Đề tài Nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế nước ta trong quá trình hội nhập

Hội nhập kinh tế quốc tế đem đến cho Việt Nam nhiều cơ hội đồng thời là những thách thức to lớn. Sự cạnh tranh sẽ diễn ra khốc liệt. Để bảo đảm sự phát triển của nền kinh tế, đứng vững và đi lên trong cuộc cạnh tranh, đòi hỏi chúng ta phải tìm ra các giải pháp cả trên bình diện vĩ mô và vi mô. Các giải pháp phải được tiến hành đồng bộ từ việc đẩy nhanh hơn nữa việc chuyển đổi cơ chế quản lí kinh tế, việc xây dựng khung pháp lí phù hợp đến việc các doanh nghiệp phải có các đối sách và tự vận hành theo yêu cầu phát triển của chính mình và của quốc gia.

doc19 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1687 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế nước ta trong quá trình hội nhập, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bộ Giáo dục và Đào tạo Trường Đại học Kinh tế Quốc Dân --------------------- nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế nước ta trong quá trình hội nhập Giáo viên hướng dẫn: Sinh viên: Bạch Quốc trung Hà Nội, 4 - 2006 mục lục Trang Lời nói đầu 2 I. yêu cầu cấp bách về nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế và của các doanh nghiệp 3 1. Khái niệm cạnh tranh 3 2. Vai trò của cạnh tranh giữa các doanh nghiệp 5 3. Các loại hình cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường 6 4. Yêu cầu cấp bách về nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế và của các doanh nghiệp 6 II. thực trạng cạnh tranh ở việt nam hiện nay 8 1. Những thành tựu đạt được 8 2. Những hạn chế của nền kinh tế về năng lực cạnh tranh 11 III. các giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế nước ta 13 1. Phát triển nguồn nhân lực có kĩ năng quản lí nền kinh tế theo cơ chế thị trường và đội ngũ lao động có tay nghề cao 13 2. Mở rộng mạng lưới liên kết 14 3. Xây dựng và hoàn thiện khung pháp lí cho hoạt động kinh doanh 14 4. Tăng cường xâm nhập thị trường Quốc tế 15 5. Tăng cường đầu tư cho xây dựng và phát triển thương hiệu 15 6. Nâng cao chất lượng sản phẩm, đa dạng hoá và hạ giá thành sản phẩm 16 Kết luận 17 Tài liệu tham khảo 18 Lời mở đầu Xu thế toàn cầu hóa và khu vực hóa là sản phẩm của quá trình cạnh tranh giành giật thị trường gay gắt giữa các quốc gia và giữa các thực thể kinh tế quốc tế. Với sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, sức sản xuất ngày càng phát triển, kéo theo sự đòi hỏi cấp bách về thị trường tiêu thụ. Với sự hợp tác quốc tế, những hàng rào cản trở giao lưu thương mại và đầu tư ngày càng giảm đi, kinh tế thế giới ngày càng trở thành một thị trường chung. Tất cả các nước, để khỏi bị gạt ra ngoài lề của sự phát triển, đều nỗ lực hội nhập vào xu thế chung, ra sức cạnh tranh về kinh tế vì sự tồn tại và phát triển của chính mình. Việt Nam là một quốc gia đang trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Liệu chúng ta có khả năng cạnh tranh, khả năng phát triển trong cộng đồng kinh tế quốc tế để xây dựng một nước Việt Nam hùng cường, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân? Điều đó đòi hỏi mỗi một chúng ta cần nhận thức rõ chúng ta đang ở đâu? chúng ta cần đi đến đâu? và đi bằng cách nào? Là một sinh viên học ngành kinh tế, em mong muốn mình được tìm hiểu về một vấn đề đang đặt ra cho nền kinh tế nước nhà đó là vấn đề khả năng cạnh tranh của nền kinh tế nước ta hiện nay và các giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh. Vì vậy em chọn đề tài "Nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế nước ta trong quá trình hội nhập" để tìm hiểu. Vấn đề đã được nhiều nhà nghiên cứu kinh tế, các Thầy/Cô giáo nghiên cứu, ở góc độ là học sinh em chỉ có mong muốn tìm hiểu, hệ thống vấn đề và có chăng đưa ra một suy nghĩ bước đầu. Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của Quý Thầy/Cô và các bạn để em hoàn thành bài tập này và mong sự chỉ bảo, góp ý của Quý Thầy/Cô và các bạn. I. yêu cầu cấp bách về nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế và của các doanh nghiệp 1. Khái niệm cạnh tranh Thuật ngữ “cạnh tranh” có nguồn gốc từ tiếng La tinh với nghĩa chủ yếu là sự đấu tranh, ganh đua, thi đua giữa các đối tượng cùng phẩm chất, cùng loại, đồng giá trị nhằm đạt được những ưu thế, lợi thế mục tiêu xác định. Cạnh tranh là quan hệ kinh tế phản ánh mối quan hệ giữa các chủ thể của nền kinh tế thị trường cùng theo đuổi mục đích lợi nhuận tối đa. Đó là sự ganh đua giữa các chủ thể nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi nhất đẻ thu được lợi nhuận siêu ngạch về phía mình. Cạnh tranh là quan hệ kinh tế mà ở đó các chủ thể kinh tế ganh đua nhau tìm mọi biện pháp, cả nghệ thuật lẫn thủ đoạn để đạt mục tiêu kinh tế của mình, thông thường là chiếm lĩnh thị trường, giành lấy khách hàng cũng như các điều kiện sản xuất, thị trường có lợi nhất. Mục đích cuối cùng của các chủ thể kinh tế trong quá trình cạnh tranh là tối đa hoá lợi ích. Đối với người sản xuất kinh doanh là lợi nhuận, đối với người tiêu dùng là lợi ích tiêu dùng và sự tiên lợi. Yếu tố quyết định để đứng vững và vươn lên chiến thắng là năng lực cạnh tranh. Năng lực cạnh tranh thể hiện ở ba cấp độ: Năng lực cạnh tranh quốc gia, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và năng lực cạnh tranh của hàng hóa, dịch vụ. Cạnh tranh được chia thành nhiều loại dựa trên các tiêu thức khác nhau. - Khi nói đến tính chất cạnh tranh thì có 2 loại: cạnh tranh lành mạnh và cạnh tranh không lành mạnh. - Dưới góc độ các chủ thể kinh tế tham gia thị trường có : cạnh tranh giữa những người sản xuất với nhau, giữa những người mua và người bán, người sản xuất và người tiêu dùng, và giữa những người mua với nhau. - Dưới góc độ thị trường, góc độ thực chứng thì có 2 loại cạnh tranh: cạnh tranh hoàn hảo hay thuần tuý và cạnh tranh không hoàn hảo. - Dưới góc độ các công đoạn sản xuất- kinh doanh, người ta cho rằng có 3 loại: cạnh tranh trước khi bán hàng, trong quá trình bán hàng và sau khi bán hàng. Cuộc cạnh tranh này thực hiện bằng phương thức dịch vụ và thanh toán. - Xét theo mục tiêu kinh tế của các chủ thể trong cạnh tranh, có cạnh tranh trong nội bộ ngành và cạnh tranh giữa các ngành . - Cuối cùng xét theo phạm vi lãnh thổ, người ta nói tới cạnh tranh trong nứơc và cạnh tranh quốc tế. Hoạt động cạnh tranh trên thị trường quốc tế được thực hiện dưới những hình thức nhất định, trong đó quan trọng hơn cả là cạnh tranh về giá và về chất lượng hàng hoá, dịch vụ. Khả năng cạnh tranh của các mặt hàng và loại hình dịch vụ được thể hiện trên các nét cơ bản dưới đây: - Chất lượng hàng hoá cao : yêu cầu đẹp, bền, mới, tiện dụng, phù hợp với thói quen tiêu