động). Điều này có nghĩa là một lượng vốn lưu động của Công ty đã bị ứ đọng, trong những năm qua, mặc dù đã có rất nhiều cố gắng tuy nhiên, Công ty vẫn chưa khắc phục được tình trạng này. Vòng quay vốn chưa cao. Vòng quay vốn lưu động của Công ty thấp và có chiều hướng giảm, năm Công ty có vòng quay vốn lưu động cao nhất cũng chỉ 1,15 vòng một năm. Nguyên nhân dẫn đến vòng quay vốn lưu động thấp chủ yếu là do vòng quay các khoản phải thu thấp. Bởi vì, như đã phân tích ở trên, trong kết cấu vốn lưu động của Công ty thì vốn lưu động dưới dạng các khoản phải thu chiếm tỷ trọng rất lớn ( trên dưới 70%). Vì vậy, vòng quay các khoản phải thu đã phần nào phản ánh vòng quay vốn lưu động của Công ty. Trong những năm qua, vòng quay các khoản phải thu rất thấp, và có xu hướng giảm dần. Năm Công ty có vòng quay khoản phải thu lớn nhất (1,54 vòng một năm) cũng chính là năm có vòng quay vốn lưu động lớn nhất (1,15 vòng). Vòng quay vốn lưu động thấp và giảm cũng đồng nghĩa với việc độ dài một vòng quay vốn lưu động tăng lên. Trong ba năm, độ dài một vòng luân chuyển vốn lưu động ngắn nhất cũng lên tới 313 ngày (10,4 tháng). Trong khi đó, Công ty sử dụng một lượng lớn vốn lưu động là vốn đi vay. Vì vậy, chi phí vốn cho các khoản vay này rất lớn, nên ảnh hưởng nhiều đến hiệu quả sản xuất kinh doanh chung của công ty. Sức sinh lời vốn lưu động thấp Từ kết quả phân tích sức sinh lời của vốn lưu động chúng ta thấy, hệ số sinh lời vốn lưu động của Công ty đã thấp mà lại có xu hướng giảm dần trong các năm từ 2000 đến 2002. Tình hình khả quan nhất là vào năm 2000, năm mà Công ty có hệ số sinh lời cao nhất (0,103 một năm), trong hai năm còn lại hệ số này giảm mạnh. Một chỉ tiêu quan trọng phản ánh sức sinh lời của vốn lưu động là mức đảm nhiệm của vốn lưu động cũng không lấy gì làm khả quan. Trong khi hệ số sinh lời giảm thì khả năng đảm nhiệm của vốn lưu động lại có xu hướng tăng cao. Mặc dù hệ số đảm nhiệm của vốn lưu động của Công ty không phải là cao (cao nhất vào năm 2002 chỉ là 1,191 lần ) nhưng trong giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2002 hệ số này lại tăng đáng kể ( gần 40%). Tóm lại, cả hai chỉ tiêu phản ánh sức sinh lời của vốn lưu động của Công ty đều cho thấy: sức sinh lời vốn lưu động của Công ty thấp và có những dấu hiệu không tốt. Do đó, Công ty cần nghiên cứu hơn nữa về công tác quản lý sử dụng vốn lưu động của mình để có thể nâng cao được sức sinh lời của vốn lưu động nói riêng và hiệu quả vốn lưu động nói chung. Các nguyên nhân . Những tồn tại trên đây bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, có cả những nguyên nhân xuất phát từ chính những sai sót trong công tác quản lý vốn lưu động của Công ty, cũng có cả những nguyên nhân xuất phát từ những yếu tố bên ngoài môi trường, không trong tầm kiểm soát của Công ty. Tuy nhiên, qua một thời gian xem xét và tìm hiểu, theo em có thể thấy rõ một số nguyên nhân chủ yếu sau đây: Công tác quản lý tiền mặt chưa được quan tâm đúng mức, chưa đáp ứng được nhu cầu. Qua phân tích cơ cấu hình thành vốn lưu động và phân tích tình hình quản lý vốn lưu động bằng tiền chúng ta thấy, lượng tiền mặt của Công ty là quá thấp. Trung bình hàng năm lượng tiền mặt trong Công ty không đến 2% trong tổng vốn lưu động. Tỷ lệ này mặc dù một mặt phản ánh hiệu quả của một đồng vốn lưu động bằng tiền mặt là rất lớn, nhưng mặt khác cũng lại cho chúng ta thấy lượng tiền mặt trong Công ty là quá thấp, nhiều khi không đủ để đáp ứng nhu cầu. Sở dĩ có tình trạng này là do hiện nay Công ty vẫn chưa thực hiện việc lập kế hoạch ngân sách tiền mặt một cách cụ thể. Chính vì vậy, Công ty chưa thật chủ động với các khoản tiền mặt, mỗi khi có nhu cầu tiền mặt phát sinh thì Công ty không còn cách nào khác là phải đi vay với chi phí cao. Thực tế này sẽ dẫn tới một hậu quả là khả năng thanh toán bằng tiền là quá thấp, chính nguyên nhân này đã góp phần làm giảm hiệu quả sử dụng vốn lưu động nói riêng và hiệu quả vốn nói chung. Chưa có biện pháp hữu hiệu để giảm các khoản phải thu, hạn chế vốn bị chiếm dụng. Vốn lưu động dưới dạng các khoản phải thu của Công ty chiếm tỷ trọng quá lớn (trên dưới 70% vốn lưu động), các khoản phải thu cao và chủ yếu là các khoản phải thu của khách hàng. Điều này chứng tỏ vốn của Công ty bị chiếm dụng rất nhiều. Mặc dù đã nhận thức được thực tế này nhưng trong thời gian vừa qua, Công ty vẫn chưa thực sự có biện pháp để giảm các khoản phải thu. Tất nhiên, Công ty là một doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây dựng cơ bản có thời gian thi công và thu hồi vốn dài hơn các loại hình doanh nghiệp sản xuất khác. Thêm vào đó, trong cơ chế thị trường việc mua bán chịu cũng là một trong những chính sách của các doanh nghiệp. Song, Công ty cũng cần phải cẩn thận với chính sách này, bởi đã có rất nhiều doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản cũng chỉ vì bán chịu mà không biết khống chế số nợ. Công tác quản lý dự trữ chưa được tốt Mặc dù lượng vật tư hàng hoá tồn kho của Công ty có giảm trong những năm gần đây nhưng nhìn chung vẫn vẫn chiếm một tỷ trọng cao trong cơ cấu vốn lưu động. Tỷ trọng tồn kho cao đồng nghĩa với việc một lượng lớn vốn lưu động của Công ty bị ứ đọng và tất nhiên sẽ làm giảm hiệu quả sử dụng hàng tồn kho nói riêng và hiệu quả vốn lưu động nói chung. Phần lớn trong tồn kho dự trữ là nguyên vật liệu tồn kho, chi phí sản xuất kinh doanh dở dang và thành phẩm tồn kho. Nguyên vật liệu tồn kho nhiều một phần là do kế hoạch sản xuất sản phẩm không rõ ràng, công tác định mức không chính xác, phế liệu trong quá trình sản xuất nhiều và chính sách dự trữ vật liệu không linh hoạt làm cho Công ty luôn phải mua thừa nguyên vật liệu ra rất nhiều. Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang cao xuất phát từ sự mất cân đối giữa các khâu và trong nội bộ từng khâu của quá trình thực hiện kế hoạch tác nghiệp. Thành phẩm tồn kho cao xuất phát từ sự phối hợp kém hiệu quả giữa khâu sản xuất và khâu tiêu thụ sản phẩm. Trên đây là những nguyên nhân chủ quan, trực tiếp gây ra các tồn tại, yếu kém trong công tác quản lý vốn lưu động. Những nguyên nhân này đều xuất phát từ những sai lầm, thiếu sót trong công tác quản lý của Công ty. Bên cạnh những nguyên nhân chủ quan nêu ra trên đây thì hiệu quả vốn lưu động của Công ty còn chịu ảnh hưởng của một số nhân tố khách quan, gián tiếp gây ra những yếu kém trong công tác quản lý vốn lưu động của Công ty. Muốn tìm ra được giải pháp thiết thực để khắc phục một cách hiệu quả các tồn tại trên thì chúng ta phải xem xét một cách toàn diện tất cả các nguyên nhân này. Các nguyên nhân có thể kể đến là: Thị trường xây dựng thời gian qua chưa ổn định Thực tế trong một vài năm gần đây, trước xu thế hội nhập khu vực và quốc tế, xu thế toàn cầu hoá mạnh mẽ thì môi trường kinh doanh nói chung và môi trường kinh doanh trong ngành xây dựng nói riêng có rất nhiều biến động. Mức độ cạnh tranh ngày càng khốc liệt, cường độ cạnh tranh ngày càng gay gắt, nhu cầu của khách hàng ngày càng đa dạng, đòi hỏi của khách hàng ngày càng cao. Đây thực sự là một thử thách đối với các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp Nhà nước. Trong vòng vài năm gần đây, công việc sản xuất kinh doanh của Công ty gặp rất nhiều khó khăn từ chính những biến động này. Đặc biệt là vấn đề tìm kiếm thị trường, tìm kiếm công ăn việc làm trở nên khó khăn, mức độ cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng ngày càng gay gắt, khả năng thắng thầu bị hạn chế do có rất nhiều đối thủ cũng rơi vào tình trạng khó khăn nên họ bỏ giá thầu thấp nhằm tìm kiếm công ăn việc làm cho cán bộ công nhân viên mà bất chấp thua lỗ... Vấn đề đặt ra đối với Công ty hiện nay là phải nhanh chóng tìm ra phương cách để có thể khai thác được thế mạnh của mình, tận dụng điểm yếu của các đối thủ để có thể cạnh tranh được với đối thủ, thoả mãn được nhu cầu ngày càng đa dạng của khách hàng. Thiếu đồng bộ trong một số chính sách của Nhà nước. Những bất cập trong chính sách của Nhà nước cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến những yếu kém nêu trên. Trường hợp rất điển hình trong ngành xây dựng là việc thực hiện những quy định trong việc thu thuế và hoàn thuế VAT. Trong khi Nhà nước quy định khống chế thời gian quyết toán thuế là một năm thì lại không khống chế thời hạn thanh toán của các chủ thầu, chủ đầu tư. Vì vậy, nếu Công ty mua vào lượng vật tư hàng hoá lớn, giá trị thuế VAT được khấu trừ lớn nhưng việc xét duyệt hoàn thuế chậm sẽ gây ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả quản lý và sử dụng vốn lưu động. Thêm vào đó, sự thiếu đồng bộ trong hệ thống hoá đơn chứng từ VAT ở các đơn vị đã gây cho Công ty rất nhiều phiền toái, khó khăn trong quá trình xin hoàn thuế. Được biết mới đây Nhà nước đã đưa vào áp dụng hệ thống hoá đơn chứng từ thống nhất đối với tất cả các doanh nghiệp, hy vọng trong thời gian tới những bất cập này sẽ được khắc phục. Chương 3 một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại Công ty lắp máy và thí nghiệm cơ điện. Mục tiêu và định hướng phát triển của Công ty trong thời gian tới Mục tiêu Để theo kịp với đà phát triển chung của nền kinh tế, cũng như xu hướng phát triển của ngành xây dựng, Công ty đã xây dựng cho mình chiến lược kinh doanh trong thời gian tới với mục tiêu là nâng cao doanh thu, mở rộng thị trường, giảm bớt các khoản phải thu, phải trả nhằm nâng cao lợi nhuận của Công ty. Cụ thể trong giai đoạn 2001 – 2010 Công ty dự kiến phấn đấu mức doanh thu tăng trưởng bình quân hàng năm từ 10% - 12% so với năm trước, lợi nhuận tăng 8% – 10% mỗi năm. Năm 2003 là năm thứ 3 của giai đoạn 10 năm (2001 – 2010). Đây cũng là năm được đánh giá là đã có sự ổn định trở lại của thị trường xây dựng. Vì vậy, Công ty chủ trương thực hiện tốt các kế hoạch nhằm tạo đà cho việc thực hiện thành công kế hoạch 10 năm. Chỉ tiêu kế hoạch cụ thể của Công ty năm 2003 như sau: Doanh thu: Dự kiến doanh thu đạt 11 tỷ đồng Lợi nhuận: Dự kiến lợi nhuận đạt 600 triệu đồng Nộp ngân sách: Dự kiến nộp ngân sách 700 triệu đồng. Thu nhập bình quân đầu người: 1,3 triệu đồng/tháng. Trong các năm tiếp theo (2004 – 2010) Công ty tiếp tục khai thác triệt để các tiềm năng sẵn có của mình, tăng khả năng cạnh tranh, nâng cao hiệu quả kinh doanh, giải quyết đủ việc làm và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người lao động, tiếp tục thực hiện mục tiêu ổn định và phát triển bền vững. Định hướng Để đạt được các mục tiêu đã đề ra, định hướng phát triển của Công ty trong thời gian tới là: Về thị trường: Công ty tiếp tục mở rộng thị trường, tìm kiếm và tham gia đấu thầu các công trình và hạng mục công trình của mọi thành phần đầu tư, tập trung khai thác những thị trường hiện tại như Hà Nội, Thanh hoá, Quảng Ninh, Lạng Sơn, Hải Phòng... tích cực tiếp cận những thị trường được coi là tiềm năng. Về sản xuất: Cơ cấu sản xuất xây lắp dự kiến chiếm 70% giá trị sản xuất kinh doanh, trong đó xây dựng các công trình công nghiệp và dân dụng chiếm 80% giá trị xây lắp, xây dựng các công trình giao thông, cấp thoát nước, trạm biến áp chiếm 20% giá trị xây lắp. Thương mại- Dịch vụ chiếm 30% giá trị sản xuất kinh doanh, trong đó chủ yếu là cung cấp dịch vụ Về nguồn nhân lực: Công ty tiến hành đào tạo, nâng cao trình độ nghiệp vụ cho cán bộ công nhân viên để đáp ứng đòi hỏi khắc khe của thị trường, không ngừng nâng cao chất lượng công trình. Thêm vào đó, Công ty chủ trương trẻ hoá đội