Đầu tư là việc huy động các nguồn lực nhằm biến các lợi ích dự kiến thành hiện thực trong một khoảng thời gian đủ dài trong tương lai. Một nguồn lực quan trọng mà mọi dự án đầu tư đều phải huy động đó là nguồn vốn.
Theo K Marx, vốn là tư bản (Capital), là giá trị đem lại giá trị thặng dư. Theo đó vốn được xem xét dưới giác độ giá trị, là một đầu vào của quá trình sản xuất. Quan điểm này có tính khái quát cao mang ý nghĩa thực tiễn đến tận ngày nay tuy nhiên nó hạn chế ở chỗ cho rằng vốn luôn tạo ra giá trị thặng dư và chỉ ở khu vực sản xuất mới tạo ra giá trị thặng dư cho nền kinh tế.
Sau Marx, các nhà kinh tế học đại diện cho các trường phái kinh tế khác nhau đã đưa ra nhiều quan điểm về vốn. Trong các quan điểm đó phải kể đến quan điểm về vốn của P. Samuelson và của D. Begg. Theo P. Samuelson vốn là những hàng hoá được sản xuất ra để phục vụ cho quá trình sản xuất mới, là một trong ba yếu tố đầu vào của hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp (vốn, lao động, đất đai). Như vậy vốn ở đây được xem xét dưới hình thái hiện vật, là tài sản cố định của doanh nghiệp. Khác với Samuelson, trong cuốn "Kinh tế học " của David Begg, tác giả đưa ra hai định nghĩa về vốn là vốn hiện vật và vốn tài chính. Vốn hiện vật là dự trữ các hàng hoá đã sản xuất ra để sản xuất ra hàng hoá khác. Vốn tài chính là tiền và các loại giấy tờ có giá khác của doanh nghiệp.
61 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 937 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại xí nghiệp Chụp ảnh Hàng không - Bộ Quốc phòng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g của Xí nghiệp, sẵn sàng tham mưu cho ban giám đốc về các thông tin kinh tế cũng như tình hình tài chính của Xí nghiệp.
`` 2.1.4.2. Phòng Tài chính - Kế toán: Gồm 6 người:
Trong đó:
- 05 người có trình độ đại học
- 01 người có trình độ trung cấp kế toán.
* Kế toán Trưởng:
- Có chức năng giúp giám đốc tổ chức, chỉ đạo thực hiện toàn bộ công tác kế toán tài chính, thông tin kinh tế trong toàn đơn vị theo cơ chế quản lý mới của Nhà nước và điều lệ kế toán trong toàn bộ xí nghiệp.
- Tổ chức bộ máy kế toán, đào tạo và bồi dưỡng nghiệp vụ đội ngũ cán bộ phòng tài chính kế toán.
- Hướng dẫn công tác hạch toán kế toán, ghi chép chứng từ kế toán, chỉ đạo về mặt tài chính, kiểm tra, kiểm soát việc thực hiện các hợp đồng kinh tế.
- Tổ chức phân tích hoạt động kinh tế.
- Chịu trách nhiệm trước giám đốc xí nghiệp về toàn bộ công tác tài chính kế toán trong xí nghiệp.
* Kế toán tổng hợp:
Có nhiệm vụ theo dõi việc ghi chép ban đầu, hướng dẫn kiểm tra đối chiếu số liệu các bộ phận kế toán khác, sau đó tập hợp số liệu vào sổ cái, sổ chi tiết, lập báo cáo kế toán, tổng hợp các sản phẩm sản xuất và tính giá thành sản phẩm. Ngoài ra còn tiến hành phân tích hoạt động kinh doanh, tổ chức lưu giữ, bảo quản các tài liệu kế toán liên quan.
* Kế toán tiền gửi ngân hàng, thủ quỹ:
Có nhiệm vụ theo dõi tiền gửi ngân hàng, kiểm kê quỹ, thực hiện thu chi tiền mặt phát sinh hàng ngày tại xí nghiệp và đối chiếu với ngân hàng về tài khoản tiền gửi, lập báo cáo quỹ.
* Kế toán tiền lương,
Bộ phận kế toán này có nhiệm vụ theo dõi, tính lương và các khoản có tính chất lương, xử lý các số liệu.....gửi về kế toán tổng hợp.
* Kế toán doanh thu, tập hợp chi phí sản xuất, tính giá thành sản phẩm:
Có nhiệm vụ theo dõi, ghi chép các khoản doanh thu bán hàng đồng thời tập hợp và phân loại chi phí sản xuất cho phù hợp với các khoản mục chi phí nhằm đảm bảo chính xác trong việc tính giá thành sản phẩm.
* Kế toán thanh toán công nợ,
Bộ phận kế toán này có nhiệm vụ xử lý các số liệu, đồng thời phản ánh số liệu vào sổ về tình hình tăng giảm các loại vốn bằng tiền, các khoản công nợ... gửi về kế toán tổng hợp
2.2. Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn tại xí nghiệp:
2.2.1. Tình hình sản xuất kinh doanh của xí nghiệp:
Trong thời gian qua nhờ sự năng động sáng tạo, chủ động tìm kiếm thị trường, tình hình sản xuất kinh doanh của xí nghiệp đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Tổng tài sản của xí nghiệp tăng liên tục qua các năm: Các năm 2005, 2006 tổng tài sản tăng tương ứng là 1.799 và 3040 triệu đồng, với tỷ lệ là 10% và 15,4%. Trong đó tài sản cố định tăng mạnh năm 2006 với mức tăng là 1569 triệu đồng hay 14,1 %, năm 2007 tài sản cố định của xí nghiệp tăng 1100 triệu đồng, tương đương với 8,7 %. Ngược lại, tài sản lưu động tăng ít vào năm 2006 nhưng năm 2007 tăng 1940 triệu đồng, tức tăng 27,6 %
Bảng 1- Kết quả sản xuất kinh doanh của xí nghiệp qua các năm.
Đơn vị : triệu đồng
S
tt
Chỉ tiêu
Năm
Tỷ lệ (%)
2005
2006
2007
06/05
07/06
1
Doanh thu
25.672
27.251
28.142
106,15
103,26
2
Lợi nhuận
4.520
5.360
5.112
118,58
95,37
3
Các khoản thu nộp ngân sách
4.635
5.430
6.852
117,15
126,18
4
TNBQ 1người/ 1 tháng(1000đ)
1780
2250
2850
126.4
126.7
Nguồn: Báo cáo tài chính xí nghiệp chụp ảnh hàng không các năm 2005, 2006, 2007.
Năm 2007 doanh thu đạt 28142 triệu đồng, tăng 891 triệu đồng, tốc độ tăng nhỏ hơn so với năm 2006 (tăng 3,26 % so với tốc độ tăng 6,15 % năm 2006). Thu nhập bình quân đầu người tăng dần qua các năm, vì vậy đời sống cán bộ công nhân viên được cải thiện dần. Nói chung hoạt động sản xuất kinh của xí nghiệp vẫn luôn có lãi. .
Năm 2007 doanh thu đạt 28142 triệu đồng, tăng 891 triệu đồng, tốc độ tăng nhỏ hơn so với năm 2006 (tăng 3,26 % so với tốc độ tăng 6,15 % năm 2006). Thu nhập bình quân đầu người tăng dần qua các năm, vì vậy đời sống cán bộ công nhân viên được cải thiện dần. Nói chung hoạt động sản xuất kinh của xí nghiệp vẫn luôn có lãi.
Hoạt động sản xuất kinh doanh đạt được kết quả tốt khiến tình hình tài chính của xí nghiệp được cải thiện hơn. Tình hình tài chính của xí nghiệp được thể hiện ở trong bảng 2. Tổng tài sản và tổng nguồn vốn của xí nghiệp liên tục tăng qua các năm, năm 2006 tổng tài sản tăng 10% so với năm 2005 và năm 2007 tăng 15,4% so với năm 2006. Điều đó cho thấy xí nghiệp đã có nhiều cố gắng trong việc huy động vốn, tài trợ cho các tài sản của xí nghiệp để có thể sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, những phân tích cụ thể sự hợp lý của việc tăng tài sản cũng như nguồn vốn của xí nghiệp sẽ được đề cập trong những phần sau. ở đây ta xem xét một số chỉ tiêu tài chính để có một cái nhìn tổng quát về tình hình tài chính của xí nghiệp.