dùng và văn hóa mỗi dân tộc, bao bì hấp dẫn, thương hiệu hàng hoá tin cậy... - Đảm bảo vệ sinh môi trường, đạo đức đối với hàng hoá , an toàn nhanh chóng với dịch vụ. - Giá thành phải đủ sức cạnh tranh với hàng hoá và dịch vụ cùng loại của nứơc khác, chí ít là các nước trong khu vực và những đối thủ cạnh tranh với mình. Dù tồn tại dưới hình thức nào thì sự thành công hay thất bại của cạnh tranh đều phụ thuộc vào các nhân tố sau: - Lợi thế so sánh: Những luận giải có tính phổ biến của lợi thế so sánh là sự khác nhau giữa các quốc gia có sự thiên phú tự nhiên về các yếu tố sản xuất : lao động, đất đai, tài nguyên quốc gia, vốn,…Lợi thế so sánh mang tính động hay nói cách khác những lợi thế so sánh không phải là bất biến đối với bất kì một quốc gia nào. Đối với Việt Nam thì lợi thế lớn nhất của chúng ta là: vị trí địa lý, tài nguyên thiên nhiên, nguồn nhân lực. - Năng suất của nền kinh tế quốc gia: Tăng trưởng kinh tế của một quốc gia được xác định bởi năng suất nền kinh tế của quốc gia đó và nó được đo bằng giá trị hàng hoá và dịch vụ sản xuất được trên một đơn vị lao động, vốn và nguồn lực vật chất của nước đó. Vấn đề chính và thực chất của sự phát triển là làm thế nào tạo ra được sự tăng trưởng nhanh và bền vững của nền kinh tế quốc gia. Sự tiến triển của năng suất và sức cạnh tranh của một quốc gia phụ thuộc vào 3 yếu tố tác động, có quan hệ với nhau chặt chẽ. Đó là: bối cảnh chính trị và kinh tế vĩ mô, chất lượng hoạt động và chiến lược của các doanh nghiệp, chất lượng môi trường kinh doanh. 2. Vai trò của cạnh tranh giữa các doanh nghiệp 2.1. Đối với doanh nghiệp. - Cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải tối ưu hoá các yếu tố đầu vào của sản xuất kinh doanh,phải triệt để không ngừng sáng tạo, tìm tòi. - Cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải không ngừng đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, nắm bắt thông tin kịp thời. - Cạnh tranh quy định vị thế của doanh nghiệp trên thương trường thông qua những lợi thế mà doanh nghiệp đạt được nhiều hơn đối thủ cạnh tranh. Đồng thời cạnh tranh cũng là yếu tố làm tăng hoặc giảm uy tín của doanh nghiệp trên thương trường. 2.2. Đối với người tiêu dùng. Cạnh tranh mang đến cho người tiêu dùng ngày càng nhiều hơn chủng loại hàng hoá, đáp ứng ngày càng đầy đủ nhu cầu của khách hàng, của người tiêu dùng. Khôngnhững thế, cạnh tranh đem lại cho người tiêu dùng sự thoả mãn hơn nữa về nhu cầu. 2.3. Đối với nền kinh tế quốc dân: - Cạnh tranh là môi trường, là động lực thúc đẩy sự phát triển bình đẳng mọi thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường. - Cạnh tranh là điều kiện quan trọng để phát triển lực lượng sản xuất, đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật ngày càng cao vào sản xuất, hiện đại hoá nền kinh tế xã hội. - Cạnh tranh góp phần xoá bỏ những độc quyền bất hợp lý, xoá bỏ những bất bình đẳng trong kinh doanh. - Tuy nhiên không phải tất cả các mặt của cạnh tranh đều mang tính tích cực mà bản thân nó cũng phải thừa nhận các mặt tiêu cực như: + Bị cuốn hút vào các mục tiêu cạnh tranh mà các doanh nghiệp đã không chú ý đến các vấn đề xung quanh như: xử lý chất thải, ô nhiễm môi trường và hàng loạt các vấn đề xã hội khác. + Cạnh tranh có thể có xu hướng dẫn tới độc quyền. + Cường độ cạnh tranh mạnh sẽ làm ngành