ngũ cán bộ, kết hợp sự năng nổ, nhiệt tình sáng tạo của tuổi trẻ với kinh nghiệm của các thế hệ đi trước nhằm tạo ra động lực mới cho sự phát triển bền vững của Công ty. Về quản lý các nguồn lực tài chính: Với phương châm đáp ứng đủ cho nhu cầu, tự chủ cao trong quản lý, tiết kiệm trong sử dụng, góp phần sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực của Công ty. Nghiên cứu các biện pháp thúc đẩy sản xuất kinh doanh, nhất là lĩnh vực kinh doanh nhà chung cư cao tầng, một lĩnh vực mới mẻ đầy hứa hẹn ở nước ta. Một số giải pháp Nâng cao chất lượng công tác lập kế hoạch sử dụng vốn lưu động. Việc thực hiện kế hoạch hóa vốn lưu động bao gồm hai nội dung chính là xác định nhu cầu và lựa chọn hình thức khai thác vốn lưu động. Xác định chính xác nhu cầu vốn lưu động cho hoạt động sản xuất kinh doanh Trước mỗi năm kế hoạch, các doanh nghiệp thường lập ra những chỉ tiêu kế hoạch để thực hiện. Các kế hoạch thường thấy ở các doanh nghiệp là: kế hoạch sản xuất kinh doanh, kế hoạch thị trường, kế hoạch tài chính kế toán, kế hoạch nhân sự, kế hoạch vật tư... Các kế hoạch trên đây là cơ sở để doanh nghiệp thực hiện các nhiệm vụ cụ thể trong năm, cũng là cơ sở để tiến hành đánh giá lại mức độ hoàn thành kế hoạch của mình. Vì vậy, các kế hoạch thường được lập rất cẩn thận, chi tiết dựa trên cơ sở các chỉ tiêu của kỳ báo cáo, những dự đoán biến động của thị trường...Tuy nhiên, trong những năm gần đây một số loại kế hoạch tại Công ty chưa thực sự được coi trọng, hoặc một số loại kế hoạch được lập nhưng thiếu những cơ sở chắc chắn, một trong những kế hoạch còn nhiều bất cập là kế hoạch vốn lưu động cho hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty. Chính vì vậy, việc đảm bảo vốn lưu động cho hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty đã không được thực hiện tốt, vốn lưu động thường bị mất cân đối. Trong những năm tới Công ty cần coi trọng hơn tới công tác kế hoạch nói chung và kế hoạch vốn lưu động nói riêng. Các công việc mà Công ty cần thực hiện để xác định chính xác nhu cầu vốn lưu động là: Một là: Xác định chính xác nhu cầu vốn lưu động thường xuyên cần thiết tối thiểu, từ đó có biện pháp phù hợp huy động vốn đáp ứng cho nhu cầu này, tránh tình trạng thừa vốn gây lãng phí hoặc thiếu vốn ảnh hưởng xấu đến hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty, đồng thời đảm bảo vốn huy động được quyền kiểm soát. Hai là: Sau khi xác định nhu cầu vốn lưu động, Công ty cần xác định số vốn lưu động thực có của mình, số vốn thừa (thiếu) từ đó có biện pháp huy động đủ số vốn thiếu hoặc đầu tư số vốn thừa hợp lý từ đó giảm thấp nhất chi phí sử dụng vốn lưu động, mặt khác có thể đưa số vồn thừa vào sử dụng, từ đó nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Ba là: Mỗi khoản vốn cần có định hướng sử dụng hợp lý: Đối với các khoản vốn chiếm dụng, Công ty phải có kế hoạch quản lý, sử dụng, hoàn trả theo thời gian cụ thể nhất quán, khả thi, nhằm phát huy tính linh hoạt của nguồn vốn này, tránh tình trạng bị động trong hoàn trả vốn sẽ gây phát sinh nhiều chi phí cho Công ty. Đối với khoản vốn vay ngắn hạn, Công ty cần lập kế hoạch huy động và sử dụng theo từng kỳ khác nhau, có kế hoạch vay trả theo từng thời điểm, hạn chế tới mức thấp nhất việc thiếu vốn từ nguồn ngắn hạn. Bốn là: Căn cứ vào kế hoạch huy động và kế hoạch sử dụng để điều chỉnh cho phù hợp với thực tế của Công ty. Trong thực tế, có thể phát sinh những nghiệp vụ gây thừa vốn hoặc thiếu vốn, do đó Công ty cần phải chủ động cung ứng kịp thời, sử dụng vốn thừa hợp lý để đảm bảo sản xuất kinh doanh được liên tục, hiệu quả. Việc lập kế hoạch huy động và sử dụng vốn nhất thiết phải có căn cứ cụ thể, chính xác và liên quan trực tiếp tới nhu cầu vốn lưu động của Công ty. Cụ thể là phải căn cứ vào doanh thu dự kiến của năm kế hoạch và năm báo cáo, căn cứ vào các chỉ tiêu tài chính phản ánh hiệu quả sử dụng vốn lưu động, căn cứ vào những dự đoán về xu hướng và những biến động trên thị trường về sản phẩm hàng hoá, dịch vụ của Công ty và đối thủ, để thực hiện việc lập kế hoạch. Lựa chọn hình thức khai thác vốn hợp lý Việc xác định nhu cầu về vốn lưu động không phải lúc nào cũng thuận lợi và chính xác như mong muốn. Vì vậy, Công ty cần có những biện pháp để phòng ngừa trước những trường hợp biến động nhu cầu vốn lưu động, đặc biệt là trong trường hợp nhu cầu vốn lưu động kế hoạch thấp hơn nhiều so với nhu cầu thực tế. Khi đó, Công ty cần phải có những kế hoạch để huy động vốn một cách hợp lý để có thể đáp ứng được nhu cầu vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty. Cơ cấu nguồn hình thành vốn lưu động của Công ty bao gồm các nguồn chính là: Vốn ngân sách Nhà nước cấp, vốn từ lợi nhuận Công ty để lại, vốn đi vay của các tổ chức tín dụng, và vốn chiếm dụng. Trong các nguồn này thì vốn từ ngân sách và vốn tự bổ sung tăng không đáng kể, đây là một dấu hiệu cho thấy khả năng phát triển vốn từ các nguồn này của Công ty còn rất hạn chế. Trong những năm tới, để có thể nâng cao khả năng độc lập về tài chính, đáp ứng được nhu cầu vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh thì Công ty nên áp dụng các biện pháp sau để tăng cường huy động vốn nội lực: - Tích cực hơn việc huy động các nguồn vốn nhàn rỗi, đặc biệt là vốn nhàn rỗi từ các quỹ chưa sử dụng vì nguồn này vừa nhanh và vừa rẻ. - Chủ động lập kế hoạch bổ sung vốn từ lợi nhuận để lại. Có như vậy Công ty mới có thể nâng cao khả năng độc lập về tài chính và uy cho mình. - Lập chương trình kiến nghị với tổng Công ty lắp máy Việt Nam xin cấp thêm vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Bên cạnh việc huy động các nguồn vốn nội lực để nâng cao khả năng độc lập tài chính thì Công ty cũng cần áp