Bảng 2 Tình hình tài chính của xí nghiệp
Stt
Chỉ tiêu
Đơn vị
Năm
Chênh lệch 06/05
Chênh lệch 07/06
2005
2006
2007
Số tiền
%
Số tiền
%
1
Tổng tài sản
Tr đ
17.890
19.689
22.729
1.799
10
3.040
15,4
2
Tài sản lưu động
-
6.795
7.025
8.965
230
3,4
1.940
27,6
3
Tài sản cố định
-
11.095
12.664
13.764
1.569
14,1
1100
8,7
4
Tổng nguồn vốn
-
17.890
19.689
22.729
1.799
10
3.040
15,4
5
Nợ phải trả
-
8.950
10.539
13.197
1.589
17,8
1935
18,4
6
Nợ ngắn hạn
-
6.520
7.780
9.130
1.260
19,3
1.350
17,4
7
Vốn chủ sở hữu
-
9.030
9.150
9.532
120
1,3
382
4,2
8
Tỷ suất tài trợ:
(7)/(4)%
%
50,4
46,5
45,1
-
-
-
-
9
Tỷ suất đầu tư:
(3)/(1)%
-
62
64,3
60
-
-
-
-
10
Tỷ lệ (5)/(1)
-
50
53,5
58
-
-
-
-
11
Tỷ suất TT NH:
(2)/(6)
-
104,2
90,2
98,2
-
-
-
-
12
Tỷ suất tự tài trợ TSCĐ (7)/(3)
-
81,4
72,2
69,3
-
-
-
-
Nguồn:Báo cáo tài chính xí nghiệp Chụp ảnh hàng không các năm 2005,2006,2007
Về tỷ suất tài trợ, năm 2005 chỉ tiêu này là 50,4% đến năm 2006 giảm xuống còn 46,5% và năm 2007 chỉ còn 45,1%. Sở dĩ như vậy là vì tổng nguồn vốn tăng trong khi vốn chủ sở hữu tăng chậm (1,3 % năm 2006 4,2 % năm 2001), sự biến động như vậy là không hợp lý, nó cho thấy mức độ độc lập về tài chính của xí nghiệp là không cao.
Về tỷ suất tài trợ tài sản cố định, tỷ lệ giảm dần trong các năm qua. Năm 2005, vốn chủ sở hữu đủ để tài trợ gần đủ tài sản cố định (81,4,4%). Các năm sau tỷ lệ này giảm xuống ở mức dưới 80%. Điều này chứng tỏ hai năm qua nhu cầu đầu tư vào tài sản cố định lớn, vốn chủ sở hữu không đủ để đáp ứng. Do đó xí nghiệp phải tài trợ một phần tài sản cố định của mình bằng các khoản nợ.
Tỷ trọng nợ phải trả trên tổng tài sản đều cao qua các năm, năm 2005 tỷ trọng này là 50%, năm 2007 công nợ phải trả còn chiếm 58 % tổng tài sản của đơn vị. Điều này dễ thấy vì nợ phải trả của xí nghiệp tăng nhanh hơn so với sự gia tăng của tổng tài sản. Tỷ trọng nợ phải trả cao và chủ yếu là khoản vay có tính lãi gây ảnh hưởng bất lợi đến kết quả sản xuất kinh doanh.
Ngoài ra ta xét chỉ tiêu:
Vốn lưu động thuần = Tài sản lưu động - Nợ ngắn hạn
Hoặc: Vốn lưu động thuần = Vốn dài hạn - Tài sản cố định
Vốn lưu động thuần (vốn lưu động ròng) tại xí nghiệp trong ba năm qua được phản ánh qua bảng sau:
Bảng 3 - Vốn lưu động ròng của xí nghiệp
Đơn vị : triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Tài sản lưu động
6.795
7.025
8.965
Nợ ngắn hạn
6.520
7.780
9.130
Vốn lưu động ròng
275
-755
-165
Vốn lưu động thuần của xí nghiệp chưa đáp ứng đủ trong quá trình sản xuất kinh doanh. Năm 2005, vốn lưu động thuần là 275 triệu đồng, hai năm 2006 và 2007 đều âm. Điều này chứng tỏ nợ ngắn hạn quá cao so với tài sản lưu động, hay vốn trung dài hạn không đủ để tài trợ cho tài sản cố định của đơn vị. Một phần nợ ngắn hạn được dùng để tài trợ cho tài sản cố định. Điều này không đảm bảo sự tương thích giữa tính chất về thời gian và lãi suất. Do đó, cần có sự điều chỉnh để duy trì mức vốn luân chuyển thuần hợp lý.
Bảng 4- Hiệu quả sử dụng vốn của xí nghiệp
Stt
Chỉ tiêu
Đơn vị
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
1
Doanh thu
Tr đ
25.672
27.251
28.142
2
Lợi nhuận trước thuế
“
4.520
5.360
5.112
3
Lợi nhuận sau thuế
“
3.254
3.859
3.681
4
Tổng tài sản
“
17.890
19.689
22.729
5
Vốn chủ sở hữu
“
9.030
9.150
9.532
6
Hiệu suất sử dụng TTS (1)/(4)
%
143,49
138,4
123,8
7
Doanh lợi vốn (2)/(4)
%
25,26
27,2
22,49
8
Doanhlợivốn CSH(3)/(5)
%
36
42,18
38,6
Nguồn: Báo cáo tài chính xí nghiệp chụp ảnh hàng không
Ta thấy rằng , hiệu suất sử dụng tổng tài sản đều giảm qua các năm,năm 2005 là 143,49%. Nhưng năm 2007 hiệu suất này lại giảm xuống còn 123,8. Nó cho biết một đồng tài sản đem lại cho doanh nghiệp 1,4 đồng doanh thu (năm 2005), nhưng đến năm 2007chỉ là 1,2đồng.
Doanh lợi vốn và doanh lợi vốn chủ sở hữu đều tăng trong năm 2006 nhưng lại giảm vào năm 2007. Một trăm đồng vốn kinh doanh thu được 25,26 (năm 2005) đồng và 27,2(năm 2006) đồng, song năm 2007 chỉ còn 22,49 đồng lợi nhuận. Số lợi nhuận tương ứng kiếm được từ vốn chủ sở hữu là 36 đồng (2005), 42,18 đồng (2006) và chỉ còn 38,6 đồng vào năm (2007).
Qua những chỉ tiêu phân tích sơ bộ trên đây có thể thấy rằng hoạt động sản xuất kinh doanh của xí nghiệp không`phải hoàn toàn thuận lợi, một số chỉ tiêu đã phản ánh tình trạng không ổn định trong hoạt động của xí nghiệp. Ngoài những bất lợi do điều kiện khách quan mang lại thì hoạt động quản lý và sử dụng vốn của xí nghiệp cũng tác động không nhỏ. Do vậy, cần đi sâu phân tích chi tiết để thấy được những mặt được và những mặt hạn chế để có giải pháp kịp thời và hiệu quả.
2.2.2. Hiệu quả sử dụng vốn cố định:
Bảng 5- Hiệu quả sử dụng tài sản cố định và vốn cố định
Đơn vị : Triệu đồng
Stt
Chỉ tiêu
Năm
% tăng, giảm 06/05
% tăng, giảm 07/06
2005
2006
2007
1
Doanh thu
25.672
27.251
28.142
6,1
3,3
2
LN trước thuế
4.520
5.360
5.112
18,6
-4,6
3
NG bình quân TSCĐ
10.961
11.372
13.621
3,7
19,8
4
VCĐ bình quân
11..095
12.109
13.764
9,1
13,7
5
Hiệu suất sử dụng TSCĐ (1)/(3) đơn vị Đồng
2,34
2,4
2,07
2,56
-13,75
6
Sức sinh lợi của TSCĐ (2)/(3) đơn vị Đồng
0,412
0,471
0,421
14,32
-10,61
7
Suất hao phí TSCĐ (3)/(1) đơn vị Đồng
0,426
0,417
0,484
-2,11
16
8
Hiệu suất sử dụng VCĐ (1)/(4) đơn vị Đồng
2,31
2,25
2,04
-2,6
-9,12
9
Hiệu quả sử dụng VCĐ (2)/(4) đơn vị Đồng
0,4
0,44
0,371
10
-15,68
Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định của doanh nghiệp ta không chỉ căn cứ vào tính hiệu quả trong sử dụng vốn cố định mà còn phải đánh giá năng lực hoạt động của tài sản cố định thông qua các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng tài sản cố định như hiệu suất sử dụng tài sản cố định, sức sinh lời của tài sản cố định ...
