Đề tài Nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế

Trong mấy thập kỷ gần đây, sự tăng trưởng trong thương mại quốc tế với sự tham gia của các DNNVV trong tiến trình này là sự quan tâm chung của các nhà hoạch định chính sách, các nhà phân tích kinh tế cũng như của tất cả mọi doanh nghiệp. Có thể nói, ở bất cứ nơi nào có sự tăng trưởng kinh tế thì ở đó đều có những cơ hội. Đối với nền kinh tế Việt Nam cũng vậy, tham gia vào tiến trình hội nhập với nền kinh tế toàn cầu đang mở ra những cơ hội cho các DNNVV phát triển, đồng thời tiến trình này cũng đang đặt ra những thách thức không nhỏ cần phải được nhận thức rõ để từ đó đặt ra những giải pháp, hướng đi đúng đắn nhằm tận dụng được đến mức tối đa những cơ hội do hội nhập mang lại và giảm đến mức tối thiểu những khó khăn, bất lợi có thể có trên con đường phát triển của mình.

doc117 trang | Chia sẻ: Kuang2 | Lượt xem: 990 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
máy móc mới hoặc các doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc tiếp cận các khoản tín dụng từ ngân hàng bởi doanh nghiệp sẽ không phải thanh toán ngay số tiền khi mua hàng, mà thay vào đó họ chỉ phải trả số tiền thuê máy móc nhỏ hơn nhiều. Do đó, các văn bản pháp luật cần tạo điều kiện thuận lợi để các thoả thuận thuê, thuê tài chính, thuê mua và các hợp đồng trả góp được thực hiện dễ dàng. Tiếp tục loại bỏ những trở ngại về luật pháp và chính sách đối với việc chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam. Bao gồm: sửa đổi bộ luật dân sự và các văn bản quy phạm pháp luật khác khi cần thiết nhằm loại bỏ các qui định bắt buộc về hợp đồng chuyển giao công nghệ - yêu cầu sự phê duyệt từng trường hợp chuyển giao công nghệ của Bộ Khoa học Công nghệ Môi trường - và cho phép việc chuyển giao công nghệ tuân theo các hợp đồng được thực hiện trên cơ sở tự do thoả thuận. Cung cấp các thông tin về công nghệ cho các DNNVV và đào tạo các nhà điều hành quản lý, luật sư, kỹ sư vào việc đàm phán các hợp đồng chuyển giao công nghệ. Đơn giản hoá các thủ tục và giảm bớt chi phí chuyển giao công nghệ liên quan đến các vấn đề thị thực nhập cảnh, thuế thu nhập cá nhân đánh vào chuyên gia nước ngoài làm việc tại Việt Nam, cước thông tin liên lạc. Nghiêm túc xem xét việc nới lỏng các quy định nghiêm ngặt hiện hành có liên quan đến việc hạn chế nhập khẩu máy móc và thiết bị cũ để cho phép nhập khẩu thiết bị cũ phù hợp với khả năng tài chính nhưng vẫn có thể dùng được. Điều đó cho phép các DNNVV nâng cao năng lực sản xuất của mình một cách tiết kiệm hơn mà vẫn không biến đất nước thành một “bãi rác” của những máy móc hư hỏng. Phát triển đầy đủ và đồng bộ các thị trường yếu tố sản xuất Khả năng tiếp cận của các DNNVV đối với các yếu tố sản xuất như vốn, lao động, đất đai, thông tin,... với phí tổn thấp nhất là một trong những yếu tố hàng đầu tác động đến khả năng cạnh tranh của các DNNVV. Do vậy, trong giai đoạn hiện nay, cần phải chú trọng đến vai trò của thị trường trong việc phân bổ các nguồn lực sản xuất, biểu hiện ở một số lĩnh vực sau: Thị trường tài chính (bao gồm cả việc hình thành và phát triển các loại hình dịch vụ tài chính, tín dụng). Đây là hướng cơ bản để giải quyết vấn đề nguồn vốn đầu tư cho các DNNVV, nó đóng vai trò quan trọng trong việc hoạch định chính sách phát triển các DNNVV. Ngoài ra nền kinh tế của một quốc gia sẽ không thể phát triển được nếu thiếu vắng các định chế trung gian tài chính hoạt động có hiệu quả, các loại hình dịch vụ tài chính, tín dụng cần thiết. Vấn đề trước mắt là phải làm lành mạnh hoá tình hình tài chính của các tổ chức tín dụng như tăng vốn tự có cho các tổ chức tín dụng, tạo ra tiềm lực mạnh để tăng khả năng hoạt động và đáp ứng việc bù đắp những rủi ro. Đồng thời xử lý dứt điểm các khoản nợ quá hạn, nợ đọng thông qua việc thành lập công ty khai thác tài nguyên thế chấp để mua lại tài sản khê đọng, nợ xử lý, tài sản thế chấp của các ngân hàng thương mại để bán lại, thu hồi nợ, làm lành mạnh tình hành tài chính của các doanh nghiệp, các tổ chức tín dụng. Xây dựng thêm loại hình tổ chức tín dụng mới để hỗ trợ lẫn nhau, bảo đảm tính an toàn của hệ thống. Có các giải pháp thúc đẩy sự phát triển của thị trường vốn (hệ thống các ngân hàng thương mại, các công ty tài chính, quỹ đầu tư, thị trường chứng khoán,...); phát triển các loại công cụ tài chính cần thiết, tạo hàng hoá (cổ phiếu của các công ty cổ phần, trái phiếu chính phủ, trái phiếu công trình) qua các Trung tâm giao dịch chứng khoán để đáp ứng nhu cầu cho các nhà đâù tư, thúc đẩy quá trình luân chuyển vốn; ban hành cơ chế tài chính đối với việc chiết khấu và tái chiết khấu các công cụ tài chính (nghiệp vụ bao thanh toán - Factoring)... khuyến khích việc phát triển các định chế trung gian tài chính như các công ty đầu tư tài chính, công ty thuê mua tài chính, quỹ tín thác đầu tư,... để tăng cường việc huy động là luân chuyển vốn trên thị trường. Tiếp tục các biện pháp lành mạnh hoá thị trường tài chính để hạ thấp chi phí vốn vay cho các doanh nghiệp; nghiên cứu xây dựng và áp dụng một hệ thống giám sát đối với thị trường tài chính theo các chuẩn mực là thông lệ quốc tế, thực hiện cơ chế giám sát từ xa (giám sát thông qua chế độ báo cáo trên cơ sở hình thành một số chỉ số giám sát). Vấn đề tài chính được coi là một trong 3 yếu tố để đánh giá mức độ hội nhập nên rất quan trọng. Kinh nghiệm của Trung Quốc cho thấy 95% các công ty là DNNVV nên họ rất quan tâm hỗ trợ tài chính cho loại hình kinh tế này. Mới đây một dự luật hỗ trợ cho 9 triệu DNNVV đã được thông qua. Thị trường bất động sản và chính sách đất đai. Xây dựng hệ thống đăng ký và hình thành một loại hình dịch vụ chuyển nhượng quyền sử dụng đất làm cho việc kinh doanh quyền sử dụng đất được trôi chảy và khắc phục sự bất bình đẳng trong việc phân phối đất. Mở rộng quyền của doanh nghiệp tư nhân trong việc chuyển nhượng, cho thuê, thế chấp, cầm cố tài sản thuộc quyền quản lý của doanh nghiệp,... về quyền sử dụng đất chỉ cần đăng ký với một cơ quan duy nhất (ngoại trừ một số trường hợp). Đẩy nhanh quá trình cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (cố gắng hoàn thành trong năm 2002) để tạo điều kiện khai thông các hoạt động giao dịch trên thị trường. Giảm mức thu về tiền sử dụng đất; hoặc tạm ngừng áp dụng các khoản thu này trong một thời gian nhất định. Hình thành các trung tâm đăng ký bất động sản (với sự hỗ trợ về tài chính ban đầu của Nhà nước) để tạo điều kiện xác lập quyền sở hữu cho