dụng các biện pháp để thu hút nguồn tài chính từ bên ngoài, để mở rộng quy mô và hiệu quả sản xuất kinh doanh: - Tiếp tục thực hiện huy động vốn từ Ngân hàng, đặc biệt là các nguồn vốn ngắn hạn. Tuy nhiên, cần lưu ý hơn nữa tính anh toàn và tính hiệu quả của vốn lưu động bởi vì hiện tại khả năng thanh toán của Công ty không được tốt lắm. Các nguồn vốn vay ngắn hạn nhất thiết chỉ để dùng tài trợ cho tài sản lưu động, không được dùng để tài trợ cho tài sản cố định nếu không sẽ làm mất an toàn cho tình hình tài chính của Công ty. - Nhận, kêu gọi đầu tư, liên doanh liên kết từ các tổ chức, đơn vị, cá nhân trong và ngoài nước. Việc liên doanh liên kết dựa trên cơ sở thoả thuận giữa các bên, các bên góp vốn hoạt động sản xuất kinh doanh trên cơ sở cùng có lợi. Nếu làm tốt việc này tức là Công ty cùng một lúc đã giải quyết tốt hai việc: vừa đảm bảo vốn cho sản xuất kinh doanh vừa có vốncho đầu tư phát triển. Tăng cường công tác quản lý vốn lưu động Việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động không thể thiếu vai trò của quản lý vốn lưu động. Tăng cường công tác quản lý vốn lưu động được thực hiện trên các mặt sau: Quản lý tiền mặt Tiền mặt chỉ chiếm một tỷ trọng rất nhỏ trong tỷ trọng vốn lưu động của Công ty nhưng nó lại liên quan đến nhiều hoạt động của Công ty, đặc biệt nó có vai trò quan trọng trong khả năng thanh toán tức thời. Chính vì vậy, trong việc quản lý vốn lưu động Công ty nên: Xác định một lượng tiền mặt dự trữ hợp lý và tối ưu để vừa đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh của mình lại vừa có thể đảm bảo khả năng thanh toán nhanh trong những trường hợp cần thiết. Hiện tại, thị trường chứng khoán của Việt Nam đang dần phát triển, đây là một công cụ rất hữu ích để Công ty có thể vừa nhằm mục đích sinh lợi vừa có thể điều chỉnh lượng tiền mặt về mức tối ưu. Cụ thể, khi mức tiền mặt vượt quá mức dự trữ tối ưu, Công ty có thể sử dụng số tiền mặt dư thừa đầu tư vào chứng khoán có khả năng thanh khoản cao để vừa nhằm mục đích sinh lợi vừa làm tăng khả năng thanh toán. Ngược lại, khi nhu cầu tiền mặt quá lớn mà mức dự trữ tiền mặt không đủ thì Công ty có thể sử dụng chứng khoán có khả năng thanh khoản cao để bổ sung lượng tiền mặt dự kiến. Bên cạnh việc xác định lượng tiền mặt dự trữ hợp lý, Công ty cũng cần có biện pháp quản lý tiền mặt một cách chặt chẽ bằng cách kiểm tra lượng tiền thu chi hàng ngày để tránh tình trạng thất thoát tiền mặt. Tuy nhiên, để làm được điều đó buộc Công ty phải có chính sách quản lý tín dụng, cấp phát cho khách hàng chặt, đồng thời tăng khả năng chiếm dụng vốn của khách hàng. Tuy nhiên, Công ty cần chú ý rằng: quan hệ của Công ty với các đơn vị khác là mối quan hệ giữa các đối tác, quan hệ giữa khách hàng và nhà cung cấp nên khi Công ty có lợi thì nhất định các đối tác bị thiệt hại, điều đó sẽ ảnh hưởng không tốt tới các mối quan hệ của Công ty trên thị trường. Tóm lại, để đạt được mức cân bằng về tiền mặt Công ty cần thực hiện đồng thời hai biện pháp chính là: Thứ nhất, nghiên cứu, quan sát vạch rõ quy luật thu chi để có thể xác định chính xác nhu cầu và thời gian vốn tiền cần được tài trợ. Thứ hai, rút ngắn chu kỳ chu kỳ vận động của tiền mặt bằng cách giảm thời gian thu hồi những khoản phải thu và tăng thời gian thanh toán các khoản phải trả. Quản lý các khoản phải thu Mục tiêu quản lý các khoản phải thu là vừa tăng được doanh số bán hàng lại vừa không bị chiếm dụng vốn quá nhiều. Để thực hiện được nội dung này Công ty nên thực hiện các biện pháp: Thứ nhất: Tăng cường công tác thẩm định tài chính của khách hàng trước khi đi đến quyết định cung cấp tín dụng thương mại. Thêm vào đó, Công ty nên có các chính sách khuyến khích khách hàng thanh toán nhanh như: thực hiện chiết khấu giảm giá hay có ưu tiên, ưu đãi với khách hàng trả tiền ngay. Thứ hai: Theo dõi thường xuyên tình trạng và thời gian các khoản nợ của khách hàng, tránh tình trạng nợ để quá lâu dẫn đến khó đòi. Thứ ba: Trong thời gian tới Công ty cần nghiên cứu, áp dụng các biện pháp cần thiết để đẩy nhanh tốc độ thu hồi công nợ, nợ khó đòi của khách hàng, giảm các khoản nợ phải thu, giảm tình trạng vốn bị chiếm dụng, tránh tình trạng nợ dây dưa và vốn bị chiếm dụng quá lớn, nâng cao hơn nữa hiệu quả của công tác thu hồi công nợ, từ đó tăng hiệu quả sử dụng vốn lưu động của Công ty. Các biện pháp Công ty có thể áp dụng để tăng nhanh tốc độ thu hồi công nợ: - Tiến hành lập bảng phân tuổi các khoản phải thu để nắm rõ quy mô và thời gian của các khoản phải thu và có biện pháp thu hồi nợ đến hạn. - Nên áp dụng các biện pháp khuyến khích khách hàng trả tiền trước thời hạn bằng chiết khấu. - Nhắc nhở, thúc dục khách hàng chuẩn bị hoặc đã đến hạn trả nợ bằng cách gửi giấy báo cho khách hàng. - Với những khoản nợ đã quá hạn thanh toán, Công ty có thể tuỳ vào tình hình thực tế của khách hàng mà gia hạn hoặc phạt chậm theo quy định hợp đồng. - Với những khoản nợ khó đòi: Một mặt, Công ty nên có biện pháp xử lý các khoản nợ này một cách hợp lý như gia hạn nợ, giảm nợ để thu hồi một phần nợ. Mặt khác, Công ty chủ động trích lập quỹ dự phòng các khoản phải thu khó đòi để ổn định về mặt tài chính. Quản lý vật tư hàng hoá tồn kho. Nội dung công tác quản lý vật tư hàng hoá tồn kho gồm quản lý dự trữ vật tư và quản lý chi phí sản xuất dở dang. Trong công tác quản lý vật tư hàng hoá dự trữ Công ty phải quán triệt đảm bảo năm yêu cầu của quản lý dự trữ là: đảm bảo số lượng, đảm bảo chất lượng, đảm bảo đúng chủng loại, đúng thời điểm, và đạt về chi phí. Để thực hiện được những yêu cầu này Công ty nên thực hiện các biện pháp: Thứ nhất: thường xuyên kiểm tra đối chiếu giữa tình hình sản xuất thực tế và tình hình dự trữ vật tư trong kho. Làm