yếu đi. 3. Các loại hình cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường: Chúng ta có thể phân biệt thành bốn mức độ cạnh tranh căn cứ vào mức độ thay thế của sản phẩm: * Cạnh tranh nhãn hiệu: Doanh nghiệp có thể xem những doanh nghiệp khác có bán sản phẩm và dịch vụ tương tự cho cùng một số khách hàng với giá bán tương tự là các đối thủ cạnh tranh của mình. * Cạnh tranh ngành: Doanh nghiệp có thể xem một cách rộng hơn tất cả những doanh nghiệp cùng sản xuất một loại hay một lớp sản phẩm đều là đối thủ cạnh tranh của mình. * Cạnh tranh công dụng: Doanh nghiệp có thể xem một cách rộng hơn nữa là tất cả những doanh nghiệp sản xuất ra những sản phẩm thực hiện cùng một dịch vụ là đối tượng cạnh tranh của mình. 4. Yêu cầu cấp bách về nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế và của các doanh nghiệp Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế là một xu thế khách quan. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, sự phát triển của công nghệ thông tin đang làm cho nền kinh tế thế giới gắn bó, ràng buộc lẫn nhau… Điều đó làm cho không một quốc gia nào , một nền kinh tế dân tộc nào muốn phát triển mà có thể tách rời, biệt lập khỏi hệ thống kinh tế thế giới, không hoà nhập vào sự vận động chung của nền kinh thế giới. Do đó, quá trình toàn cầu hoá kinh tế, hội nhập kinh tế quốc tế là một xu thế khách quan. Để phát triển và tăng trưởng, các nước trên thế giới luôn cố gắng tìm cách đẩy mạnh các hoạt động kinh tế của mình trên phạm vi thế giới. Guồng quay phát triển đó đã tạo sức ép mãnh liệt và gay gắt về cạnh tranh đối với mỗi nền kinh tế, mỗi doanh nghiệp, buộc họ phải không ngừng nâng cao khả năng cạnh tranh. Đó chính là con đường duy nhất để các doanh nghiệp tồn tại và phát triển, và là một nhân tố quan trọng giúp nền kinh tế của quốc gia không bị rơi vào tình trạng trì trệ, lạc hậu. Có khả năng cạnh tranh tốt thì nền kinh tế chắc chắn sẽ có chỗ đứng trên thị truờng quốc tế, do đó sẽ có khả năng bắt kịp với vận tốc phát triển của các cường quốc kinh tế. Nó phù hợp với thời đại, phù hợp với quy luật phát triển chung của thế giới . Vì thế nên vai trò của nó đối với nền kinh tế thể hiện rất rõ nét, đặc biệt là qua các chức năng của cạnh tranh. Cụ thể như : Cạnh tranh giúp phân bổ nguồn lực một cách tối ưu vì mục đích của các chủ thể kinh tế là lợi nhuận tối đa. Do đó, các nguồn lực kinh tế xã hội sẽ được chuyển đến tập trung vào sản xuất các mặt hàng có lợi nhuận cao và bỏ trống những mặt hàng có lợi nhuận thấp . Các doanh nghiệp sẽ tận dụng triệt để mọi nguồn lực cả về tư liệu sản xuất và nguồn nhân lực của xã hội bởi vậy nâng cao tính hiệu quả trong sản xuất, giảm được chi phí tăng lợi nhuận. Cạnh tranh kích thích cải tiến kĩ thuật, tăng năng suất lao động thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển nhanh chóng, tạo ra khối lượng sản phẩm hàng hoá đa dạng dồi dào, phong phú, chất lượng tốt, giá thành hạ do đó đáp ứng được nhu cầu đa dạng của xã hội. Cạnh tranh góp phần sàng lọc gĩư lại các nhân tố kinh tế, chủ thể kinh tế thích ứng năng động phù hợp với thị trường và loại bỏ những nhân tố, chủ thể kinh tế kém năng động, kém linh hoạt và mở đường cho sự đi lên của kinh tế. Nền kinh tế thế giới đang xuất hiện ngày càng rõ một thị trường hàng hoá, dịch vụ có tính chất thế giới, một thị