các tổ chức và cá nhân. Ngoài chức năng đăng ký về sở hữu, trung tâm này còn thực hiện chức năng đăng ký về trạng thái của tài sản liên quan đến các hoạt động cầm cố, thế chấp. Thị trường lao động: Mở rộng quyền của các DNNVV trong việc thuê và tuyển dụng lao động. Có chính sách khuyến khích các DNNVV tiến hành các hoạt động đào tạo, dạy nghề nâng cao trình độ chuyên môn của người lao động; Nhà nước có thể cấp lại một phần hay toàn bộ số tiền thuế thu nhập mà các cơ sở đào tạo, dạy nghề đã nộp vào ngân sách để dùng vào đầu tư phát triển. Xem xét sửa lại thuế thu nhập đối với người Việt Nam. Nghiên cứu, xây dựng hệ thống bảo hiểm thất nghiệp để tạo điều kiện cho quá trình cơ cấu lại lại các DNNVV. Chuyển việc yêu cầu các DNNVV phải trích lập quỹ phúc lợi, trợ cấp mất việc làm sang tham gia Quỹ bảo hiểm thất nghiệp. [19] Chính sách thị trường, khuyến khích xuất khẩu Trên thực tế các DNNVV Việt Nam tham gia xuất khẩu cần rất nhiều sự hỗ trợ để có thể gia nhập thị trường xuất khẩu và để sau đó tăng được giá trị xuất khẩu một khi họ đã nhập cuộc. Các cơ chế tập thể cho phép giảm chi phí thông tin sẽ rất hữu ích. Các cơ chế này có thể bao gồm: hỗ trợ một phần kinh phí cho các doanh nghiệp xuất khẩu tham gia các hội chợ thương mại, các khoá học với nhiều thông tin cần thiết và giúp nâng cao kỹ năng, trợ cấp một phần chi phí thuê tư vấn và cung cấp nhiều thông tin có chất lượng về cầu trên thị trường ngoài nước. Thực hiện hỗ trợ thông qua các quỹ (quỹ hỗ trợ xuất khẩu, quỹ tín dụng xuất khẩu); khuyến khích (thông qua các chính sách ưu đãi về tài chính) phát triển các loại hinh dịch vụ hỗ trợ sản xuất (tư vấn, cung cấp thông tin,...); xây dựng các cơ chế, chính sách về khuyến khích cạnh tranh lành mạnh, chống độc quyền,... Để việc khuyến khích xuất khẩu được tiến hành có hiệu quả, cần phải có hỗ trợ cho các DNNVV trực tiếp xuất khẩu và cho các bên gián tiếp tham gia vào hoạt động xuất khẩu ở các giai đoạn kinh doanh xuất khẩu khác nhau. Các hình thức xuất khẩu bao gồm: Quỹ hỗ trợ tín dụng xuất khẩu (sẽ chuyển thành Ngân hàng xuất nhập khẩu - Eximbank). Đối tượng được xem xét hỗ trợ là những DNNVV trực tiếp tham gia vào các hợp đồng xuất khẩu, không phân biệt mặt hàng xuất khẩu. Lãi suất ưu đãi có thể được áp dụng đối với một số ngành được xác định theo quyết định của Chính phủ. Tuy nhiên, trong thời gian trước mắt để hạn chế việc tăng thêm đầu mối và để các ngân hàng thương mại kinh doanh bình thường thì việc hỗ trợ chênh lệch lãi suất vẫn nên để các quỹ (quỹ hỗ trợ xuất khẩu hoặc Quỹ hỗ trợ phát triển) thực hiện. Mở rộng các nghiệp vụ bảo hiểm xuất khẩu. Hầu hết các nước của bên xuất khẩu đều có hệ thống bảo hiểm xuất khẩu do Chính phủ bảo trợ mà trong đó bên xuất khẩu có thể mua bảo hiểm rủi ro tín dụng và rủi ro khác của bên nhập khẩu và ngược lại. Các loại nghiệp vụ bảo hiểm cần được nghiên cứu áp dụng bao gồm: Bảo hiểm xuất khẩu toàn diện mà trong đó bên xuất khẩu được bảo hiểm từ khi ký hợp đồng xuất khẩu đến khi thanh toán xong; Bảo hiểm hoá đơn xuất khẩu, các tổ chức bảo hiểm sẽ bảo vệ quyền lợi bên xuất khẩu khi bên nhập khẩu không chịu thanh toán. Việc khuyến khích xuất khẩu, mở rộng thị trường còn liên quan tới vấn đề phải mở cửa các kênh thông tin. Khu vực DNNVV Việt Nam sẽ không bao giờ đạt trình độ cao trong sản xuất hàng xuất khẩu hay những hàng hoá có khả năng cạnh tranh quốc tế nếu họ không được tiếp cận rộng rãi với thông tin thương mại. Như đã trình bày ở chương II, cho đến nay hầu hết các DNNVV vẫn còn hoạt động trong điều kiện thiếu thông tin ở mọi lĩnh vực, phải dựa vào các trung gian thương mại để cung cấp thông tin về thị trường cho họ và phải trả phí cao cho công việc này. Để cải thiện tình hình này cần có sự lĩnh hội mới của Nhà nước về thời đại thông tin toàn cầu, sẽ cần mở rộng các kênh thông tin liên lạc cho các doanh nghiệp lấy được thông tin cần thiết. Điều này cũng có nghĩa là mở cửa các kênh thông tin cho tất cả mọi đối tượng như nhau chứ không dành riêng cho các doanh nghiệp Nhà nước và vì thế mà làm giảm khả năng cạnh tranh của các công ty tư nhân. [3] Các hành động cụ thể nhằm cải thiện tình hình hiện tại bao gồm: Giảm đáng kể chi phí viễn thông nói chung và chi phí tiếp cận Internet nói riêng; Thu thập, xử lý và truyền bá rộng rãi các kênh thông tin kinh tế có chất lượng cao, kịp thời về kinh tế và các xu hướng kinh doanh; Tạo điều kiện cho việc tiếp cận và xuất bản các thông tin thương mại chất lượng cao thông qua tất cả các kênh thông tin đại chúng bao gồm báo chí, truyền hình và nhà xuất bản, trong đó có việc xuất bản và công bố những số liệu kinh tế do các cơ quan của Chính phủ thu thập được; Tạo điều kiện cho các tất cả các tổ chức giáo dục chủ chốt cung cấp các khoá đào tạo rộng rãi về sử dụng Internet; Cho phép và khuyến khích các cơ chế khác nhau qua đó để giúp các DNNVV có thể chia sẻ thông tin và học hỏi lẫn nhau. GIẢI PHÁP TỪ PHÍA DNNVV Về bản chất, hội nhập tức là mở cửa kinh tế, mở cửa thị trường trong nước, chấp nhận cạnh tranh bình đẳng với các doanh nghiệp nước ngoài ngay trên “sân nhà”, theo những luật chơi chung do cộng đồng quốc tế quy định. Đối với một đất nước thì hội nhập là con đường duy nhất để phát triển, còn đối với từng doanh nghiệp thì không phải hoàn toàn như vậy. Chỉ có doanh nghiệp nào chuẩn bị tốt để hội nhập thì mới có cơ may tồn tại, nếu không thì nguy cơ bị đào thải, bị loại khỏi cuộc chơi là hoàn toàn hiện thực. Tiếc rằng hiện nay, hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là các DNNVV chưa ý thức được nguy cơ đó, hội nhập là việc của Nhà nước của các doanh nghiệp lớn. Thực ra đây là quan niệm sai lầm, để tận dụng được các cơ hội phát triển do hội nhập mang lại, các DNNVV phải làm rất nhiều việc. Dưới đây là những giải pháp mà các DNNVV Việt Nam cần phải thực hiện với tinh thần chuẩn bị tốt nhất để hội nhập. Những điều này là không mới đối với các DNNVV Việt Nam, nhưng nhiều doanh nghiệp có thể đã không đánh giá hết tầm quan trọng của chúng. Tự kiểm tra và đánh giá về doanh nghiệp mình Việc tự kiểm tra và đánh giá về doanh nghiệp mình có tầm quan trọng đặc biệt, nó cho doanh nghiệp biết là đang đứng ở đâu, trên cơ sở đó doanh nghiệp có thể đề ra đối sách thích hợp để phát triển. Đây là việc mỗi DNNVV Việt Nam cần phải làm ngay, coi như bước đầu tiên trong quá trình chuẩn bị hội nhập. Một phương pháp thường được sử dụng để tự đánh giá là phân tích SWOT, tức là tìm ra được những Điểm mạnh (Strengths), Điểm