sao kết hợp hài hoà giữa vừa đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh thường xuyên liên tục đều đặn và đảm bảo tiết kiệm. Thứ hai: sử dụng tiết kiệm nguyên vật liệu bằng các cách: - Xác định đúng nhu cầu nguyên vật liệu cần thiết cho sản xuất và dự trữ đủ để đảm bảo cho sản xuất liên tục nhưng tránh ứ đọng vốn. - Thường xuyên phân tích tình hình sử dụng nguyên vật liệu vào sản xuất trên các mặt khối lượng và định mức tiêu dùng. Thứ ba: giảm mức tiêu phí nguyên vật liệu cho những sản phẩm sai hỏng. Giảm mức tiêu phí nguyên vật liệu cho sản phẩm sai hỏng bằng các cách: - Cải tiến công nghệ sản xuất, đổi mới máy móc thiết bị - Coi trọng việc áp dụng các đòn bẩy kinh tế vào khuyến khích sản xuất, khuyến khích tiết kiệm và khuyến khích giảm sai hỏng. - Thường xuyên đánh giá, kiểm kê vật liệu tồn kho, xác định mức độ thừa thiếu nguyên vật từ đó lên kế hoạch thu mua hợp lý. - Lựa chọn khách hàng có khả năng cung cấp nguyên vật liệu thường xuyên bảo đảm về mặt chất lượng tránh tình trạng cung cấp bấp bênh. - Có biện pháp xử lý kịp thời xử lý vật tư, thành phẩm kém phẩm chất để giải thoát cho số vốn bị ứ đọng hoặc đưa vào tái chế những thành phẩm kém phẩm chất. Trong công tác quản lý các khoản chi phí sản xuất kinh doanh dở dang Công ty nên thực hiện các biện pháp: Thứ nhất: tăng cường hơn nữa tính đồng bộ trong sản xuất giữa các bộ phận, các giai đoạn. Thứ hai: tăng cường hơn nữa đầu tư đổi mới tài sản cố định, máy móc thiết bị, thay thế máy móc thiết bị cũ, giảm được chi phí sửa chữa lớn, tiết kiệm nhân công, nguyên vật liệu, giảm tỷ trọng phế phẩm. Thứ ba: xây dựng các định mức kinh tế kỹ thuật như: chi phí nhân công, chi phí vật liệu và các định mức khác, đơn giá nội bộ... một cách tiên tiến trên cơ sở định mức kinh tế kỹ thuật của Nhà nước. 3.2.3 Tăng cường hoạt động Marketing trên thị trường Trong một nền kinh tế thị trường như hiện nay mang đầy tính cạnh tranh thì hoạt động Marketing là không thể thiếu được để một doanh nghiệp nâng cao hiệu quả hoạt động của đồng vốn bỏ ra. Hoạt động Marketing của doanh nghiệp sẽ trả lời cho doanh nghiệp 3 câu hỏi cơ bản trong nền kinh tế thị trường: Sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai ? Thông qua hoạt động Marketing Công ty sẽ biết nhu cầu của người tiêu dùng đối với từng loại sản phẩm, từ đó Công ty sẽ có những đầu tư thích hợp đối với lượng vốn của mình. Kết quả hoạt động Marketing là cơ sở để xây dựng kế hoạch cho các bộ phận khác như kế hoạch tiêu thụ, kế hoạch sản xuất, kế hoạch vật tư, kế hoạch tài chính... Mặt khác hoạt động Marketing sẽ thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm, góp phần tăng doanh thu, lợi nhuận và tốc độ chu chuyển vốn. Tuy nhiên, thực tế trong thời gian qua Công ty chưa chú trọng đúng mức đến công tác này, hoạt động chỉ đơn thuần là thực hiện sản phẩm theo đơn hàng, chưa có sự kích thích tìm hiểu nhu cầu của khách hàng thường xuyên. Hơn nữa, trên mô hình bộ máy Công ty chưa có phòng Marketing tách ra hoạt động độc lập mà có một bộ phận nhỏ nằm trong phòng kinh tế kỹ thuật. Chính vì hoạt động Marketing chưa được chú trọng một cách đúng đắn đã dẫn đến tính kém hiệu quả trong sản xuất kinh doanh của Công ty trong những năm gần đây. Để khắc phục được tình trạng trên Công ty cần phải tăng cường hoạt động Marketing trên thị trường bằng các việc làm sau: - Nhanh chóng tách bộ phận Marketing thành riêng một phòng hoạt động độc lập, chuyên trách nghiên cứu và lập chính sách Marketing cho toàn Công ty. Ban lãnh đạo của Công ty cần tạo mọi điều kiện thuận lợi về con người, vật chất để phòng Marketing sớm đi vào hoạt động có hiệu quả. - Tích cực đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu tìm hiểu thị trường để xâm nhập vào thị trường mới.. - Tăng cường hoạt động quảng cáo giới thiệu sản phẩm, giới thiệu về Công ty, giữ vững thị trường hiện có, phát triển thị trường mới. Công ty Lắp máy và Thí nghiệm cơ điện là một doanh nghiệp xây dựng nên việc sử dụng các phương tiện quảng cáo trên radio, truyền hình áp phích là không có hiệu quả. Do vậy, thông qua nghiên cứu thị trường Công ty sẽ có được thông tin về khách hàng có nhu cầu về sản phẩm của Công ty. Công ty nên gửi đơn chào hàng cùng các đặc tính của sản phẩm, quy cách, chất lượng tới khách hàng. Khi khách hàng có dấu hiệu phản ứng đáp lại Công ty cần kịp thời trao đổi để đáp ứng hơn nhu cầu của khách hàng. Việc tổ chức các cuộc hội nghị khách hàng hàng năm là rất cần thiết. Qua các cuộc hội nghị Công ty sẽ có được thông tin về nhu cầu của khách hàng và từ đó có kế hoạch cụ thể cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Tiến hành cổ phần hoá để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn Cổ phần hoá là một biện pháp tích cực trọng việc huy động vốn, bởi chính hình thức này giúp doanh nghiệp tập trung được nhân tài vật lực phục vụ cho sản xuất kinh doanh của mình. Xét về mặt huy động vốn thì công ty cổ phần đã giải quyết hết sức thành công. Bởi vì đã kết hợp được số tiền nhỏ bé dành dụm trong dân cư để phát huy tác dụng. Rõ ràng sự có mặt của Công ty cổ phần đã tạo điều kiện cho nhân dân có cơ hội đầu tư một cách hiệu quả và an toàn khoản vốn nhỏ bé của mình. Xét về mặt hiệu quả thì Công ty cổ phần cũng có thế mạnh lớn hơn hẳn bởi bộ máy doanh nghiệp gọn nhẹ, gồm những thành viên năng động, sáng tạo nhất, dễ thích nghi với cơ chế thị trường hiện nay. Hưởng ứng chủ trương của Đảng, Nhà nước và Đảng bộ Tổng Công ty, đồng thời Công ty cũng nhận thấy tầm quan trọng của việc cổ phần hoá cho nên hiện nay Công ty cũng đã có kế hoạch để thực hiện cổ phần hoá một số đơn vị trực thuộc của mình. Đây là một chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước, nhưng để giải pháp này trở thành hiện thực thì bản thân Công ty phải: - Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện thật cụ: cử cán bộ đi tập huấn, học tập về công tác cổ phần hoá, chuẩn bị cơ sở vật chất cần thiết cho việc cổ phần hoá... - Tuyên truyền sâu rộng trong cán bộ công nhân viên để mọi người hiểu được lợi ích của công tác cổ phần hóa. - Có chế độ ưu đãi tốt hơn để khuyến khích cán bộ công nhân viên trong Công ty mua nhiều cổ phần. Đổi mới công nghệ, tăng sức cạnh tranh Kỹ thuật tiến bộ và công nghệ hiện đại là điều kiện vật chất để doanh nghiệp sản xuất ra những sản phẩm mới, chất lượng cao, hợp thị hiếu, nhờ đó doanh nghiệp có thể tăng khả năng cạnh tranh, tăng khả năng tiêu thụ...