So với năm 2005, năm 2006 chỉ tiêu hiệu suất sử dụng tài sản cố định và sức sinh lợi của tài sản cố định đều tăng và do đó suất hao phí tài sản cố định (bằng nghịch đảo của sức sinh lợi của tài sản cố định) giảm đi. Năm 2005 một đồng nguyên giá bình quân TSCĐ tạo ra được 2,34 đồng doanh thu, tương ứng tạo ra được 0,412 đồng lợi nhuận. Đến năm 2006 các con số tương ứng là 2,4 đồng và 0,471 đồng. Suất hao phí TSCĐ giảm đi 2,11% trong năm 2006 . Đến năm 2007 thì có sự sụt giảm trong hiệu suất sử dụng cũng như sức sinh lợi của TSCĐ, đồng thời kéo theo sự gia tăng suất hao phí TSCĐ. Đặc biệt sức sinh lợi của TSCĐ giảm 10,61%, từ 0,471 giảm xuống còn 0,421 chứng tỏ trong năm 2007 nguyên giá bình quân tăng mạnh trong khi lợi nhuận lại giảm đi. Điều này là dễ hiểu vì trong năm 2007 doanh nghiệp đã đầu tư thêm máy móc thiết bị mới làm nguyên giá bình quân tăng lên 19,8% nên năng lực sản xuất của tài sản cố định tăng lên khiến doanh thu tăng lên 3,3% so với năm 2006 nhưng sức sinh lợi của tài sản cố định lại giảm xuống
Về hiệu quả sử dụng vốn cố định của xí nghiệp: các chỉ tiêu hiệu suất và hiệu quả sử dụng vốn cố định đều giảm trong năm 2007. Do gia tăng nguyên giá tài sản cố định và các khoản đầu tư tài chính dài hạn khác làm vốn cố định bình quân tăng nhanh trong khi doanh thu và lợi nhuận tăng chậm hơn nhiều.
Năm 2006 vốn cố định bình quân tăng lên 9,1 % trong khi doanh thu chỉ tăng 6,1 % làm hiệu suất sử dụng vốn cố định giảm xuống còn 2,25 so với 2,31 của năm 2005 ( tương ứng giảm 2,6 % ). Tức là một đồng vốn cố định bình quân thu về được 2,25 đồng doanh thu .
Năm 2007, hiệu suất sử dụng vốn cố định giảm 9,12% nhưng hiệu quả sử dụng vốn cố định giảm 15,68% . Cứ một đồng vốn cố định bình quân tạo ra được 0,371 đồng lợi nhuận, so với mức 0,44 đồng của năm 2006.
Năm 2006 và 2007 xí nghiệp tăng các khoản đầu tư tài chính dài hạn làm tăng vốn cố định bình quân trong khi doanh thu và lợi nhuận tăng chậm. Do đó khiến cho hiệu suất sử dụng và hiệu quả sử dụng của vốn cố định giảm đi. Ngoài ra, xí nghiệp phải vay ngân hàng để đầu tư máy móc mà chưa đưa được vào sử dụng trong khi đó công ty vẫn phải trả lãi ngân hàng. Máy móc thiết bị chưa phát huy được năng lực sản xuất mà phải trích khấu hao lớn. Tất cả các yếu tố đó đã làm giảm hiệu quả sử dụng vốn cố định của doanh nghiệp. Tuy vậy, trong thời gian tới những máy móc thiết bị mới đầu tư sẽ phát huy năng lực sản xuất, xí nghiệp sẽ khai thác sử dụng ở mức cao hơn tạo điều kiện nâng cao hiệu suất sử dụng tài sản cố định cũng như hiệu quả sử dụng vốn cố định.
Trên đây là những đánh giá về hiệu quả sử dụng vốn cố định của xí nghiệp chụp ảnh Hàng Không. Để góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của xí nghiệp một trong những hoạt động mà xí nghiệp cần phải quan tâm đó là công tác quản lý, bảo toàn vốn cố định và đầu tư đổi mới tài sản cố định của xí nghiệp.
2.2.3 Hiệu quả sử dụng vốn lưu động:
Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động của xí nghiệp ta dùng các chỉ tiêu như sức sinh lời, hệ số đảm nhiệm vốn lưu động và các chỉ tiêu phản ánh tốc độ luân chuyển vốn lưu động như số vòng quay vốn lưu động, thời gian của một vòng luân chuyển.
Bảng 6 cho thấy mặc dù vốn lưu động tăng liên tục trong hai năm 2006 và 2007 song sức sinh lợi của vốn lưu động chỉ tăng trong năm 2006, năm 2007 sức sinh lợi của vốn cố định giảm mạnh. So với năm 2005, năm 2006 sức sinh lợi của vốn lưu động tăng 5,2 %, nguyên nhân là do vốn lưu động bình quân tăng nhẹ trong khi lợi nhuận tăng khá. Sang năm 2007 mặc dù vốn lưu động bình quân tăng khá cao ( 18,3 % ) song do lợi nhuận của xí nghiệp giảm xuống còn 5.112 triệu đồng, mức giảm tương ứng 4,6 % làm cho sức sinh lợi của vốn cố định giảm . Năm 2007 một đồng vốn lưu động bình quân chỉ đem lại 0,57 đồng lợi nhuận cho xí nghiệp so với mức 0,7 đồng của năm 2006.
Bảng 6- Hiệu quả sử dụng vốn lưu động
Stt
Chỉ tiêu
Đơn vị
Năm
Tỷ lệ % tăng giảm 06/05
Tỷ lệ % tăng giảm 07/06
2005
2006
2007
1
Doanh thu
Tr đ
25.672
27.251
28.142
6,1
3,3
2
LN trước thuế
“
4.520
5.360
5.112
18,6
-4,6
3
VLĐ bình quân
“
6.795
7.025
8.965
11,5
18,3
4
Sức sinh lợi của VLĐ (2)/(3)
đ
0,665
0,7
0,57
5,2
-18,6
5
Hệ số đảm nhiệm VLĐ (3)/(1)
đ
0,264
0,257
0,138
-2,65
23,7
6
Số vòng quay VLĐ (1)/(3)
Vòng
3,778
3,879
3,139
2,67
-19
7
Thời gian 1 vòng luân chuyển
360/(6)
Ngày
95
92
112
-3,15
21,7
Nguồn: Báo cáo tài chính xí nghiệp chụp ảnh Hàng Không các năm 2005,2006,2007
Vốn lưu động bình quân vẫn liên tục tăng nhưng sức sản xuất của vốn lưu động lại có chiều hướng giảm xuống. Dựa vào hệ số đảm nhiệm vốn lưu động ta có thể thấy để có 1 đồng doanh thu thuần thì phải bỏ ra bao nhiêu đồng vốn lưu động. Qua số liệu trên ta thấy hệ số đảm nhiệm vốn lưu động giảm 2,65% trong năm 2006 tức là để tạo ra một đồng doanh thu cần 0,257 đồng vốn lưu động bình quân. Số tương ứng của năm 2005 là 0,264 đồng. Như vậy năm 2006 cần ít vốn cố định bình quân hơn để tạo ra được một đồng doanh thu . Điều này ứng với sự gia tăng của sức sinh lợi của vốn lưu động. Đến năm 2007 hệ số đảm nhiệm vốn lưu động tăng lên, một đồng doanh thu cần có 0,318 đồng vốn lưu động bình quân. So với năm 2006 hệ số đảm nhiệm vốn lưu động tăng tới 23,7%. Nguyên nhân là do sự suy giảm trong sức sinh lợi của vốn lưu động. Hệ số đảm nhiệm vốn lưu động tăng cao chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn lưu động càng thấp, không tiết kiệm được vốn lưu động.
Ngoài các chỉ tiêu trên để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động người ta phải xét đến số vòng quay của vốn lưu động và thời gian của một vòng luân chuyển của vốn lưu động vì nó giúp ta thấy được khả năng quay vòng vốn của doanh nghiệp. Trong năm 2006 số vòng quay của vốn lưu động tăng lên 2,76%, tức là vốn lưu động luân chuyển nhanh hơn. Trong một chu kỳ sản xuất kinh doanh vốn lưu động quay được gần 4 vòng. Do đó thời gian luân chuyển của vốn lưu động được rút ngắn còn 92 ngày so với 95 ngày một vòng của năm 2005. Nhưng đến năm 2007, số vòng quay vốn lưu động lại giảm xuống do đó thời gian luân chuyển chậm hơn. Một chu kỳ sản xuất kinh doanh năm 2007 vốn lưu động quay được 3,139 vòng, chậm hơn 19% so với năm 2006. Thời gian luân chuyển cũng lâu hơn. Để vốn lưu động quay được một vòng cần 112 ngày, tăng 21,7% so với năm 2006. Điều đó chứng tỏ tốc độ doanh thu đã không tăng lên tương ứng với tốc độ tăng vốn lưu động làm giảm số vòng quay của vốn. Đồng thời việc thu hồi các khoản phải thu của khách hàng (chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng vốn lưu động) cũng như các loại vốn lưu động khác rất chậm làm tăng thời gian luân chuyển của vốn lưu động. Điều này ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của xí nghiệp.