yếu (Weaknesses), Cơ hội (Opportunities) và Thách thức (Threats). Điểm mạnh và điểm yếu là những vấn đề nội tại của doanh nghiệp. Hãy xem xét các bộ phận khác nhau như tài chính, kế toán, thiết bị số lượng và chất lượng hàng tồn kho, tay nghề và khả năng của nhân viên; xác định xem những yếu tố nào giúp ích cho công việc kinh doanh (Điểm mạnh) và những yếu tố nào cản trở (Điểm yếu). Cơ hội và Thách thức là những yếu tố bên ngoài ảnh hưởng đến doanh nghiệp. Hãy xem xét môi trường rộng hơn xung quanh, đặc biệt là những thay đổi đang diễn ra, và xác định xem chúng có giúp ích cho phát triển doanh nghiệp hay là cản trở nó. Phân tích Điểm mạnh, Điểm yếu, Cơ hội và Thách thức sẽ giúp doanh nghiệp tìm ra những Điểm mạnh và Cơ hội giúp doanh nghiệp phát triển một cách hiệu quả nhất, cũng như những Điểm yếu và Nguy cơ cần khắc phục ngay để ngăn ngừa không cho chúng làm hại đến sự phát triển của doanh nghiệp. Nâng cao khả năng cạnh tranh trên cơ sở những điều kiện sẵn có Nói đến khả năng cạnh tranh người ta thường nói đến năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, giá cả,... xem xét trong mối tương quan so sánh với các doanh nghiệp khác. Sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp trong điều kiện hội nhập kinh tế phụ thuộc chủ yếu vào khả năng cạnh tranh. Vì vậy, nâng cao khả năng cạnh tranh phải được coi là nhiệm vụ hàng đầu của các doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp thường cho rằng phải thường xuyên đổi mới công nghệ thì mới đảm bảo được khả năng cạnh tranh. Điều này nhìn chung là đúng nhưng chưa đủ. Với trang thiết bị như nhau nhưng hai doanh nghiệp vẫn có thể có năng suất lao động khác nhau, chi phí khác nhau, hiệu quả khác nhau, nói cách khác là sức cạnh tranh khác nhau. Kinh nghiệm của các DNNVV Nhật Bản cho thấy họ rất chú ý đến cải tiến quản lý, họ chú ý đến từng chi tiết nhỏ nhặt nhất của quá trình sản xuất, hợp lý hoá tối đa các thao tác nhằm giảm chi phí. Đồng thời họ cố gắng tạo ra bầu không khí làm việc thoải mái, tin cậy giữa chủ doanh nghiệp và công nhân và chia sẻ thành quả hoạt động của doanh nghiệp. Nhiều khi thành công của doanh nghiệp lại bắt đầu từ những việc tưởng như là nhỏ nhặt đó. Cần nâng cao năng lực cạnh tranh trong lĩnh vực của mình. Đây là điểm then chốt nhất trong bối cảnh hội nhập. Khi chúng ta xác định mở cửa và hội nhập là đồng nghĩa với chấp nhận cạnh tranh. Nhà nước không thể đứng ra cạnh tranh cho các doanh nghiệp. Nhà nước chỉ có thể hỗ trợ bằng các chính sách kinh tế vĩ mô và tạo điều kiện ban đầu cho các doanh nghiệp non trẻ. Về lâu dài, các doanh nghiệp phải tự đứng vững trên đôi chân của mình đặc biệt khi gia nhận WTO, sự hỗ trợ của nhà nước sẽ bị hạn chế nhiều. Như vậy để đảm bảo năng lực cạnh tranh cao, điều cơ bản nhất là sự vươn lên của chính các doanh nghiệp, Nhà nước chỉ có thể trợ giúp thông qua các chính sách vĩ mô thông thoáng, môi trường kinh tế thuận lợi, vừa phải phù hợp với các chuẩn mực quốc tế vừa có thể tạo điều kiện hoạt động dễ dàng cho mọi loại hình doanh nghiệp. Bảng 8. Nhân tố cơ bản để củng cố năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Nội tại Bên ngoài (Dịch vụ hỗ trợ cho doanh nghiệp) Vốn Trình độ công nghệ Nhân lực và trình độ quản lý Ngân hàng Hải quan Vận tảI Thị trường Chính sách vĩ mô của Nhà nước. Trước mắt, chủ trương chung sẽ là phải hình thành một chiến lược cơ bản cho hội nhập trong đó một bộ phận quan trọng sẽ phải là chiến lược công nghiệp hoá nền kinh tế của đất nước với trọng tâm ưu tiên là hình thành chính sách cơ cấu ngành nhằm chọn lựa ra những ngành nghề, lĩnh vực có lợi thế so sánh quốc tế; chính sách phát triển ngành nhằm khuyến khích những ngành đã được chọn lựa theo chính sách cơ cấu; và cuối cùng là chính sách tổ chức thị trường nhằm tạo dựng hoặc duy trì một trạng thái thị trường có lợi cho ngành, nghề, và lĩnh vực phát triển và bảo đảm tính hiệu suất của việc phân phối các yếu tố sản xuất như lao động, vốn, đất đai. Ngoài ra, chính phủ cũng đang có những nỗ lực nhằm tạo một hành lang pháp lý hấp dẫn đầu tư vào các ngành công nghiệp kèm theo những qui định cụ thể về chính sách bảo hộ, về chế độ miễn giảm thuế hoặc yểm trợ về vốn và khuyến khích xuất khẩu. Hạn chế những tác động xã hội tiêu cực của việc hội nhập Sự cạnh tranh tăng lên trong quá trình hội nhập trong khi hàng rào bảo hộ sẽ bị cắt giảm dần có thể dẫn đến sự phá sản của một số doanh nghiệp không kịp thích ứng. Do vậy, các doanh nghiệp đặc biệt là những doanh nghiệp mà tác động xã hội có thể lây lan rộng do thu hút nhiều lao động như dệt may, da giày,... cần chuẩn bị tốt để hạn chế những tác động này. Tất nhiên bên cạnh đó sẽ có sự hỗ trợ của Nhà nước để giải quyết các vấn đề xã hội vượt quá phạm vi của doanh nghiệp. Tuy nhiên sự chủ động sáng tạo của doanh nghiệp là cần thiết và nên có kế hoạch để đối phó trong khả năng của mình. Điều đáng lo ngại hiện nay là tâm lý trông chờ vào sự bảo hộ cũng như những trợ giúp kinh tế của Nhà nước của nhiều doanh nghiệp ta vẫn còn nặng. Trong khi chấp nhận tham gia hội nhập thì nhiều biện pháp bảo hộ và trợ giúp như vậy sẽ dần bị loại bỏ. Nếu cứ tiếp tục trông chờ vào sự trợ giúp đó sẽ tạo ra những cú sốc mà họ khó có thể vượt qua. Sự chuẩn bị nhằm nâng cao nội lực của chính mình và nhanh chóng nắm bắt những đổi thay của luật lệ làm ăn kinh tế, xu thế phát triển của thị trường để định hướng đi cho mình sẽ giúp các doanh nghiệp tránh được những “tai nạn” đáng tiếc đó. [31] Tăng cường năng lực thu nhận thông tin kinh tế quốc tế và luật thương mại quốc tế Tăng khả năng tiếp cận thông tin kinh tế quốc tế và không ngừng đẩy mạnh trao đổi thông tin giữa doanh nghiệp và các Bộ ngành liên quan cũng như trực tiếp với Chính Phủ về các vấn đề vướng mắc nảy sinh trong quá trình hội nhập. Hiện nay, Nhà nước đang có những nỗ lực thiết lập cơ chế và thể chế cần thiết để phổ cập và thu nhận thông tin chính sách và dữ liệu thông tin kinh tế. Các doanh nghiệp cần phải tận dụng các cơ chế này để tăng cường khả năng thu nhận thông tin, nắm bắt xu hướng thị trường phục vụ cho hoạt động của mình. Mặt khác, chính các doanh nghiệp sẽ là những người thường xuyên và trực tiếp bị ảnh hưởng của tất cả các quyết định có liên quan đến kinh tế, do đó mối liên hệ giữa doanh nghiệp và chính phủ là cần thiết. Thiết nghĩ việc thành lập một Nhóm tư vấn doanh nghiệp với đại diện của doanh nghiệp để tư vấn cho Chính phủ những vấn đề của doanh nghiệp trong tiến trình hội nhập là