Đồng thời nhờ áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật doanh nghiệp có thể rút ngắn chu kỳ sản xuất, giảm tiêu hao nguyên vật liệu hoặc có khả năng sử dụng các loại nguyên vật liệu thay thế mới nhằm tiết kiệm chi phí, hạ giá thành, tăng tốc độ luân chuyển vốn lưu động. Vì vậy, để góp phần vào tăng hiệu quả quản lý và sử dụng vốn lưu động Công ty cần mạnh dạn đầu tư đổi mới, thay đổi công nghệ sản xuất, thay thế tài sản cố định cũ, lạc hậu bằng tài sản cố định mới hiện đại. Sự đầu tư đổi mới kỹ thuật, công nghệ có thể làm cho tỷ trọng vốn cố định trên tổng vốn tăng, chi phí khấu hao tăng, giá thành tăng. Nhưng nhờ có việc tăng năng suất của máy móc thiết bị dẫn đến tăng sản phẩm sản xuất trong kỳ, giảm các loại chi phí tổn thất. Kết quả cuối cùng sản xuất và tiêu thụ nhiều sản phẩm chất lượng cao, dẫn đến tăng doanh thu, tăng lợi nhuận, qua đó tăng hiệu quả sử dụng vốn nói chung và vốn lưu động nói riêng. Mặc dù nhận thức rất rõ về những lợi ích của việc đổi mới công nghệ, máy móc thiết bị mang lại nhưng do có những khó khăn nhất định về tài chính mà tốc độ đổi mới công nghệ, máy móc thiết bị trong những năm qua không được cao. Tuy nhiên, với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, hiện nay đã xuất hiện nhiều hình thức thay thế tín dụng mới thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp tạo vốn thì việc đổi mới công nghệ, máy móc thiết bị đối với các doanh nghiệp trở nên dễ dàng hơn nhiều. Điều quan trọng là cán bộ lãnh đạo trong Công ty có đủ mạnh dạn và nhiệt huyết để thực hiện hay không. Một trong các biện pháp huy động vốn mà Công ty có thể áp dụng là sử dụng “chính sách thay thế tín dụng bằng thuê mua”. Thay thế tín dụng bằng thuê mua là việc Công ty tạo vốn bằng cách thuê trang bị, vật tư công cụ và tài sản cố định khác sử dụng trong kinh doanh. Với hình thức này, Công ty được sử dụng vốn như chính mình là người sở hữu với giá thuê định trước trong hợp đồng. Sau thời hạn hợp đồng thuê mua, Công ty có quyền trả lại tài sản đã thuê hoặc mua với giá còn lại hoặc tiếp tục thuê với giá thấp hơn. Khi áp dụng hình thức này Công ty có những lợi thế sau: - Trong điều kiện thị trường vốn chưa phát triển, thuê mua là hình thức dễ thực hiện. - Thuê mua tài sản thường chi phí sau khi trừ thuế nhỏ hơn là vay mua, vì thuế đánh vào giá trị thuê mua thấp hơn thuế đánh vào giá trị vay mua (nếu vay mua, thuế đánh vào cả khấu hao, tiền lãi và chi phí bảo dưỡng). - Việc thuê mua không cần có bảo lãnh như khi vay mua và nó không làm tăng hệ số nợ của Công ty, làm cho Công ty có cơ hội tốt hơn để huy động các nguồn vốn khác khi cần thiết. Bên cạnh đó hình thức thuê mua mặc dù tạo điều kiện cho Công ty giải quyết tốt khó khăn về vốn song Công ty thường phải chịu giá thuê cao, gây khó khăn cho cạnh tranh về giá, mặt khác tổ chức hình thức này rất phức tạp và khi có sự cố vi phạm hợp đồng, Công ty có thể phá sản rất nhanh do bên cho thuê tín dụng đòi lại tài sản. Các tổ chức kinh doanh tín dụng thuê mua thường có được lợi nhờ tín dụng cho thuê cao. Do đó Công ty cần lưu ý một số vấn đề trong hợp đồng sau: Giá thuê mua: Để có căn cứ xây dựng giá cả thuê mua, Công ty phải xác định được giá trị tài sản thuê mua, doanh thu dự kiến, chi phí trên một đơn vị sản phẩm có sự tham gia của tài sản thuê mua. Thời hạn thuê mua: Nhân tố tác động trực tiếp đến giá cả thuê mua là thời hạn thê mua. Thông thường nếu thời hạn thuê mua ngắn thì giá cao và ngược lại. Thời điểm tính giá thuê mua: Có hai thời điểm là thời điểm kí hợp đồng hoặc thời điểm thiết bị đã lắp đặt song. Thông qua hình thức này ban lãnh đạo Công ty có thể tham khảo và quyết định nên chọn loại công nghệ nào để thuê. Việc chọn công nghệ để thuê phải là những công nghệ quan trọng trong trong dây truyền sản xuất quyết định đến chất lượng và tính đặc thù đối với sản phẩm của Công ty. Muốn vậy, Công ty phải lên kế hoạch cụ thể về đổi mới công nghệ, tránh việc thuê một cách tràn lan và không có trọng điểm. Công nghệ máy móc thiết bị được đổi mới, dây truyền sản xuất được cân đối lại sẽ rút ngắn được chu kì sản xuất. Mà độ dài chu kì sản xuất có ảnh hưởng trực tiếp đến lượng sản phẩm dở dang, đến việc sử dụng công suất thiết bị, máy móc, diện tích sản xuất, đến tình hình luân chuyển vốn lưu động và đến việc hoàn thiện nhiệm vụ sản xuất theo hợp đồng đã kí kết. Nói tóm lại, đây là một cơ hội tốt cho Công ty để Công ty cải thiện tình trạng công nghệ hiện nay, vững bước vào một giai đoạn mới. Một giai đoạn của sự cạnh tranh khốc liệt giữa các Công ty trong nước, giữa các nước trong khu vực khi Việt Nam chính thức gia nhập AFTA vào năm 2006. Đào tạo bồi dưỡng cán bộ và hoàn thiện bộ máy. Lao động là một yếu tố của quá trình sản xuất, nó ảnh hưởng quyết định tới hiệu quả sử dụng vốn lưu động nói riêng và hiệu sử dụng vốn kinh doanh nói chung cuả mỗi doanh nghiệp. Vì vậy, trình độ tay nghề của người lao động và trình độ quản lý của đội ngũ cán bộ lãnh đạo được coi là một nhân tố cạnh