Sở dĩ hiệu quả sử dụng vốn lưu động của xí nghiệp năm 2007 lại giảm thấp như vậy là do rất nhiều nguyên nhân nhưng trong đó nguyên nhân quan trọng nhất là sự bất định, không thường xuyên trong việc xí nghiệp được thanh toán các khoản nợ và phải thường xuyên duy trì một khối lượng các khoản phải thu của khách hàng cũng như các khoản phải thu khác lớn. Vì vậy, hoạt động quản lý thu hồi công nợ và quản lý vốn lưu động trong khâu tiêu thụ sản phẩm là rất cần thiết.
2.3 Đánh giá tình hình sử dụng vốn tại xí nghiệp
Là một doanh nghiệp Nhà nước thực hiện kết hợp nhiệm vụ kinh tế với quốc phòng và lại hoạt động trên một thị trường có tính chất đặc thù riêng, ban lãnh đạo xí nghiệp chụp ảnh Hàng Không đã tỏ rõ bản lĩnh kinh doanh của mình trong việc dẫn dắt xớ nghiệp tồn tại và phát triển. Với bản chất là những người lính đi làm kinh tế, lãnh đạo và tập thể cán bộ công nhân viênáI nghiệp chụp ảnh Hàng Không đã thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh với tinh thần cao, tận dụng tối đa mọi nguồn lực sẵn có, liên tục huy động về trang thiết bị, máy móc, vốn và đặc biệt là con người để không ngừng phát triển năng lực sản xuất, mở rộng quy mô, đầu tư thiết bị hiện đại nhằm khẳng định vị trí của xí nghiệp trên thị trường.
Tuy nhiên, xuất phát từ một đơn vị Quốc phòng nay đi làm nhiệm vụ kinh tế, khi bước vào lĩnh vực hoàn toàn mới mẻ này xí nghiệp chụp ảnh Hàng Không đã gặp phải rất nhiều khó khăn đặc biệt là trong công tác quản lý tài chính mà trong đó vấn đề nâng cao hiệu quả sử dụng vốn rất được xí nghiệp quan tâm chú ý. Mặc dù trong thời gian qua xí nghiệp có nhiều cố gắng nhưng trong hoạt động quản lý và sử dụng vốn của công ty vẫn bộc lộ một số hạn chế. Nguyên nhân của các hạn chế này bao gồm cả những lý do chủ quan và khách quan như do những khó khăn từ phía thị trường buộc xí nghiệp phải đưa ra những giải pháp tình thế chưa phù hợp và một phần cũng do những khiếm khuyết mà xí nghiệp khó tránh khỏi trong công tác quản lý tài chính.
2.3.1 Những kết quả đạt được:
Như đã phân tích ở trên, việc sử dụng vốn của xí nghiệp đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Doanh thu không ngừng tăng trong các năm qua khiến đem lại choíi nghiệp nhiều lợi nhuận. Xí nghiệp đã thành công trong việc đảm bảo đủ vốn cho sản xuất kinh doanh. Việc sử dụng điều hoà khá linh hoạt càng làm tăng thêm hiệu quả sử dụng vốn. Điều này thể hiện ở chỗ thời gian qua mặc dù được tài trợ chủ yếu bởi nợ ngắn hạn, songíi nghiệp vẫn không bị mất khả năng thanh toán. Số nợ ngắn hạn được sử dụng để tài trợ cho nhu cầu vốn lưu động ngày càng tăng và một phần nhu cầu tài sản cố định của đơn vị. Với cơ cấu vốn chưa thật sự hợp lý song nghiệp đã cố gắng duy trì được mức lợi nhuận dương.
Mặc dù hiệu quả sử dụng vốn cố định và vốn lưu động tăng trong năm 2006 rồi lại giảm trong năm 2007 nhưng về mặt giá trị thì hiệu quả sử dụng vốn của xí nghiệp đã là một thành tích mà không phải doanh nghiệp nào cũng đạt được trong tình hình cạnh tranh gay gắt như hiện nay.
Xí nghiệp đã duy trì được lượng vốn lưu động chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số vốn của xí nghiệp do đó tạo thuận lợi cho xí nghiệp trong sản xuất kinh doanh, chi phí khấu hao thấp giảm giá thành tăng lợi nhuận. Xí nghiệp đã tận dụng tốt những khoản nợ ngắn hạn mà chủ yếu là vay ngắn hạn và các khoản phải trả phải nộp khác để tài trợ cho tài sản lưu động và một phần khá quan trọng tài sản cố định. Điều này không phải là dễ dàng bởi muốn dùng nợ ngắn hạn để tài trợ cho tài sản dài hạn xí nghiệp phải có đủ uy tín cũng như khả năng phát triển. Việc duy trì các khoản phải thu lơn cũng chưa hẳn là xấu nếu xí nghiệp biết rõ khả năng có thể thu hồi lại được số công nợ này. Đồng thời xí nghiệp có thể ký kết được các hợp đồng mới hoặc có quan hệ kinh doanh với số khách hàng chưa trả nợ này. Nếu biết tiếp thị tốt cũng như duy trì mối quan hệ làm ăn lâu dài này, trong thời gian sắp tới chắc chắn công ty sẽ thu được nhiều lợi nhuận hơn do chính sách tín dụng thương mại thu hút khách hàng. Vì vậy vốn lưu động cũng như vốn cố định sẽ được sử dụng hiệu quả hơn.
2. 3.2 Những hạn chế và nguyên nhân:
Qua phân tích hiệu quả sử dụng vốn ở trên ta có thể dễ dàng nhận thấy hiệu quả sử dụng vốn của xí nghiệp đã giảm trong năm 2007. Điều đó cho thấy công tác quản lý và sử dụng vốn năm 2007 đã có nhiều vướng mắc cần phải tháo gỡ để tiếp tục sản xuất kinh doanh trong những năm tiếp theo.
Những hạn chế trong công tác quản lý và sử dụng vốn cố định:
Trong năm 2006 và 2007 hiệu suất và hiệu quả sử dụng vốn cố định của xí nghiệp đều giảm. Sở dĩ như vậy là do doanh thu và lợi nhuận của xí nghiệp tăng chậm so với sự gia tăng của vốn cố định bình quân. Đặc biệt năm 2007 lợi nhuận của xí nghiệp giảm so với năm 2006 khiến cho hiệu quả sử dụng vốn cố định giảm. Như vậy một hạn chế cơ bản là tài sản cố định đầu tư mới đã không phát huy được tác dụng. Tài sản cố định tăng liên tục trong các năm 2006 và 2007 song doanh thu và lợi nhuận lại không tăng tương ứng. Nguyên nhân là do các tài sản cố định mới đầu tư ít được sử dụng do khối lượng công việc tăng không đáng kể, công suất của máy móc cũ có thể đáp ứng được yêu cầu. Vì vậy, máy móc thiết bị mới hầu như ít được dùng trong khi đó vẫn phải tính và trích khấu hao đối với số máy móc thiết bị mới này. Điều đó làm tăng chi phí sản xuất kinh doanh của đơn vị. Như vậy vốn cố định bình quân tăng nhanh trong khi doanh thu và lợi nhuận tăng lên chậm hoặc giảm đi là một hạn chế trong công tác quản lý sử dụng vốn cố định của xí nghiệp.
Những hạn chế trong công tác quản lý và sử dụng vốn lưu động:
Trong năm 2007 hiệu quả sử dụng vốn lưu động của xí nghiệp giảm chứng tỏ công tác thu hồi nợ của xí nghiệp kém, tồn kho cũng như các khoản tạm ứng, chi phí trả trước, chi phí chờ kết chuyển...lớn khiến xínghiệp bị ứ đọng vốn, giảm tốc độ luân chuyển cũng như sức sinh lợi của vốn lưu động.
Trong cơ cấu vốn lưu động của xí nghiệp có một bộ phận quan trọng nằm trong khâu sản xuất và khâu dự trữ nhằm đảm bảo cho quá trình sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp được liên tục. Bộ phận chủ yếu của vốn lưu động nằm trong khâu sản xuất là giá trị của sản phẩm dở dang hay chi phí sản xuất kinh doanh dở dang. Vốn lưu động nằm trong khâu dự trữ chủ yếu là nguyên vật liệu tồn kho. Tỷ trọng hai khoản mục chi phí sản xuất kinh doanh dở dang và nguyên vật liệu tồn kho trong tổng vốn lưu động của đơn vị đang tăng trong hai năm qua. Nguyên nhân là do chu kỳ sản xuất kéo dài nên nhiều sản phẩm chưa được hoàn thành và xí nghiệp phải duy trì sẵn sàng nguyên vật liệu cho sản xúât các sản phẩm này. Một số sản phẩm sản xuất bị gián đoạn vì bên A sửa thiết kế hay do thiếu vốn khiến xí nghiệp không có tiền thanh toán nguyên vật liệu và trả lương cho công nhân. Ngoài ra hai năm qua còn có một số các sản phẩm chậm được quyết toán do nguyên nhân khách quan cũng như chủ quan ... gây ra tình trạng sản phẩm chậm được thanh toán, nguyên vật liệu phải sẵn sàng ở trong kho để sử dụng tăng tức là nguyên vật liệu tồn kho tăng. Do đó hiện tượng ứ đọng vốn lưu động tác động xấu đến công tác quản lý và sử dụng vốn lưu động tại xí nghiệp. Đây cũng là một vấn đề cần xem xét tìm ra giải pháp khắc phục nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động của xí nghiệp.