cần thiết. Nâng cao trình độ hiểu biết về luật lệ thương mại quốc tế. Cơ sở vận hành của nền kinh tế quốc tế là luật mà các văn bản pháp lý của WTO đóng vai trò rất quan trọng. Các văn bản pháp lý này hiện đã gồm hơn 50.000 trang. Do đó, nếu không hiểu luật của WTO thì sẽ không tham gia cuộc chơi được. Một mặt, thông qua các Bộ, ngành liên quan các doanh nghiệp có thể phần nào hiểu biết được về WTO. Tuy nhiên, sự hiểu biết của bản thân doanh nghiệp là vô cùng quan trọng. Mặt khác, luật lệ của WTO không hẳn quá chặt chẽ đến mức không còn một kẽ hở nào. Để có thể “lách” thì phải nắm luật. Một số nước đang phát triển như Ấn Độ, đã bỏ công ra nghiên cứu những kẽ hở của luật WTO để “lách”. Nhật Bản là bậc thầy về việc xử lý các qui định của WTO phục vụ cho lợi ích của mình. Bản thân doanh nghiệp có thể làm được việc này vì trực tiếp tiếp xúc trong lĩnh vực của mình và nhà nước chỉ có thể hỗ trợ trên bàn đàm phán. [32, tr 49] Xây dựng chiến lược hội nhập Để có thể tồn tại và phát triển trong điều kiện hội nhập và toàn cầu hoá kinh tế như hiện nay thì mỗi doanh nghiệp cần phải có chiến lược hội nhập. Thực chất của việc xây dựng chiến lược hội nhập là vạch ra phương án phát triển dài hạn, chủ động chứ không phải phản ứng một cách thụ động với những vướng mắc và cơ hội khi chúng nảy sinh. Để xây dựng được một chiến lược hội nhập có tính khả thi thì mỗi doanh nghiệp cần phải liệt kê những công việc kinh doanh hiện có, triển vọng phát triển sau một thời gian, chẳng hạn như 3 năm, vạch ra biện pháp cần làm để đạt được những triển vọng này. Nếu doanh nghiệp biết được điểm xuất phát và xác định được đích cần phải đến thì việc lập lộ trình sẽ dễ hơn. Khi xây dựng chiến lược hội nhập ngoài việc tự đánh giá các khả năng phát triển của doanh nghiệp một cách nghiêm túc, các doanh nghiệp còn phải thu thập thông tin về các đối thủ cạnh tranh, nghiên cứu kỹ các dự báo phát triển công nghệ trong tương lai, đánh giá nhu cầu khách hàng. Chỉ có trên cơ sở phân tích các nguồn thông tin khác nhau doanh nghiệp mới có thể đề ra được những biện pháp thích hợp. Các doanh nghiệp cần phải triệt để tranh thủ sự giúp đỡ của các cơ quan Nhà nước, của các tổ chức phi chính phủ để có được những thông tin đáng tin cậy. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Bộ Thương Mại, Tham tán Thương mại của các đại sứ quán Việt Nam ở nước ngoài và nhiều địa chỉ khác có thể là những địa chỉ mà các doanh nghiệp sẽ tìm được sự giúp đỡ cần thiết. Chiến lược giảm thiểu chi phí Với chiến lược này, DNNVV phải có khả năng cung ứng hàng hoá và dịch vụ với chi phí thấp hơn các đối thủ cạnh tranh. Chiến lược này sẽ tạo ra hai lợi thế cơ bản: Thứ nhất, nhờ chi phí thấp hơn nên có thể định giá bán sản phẩm và dịch vụ thấp hơn các đối thủ cạnh tranh mà vẫn có lợi nhuận cao, thậm chí cao hơn đối thủ cạnh tranh nhờ tăng được số lượng tiêu thụ. Thứ hai, khi có sự cạnh tranh về giá xảy ra thì doanh nghiệp có chi phí thấp vẫn có lợi thế hơn nhờ giới hạn dưới của sự giảm giá rộng hơn các đối thủ khác. Để thực hiện chiến lược này, người ta lưu ý việc hướng tới giảm các chi phí chung hay còn được gọi là chi phí cố định. Đây chính là thế mạnh của DNNVV vì với cơ cấu gọn nhẹ và linh hoạt, DNNVV có thể nhanh chóng giảm thiểu chi phí chung nhanh hơn các DN có quy mô lớn. Cũng ở đây, việc xác định quy mô đầu tư, chính sách mua sắm máy móc thiết bị trở nên hết sức quan trọng đối với DNNVV vì một sai lầm của họ là rất khó sửa chữa nếu không nói là không có cơ hội sửa chữa. Chiến lược khác biệt hoá sản phẩm và dịch vụ Sự khác biệt hoá đôi khi được hiểu là thành tựu cơ bản của các nỗ lực Marketing bởi lẽ sự khác biệt này thường xoáy sâu vào một đặc tính nào đó của sản phẩm dịch vụ mà đôi khi chỉ là những khác biệt rất nhỏ, rất linh hoạt mà thôi. Cần phân biệt sự khác biệt hoá ở đây với phạm trù đa dạng hoá, bởi vì nếu đa dạng hoá là thế mạnh của các doanh nghiệp lớn, có tiềm lực nghiên cứu và tài chính thì với DNNVV sự khác biệt hoá mới là thế mạnh. DNNVV có khả năng linh hoạt hơn trong các thay đổi dẫn đến sự khác biệt hoá nhờ các quyết định nhanh chóng hơn, chi phí cho sự thay đổi thấp hơn đối với doanh nghiệp lớn. Để thực hiện chiến lược nay, các DNNVV cần được trang bị những kỹ xảo nhất định trong các hoạt động Marketing cũng như những hỗ trợ cần thiết từ phía Chính phủ bởi DNNVV rất thiếu tiềm lực cho các nghiên cứu thị trường quốc tế. Kinh nghiệm cho thấy, ngay ở những nước có nền kinh tế thị trường phát triển, Chính phủ cũng có các giải pháp hỗ trợ rất cụ thể và thích đáng để các DNNVV có thể tham gia thành công vào thị trường quốc tế. Chiến lược phát triển thị trường Về thị trường, các doanh nghiệp nhà nước hiện nay vẫn chưa năng động trong tìm kiếm và phát triển thị trường. Nói rộng ra, các doanh nghiệp phải có chiến lược phát triển thị trường, kể cả thị trường trong nước. Tham gia hội nhập nền kinh tế Việt Nam vào thị trường thế giới là gia nhập nền kinh tế thị trường biến động với cung cầu luôn thay đổi, cần phải có chiến lược thích ứng nhanh. Do ta là người đi sau, cần phải tận dụng cơ hội về khoảng trống thị trường do xu thế toàn cầu hoá tạo ra để nhanh chóng chiếm lĩnh những thị trường đó. Chính vì vậy, trong thời gian trước mắt, nỗ lực sản xuất những mặt hàng ta có lợi thế so sánh quốc tế hướng về xuất khẩu sẽ là bước đi đúng đắn cho các nhà sản xuất của Việt Nam, trong đó có cả các DNNVV. DNNVV khó có thể xâm nhập thị trường quốc tế bằng con đường rộng, dàn trải mà chỉ có thể tìm kiếm và tập trung nguồn lực vào các “tiểu thị trường”, hay còn gọi là chiến lược tập trung vào thị trường ngách. Thị trường ngách được hiểu là một bộ phận nhỏ tập trung vào nhóm khách hàng nào đó, một khu vực thị trường hẹp nào đó trên thương trường quốc tế. Ví dụ các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu gia vị của Thái Lan đã rất thành công khi họ đã chọn nhóm khách hàng là người Châu Á sống ở các quốc gia Âu - Mỹ. Bởi thế, ngoài hương vị, nguyên liệu chế biến thì hình thức bao gói, kích cỡ, kênh bán hàng cũng như hệ thống phân phối đều nhằm tới nhóm khách hàng mục tiêu này. Để thực hiện được chiến lược này, DNNVV ngoài các nỗ lực tự thân cần phải có các hình thức phối hợp, hỗ trợ của các tổ chức đại diện trong một chính sách tổng thể và đồng bộ. Trong đó, hoạt động của các dự án hỗ trợ DNNVV chiếm một ví trị hết sức đáng quan tâm. Phát triển nguồn nhân lực Nguồn nhân lực sẽ là yếu tố quan trọng hàng đầu quyết định tính cạnh tranh của doanh