tranh quan trọng. Thêm vào đó, muốn đổi mới công nghệ, máy móc thiết bị thì nhất không thể không đào tạo con người. Vì để khai thác năng lực của những máy móc thiết bị một cách hiệu quả đòi hỏi các nhà quản lý và công nhân trực tiếp sản xuất phải thường xuyên cập nhật kiến thức khoa học kỹ thuật và quản lý, làm chủ công nghệ mới nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của toàn đơn vị. Tuy nhiên, đội ngũ này ở Công ty Lắp máy và thí nghiệm cơ điện chỉ đạt mức trung bình cả về số lượng và chất lượng so với toàn ngành. Vì vậy, trong những năm tới Công ty cần cải tiến công tác này bằng việc áp dụng các biện pháp sau: Về việc điều chỉnh bố trí cơ cấu lao động, Công ty cần tuyển dụng thêm đội ngũ cán bộ kỹ thuật và công nhân trẻ, tuy kinh nghiệm của họ còn hạn chế, tay nghề còn non yếu nên chưa nắm bắt công việc chưa được vững vàng nhưng bù lại họ rất hăng hái và nhiệt tình, có kiến thức và kỷ luật trong công việc. Ngược lại, với một số người trong đội ngũ những người đi trước, mặc dù có kinh nghiệm lâu năm trong sản xuất nhưng đa phần họ thiếu nhạy bén với những biến động của thị trường hoặc không có khả năng truyền đạt, phổ biến kỹ thuật cho lớp trẻ, một số người lại bảo thủ và trì trệ trong những công việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật. Với những người này, Công ty nên có kế hoạch bố trí hợp lý, chuyển họ sang làm các công việc phù hợp hơn. Về số lượng lao động, vấn đề thiếu hụt công nhân sản xuất hiện tại Công ty có thể tuyển dụng có chọn lọc công nhân ngoài xã hội và cho họ một thời gian thử thách nếu đáp ứng được yêu cầu thì tuyển dụng, đồng thời thiết lập mối quan hệ với đơn vị bạn để khi cần có thể trao đổi, tận dụng nhân công nhàn rỗi của họ. Về chất lượng lao động, Công ty cần nâng cao tay nghề cho lực lượng lao động hiện tại bằng cách thường xuyên tổ chức đợt thi và nâng cao tay nghề cho người lao động. Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý đặc biệt là các cán bộ quản lý đội vì họ là những người trực tiếp điều hành sản xuất và sử dụng vốn của Công ty. Tổ chức các lớp học (có thể mời các chuyên gia trong lĩnh vực về giảng dạy) giới thiệu về những quy trình sản xuất, công nghệ thi công tiên tiến, giới thiệu về các tiêu chuẩn kỹ thuật cũng như tiêu chuẩn quản lý hiện đại như ISO 9002 để cán bộ có điều kiện học hỏi mở rộng kiến thức quản lý tiện cho việc áp dụng các tiêu chuẩn trên vào Công ty sau này. Trên đây chỉ là các biện pháp mang tính tạm thời, nó chỉ khắc phục được phần nào tình trạng hiện nay của Công ty, về lâu dài để có được một đội ngũ cán bộ công nhân lành nghề, ổn định công ty cần có kế hoạch đào tạo và tuyển chọn từ các trường đại học, trung học dạy nghề đây mới thực sự là đội ngũ kế cận lâu dài lưu động. Một số kiến nghị với các cơ quan hữu quan. Kiến nghị với Tổng Công ty lắp máy Việt Nam Công ty lắp máy và thí nghiệm cơ điện là một đơn vị thành viên của Tổng Công ty lắp máy Việt Nam. Công ty luôn đặt hoạt động của mình trong mối quan hệ tương hỗ với Tổng Công ty, chịu sự giám sát trực tiếp của Tổng Công ty. Để tạo điều kiện cho Công ty phát triển hơn, Tổng Công ty cần: - Có biện pháp giúp đỡ Công ty trong công tác phân bổ vốn, đặc biệt là trong các dự án phát triển đầu tư công nghệ...để tạo điều kiện cho Công ty trong việc mở rộng sản xuất kinh doanh, nâng cao chất lượng sản phẩm. - Đóng vai trung gian cho Công ty trong mối quan hệ với các đối tác, đặc biệt là các đối tác nước ngoài, tạo điều kiện và uy tín để Công ty tiếp cận được với các tổ chức tín dụng. - Đóng vai trò là người chỉ đường, hướng dẫn giúp cho Công ty thực hiện thành công công tác cổ phần hoá. - Tạo điều kiện và hỗ trợ công tác đào tạo nâng cao trình độ cho các cán bộ chuyên môn mà Tổng Công ty có khả năng và tiềm lực. 3.3.2 Kiến nghị với Ngân hàng Ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính, nhận tiền gửi và cho vay các chức năng thanh toán khác. Hoạt động của ngân hàng có ảnh hưởng rất lớn tới việc huy động và sử dụng vốn của Công ty. Để tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho Công ty trong việc huy động và tạo vốn, các ngân hàng cần tăng cường hoàn thiện phương pháp làm việc theo hướng tạo điều kiện thuận lợi cho Công ty, coi Công ty như là một khách hàng- đối tượng cần quan tâm của ngân hàng. Vì vậy, các ngân hàng nên: - Tăng cường hơn nữa năng lực của cán bộ ngân hàng trong việc xem xét và ra quyết định một cách khoa học. - Hiện đại hoá công nghệ và nâng cáo trình độ hoạt động của hệ thống ngân hàng. Cải tiến phương thức và kỹ thuật thanh toán qua ngân hàng như: tăng cường các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt nhằm rút ngắn thời gian thanh toán. - Thay đổi phong cách làm việc của ngân hàng trong quan hệ với các doanh nghiệp. Các ngân hàng phải chủ động tạo lập mối quan hệ dài hạn nhằm xây dựng mạng lưới khách hàng ổn định, đồng thời đảm bảo hơn nữa mức độ an toàn trong hoạt động tín dụng. Kiến nghị với Nhà nước Doanh nghiệp được coi như tế bào của nên kinh tế quốc dân, để doanh nghiệp phát triển đòi hỏi không chỉ sự nỗ lực của bản thân doanh nghiệp mà sự giúp đỡ tạo điều kiện từ phía nhà nước đóng vai trò rất quan trọng. Những năm gần đây Nhà nước đã có những chính sách nhằm tạo cho doanh nghiệp một môi trường kinh doanh thông thoáng: Thành lập những định chế tài chính (cung cấp vốn cho doanh nghiệp), ban hành nhiều văn bản pháp quy liên quan đến hoạt động tài chính của doanh nghiệp (điển hình là sự ra đời của luật doanh nghiệp năm 2000, luật thuế VAT và gần đây nhất là Nghị định 16 CP (NĐ16CP) của Chính phủ về thuê tài chính), đảm bảo sự công bằng giữa các thành phần kinh tế. Tuy nhiên, vì nhiều lý do mà một số chính sách của Nhà nước chưa thực sự