trường đầu tư chung, một thị trường tài chính, tiền tệ chung. Trong đó phải nói tới lĩnh vực luôn đi trước là thương mại. Quốc tế hoá thương mại đòi hỏi phải xoá bỏ rào cản, chấp nhận tự do buôn bán. Mỗi nước phải mở cửa, thâm nhập vào thị trường quốc tế, mặt khác phải chấp nhận mở cửa thị trường trong nước cho hàng hoá nước ngoài vào. Một trong những mục tiêu của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế là nhằm mở cửa thị trường, tranh thủ thêm vốn, công nghệ, kiến thức quản lí dể đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, trong thị trường thế giớ rộng lớn, phức tạp như hiện nay, với tương quan yếu kém cả về cơ chế, chính sách, cả về xuất phát điểmcủa cơ cấu kinh tế cú, việc nền kinh tế không có sức cạnh tranh cao là một thiệt thòi lớn. Bỡi lẽ, hội nhập là vào một "sân chơi" chung với luật chơi tự do, công khai minh bạch. Như vậy để đứng vững và vươn lên chiến thắng là phải nâng cao năng lực cạnh tranh. Tham gia hội nhập thì hàng hoá Việt Nam có thêm cơ hội để xâm nhập vào thị trường thế giới, nhưng vì sức cạnh tranh của hàng hoá nước ta rất kém, nên cơ hội thâm nhập thị trường thế giới mới ở dạng tiềm năng trong khi đó hàng nước ngoài với sức cạnh tranh cao sẽ có điều kiện thâm nhập vào thị trường Việt Nam. Nếu như hàng hoá Việt Nam không có sự thay đổi về chất thì chắc chắn sẽ không đứng vững ngay trên thị trường trong nứơc và điều đó cũng sẽ có nghĩa là nguy cơ tụt hậu về kinh tế vì những ngành kinh tế non trẻ sẽ “chết yểu” nếu không có biện pháp bảo hộ thích hợp. Đối với hàng hoá, việc thực hiện các nguyên tắc tự do mậu dịch với nội dung cắt giảm thuế quan, không hạn chế số lượng hành hoá nhập khẩu cũng là những thách thức lớn vì thực chất đây là cuộc đọ sức về cạnh tranh trên thị trường. Chúng ta đều biết, các doanh nghiệp ở nước ta hiện nay khả năng cạnh tranh còn quá yếu. Chỉ có các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, với kinh nghiệm và năng lực quản lý tiên tiến …là có thể có khả năng cạnh tranh khi mở cửa nền kinh tế. Trong điều kiện như vậy tham gia vào cuộc cạnh tranh quốc tế chúng ta sẽ bị tổn thương và thua thiệt. Để tránh nguy cơ và khỏi bị gạt ra ngoài quỹ đạo phát triển chung, phải nỗ lực, chủ động hội nhập vào xu thế chung, ra sức cạnh tranh kinh tế vì sự tồn tại và phát triển của mình. Vấn đề có tính chất quyết định là nâng cao nội lực của nền kinh tế, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế nước ta. II. thực trạng cạnh tranh ở việt nam hiện nay 1. Những thành tựu đạt được Trong thời gian qua, Việt Nam đã đạt được những kết quả cụ thể đáng khích lệ trong việc mở rộng quan hệ kinh tế - thương mại, thị trường và tăng trưởng xuất khẩu. Đễn nay Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại ngiao với 167 nước trên thế giới, mở rộng quan hệ thương mại , xuất khẩu hàng hóa tới trên 221/225 thị trường của các nước và vùng lãnh thổ, kí kết 87 Hiệp định thương mại song phương. Việt Nam cũng đã kí hơn 350 hiệp định hợp tác phát triển với các nhà tài trợ, 48 Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư (theo báo cáo của Bộ/ngành của UBQG vể Hợp tác Kinh tế Quốc tế). Sau gần 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới, chúng ta đã bước đầu hình thành được một nền kinh tế thị trường (KTTT), tạo ra nhiều hàng hoá và dịch vụ không chỉ đáp