Chương 3:
giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại xí nghiệp chụp ảnh hàng không
3.1. Định hướng phát triển của xí nghiệp trong thời gian tới
Cùng với đà phát triển của nền kinh tế đất nước, xí nghiệp chụp ảnh Hàng Không đã đưa ra phương hướng và các chỉ tiêu kế hoạch cụ thể để phấn đấu nâng cao năng lực sản xuất mở rộng thị trường nhằm đạt hiệu quả kinh tế cao nhất.
Trên cơ sở nghiên cứu nhu cầu thị trường và khả năng cung ứng các sản phẩm hiện có cũng như xem xét việc mở rộng để đáp ứng những nhu cầu này, xí nghiệp đã đề ra phương hướng phát triển và đưa ra mức doanh thu tiêu thụ sản phẩm cũng như mức lợi nhuận và thu nhập của người lao động để công ty phấn đấu đạt được. Cụ thể như sau:
Doanh thu: 30.956 triệu đồng, tỷ lệ tăng trưởng khoảng 10%
Nộp ngân sách đạt 7.537 triệu đồng
Lợi nhuận : 5.623 triệu đồng.
Tiền lương bình quân người lao động :3.080.000/tháng.
Để thực hiện được các chỉ tiêu trên, xí nghiệp đã đề ra kế hoạch sản xuất và tiêu thụ sản phẩm được thể hiện thông qua bảng sau:
Chỉ tiêu
Năm trước
Năm sau
Sản phẩm quốc phòng
13.510
14.500
-ảnh địa hình
6.135
6.520
-Tư liệu
3.785
4000
-Bản đồ
3.590
3.980
Sản phẩm kinh tế
25.610
29.400
-ảnh địa hình
10.200
12.560
-Bản đồ địa hình
4.500
5000
-Bản đồ địa chính
7.860
8.600
-Bình đồ ảnh địa hình
3.050
3.240
Trên đây là một số chỉ tiêu mà xí nghiệp chụp ảnh Hàng Không phấn đấu đạt được trong năm 2008. Hoạt động sản xuất kinh doanh của xí nghiệp về cơ bản là có nhiều thuận lợi, tuy nhiên còn có một số khó khăn khách quan cũng như chủ quan gây ảnh hưởng bất lợi đến việc thực hiện thành công các chỉ tiêu trên. Qua phân tích thực trạng hiệu quả sử dụng vốn cho thấy trong năm vừa qua vốn được sử dụng chưa thực sự đem lại lợi nhuận cao nhất, việc đầu tư vào tài sản cố định và tài sản lưu động chưa hiệu quả. Một số chỉ tiêu tài chính biến động theo chiều hướng bất lợi làm giảm sự lành mạnh tài chính của xí nghiệp. Tình hình công nợ đang là một mối lo của xí nghiệp. Với mức nợ còn tồn đọng trong khâu thanh toán cao như năm 2007 thì xí nghiệp sẽ phải rất khó khăn trong việc huy động vốn cho sản xuất kinh doanh năm 2008 cũng như tốn chi phí cho việc thu hồi nợ đọng. Hơn nữa, những khó khăn khách quan cũng ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình sản xuất của xí nghiệp trong năm 2008 này... Tất cả những khó khăn này đòi hỏi công ty phải có giải pháp kịp thời để phát huy thế mạnh, khắc phục điểm yếu tiếp tục duy trì tốt hoạt động sản xuất kinh doanh đạt được mục tiêu kế hoạch đã đề ra. Qua thời gian thực tập được tìm hiểu về xí nghiệp cũng như tình hình tài chính tại xí nghiệp, em xin mạnh dạn đưa ra những ý kiến nhằm giúp xí nghiệp khắc phục những khó khăn, cải thiện tình hình tài chính của mình.
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại xí nghiệp chụp ảnh hàng không
3.2.1. Các giải pháp chung.
Để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nhân tố quan trọng nhất đó chính là con người. Vì vậy để phát huy được một cách tốt nhất các nhân tố đó, thì lãnh đạo chỉ huy đơn vị hàng tháng, hàng quý phải có những buổi họp, sinh hoạt với từng đội sản xuất, các phòng ban, hoặc toàn xí nghiệp để nắm bắt tình hình để có những giải pháp, phương hướng trong thời gian tới. Động viên cán bộ công nhân viên để họ có lập trương tư tưởng vững vàng yên tâm công tác phục vụ hết mình cho xí nghiệp.
Để các cán bộ công nhân viên họ một lòng một dạ phục vụ cho xí nghiệp, thì lãnh đạo xí nghiệp phải có những quan tâm chăm lo hơn nữa tới đời sống cán bộ công nhân viên trong toàn xí nghiệp, động viên tăm hỏi và có những hỗ trợ cho giađình những lúc ốm đau.có những chế độ nghỉ ngơi ăn dưỡng, có những phần thưởng động viên những cá nhân điển hình tiên tiến hàng quý, hàng năm
Có kế hoạch những lúc nhàn rỗi cho cán bộ công nhân viên học tập ôn luyện để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, có kế hoạch cho những cán bộ giỏi có năng lực đi nước ngoài học tập tiếp thu những khoa học kỹ thuật hiện đại, những kinh nghiệm trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Có kế hoạch tuyển chọn những cá nhân có đức có tài về làm việc cho xí nghiệp. Và có những giáo dục bồi dưỡng để những cá nhân này nhanh chóng làm chủ những khoa học kỹ thuật để có thể thay thế được những người về hưu.
3.2.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định.
3.2.2.1. Lựa chọn phương pháp trích khấu hao và sử dụng quỹ khấu hao hợp lý.
Như đã phân tích, tài sản cố định trong quá trình sử dụng sẽ bị hao mòn dần cho đến khi hết thời hạn sử dụng. Phần giá trị hao mòn của tài sản cố định được tính vào chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. ở các doanh nghiệp có giá trị tài sản cố định cao thì chi phí khấu hao tài sản cố định chiếm tỷ trọng không nhỏ trong tổng chi phí của doanh nghiệp. Hơn nữa, phần giá trị hao mòn được tích luỹ trong quỹ khấu hao của xí nghiệp để sẵn sàng thay thế tài sản cố định cũ khi đã hết thời hạn sử dụng. Vì vậy, việc tính toán đúng và đủ mức khấu hao tài sản cố định có vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của xí nghiệp. Đối với xí nghiệp chụp ảnh Hàng Không, việc tính toán và sử dụng quỹ khấu hao hợp lý đang là một yêu cầu và điều kiện quan trọng để cải thiện và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nói chung cũng như hiệu quả sử dụng vốn cố định của xí nghiệp nói riêng.
Trong công tác khấu hao tài sản cố định, hiện xí nghiệp chụp ảnh Hàng Không áp dụng phương pháp khấu hao đường thẳng đối với tất cả tài sản cố định. Có nghĩa là xí nghiệp ấn định thời gian sử dụng cho mỗi tài sản cố định từ đó xác định mức khấu hao hàng năm theo nguyên giá và thời hạn sử dụng đó. Việc xác định thời hạn sử dụng của tài sản cố định chủ yếu dựa trên các thông số kỹ thuật mà chưa quan tâm đến mức độ và cường độ sử dụng tài sản cố định tại xí nghiệp. Phương pháp khấu hao này có ưu điểm là việc tính toán mức khấu hao hàng năm, hàng tháng, hàng quý khá đơn giản, chi phí sản xuất kinh doanh của xí nghiệp ổn định không bị đột biến.. Nhưng với mức trích khấu hao đều như vậy đã không phản ảnh được mức độ sử dụng của tài sản cố định, do đó thời điểm kết thúc trích khấu hao tài sản cố định không trùng với thời điểm tài sản cố định bị hao mòn hết tính năng và công suất. Một số tài sản cố định do có cường độ sử dụng cao nên nhanh hỏng, chúng hết giá trị sử dụng trong khi vẫn được trích khấu hao; hoặc có một số tài sản cố định dùng ít nên có thể kéo dài được thời gian sử dụng nhưng trong khi chúng vẫn còn giá trị sử dụng thì đã trích khấu hao xong. Trích khấu hao không chính xác như vậy khiến cho chi phí sản xuất kinh doanh của xí nghiệp không phản ánh đúng thực trạng sử dụng tài sản cố định tại xí nghiệp. Hơn nữa tính toán không chính xác thời gian sử dụng tài sản cố định khiến mức tích luỹ khấu hao (quỹ khấu hao tài sản cố định) có thể không đủ để thay thế tài sản cố định cũ khi chúng hết hạn sử dụng thực sự.