phát huy tác dụng hoặc có tác dụng tiêu cực tới doanh nghiệp. Để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nói chung, Công ty Lắp máy và Thí nghiệm cơ điện nói riêng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn qua đó nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, đưa Công ty phát triển không ngừng, em xin có một vài kiến nghị sau: Hoàn thiện cơ chế chính sách hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp ngành xây dựng. Trong điều nền kinh tế thị trường, sự tham dự từ phía Nhà nước đối với các doanh nghiệp là có hạn, các doanh nghiệp phải phải tự thân vận động trong vòng quay của cơ chế thị trường đầy sóng gió, các doanh nghiệp phải tự cứu mình trước khi đợi người khác cứu. Tuy nhiên, trong điều kiện Việt Nam mới chuyển sang cơ chế thị trường, các doanh nghiệp gặp không ít khó khăn. Chính vì vậy mà sự giúp đỡ từ phía Nhà nước là hết sức cần thiết. Hơn nữa, Đảng và Nhà nước đã khẳng định: nền kinh tế ở Việt Nam là nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, vì vậy sự can thiệp hỗ trợ của Nhà nước đối với các doanh nghiệp vừa là thể hiện chủ trương của Đảng, Nhà nước mà vừa thể hiện mong muốn của các doanh nghiệp. Nhằm đạt kết quả tốt hơn trong công tác quản lý và sử dụng vốn lưu động, Công ty lắp máy và thí nghiệm cơ điện kiến nghị với Nhà nước một số nội dung sau: Thứ nhất, Nhà nước cần hỗ trợ các doanh nghiệp vốn vay với lãi suất ưu đãi. Điều này sẽ đảm bảo cho Công ty chủ động hơn về vốn, mở rộng đầu tư, nâng cao năng lực sản xuất tạo đà phát triển bền vững trước khi nước ta gia nhập AFTA vào năm 2006. Thứ hai, giảm bớt một số thủ tục trong quá trình xin vay vốn và xin tài trợ đối với các doanh nghiệp xây dựng. Thứ ba, tiếp tục cải tiến và hoàn thiện hơn nữa cơ chế và chính sách của Quỹ HTPT để quỹ này đi vào hoạt động có hiệu quả, thực sự trở thành một động lực giúp Công ty vượt qua thời kỳ khó khăn này. Hoàn thiện chính sách cho thuê tài chính đối với các doanh nghiệp Hiện nay, ngày càng có nhiều doanh nghiệp gia nhập ngành xây dựng, cạnh tranh trong ngành xây dựng trở nên gay gắt hơn. Khi gia nhập ngành, doanh nghiệp nào cũng phải phấn đấu nâng cao chất lượng công trình, giảm giá thành...để có ưu thế trong cạnh tranh. Các doanh nghiệp phải đầu tư mua sắm đổi mới trang thiết bị thi công. Tuy nhiên, không phải doanh nghiệp xây dựng nào cũng có đủ năng lực tài chính để thực hiện bởi “lực bất tòng tâm”. Từ trước tới nay, hầu hết cá các doanh nghiệp xây dựng sử dụng phương pháp huy động truyền thống là vay các tổ chức tín dụng bằng các hình thức thế chấp, cầm cố và bảo lãnh. Trong những năm gần đây, xuất hiện hình thức huy động bằng tín dụng thuê mua, hình thức này xem ra rất có ý nghĩa đối với doanh nghiệp xây dựng nói chung cũng như Công ty Lắp máy và thí nghiệm cơ điện nói riêng. Chính vì vậy, để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả Nhà nước cần khuyến khích thành lập các công ty thuê mua nước ngoài hoặc kêu gọi các doanh nghiệp nước ngoài tham gia hoạt động trong lĩnh vực này. Mặt khác, Nhà nước cần khẩn trương hoàn thiện cơ chế nghiệp vụ cho thuê, xác lập và mở rộng đối tượng tài sản cho thuê, khách hàng thuê mua, cũng như hoàn thiện “ hành lang pháp lý” cho tín dụng thuê mua hoạt động. Kết luận Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nói chung và vốn lưu động nói riêng là một nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài của mỗi doanh nghiệp. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động qua đó nâng cao hiệu quả vốn, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Từ đó tạo điều kiện cho sự phát triển của các doanh nghiệp và của toàn bộ nền kinh tế. Tuy nhiên, sự nghiệp đổi mới hiện nay ở nước ta diễn ra trong điều kiện thị trường trong nước và thế giới có nhiều biến động, việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động là một thách thức đối với các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp Nhà nước. Trong thời gian thực tập tại Công ty Lắp máy và thí nghiệm cơ điện, qua tìm hiểu, nghiên cứu tài liệu và tiếp xúc thực tế em nhận thấy đây là một doanh nghiệp nhà nước có trình độ khoa học công nghệ tương đối hiện đại, tay nghề của người lao động tương đối cao, năng lực tài chính tương đối ổn định. Nhưng hiệu quả sử dụng vốn lưu động ở Công ty chưa thực sự tốt vì còn nhiều vấn đề tồn tại cần khắc phục. Do vậy, em mạnh dạn đưa ra một số ý kiến nhằm hoàn thiện hơn nữa hoạt động sử dụng vốn lưu động của Công ty. Cuối cùng, em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Th.S Mai Xuân Được, các thầy cô giáo trong Khoa Quản Trị Kinh Doanh trường Đại học Kinh tế quốc dân cùng ban lãnh đạo Công ty, các Cô, các Chú, các Anh, các Chị phòng Tài chính kế toán đã giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này. Hà Nội, tháng 4 năm 2003 Sinh viên: Hồ Thanh Bình Danh mục tài liệu tham khảo 1. Giáo trình Phân tích hoạt động kinh doanh. Chủ biên: TS Phạm Văn Dược - Đặng Kim Cương. - NXBTK 1995 2. Công ty Lắp máy và Thí nghiệm cơ điện Điều lệ Công ty. Quy chế tài chính của Công ty Tài liệu về lịch sử hình thành và phát triển của Công ty. Báo cáo tài chính của Công ty các năm từ 2000 đến 2002. 3. Quản trị tài chính doanh nghiệp. Chủ biên: PTS Vũ Duy Hào - Đàm Văn Huệ. - NXBTK 1997. 4. Quản trị doanh nghiệp PGS.TS.Lê Văn Tâm - NXB Giáo dục 1998 5. Phân tích tài chính doanh nghiệp Josette Peryrard - NXB Thống kê 1997 Tạp chí đầu tư số 127/2001 Tạp chí Công nghiệp số 9, 11/ 2001. Tạp chí Xây dựng số 7, 8 /2000. Tạp chí tài Kinh tế phát triển số 4,5/2001 Tạp chí Ngân hàng số 4,8,10/2001 Tạp chí thông tin tài chính số 1, 22/ 2001.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docC0013.doc
Tài liệu liên quan