nghiệp trong tương lai xét theo hai góc độ: Giúp nhanh chóng nằm bắt trình độ quản lý và công nghệ mới khi có điều kiện tiếp cận thông qua hội nhập. Mục đích chính của hội nhập kinh tế quốc tế vẫn chỉ để thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá của Việt Nam, thực chất là tạo điều kiện chuyển nền kinh tế thuần nông sang công nghiệp chế tạo và chế biến. Các doanh nghiệp sẽ là lực lượng tiên phong trong quá trình chuyển biến này và nếu không có trình độ năng lực thì sẽ khó thực hiện. Trước hết, các giám đốc của các DNNVV phải chịu trách nhiệm tìm kiếm và học hỏi cái họ cần để thành công khi chính phủ xây dựng được một khuôn khổ phù hợp. Những người quản lý DNNVV cần phải hiểu sâu hơn về vai trò của họ trong việc xây dựng doanh nghiệp của mình và sẵn sàng đảm nhận vai trò này. Bởi vậy, giám đốc các DNNVV phải chịu trách nhiệm về việc học hỏi những điều trọng yếu của một công ty, bao gồm hiểu biết thấu đáo về nhu cầu của khách hàng trong phân đoạn thị trường mục tiêu của công ty, quản lý chi phí chặt chẽ và phân tích về đối thủ cạnh tranh một cách kỹ lưỡng. Nhiệm vụ của chính phủ và của các tỗ chức hỗ trợ thị trường là đảm bảo có sẵn các phương tiện để các công ty theo học; việc thực hiện lại là trách nhiệm các giám đốc. Nỗ lực hướng các giám đốc theo hướng này chứ không phải là chạy chọt để có các đặc quyền có vai trò rất quan trọng. Thứ hai, đội ngũ nhân viên của doanh nghiệp phải liên tục được đào tạo cả về kỹ năng làm việc cũng như trau dồi ngoại ngữ để có thể đảm nhận được công việc trong môi trường cạnh tranh quốc tế. Vấn đề này không chỉ bản thân nhân viên doanh nghiệp tự nhận thức mà doanh nghiệp cũng phải đứng ra chịu trách nhiệm gửi nhân viên đi đào tạo và các chi phí liên quan. Sau khi đã có các chiến lược cơ bản làm định hướng cho việc nâng cao khả năng cạnh tranh trong hội nhập, các DNNVV cần nỗ lực triển khai chiến lược trên các mặt hoạt động sau: Xác định đúng đối thủ cạnh tranh trên thương trường, đây có thể coi là bước đột phá có tính quyết định. Đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp không chỉ giành giật thị trường mà còn gây sức ép cả ở các yếu tố đầu vào, vào vị thế canh tranh, vào hình ảnh của doanh nghiệp,... Bởi vậy đối thủ cạnh tranh của DNNVV trên thị trường quốc tế có thể bao gồm cả các doanh nghiệp trong nước cũng như các doanh nghiệp của nước ngoài. Nếu các DNNVV cần thiết cạnh tranh để nâng cao khả năng của mình trên thị trường trong nước thì việc tìm kiếm các cơ hội để thoả hiệp giữa họ với nhau trên thị trường quốc tế lại là điều đáng quan tâm. DNNVV cần lựa chọn và xác định một cách thoả đáng việc sử dụng công cụ cạnh tranh nào trong các hoàn cảnh kinh doanh nào. Đến đây có thể cần nhắc đến ma trận về 5 công cụ cạnh tranh là: Sự khác biệt kiểu loại sản phẩm, giá cả và các dịch vụ đi kèm với từng hoàn cảnh kinh doanh - hưng thịnh, ổn định và suy thoái. Tất nhiên sự phù hợp còn được hiểu theo các cách tiếp cận khác nhưng ma trận này sẽ gợi ý DNNVV liên tưởng đến sự linh hoạt vốn có của mình trong các hoàn cảnh kinh doanh nhất định. Chúng ta hãy liên tưởng đến cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á sẽ thấy tác động đầu tiên mà các doanh nghiệp của chúng ta hứng chịu là giá cả của chúng ta trở nên đắt đỏ hơn so với các đối thủ cạnh tranh. Vậy các DNNVV sẽ sử dụng công cụ nào trong hoàn cảnh đó để nâng cao khả năng cạnh tranh sẽ là bài toán hóc búa cho từng doanh nghiệp và cho cả hệ thống hỗ trợ. Tham gia thương mại điện tử Các DNNVV nên chủ động tham gia vào Thương mại điện tử, một công cụ kinh doanh hữu hiệu trong nền kinh tế mạng cũng như trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Lập kế hoạch đào tạo đội ngũ nhân viên có trình độ, chuẩn bị các bước cần thiết để khi chính phủ hoàn thiện môi trường pháp lý là có thể sẵn sàng tham gia mà không bị bỡ ngỡ và lỡ mất thời cơ. Chủ động tham gia các hội thảo về Thương mại điện tử do chính phủ hoặc các tổ chức nước ngoài tổ chức đồng thời tham khảo và học hỏi kinh nghiện nước ngoài về cách thức kinh doanh trên Internet. Khi tham gia thương mại điện tử các doanh nghiệp nên lưu tâm đến việc xây dựng Website riêng hoặc đăng quảng cáo tại một Website nhiều người biết tới để cung cấp thông tin về doanh nghiệp cũng như quảng bá sản phẩm. Và một Website được coi là đạt yêu cầu phải thoả mãn các điều kiện sau: An toàn: Site của doanh nghiệp phải chắc chắn tạo được lòng tin đối với những khách hàng tiềm năng. Do vậy, đặc biệt cần chú trọng quan tâm đến việc bảo mật cho khách hàng trước hết là đảm bảo hệ thống máy chủ an toàn. Có thể tạo một đường dẫn tới trang giới thiệu về khả năng bảo mật cao của hệ thống thanh toán cuả doanh nghiệp. Thông tin đầy đủ, chính xác: Trình bày một cách rõ ràng các thông tin chi tiết liên quan đến doanh nghiệp như: số điện thoại, fax, địa chỉ trụ sở làm việc, e-mail, thông tin giới thiệu một số nhân vật chủ chốt trong doanh nghiệp,... đó là những thông tin tối thiểu mà đối tác làm ăn muốn biết. Thêm nữa, doanh nghiệp cũng đừng quên trình bày với khách hàng một cách thẳng thắn về chất lượng sản phẩm, phương thức vận chuyển hàng, vấn đề hoàn trả và bảo mật hàng hoá. Thiết kế site linh hoạt: Doanh nghiệp phải thiết kế site sao cho luôn cập nhập để phản ánh vào việc bán hàng, chiết khấu hay cung cấp thông tin về sản phẩm sẵn có. Đó là cách tốt nhất để thu hút chỉ dẫn sản phẩm một cách trực tiếp từ cơ sở dữ liệu cho việc cập nhập liên tục. Chất lượng hình ảnh và âm thanh: Hình ảnh cũng như các file dữ liệu phải thật sự gây ấn tượng cho mọi đối tượng truy nhập, luôn luôn có những sáng kiến đổi mới để tạo được trang Web với những hình ảnh sống động, âm thanh vui tươi mang bản sắc riêng và nét đặc trưng riêng của doanh nghiệp. Tốc độ truy cập nhanh: Loại bỏ các đoạn không cần thiết, giảm hình ảnh giới thiệu sản phẩm ở kích thước vừa phải. Thiết kế một hệ thống định hướng cho phép khách hàng chọn sản phẩm dễ dàng hơn và nhanh hơn. Áp dụng ISO 9000 Trong giai đoạn hiện nay, việc áp dụng ISO 9000 tại các DNNVV ở Việt Nam đang ngày càng trở nên bức thiết. Chối bỏ quá trình này, các doanh nghiệp đó sẽ rơi vào vòng xoáy khắc nghiệt không lối ra: Thị trường bị thu hẹp, thu nhập giảm sút, không có kinh phí đầu tư cho nâng cấp hệ thống để được chứng nhận, thị trường lại càng bị thu hẹp,... Thực tế của tiến trình áp dụng ISO 9000 đối với các DNNVV tại Việt Nam hiện nay đang vừa là cơ hội vừa là thách thức: Là cơ hội vì chúng ta có người đi trước để