Tuy nhiên, dựa vào mức khấu hao kế hoạch năm, xí nghiệp thường có xu hướng coi đây là mức khấu hao khuôn mẫu để tính toán phân bổ mức khấu hao hàng năm cho các tài sản cố định. Điều đó không phản ánh đúng tác dụng của việc tính toán và lập quỹ khấu hao cũng như không đảm bảo phản ứng linh hoạt trước những thay đổi về nguyên vật liệu, thị trường cũng như các yếu tố khác ảnh hưởng đến chi phí sản xuất kinh doanh của xí nghiệp. Vì vậy trong thời gian sắp tới xí cần chú trọng tới công tác tính toán mức khấu hao tài sản cố định theo hướng sau:
Vẫn áp dụng khấu hao theo đường thẳng nhưng việc tính toán thời gian sử dụng tài sản cố định cần điều chỉnh lại. Các loại trang thiết bị có cường độ làm việc cao thì được ấn định số năm thu hồi nguyên giá ít và ngược lại thiết bị có cường độ làm việc thấp thì ấn định thời gian thu hồi vốn dài hơn. Việc xác định cường độ làm việc của thiết bị dựa trên các báo cáo về tình hình sử dụng tài sản cố định của các phòng ban, kế hoạch công việc định kỳ của phòng kế hoạch cũng như những định mức kinh tế-kỹ thuật khác.
Đồng thời xí nghiệp nên áp dụng phương pháp khấu hao nhanh đối với một số tài sản cố định quan trọng, thời gian làm việc lớn và cường độ làm việc cao để có thể thu hồi vốn đầu tư nhanh và đảm bảo phản ánh đúng mức độ sử dụng của tài sản cố định. Việc xác định cường độ làm việc của tài sản cố định dựa trên số lượng công việc cần thiết bị đó cũng như số lượng thiết bị tương ứng hiện có tại xí nghiệp. Hiển nhiên rằng với một máy móc thiết bị được sử dụng với cường độ cao thì tính năng và công suất của nó giảm nhanh hơn so với cùng thiết bị đó nhưng được sử dụng ít hơn. Với cách xác định như vậy, mức khấu hao sẽ phản ánh đúng mức độ dịch chuyển giá trị của tài sản cố định vào sản phẩm và quỹ khấu hao thu được đủ để bù đắp chi phí cho việc thay thế tài sản cố định cũ đã hết thời hạn sử dụng.
Ngoài ra, đối với các máy móc thiết bị đầu tư mới bằng vốn vay ngân hàng, xí nghiệp phải trả lãi và gốc trong thời hạn quy định, thường là ngắn hơn thời hạn sử dụng của tài sản cố định được đầu tư. Về nguyên tắc, số tiền trích khấu hao thu được phải được dùng để trả lãi và vốn vay. Vì vậy xí nghiêp nên áp dụng phương pháp khấu hao nhanh để hoàn trả cho ngân hàng. Tuy nhiên, việc trích khấu hao này đã không phản ánh đúng mức độ sử dụng của tài sản cố định. Hơn nữa, xí nghiệp gặp phải khó khăn trước cơ chế tài chính của ngân hàng và khung quy định khấu hao của Nhà nước. Có những tài sản xí nghiệp đầu tư bằng vốn vay ngân hàng, theo quy định của Nhà nước tài sản đó được khấu hao nhanh nhất trong 6 năm nhưng công ty lại phải trả vốn vay ngân hàng trong 4 năm khiến xí nghiệp gặp không ít khó khăn trong việc tính trích khấu hao và trả lãi vay cho ngân hàng.
Xí nghiệp chỉ nên điều chỉnh khấu hao của kỳ thực tế theo những định mức khấu hao kế hoạch đã đặt ra. Như đã phân tích việc tính toán trước khấu hao (mức khấu hao theo kế hoạch) là một phần trong việc xác định trước chi phí sản xuất kinh doanh nhằm dự báo lợi nhuận. Đây chỉ nên là định mức kế hoạch cho xí nghiệp chứ không phải là chuẩn khấu hao để tiến hành trích lập định kỳ. Mức khấu hao thực tế có thể lớn hơn hay nhỏ hơn mức khấu hao kế hoạch tuỳ theo tình hình sử dụng tài sản cố định trong kỳ mà vẫn dự tính trước được chi phí khấu hao hợp lý. Xác định được điều này thì tính chính xác trong việc theo dõi giá trị tài sản cố định của xí nghiệp chắc chắn sẽ được nâng cao.
3.2.2.2. Nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư đổi mới tài sản cố định.
Xí nghiệp chụp ảnh Hàng không có lượng tài sản cố định với số lượng lớn để sẵn sàng sản xuất. Việc đổi mới tài sản cố định đối với xí nghiệp là nhu cầu thường xuyên và là điều kiện trọng yếu để xí nghiệp có thể tồn tại và phát triển được. Xuất phát từ đặc điểm sản xuất kinh doanh mang tính chất đặc thù riêng, việc đầu tư đổi mới tài sản cố định thường theo hai xu hướng:
Một là: đầu tư “ đón đầu “ . Đây là cách được sử dụng khá phổ biến Đó là cách doanh nghiệp thực hiện đầu tư mua sắm Tài sản cố định trước khi tham gia đấu thầu hoặc nhận được đơn đặt hàng sản xuất. Ưu điểm cơ bản của phương pháp này là nhờ đầu tư tài sản cố định làm tăng năng lực về máy móc thiết bị cũng như công nghệ tiên tiến, tăng tính đồng bộ của máy móc thiết bị, đảm bảo khả năng sản xuất với kỹ thuật cao ...Điều đó giúp doanh nghiệp hạ được giá thành sản phẩm, tăng chất lượng sản phẩm cũng như giảm thời gian sản xuất, sẵn sàng sản xuất sau khi nhận đươc đơn đặt hàng...từ đó làm tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp
Tuy nhiên, nếu không nhận được đơn đặt hàng thì việc đầu tư theo cách này thường gây ra tình trạng máy móc thiết bị đầu tư mới phải nằm chờ việc, doanh nghiệp phải mất chi phí bảo quản, trích khấu hao cho tài sản mà không phát huy được năng lực, không phản ánh đúng tình hình sử dụng máy móc của doanh nghiệp. Hơn nữa nếu tài sản cố định này được đầu tư bằng vốn vay ngân hàng thì xí nghiệp còn phải chịu một khoản lãi vay không nhỏ.
Xu hướng thứ hai trong đầu tư tài sản cố định là các doanh nghiệp sau khi thắng thầu, căn cứ vào yêu cầu kỹ thuật của sản phẩm và tình trạng tài sản cố định của mình mà có kế hoạch đầu tư tài sản cố định. Theo cách này việc đầu tư tài sản cố định có trọng điểm hơn, nhanh chóng phát huy được năng lực sản xuất. Tuy nhiên việc đầu tư theo cách này có thể bỏ lỡ các cơ hội kinh doanh và việc đầu tư tài sản cố định không phải lúc nào cũng dễ dàng nhanh chóng do đó việc sản xuất có thể bị ngưng trệ trong khi doanh nghiệp tìm kiếm mua máy móc thiết bị.
Qua phân tích thực trạng ở xí nghiệp chụp ảnh Hàng Không thời gian qua cho thấy việc đầu tư tài sản cố định theo xu hướng “ đón đầu”: phần lớn tài sản cố định của xí nghiệp , đặc biệt là máy móc thiết bị được mua sắm trước khi nhận được đơn đặt hàng sản xuất. Có thể thấy rõ tài sản cố định tăng dần qua các năm, việc đầu tư chủ yếu là máy móc thiết bị nhằm tăng năng lực của xí nghiệp. Nhưng việc đầu tư đã không mang lại hiệu quả như mong muốn, một loạt các máy móc hiện đại không có việc để sản xuất do xí nghiệp có thêm ít hợp đồng sản xuất mới, khối lượng sản xuất ít khiến máy móc thiết bị được sử dụng không hết công suất. Do đó hiệu quả sử dụng tài sản cố định giảm sút rất lớn. Đồng thời chi phí cho bảo quản, trích khấu hao tài sản cố định trả lãi vay ngân hàng cho những tài sản cố định này rất lớn cũng là một trong những nguyên nhân làm tăng chi phí sản xuất kinh doanh, xí nghiệp không hoàn thành kế hoạch lợi nhuận.