ứng được nhu cầu trong nước mà còn mở rộng xuất khẩu. Thực lực và khả năng cạnh tranh của các chủ thể kinh tế sau những lúng túng hẫng hụt hiện đã trụ vững và từng bước vươn lên trong sự cạnh tranh khốc liệt, chứa đựng nhiều rủi ro thị trường. Những năm qua, hàng Việt Nam đã khẳng định được khả năng cạnh tranh của mình ở nhiều cấp độ: góp phần đảm bảo cân đối lớn của nền kinh tế về những nhu cầu thiết yếu, nhiều mặt hàng tiêu dùng đã đứng vững và tiếp tục mở rộng thị phần trong nước ; một số mặt hàng công nghiệp, nông nghiệp , thuỷ sản trở thành sản phẩm chủ lực trong xuất khẩu với sản lượng và kim ngạch ngày càng tăng, kể cả ở những thị trường khó tính như: Tây Âu, Nhật Bản, Bắc Mỹ. Qui mô và tốc độ tăng trưởng xuất khẩu năm sau thường cao hơn năm trước. Năm 1990 kim ngạch xuất khảu mới đạt 2,404 tỷ USD và nhập khẩu 2,752 tỷ USD thì năm 2001, kim ngạch xuất khẩu đã đạt 15 tỷ USD (nếu tính cả dịch vụ thì đạt 17,6 tỷ USD), tăng mỗi năm trung bình trên 20%, có năm 30%. năm 2004 đã đánh dấu những bước tiến mới và quan trọng trong tiến trình hội nhập KTQT. Tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2004 đạt 26,5 tỷ USD tăng 33% so với năm 2003 - mức tăng cao nhất kế từ năm 2001 đến nay. Số doanh nghiệp tham gia xuất khẩu đã tăng lên 16.200 so với 12 doang nghiệp năm 1987 và 496 doanh nghiệp năm 1991. Hiện Việt Nam nằm trong danh sách 50 quốc gia và vùng lãnh thổ có kim ngạch xuất nhập khẩu lớn nhất thế giới và được công nhận quốc gia có nền ngoại thương đang phát triển mạnh mẽ. Về chủng loại các mặt hàng xuất khẩu chủ lực cũng không ngừng được mở rộng, nếu như năm 1991 chỉ có 4 nhóm mặt hàng xuất khẩu chủ lực là dầu thô, thuỷ hải sản, gạo, dệt may, năm 2003 đã có 17 mặt hàng chủ lực , đến năm 2005 ta đã có 25 mặt hàng chủ lực, trong đó có nhiều mặt hàng mới với tỉ trọng lớn như dệt may, giày dép chỉ đứng sau dầu thô điện tử- máy tính, sản phẩm gỗ, cà phê, cao su… Có 5 nhóm mặt hàng đã đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỉ USD/năm là dầu thô, giày dép , thuỷ sản và gạo. Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã xây dựng được cho mình hướng đi đúng, biết nâng cao vị thế bằng cách đưa ra thị trường nhiều mẫu mã sản phẩm mới, đa dạng về chủng loại, chất lượng cao với phong cách, dịch vụ bán hàng và sau bán hàng tốt, tiêu biểu như ngành dệt may. Tỷ lệ nội địa hoá trong hàng xuất khẩu được nâng lên, qua đó đã tăng cường sử dụng nguồn nguyên phụ liệu trong nước và tăng hiệu quả sản xuất-kinh doanh. Một số công ty dệt kim có tỷ lệ nội địa hoá đạt tới 80% như công ty dệt may Hà Nội, Thành Công, Nha Trang, các công ty dệt thoi như công ty dệt may Thắng Lợi, Việt Thắng cũng có tỷ lệ nội địa hoá từ 30-50%. Ngành dệt kim Việt Nam đạt kim ngạch xuất khẩu 3,6 tỉ USD năm 2003, 4,319 tỉ USD năm 2004. Quá trình hội nhập kinh tế đã góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế một cách tích cực theo hướng tăng dần tỉ trọng giá trị công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỉ trọng giá trị nông nghiệp trong cơ cấu tổng thu nhập quốc dân. cơ cấu kinh tế ngành và vùng đã có sự chuyển biến theo định hướng về lợi thế năng lực cạnh tranh khu vực và quốc tế, hình thành các vùng kinh tế trọng điểm, các khu công nghiệp và khu chế xuất tập trung để hạ thấp giá thành và và tạo điều kiện áp dụng