học hỏi, nhưng cũng là thách thức vì phải vượt qua rất nhiều khó khăn chúng ta mới có thể lấp đầy khoảng cách với các quốc gia đã phát triển. Vì vậy, các DNNVV trước hết cần phải ý thức về việc áp dụng hệ thống chất lượng quốc tế và sau là khắc phục những khó khăn bằng cách: Đẩy mạnh việc tuyên truyền để các DNNVV hiểu đúng về quá trình cũng như lợi ích của việc áp dụng ISO 9000. Chủ yếu để các doanh nghiệp thấy rằng đó là tương lai cho sự phát triển bền vững của chính họ. Có những biện pháp khuyến khích đối với các DNNVV thực hiện việc áp dụng ISO 9000. Có thể đó là các biện pháp khuyến khích về giá, cũng có thể là sự trợ vốn để doanh nghiệp thực hiện áp dụng ISO 9000. Tăng cường giao lưu Quốc tế, học hỏi và tận dụng sự giúp đỡ của bên ngoài đi đôi với việc nhanh chóng hoàn chỉnh hệ thống các cơ quan công nhận, chứng nhận trong nước. Phát triển hệ thống chuẩn Quốc gia luôn đi trước các ngành công nghiệp một bước, đây là một trong những đảm bảo mang tính kỹ thuật để nâng cao chất lượng sản phẩm và hàng hoá của Việt Nam. Thực trạng hiện nay là ở Việt Nam cũng như tại các nước đang phát triển, nhận thức của người tiêu dùng về chất lượng sản phẩm là chưa đầy đủ. Việc lựa chọn hàng hoá để mua thường nặng về xem xét giá cả, do đó vô hình chung đã khuyến khích các DNNVV sản xuất ra các hàng hoá rẻ tiền, kém chất lượng. Nếu làm được việc thông qua các tổ chức người tiêu dùng để hướng dẫn người tiêu dùng nhận thức đúng về vấn đề chất lượng hàng hoá là chúng ta đã tạo ra một sức ép đúng đắn để các doanh nghiệp này phải nghĩ về chất lượng. [5] Tăng cường sự hợp tác giữa các DNNVV Các DNNVV cần phải ý thức được rằng nếu đơn độc sẽ rất khó có khả năng tồn tại. Nhiều khi thì khả năng cạnh tranh không phải khi nào cũng đưa lại hiệu quả cao nếu như doanh nghiệp không có sự cộng tác với nhau. Do vậy trong thời gian tới các DNNVV rất cần có sự cộng tác, phối hợp tốt hơn thông qua các hiệp hội nghề nghiệp, các tổ chức đại diện của các DNNVV. Điều này sẽ giúp các doanh nghiệp cơ hội để học tập lẫn nhau đồng thời khi cộng tác với nhau thì tiếng nói của khu vực DNNVV sẽ tăng lên và cơ hội hợp tác quốc tế cũng sẽ tăng lên. Sự phối hợp, công tác không nên giới hạn trong phạm vi quốc gia mà phải hướng về khu vực và thế giới, đồng thời cần có ý thức cộng tác với cả các doanh nghiệp lớn. [8] SỰ HỖ TRỢ TỪ PHÍA CÁC ĐOÀN THỂ VÀ TỔ CHỨC XÃ HỘI Thành lập các tổ chức hỗ trợ thị trường Thị trường trong các nước phát triển thực hiện tốt chức năng của mình nhờ sự có mặt của nhiều tổ chức trợ giúp thị trường đầy kinh nghiệm. Các tổ chức này giúp cho các thành viên tham gia vào thị trường được thông báo đầy đủ, thúc đẩy giao dịch và thi hành các luật lệ. Ba tổ chức đóng vai trò đặc biệt quan trọng cho phát triển khu vực DNNVV đó là: tổ chức tài chính, các hiệp hội kinh doanh và các tổ chức giáo dục. Các hiệp hội kinh doanh: Ở các quốc gia trên thế giới, các hiệp hội kinh doanh là một nguồn trợ giúp quan trọng đối với các DNNVV. Hầu hết các hiệp hội kinh doanh đều cung cấp 3 loại dịch vụ cơ bản cho thành viên của mình; các thông tin đã được xử lý về tất cả lĩnh vực trên thị trường trong nước và quốc tế; một diễn đàn nơi các thành viên có thể gặp gỡ và học hỏi lẫn nhau; và là một diễn đàn các thành viên có thể phản ánh lợi ích của họ đến chính phủ. Ngoài ra, các hiệp hội kinh doanh còn là các kênh để các nhà tài trợ và các đối tượng khác có thể cung cấp dịch vụ cho các công ty nhỏ hơn ở các nước đang phát triển. Các DNNVV Việt Nam rất cần tất cả những dịch vụ này và họ có thể tiếp cận đến chúng hiệu quả hơn nếu họ được tự do thành lập các hiệp hội kinh doanh của riêng mình. Trong thế kỷ 21, một nhân tố quan trọng là các hiệp hội của ngành, các phòng thương mại, các học viện, các cơ quan và công đoàn lao động phải xác định lại vai trò của họ như những người dẫn đầu của giơí lãnh đạo kinh doanh. Việc xây dựng các chương trình và thủ tục để đào tạo, huấn luyện và động viên các nhà quản lý của DNNVV nhằm phát truển các chiến lược mang tính cạnh tranh cao hơn cần phải được ưu tiên thay cho việc không ngừng vận động hay phê phán Nhà nước. Những tổ chức này có vị trí đặc biệt trong việc khuyến khích đối thoại giữa chính phủ với khối kinh doanh, và họ phải chủ động đưa ra sáng kiến mà không được đợi Chính phủ nêu yêu cầu. Đặc biệt, các hiệp hội của ngành và các phòng thương mại cần mở thêm nhiều chương trình đào toạ với nội dung không chỉ tập trung vào nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp mà còn phải hướng dẫn cho các chủ doanh nghiệp và các cán bộ của chính phủ nhận thấy được hết khả năng của mình. [9] Các tổ chức giáo dục. Về lâu dài Việt Nam cần phải hiện đại hoá các tổ chức giáo dục từ trên xuống dưới nếu muốn cạnh tranh được trên thị trường thế giới. Về ngắn hạn, nên tập trung vào nâng cao chất lượng và tính phổ cập của nhiều khoá đào tạo kinh doanh ngắn hạn đã được thực hiện ở các thành phố chính. Thứ nhất, tài liệu học cần được chọn lựa và điều chỉnh cho phù hợp với việc sử dụng ở Việt Nam chứ không đơn giản chỉ hoàn toàn sử dụng tài liệu của nước ngoài. Trong thực tế các nguyên tắc và kỹ năng kinh doanh chủ yếu giống nhau ở tất cả mọi nơi: điều khác nhau là chúng được áp dụng như thế nào, các ví dụ là những điều được sử dụng để dạy sinh viên, và các công nghệ giảng dạy phù hợp nhất đối với các nền văn hoá khác nhau. Thứ hai, tăng số giảng viên người Việt Nam có trình độ cao trong việc giảng dạy các khoá học kinh doanh và giảm số giáo viên người nước ngoài với mức tiền thuê đắt đỏ trong lĩnh vực này để các khoá học bền vững về mặt tài chính. Thứ ba, các phương pháp đào tạo người lớn cần được áp dụng rộng rãi hơn, nghĩa là, các khoá học ngắn hạn tập trung vào nâng cao các kỹ năng thực hành, thường bằng cách để học viên tích cực tham gia. Và thứ tư là đào tạo sẽ lại có vai trò rất quan trọng đối với nhiều người từ khu vực Nhà nước sang khu vực tư nhân. [3] Bên cạnh 2 nhóm tổ chức vừa nêu trên còn cần nhiều đến các tổ chức khác để hỗ trợ cho sự phát triển của khu vực DNNVV của Việt Nam. Sự thành công của các DNNVV ở các quốc gia trong khu vực và trên thế giới cho thấy không chỉ đơn thuần xuất phát từ những thay đổi về chiến lược, chính sách hay các quy định và luật - những thay đổi có vai trò là chìa khóa để tạo ra một khuôn khổ cho các DNNVV - nhưng nhân tố củng cố cho sự thành công của các doanh nghiệp này lại chính là khả năng hoạt động có hiệu quả của các tổ chức hỗ trợ. Những tổ chức đó bao gồm các