Do vậy, việc tiếp tục đầu tư theo xu hướng trên của xí nghiệp ở thời điểm hiện tại là chưa cần thiết và có thể còn dẫn tới sự giảm sút nhanh hơn hiệu quả sử dụng của các tài sản cố định cũng như làm nghiêm trọng hơn sự mất cân đối trong cơ cấu tài sản cố định của xí nghiệp. Hiện nay, với máy móc thiết bị đã được đầu tư cũng như nhu cầu thị trường dự báo có thể đảm bảo năng lực sản xuất của xí nghiệp ít nhất trong 4 - 5 năm tới. Vì vậy, trong năm 2008 xí nghiệp nên hạn chế đầu tư thêm máy móc thiết bị trừ những máy móc thiết bị bắt buộc phải có cho sản xuất. Bên cạnh đó xí nghiệp cần cân đối lại cơ cấu đầu tư, quan tâm hơn tới tài sản cố định là các phương tiện quản lý có nguy cơ hao mòn vô hình nhanh. Quy mô đầu tư đổi mới cho những tài sản này tương đối nhỏ chỉ ở mức khoảng vài ba trăm triệu nhưng hiệu quả sử dụng của các tài sản cố định thuộc loại này chắc chắn sẽ tăng lên một cách rõ rệt, gấp nhiều lần so với những việc đầu tư vào máy móc thiết bị và bù đắp phần nào hiệu quả sử dụng thấp của máy móc thiết bị trong một hai năm đầu, nâng cao hiệu quả đầu tư chung.
3.2.2.3. Nâng cao hiệu suất sử dụng tài sản cố định.
Hiệu suất sử dụng tài sản cố định về thời gian, về công suất quyết định đến phần lớn hiệu quả sử dụng vốn cố định. Thực trạng xí nghiệp cho thấy máy móc thiết bị đã không được sử dụng hết công suất, thời gian sử dụng ít, do đó hiệu quả sử dụng tài sản cố định cũng như vốn cố định chưa cao. Do vậy, xí nghiệp phải cố gắng áp dụng các giải pháp nâng cao hiệu suất sử dụng máy móc thiết bị.
Giải pháp quan trọng nhất để nâng cao hiệu suất sử dụng là đẩy mạnh hơn nữa công tác tìm kiếm việc làm, xí nghiệp phải tích cực chủ động tìm kiếm, tiếp thị, không thụ động chờ Tổng cục giao việc. Có việc làm xí nghiệp mới có thể phát huy năng lực của máy móc thiết bị cả về thời gian và công suất.
Nâng cao năng lực của cán bộ quản lý các đội sản xuất, tăng cường mối quan hệ giữa các đội sản xuất với nhau cũng như sự chỉ đạo sát sao của xí nghiệp với các đội sản xuất,làm cho ý thức làm việc của mọi người được nâng cao,như vậy sẽ phát huy được hiệu suất sử dụng máy móc thiết bị.
3.2.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động.
3.2.3.1. Đẩy nhanh việc thu hồi công nợ, thúc đẩy hoạt động thanh toán giữa các đối tác.
Qua phân tích công tác quản lý các khoản phải thu cho thấy xí nghiệp chụp ảnh Hàng Không có một khoản vốn lớn nằm tồn đọng trong khâu thanh toán, công nợ phải thu của xí nghiệp. Nếu rút ngắn thời gian thu hồi nợ
thì xí nghiệp sẽ tiết kiệm được nhiều chi phí, nó giúp xí nghiệp giảm nhiều khoản vay ngắn hạn.
Để thúc đẩy tốc độ thu hồi công nợ, xí nghiệp cần chú ý tới các vấn đề sau:
+ Xác định rõ nguồn vốn của các sản phẩm mà xí nghiệp tham gia ký kết hợp đồng sản xuất.
Đối với sản phẩm có vốn ngân sách cấp thường có đặc điểm là:
Quá trình quyết toán các sản phẩm chậm do việc chờ kết quả thẩm định của các cấp có thẩm quyền.
Quá trình thanh toán sẽ được tiến hành do chờ vốn cấp theo chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước hoặc các bộ ngành.
Đối với sản phẩm kinh tế:
Sản phẩm luôn đòi hỏi về kỹ thuật, chất lượng cao, tiến độ thi công nhanh.
Quá trình thanh toán sẽ được tiến hành nhanh hơn đối với sản phẩm có vốn ngân sách cấp.
Như vậy, qua việc tìm hiểu thực trạng nguồn vốn đầu tư cho các sản phẩm mà xí nghiệp sẽ ký kết hợp đồng sản xuất sẽ giúp cho việc ra quyết định có thực hiện hay không, nếu thực hiện thì đề ra phương án sản xuất phù hợp, dự tính trước được việc thanh toán do đó xí nghiệp chủ động hơn trong việc đảm bảo vốn cho kinh doanh. Đặc biệt, xí nghiệp nên hạn chế thi công trước các sản phẩm chưa có kế hoạch cấp vốn từ ngân sách Nhà nước. Mặt khác, biết trước thực trạng nguồn vốn của các sản phẩm để xí nghiệp có kế hoạch về vốn cho việc khởi đầu sản xuất sản phẩm cũng như kế hoạch thu hồi vốn của xí nghiệp.
3.2.3.2. Thực hiện tốt công tác dự toán Ngân quỹ.
Xí nghiệp chụp ảnh Hàng Không có thể tiến tới việc dự toán Ngân quỹ của mình. Mặc dù chưa cụ thể và độ chính xác chưa cao nhưng chắc chắn nó sẽ hơn hẳn tình trạng khá bị động trong việc quản lý các dòng tiền xuất nhập quỹ như hiện nay. Với cơ chế quản lý vốn lưu động hiện hành, trong cơ chế chính sách thắt chặt tiền tệ của chính phủ hiện nay, nhiều khi xí nghiệp phải rất khó khăn trong việc tìm kiếm nguồn tài trợ để đáp ứng đủ những nhu cầu vốn lớn đột xuất phục vụ cho thi sản xuất kinh doanh. Đây không những là sự lãng phí lớn về chi phí và nhân lực, giảm sự lành mạnh trong hoạt động tài chính của xí nghiệp.
Để dự toán được Ngân quỹ, phải nắm được quy mô thời điểm nhập xuất của các dòng tiền tệ. Việc cải thiện cơ chế thanh toán, tăng cường tốc độ thu hồi công nợ là cơ sở tốt để xí mghiệp chụp ảnh Hàng Không có thể nắm được các dòng tiền nhập quỹ. Vấn đề còn lại là quản lý các dòng tiền xuất quỹ. Đây có thể nói là công việc dễ dàng hơn và phụ thuộc nhiều vào nỗ lực quản lý của bản thân xí nghiệp.
Để quản lý các dòng tiền xuất quỹ, có thể chia chúng thành các khoản có thể dự trù được tương đối chính xác và các khoản tiền xuất quỹ biến động. Các dòng tiền xuất quỹ tương đối ổn định và có thể dự đoán trước là tiền lương phải trả cho cán bộ công nhân viên, tiền sửa chữa, bảo dưỡng định kỳ máy móc, chi phí dịch vụ mua ngoài, lãi vay ngân hàng...Các khoản này có thể dự trù được tương đối chính xác nên xí nghiệp có thể chủ động hơn trong việc huy động vốn đáp ứng nhu cầu này. Để quản lý tốt ngân quỹ cần giảm thiểu sự biến động của các dòng xuất quỹ ổn định này bằng cách xí nghiệp có thể trích trước chi phí hoặc đặt ra mức chi phí kế hoạch làm khung chuẩn cho chi phí thực tế phát sinh.