cơ quan quản lý chất lượng, các cơ quan marketing, hệ thống giáo thông vận tải, hệ thống phân phối, các tổ chức đào tạo, các cơ quan hỗ trợ cho các mối quan hệ quốc tế và những tổ chức về thông tin. Tất cả những tổ chức ấy đều rất cần thiết đối với các DNNVV Việt Nam. Việc định hướng lại hoạt động của các tổ chức hỗ trợ để phục vụ tốt được cả khu vực doanh nghiệp Nhà nước lẫn khu vực DNNVV đòi hỏi phái cắt giảm trợ cấp trên diện rộng và buộc chúng phải tăng hiệu quả hoạt động. Nhiều tổ chức hỗ trợ cũng cần được hợp lý hoá để chuyển đổi cơ cấu tổ chức theo hướng phù hợp với yêu cầu của thị trường. Bên cạnh đó, cũng cần giới thiệu thêm các sản phẩm hàng hoá và dịch vụ mới cũng như củng cố kỹ năng của nhân viên. Tất cả những nhiệm vụ này đều đòi hỏi nhiều thời gian và nhiều công sức. Mặc dù cũng đã có một số chương trình của các nhà tài trợ trợ giúp kỹ thuật cho các tổ chức của Việt Nam trong các lĩnh vực đó nhưng hầu như chưa có một chương trình nào thấy rõ được nhu cầu cấp bách phải định hướng lại các tổ chức hỗ trợ nhằm đáp ứng được cả nhu cầu phát triển của khu vực DNNVV. Dịch vụ hỗ trợ kinh doanh Môi trường kinh doanh hiện nay cần nhiều các công ty kinh doanh dịch vụ có thể cung cấp cho các công ty tư nhân những dịch vụ chất lượng cao và chuyên sâu. UNCTAD đã mô tả thời gian cung cấp dịch vụ làm 3 giai đoạn: “thượng nguồn” (nghiên cứu khả thi; các hoạt động nghiên cứu và phát triển); “trung nguồn” (kế toán, kỹ sư và các dịch vụ hành chính); và “hạ nguồn” (quảng cáo, lưu kho và phân phối). Khả năng cạnh tranh của công ty sẽ tăng theo khả năng tiếp cận của các công ty với các dịch vụ có chất lượng trong tất cả các lĩnh vực nêu trên. Như vậy, dịch vụ hỗ trợ thị trường cần thiết đối với các DNNVV Việt Nam sẽ bao gồm 7 ngành: Dịch vụ hạch toán kế toán Dịch vụ tin học Dịch vụ tư vấn Dịch vụ thiết kế bao bì mẫu mã Dịch vụ phân phối Dịch vụ nghiên cứu thị trường Dịch vụ đào tạo Để hỗ trợ phát triển các công ty kinh doanh dịch vụ ở Việt Nam cần tiến hành một số biện pháp sau: Trước hết, các công ty dịch vụ phải được đưa vào tất cả các chương trình trợ giúp vì họ thực sự cũng cần học các kiến thức cơ bản về quản lý kinh doanh. Thứ hai, giảm giá dịch vụ viễn thông và tiếp cận Internet là một sự trợ giúp đặc biệt cho nhóm này do họ thường phụ thuộc vào 2 loại dịch vụ này nhiều hơn các công ty khác. Thứ ba, cho phép thành lập các hiệp hội nghề nghiệp tư nhân sẽ đặc biệt có ích cho nhóm này do biểu hiện đặc trưng của các ngành dịch vụ kinh doanh cạnh tranh là tự quản lý. Dù là bắt buộc (như với kế toán) hoặc tự nguyện (như đối với tư vấn quản lý), hầu hết các ngành kinh doanh dịch vụ ở các nền kinh tế phát triển đều có một hiệp hội ngành nghề có quyền hạn pháp lý để thừa nhận những nhà chuyên nghiệp và yêu cầu một tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp tối thiểu. Những hiệp hội như vậy thường đặt ra một tiêu chuẩn nghề nghiệp chung trong đo các nhà chuyên môn muốn được thừa nhận thì phải chứng tỏ có đủ năng lực trên cơ sở thi cử, kinh nghiệm làm việc hoặc kết hợp cả hai yếu tố trên. Càng ngày các hiệp hội cũng sẽ đòi hỏi tiếp tục giáo dục đào tạo để duy trì sự công nhận đó cũng như bằng chứng của việc tuân thủ các tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp của ngành. [25] ---o0o--- DNNVV Việt Nam đang đứng trước những thách thức mới trong quá trình mở cửa và hội nhập mà “hành trang” chuẩn bị còn rất sơ sài đã làm cạn dần những ưu thế và tăng dần những bất lợi cho chính các doanh nghiệp này. Việc tự đưa ra những giải pháp cụ thể cho chính doanh nghiệp mình là một việc làm hết sức quan trọng thể hiện sự nhận thức và lòng quyết tâm của doanh nghiệp trước vận hội và thách thức. Tuy nhiên, những nỗ lực tự thân của họ sẽ không thể nhanh chóng lấp đầy các thách thức này mà cần đến sự phối hợp và hỗ trợ có hiệu quả của chính phủ và các đoàn thể xã hội mà cụ thể là các giải pháp thiết thức nhất trong việc nâng cao khả năng tranh của DNNVV như xây dựng chính sách pháp lý, tạo điều kiện kinh doanh, hỗ trợ kinh doanh... KẾT LUẬN Trong mấy thập kỷ gần đây, sự tăng trưởng trong thương mại quốc tế với sự tham gia của các DNNVV trong tiến trình này là sự quan tâm chung của các nhà hoạch định chính sách, các nhà phân tích kinh tế cũng như của tất cả mọi doanh nghiệp. Có thể nói, ở bất cứ nơi nào có sự tăng trưởng kinh tế thì ở đó đều có những cơ hội. Đối với nền kinh tế Việt Nam cũng vậy, tham gia vào tiến trình hội nhập với nền kinh tế toàn cầu đang mở ra những cơ hội cho các DNNVV phát triển, đồng thời tiến trình này cũng đang đặt ra những thách thức không nhỏ cần phải được nhận thức rõ để từ đó đặt ra những giải pháp, hướng đi đúng đắn nhằm tận dụng được đến mức tối đa những cơ hội do hội nhập mang lại và giảm đến mức tối thiểu những khó khăn, bất lợi có thể có trên con đường phát triển của mình. Vì thế, để hội nhập thành công, các DNNVV Việt Nam cần phải chuẩn bị tốt về mọi mặt, cần cả kiến thức, nhận thức và sự quyết tâm. Tuy nhiên, tất cả cố gắng của doanh nghiệp chỉ mang lại kết quả mong muốn khi môi trường kinh doanh được cải thiện, khi Nhà nước có chính sách hỗ trợ hữu hiệu cho các DNNVV trên cơ sở chiến lược phát triển thích hợp. Cần phải hội nhập để phát triển và cũng cần phải phát triển để hội nhập tốt hơn, đó là hai mặt của một vấn đề và đều cần đến sự cố gắng của cả Nhà nước lẫn các nhà doanh nghiệp. Mặc dù còn nhiều thử thách ở phía trước nhưng nếu biết chớp thời cơ, tận dụng được các lợi thế so sánh để phát triển thì khu vực DNNVV Việt Nam sẽ phát triển mạnh mẽ và sẽ là nhân tố quyết định sự thành công của công cuộc phát triển kinh tế. TÀI LIỆU THAM KHẢO Thanh Bình “Những điều cần biết về thị trường nước ngoài” - Tạp chí Ngoại Thương số 11 - 2002, Bộ Thương mại. Bộ Kế hoạch Đầu tư và Jica. Dự thảo báo cáo cuối cùng: Nghiên cứu xúc tiến Doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ - tháng 10/1999. Chương trình phát triển dự án Mê kông – MPDF. Chuyên đề Nghiên cứu kinh tế tư nhân số 10 - Doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam trên đường tiến đến phồn vinh 11/1999. Bộ Ngoại giao và Oxfam – GB. Toạ đàm: “Các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế - cơ hội, thách thức và giải pháp”, 28 -29/7/1999. Nguyễn Mạnh Dũng “ISO 9000 và việc áp dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam” . Trung tâm Đo lường - Tổng cục tiêu chuẩn Đo lường chất lượng, 2000. T.S Lê Đăng Doanh. Phát huy vai trò trợ giúp của các hiệp hội ngành nghề đối với các doanh nghiệp trong công cuộc hội nhập quốc tế hiện nay Vietnam Trade Review 16, 2002. Anh Dũng “Vấn đề hôm nay - Today’s issues” - Vietnam trade Review 15, 2001. Lê Đăng Doanh “Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam hiện nay”. Tạp chí nghiên cứu kinh tế số 262, 11/11/2000. Lê Xuân Đình - Mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế và xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ - vai trò của các doanh nghiệp Việt Nam - Kỷ yếu hội thảo Doanh nghiệp Việt Nam với công cuộc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế. Điều tra công nghiệp 61 tỉnh thành năm 2000, Nhà xuất bản thống kê 2001. GS.TS Nguyễn Đình Hương. Giải pháp phát triển Doanh nghiệp vừa và nhỏ, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia 2001. Dự án US/VIE/05/004. Dự án của MPI-UNIDO - 1999. Quý Hào “2003: Năm trọng tâm chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước”, Thời báo kinh tế Việt Nam 16/12/2002. Phụng Hiệp “Xuất khẩu hàng dệt may những tháng cuối năm tăng mạnh”, Thông tấn xã Việt Nam 26/11/2002 JICA. Dự án hợp tác nghiên cứu Việt Nam - Nhật Bản về chính sách phát triển kinh tế trong giai đoạn chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam - 2000. Minh Hoà “Xuất khẩu nông sản dự kiến đạt 2,6 tỷ USD”, Nông thôn ngày nay 13/12/2002. Michale E.Port. The Competitive Advantage of Nations. Harward Business Review 3-4, 1999. Th.s Nguyễn Hải Hà & Nguyễn Tiến Hiệp “Ba năm phát triển xuất khẩu thuỷ sản”, Tạp chí kinh tế và dự báo 11/10/2002. TS. Hoàng Hải. Mấy vấn đề về Doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam hiện nay. Trong sách “Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam và các nước trong khu vực”, Nhà xuất bản thống kê 11/1999. Quý Hào “Một vài vấn đề phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam”, Báo Diễn đàn doanh nghiệp các số 6, 15 - 2002. Hoàng Lan “Thương hiệu nông sản dân bối rối”, Thời báo kinh tế Sài Gòn 5/11/2002. Võ Đại Lược “Doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam trước thềm hội nhập”. Tạp chí Kinh tế thế giới - số 8, 2001. Lê Kim Oanh – Xuất khẩu 11 tháng tăng 8,3%. Thông tấn xã Việt Nam ngày 27/11/2002. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam. “Quỹ phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEDF)” 12/2001. Vũ Quốc Tuấn, Hoàng Thu Hà. Phát triển Doanh nghiệp nhỏ và vừa: Kinh nghiệm nước ngoài và phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam - Nhà xuất bản thống kê Hà Nội - 2001. Tổng cục thống kê “Xuất khẩu năm 2001”, đóng góp của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh năm 2002. Chí Thành “Bộn bề hoạt động chuyển giao công nghệ”, Đầu tư 19/11/2002. Thế Quang “Về tình hình vụ khiếu kiện cá da trơn”, Thương mại 23/11/2002. Trung hợp tác nghiên cứu Việt Nam quản lý, với sự cộng tác của Trung tâm nghiên cứu quốc tế. Tư liệu chương trình nghiên cứu doanh nghiệp 2/1/2000. Thanh Thuỷ “Khả năng cạnh tranh của dệt may Việt Nam”, Tạp chí “Dệt may Việt Nam” Tháng 6/2001. Tạp chí cộng sản và Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam Doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào Hội nhập kinh tế thế giới - VCCI - Kỷ yếu hội thảo “Doanh nghiệp Việt Nam với công cuộc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập” - 5/3/2002. Vụ hợp tác Kinh tế Đa phương - Bộ Ngoại giao. Những cơ hội và thách thức đối với các DNVVN trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế 12/1999. World Economic Forum - The Global Competitiveness Report 1999, 2000, 2001. Oxford University Press NewYork, London 2001. Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương. Báo cáo về năng lực cạnh tranh 1999, 2000. www. vcci.com.vn www. vietnameconomy.com PHỤ LỤC Số lượng các DNVVN Việt Nam qua các năm Năm 1996 1997 1998 1999 2000 Doanh nghiệp của tư nhân Số lượng 20272 21032 20578 22767 29519 Tốc độ tăng 32.70 3.749 -2.16 10.64 29.66 Cá thể và tiểu chủ Số lượng 2.016.259 1.949.836 1.981.306 2.054.178 2.137.713 Tốc độ tăng -1.66 -3.29 1.61 3.68 4.07 [Nguồn: Số liệu báo cáo trong “Vai trò doanh nghiệp nhỏ và vừa trong phát triển kinh tế tư nhân và định hướng đến năm 2010”- Tổng cục thống kê] Cơ cấu tổng sản phẩm trong nước theo giá hiện hành phân theo thành phần kinh tế Đơn vị: % 1996 1997 1998 1999 2000 2001 Tổng số 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00 Kinh tế Nhà nước 39,93 40,48 40,00 38,74 38,52 38,59 Kinh tế tập thể 10,03 8,91 8,90 9,84 8,58 8,21 Kinh tế tư nhân 3,36 3,38 3,41 3,37 3,38 3,77 Kinh tế cá thể 35,25 34,32 33,83 32,93 32,31 32,13 Kinh tế hỗn hợp 4,04 3,84 3,83 3,89 3,92 4,20 Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 7,39 9,07 10,03 12,24 13,27 13,11 [Nguồn: Niên giám thống kê 2001, Nxb Thồng kê, Hà nội 2002] Vai trò của khu vực kinh tế tư nhân trong kinh tế quốc gia (tính theo giá 1994) TT Chỉ tiêu Đơn vị 1996 1997 1998 1999 2000 1 Tổng GDP cả nước tỷ đồng 213833 231264 244596 256272 273582 2 Khu vực kinh tế tư nhân tỷ đồng 68518 74167 78775 81455 86929 3 Tốc độ phát triển liên hoàn GDP % 109,34 108,15 105,76 104,77 106,65 4 Tốc độ phát triển liên hoàn của khu vực KTTN % 111,44 108,24 106,21 103,40 106,72 5 Tốc độ tăng liên hoàn của doanh nghiệp tư nhân % 14,4 9,8 7,9 3,2 8,5 6 Tốc độ tăng liên hoàn của hộ cá thể % 11,2 8,9 6,4 2,9 7,2 7 Tỷ trọng GDP của khu vực KTTN trong GDP cả nước % 32,04 32,07 32,21 31,78 31,77 [Nguồn: Số liệu điều tra 61 tỉnh thành năm 2000 - Tổng cục thống kê,2001] Tình hình thu hút lao động trong khu vực kinh tế tư nhân trong những năm qua (tính đến thời điểm 31/12 hàng năm) 1996 1997 1998 1999 2000 Lao động (người) 3.865.136 3.666.825 3.816.942 4.097.455 4.643.844 Tốc độ phát triển liên hoàn(%) 100 94,87 104,09 107,35 113,33 Tốc độ tăng liên hoàn (%) -5,13 4,09 7,35 13,33 % trong tổng lao động xã hội 11,2 10,3 10,3 10,9 12,0 [Nguồn: Số liệu thống kê 61 tỉnh thành - Tổng cục Thống kê, 2001] Kết quả sản xuất kinh doanh của khu vực kinh tế tư nhân năm 2000 Đơn vị: % Toàn bộ khu vực kinh tế tư nhân Hộ kinh doanh cá thể Doanh nghiệp Kết quả sản xuất kinh doanh- % trong GDP cả nước 26,87 19,72 7,14 Tỷ trọng trong khu vực kinh tế tư nhân 100,00 73,41 26,59 Trong đó: Công nghiệp 20,21 17,68 27,18 Thương nghiệp và dịch vụ 33,34 31,27 39,07 Các ngành khác 45,65 51,05 33,75 [Nguồn: Số liệu thống kê 61 tỉnh thành năm 2000 Tổng cục Thống kê, 2001]

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc9312.doc
Tài liệu liên quan