Các dòng xuất quỹ khó có thể dự đoán trước là chi thanh toán nguyên vật liệu, chi sửa chữa máy móc hỏng bất thường cũng như chi phí các hoạt động bất thường khác...Để có thể dự đoán được chính xác nhu cầu thanh toán nguyên vật liệu của các đội sản xuất, phòng kế toán tài chính cần phối hợp hoạt động với phòng kinh tế - kế hoạch, phòng xe máy - vật tư, các đội trưởng đội sản xuất ... Ngay từ khi nhận được đơn đặt hàng sản xuất, phòng kế hoạch kỹ thuật, phòng hành chính - vật tư phải căn cứ vào hợp đồng để vạch ra tiến độ sản xuất hợp lý, dự trù trước nhu cầu nguyên vật liệu của từng giai đoạn đoạn sản xuất. Đó là cơ sở để phòng tài chính – kế toán dự trù nhu cầu vốn lưu động trong kỳ, đề ra các biện pháp cân đối giữa nguồn thu và chi, bù đắp thiếu hụt một cách chủ động. Tất nhiên trong quá trình thực hiện sẽ phát sinh những chênh lệch cần tới sự điều chỉnh nhưng với sự phối hợp chặt chẽ giữa các phòng ban như trên thì việc điều chỉnh sẽ không quá phức tạp. Đồng thời, sự phối hợp đó sẽ giúp cho vốn, vật tư... của xí nghiệp được quản lý chặt chẽ hơn, nghiệp vụ của các bộ phận trong xí nghiệp sẽ nâng cao và xí nghiệp sẽ vững vàng hơn trong cơ chế thị trường đầy biến động.
Ngoài ra xí nghiệp cần xây dựng mối quan hệ với bên cung cấp nguyên vật liệu cho sản xuất. Việc ký trước hợp đồng về việc vận chuyển nguyên vật liệu đúng địa điểm thời gian cũng như với khung giá thoả thuận giúp xí nghiệp chủ động hơn trong việc đảm bảo đầy đủ nhu cầu nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất một cách kịp thời.
3.2.3.3. Các biện pháp kinh tế khác
Để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động các doanh nghiệp ngoài cách sử dụng các giải pháp trên cần áp dụng một số biện pháp tổng hợp như: đẩy mạnh khâu tiêu thụ hàng hoá, xử lý kịp thời các vật tư hàng hoá chậm luân chuyển để giải phóng vốn; thường xuyên xác định phần chênh lệch giá giữa giá mua ban đầu với giá thị trường tại thời điểm kiểm tra tài sản lưu động tồn kho để có biện pháp xử lý kịp thời, hiệu quả; tăng cường việc kiểm tra tài chính đối với việc sử dụng vốn lưu động, thực hiện công việc này thông qua một số chỉ tiêu như: vòng quay vốn lưu động, sức sinh lợi của vốn lưu động ... Trên cơ sở đó, biết được rõ tình hình sử dụng vốn lưu động trong doanh nghiệp, phát hiện những vướng mắc nhằm sửa đổi kịp thời, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động.
Thực hiện nghiêm túc, triệt để công tác thanh toán công nợ, chủ động phòng ngừa rủi ro, hạn chế tình trạng bị chiếm dụng vốn mà từ đó làm phát sinh nhu cầu vốn lưu động dẫn đến doanh nghiệp phải đi vay ngoài kế hoạch, tăng chi phí vốn mà đáng lẽ không có. Vốn bị chiếm dụng ngày càng trở thành gánh nặng cho doanh nghiệp khi trở thành nợ khó đòi, gây thất thoát vốn của doanh nghiệp. Bởi vậy, để chủ động hơn trong hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp nên lập các quỹ dự phòng tài chính để có thể bù đắp khi vốn bị thiếu hụt.
3.3. Kiến nghị
3.3.1. Kiến nghị với cơ quan chủ quản (Bộ Quốc Phòng)
Xí nghiệp chụp ảnh Hàng Không là một doanh nghiệp Nhà nước cho nên mọi hoạt động sản xuất kinh doanh chủ yếu dựa vào nguồn vốn được cấp và nguồn vốn tự bổ sung từ lợi nhuận kinh doanh và các nguồn vốn huy động khác. Trong năm 2007 vừa qua xí nghiệp gặp nhiều khó khăn trong sản xuất: nhiều sản phẩm giá cả thấp, những bất lợi do điều kiện khách quan mang lại đã làm giảm lợi nhuận của xí nghiệp. Để tăng hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung và hiệu quả sử dụng vốn tại xí nghiệp nói riêng, Bộ Quốc Phòng cần có biện pháp giúp đỡ tạo điều kiện cho xí nghiệp.
- Cấp bổ sung thêm vốn cố định, vốn lưu động và lực lượng quản lý có nghiệp vụ tốt.
- Giúp đỡ tạo công ăn việc làm cho xí nghiệp để có thể khai thác năng lực hoạt động của máy móc thiết bị đã đầu tư trong năm 2007 mà chưa được sử dụng.
- Cho phép xí nghiệp được giữ lại quỹ khấu hao để góp phần tăng nguồn vốn hoạt động cho xí nghiệp, xí nghiệp có điều kiện đầu tư đổi mới máy móc thiết bị mà không phải hoàn toàn phụ thuộc vào vốn vay ngân hàng.
Đồng thời, Bộ Quốc Phòng nên tạo điều kiện tốt để xí nghiệp chủ động hơn trong sản xuất kinh doanh cũng như có cơ chế thanh toán công bằng giữa xí nghiệp với Bộ Quốc Phòng để xí nghiệp đỡ thiệt thòi.
3.3.2. Kiến nghị với Nhà nước.
Đối với công tác khấu hao tài sản cố định tại xí nghiệp, Nhà nước nên cho phép xí nghiệp chủ động trong việc xác định mức trích khấu hao đối với từng tài sản của xí nghiệp tuỳ thuộc vào mức độ sử dụng trong năm để việc trích phản ánh đúng mức độ hao mòn của tài sản cố định.
Sớm hoàn thiện thủ tục hoàn thuế để tạo điều kiện thuận lợi cho xí nghiệp trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh đặc biệt trong những trường hợp xí nghiệp mua máy móc thiết bị được giảm thuế...
Kết luận
Tổ chức và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đang là vấn đề mang tính thời sự cấp bách, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với các doanh nghiệp trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay.
Thời gian qua việc quản lý, sử dụng vốn tại xí nghiệp chụp ảnh Hàng Không đã đạt được những kết quả khả quan.Với qui mô vốn vừa phải, trình độ khoa học kỹ thuật, lượng máy móc thiết bị chưa thực sự hiện đại, xí nghiệp đã sử dụng các nguồn lực sẵn có của mình để không ngừng làm tăng lợi nhuận cũng như quy mô số vốn sở hữu của mình.Tuy nhiên trong điều kiện giá cả nguyên vật liệu trong nước và trên thế giơí đều tăng, lạm phát,chính phủ thắt chặt tiền tệ, như hiện nay vì vậy đòi hỏi xí nghiệp phải tích cực chủ động phấn đấu nâng cao hơn nữa hiệu quả của công tác tổ chức và sử dụng vốn, đồng thời nâng cao đời sống cho cán bộ công nhân viên của xí nghiệp.
Trong thời gian thực tập tại xí nghiệp, tôi đã đi sâu tìm hiểu về vấn đề hiệu quả sử dụng vốn tại xí nghiệp, thông qua việc phân tích các chỉ tiêu tài chính, nêu ra các ý kiến đóng góp nhằm giúp xí nghiệp cải thiện và tăng cường hiệu quả sử dụng vốn của mình. Với sự giúp đỡ nhiệt tình của các cán bộ trong phòng tài chính – kế toán của xí nghiệp, cùng sự chỉ bảo của thầy giáo PGS .TS. Vũ Duy Hào, trên cơ sở những kiến thức có được trong quá trình học tập, tôi hy vọng rằng chuyên đề này sẽ góp phần đưa ra những giải pháp gợi ý cho xí ghiệp đưa ra các quyết định đúng đắn. Tuy nhiên do còn có nhiều hạn chế về năng lực kiến thức và kinh nghiệm thực tế nên trong chuyên đề này chắc chắn có nhiều khiếm khuyết. Tôi rất mong được các thầy cô, bạn bè, các anh chị, cô chú trong xí nghiệp chụp ảnh Hàng Không chỉ bảo và đưa ra những nhận xét, góp ý để tôi có thể hoàn thiện hơn nữa chuyên đề tốt nghiệp cũng như kiến thức của bản thân.
Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình: Tài chính doanh nghiệp Khoa Ngân hàng-Tài chính trường ĐHKTQD.
2. Quản trị tài chính doanh nghiệp. Tác giả: PGS.TS. Vũ Duy Hào- PGS.TS. Lưu Thị Hương Nxb tài chính -2006
3. Báo cáo tài chính Xí nghiệp chụp ảnh Hàng Không - Bộ Tổng Tham Mưu các năm 2005,2006 và 2007
4. Tạp chí tài chính
5. Tạp chí ngân hàng
Cùng các luận văn khoa Ngân hàng-Tài chính. ĐH KTQD các khoá 42,43
Xác nhận của đơn vị thực tập
Hà Nội, ngày.........tháng.........năm 2008
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 7851.doc