khoa học -công nghệ hiện đại hơn trong sản xuất và đầu tư. Nhà nước ta cũng đã đẩy mạnh hoạt động xây dựng và hoàn thiện pháp luật, đặc biệt là luật kinh tế. Những sửa đổi cơ bản về chế độ kinh tế trong Hiến pháp 1992, sự ra đời của Bộ Luật dân sự cùng với các văn bản pháp luật khác như Luật Doanh nghiệp nhà nước, Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam,, Luật Đất đai, Luật Thương mại, Luật cạnh tranh… và việc kí kết một số điều ước Quốc tế quan trọng, đã tạo hành lang pháp lí cơ bản cho việc thực hiện công cuộc đổi mới hội nhập kinh tế Quốc tế, một môi trường kinh doanh lành mạnh thúc đẩy kinh tế phát triển và thu hút đầu tư trực tiếp từ nước ngoài. Việc mở rộng quan hệ quốc tế kinh tế - thương mại, tăng cường khả năng cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam, tạo điều kiện để Việt Nam gia nhập tổ chức Thương mại thế giới (WTO) - nơi có sân chơi bình đẳng cho mọi quốc gia. 2. Những hạn chế của nền kinh tế về năng lực cạnh tranh Trong những năm qua, chúng ta đã thu được nhiều thành tựu trong lĩnh vực phát triển kinh tế, các chủ thể kinh tế đã bắt đầu chứng tỏ được thực lực và khả năng cạnh tranh của mình, hàng hóa Việt Nam đã tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị trường Quốc tế. Tuy vậy, nền kinh tế của chúng ta vẫn còn nhiều hạn chế về năng lực cạnh tranh. Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp nhìn chung còn yếu, chính sách vĩ mô chưa tạo được động lực khuyến khích doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh. a. Những hạn chế của doanh nghiệp và rào cản trong việc tiếp cận các yếu tố sản xuất Nước ta xuất phát từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, gần 3/4 dân số lao động sống bằng nông nghiệp, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn chưa được chú trọng đúng mức. Trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp, trình độ trang thiết bị lạc hậu từ 3 đến 4 thế hệ so với các nước khác trong khu vực. Trình độ kĩ thuật công nghệ thấp. Cơ sở hạ tầng và các ngành dịch vụ cơ bản phục vụ sản xuất kinh doanh như kho bãi, thông tin liên lạc, điện nước, vận tải… đều kém phát triển và chi phí cao hơn các nước trong khu vực. những yêu tố này làm giảm khả năng cạnh tranh trong bối cảnh hội nhập khu vực và quốc tế. Mặc dù đã có nhiều tiến bộ nhưng so với các nước, năng lực cạnh tranh quốc gia của Việt Nam còn thấp kém và chậm được cải thiện. Sức cạnh tranh của doanh nghiệp và hàng hóa của ta cũng rất yếu kém. Doanh nghiệp Việt Nam phần lớn có quy mô nhỏ, vốn ít… Vả lại một bộ phận quan trọng được hình thành và hoạt động một thời gian dài trong cơ chế bao cấp. Trừ một số không nhiều các doanh nghiệp đã có thay đổi rõ rệt trong kinh doanh theo cơ chế thị trường, nhìn chung số còn lại khá chậm chạp trong đổi mới công nghệ, phương pháp quản lí, hình thức mẫu mã và chất lượng, tiêu chuẩn kĩ thuật của sản phẩm cho thích hợp với yêu câu chung của thị trường, tiềm lực tài chính nhỏ nên năng lực cạnh tranh Quốc tế thấp. Đa phần các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế nhà nước hoạt động trong tình trạng kém hiệu quả và có tư tưởng trông chờ vào sự bảo hộ của Nhà nước. Một bộ phận đội ngũ cán bộ quản lí doanh nghiệp chưa thích ứng với kinh tế thị trường. Tác phong lãnh đạo của nền kinh tế tập trung bao cấp còn rơi rớt lại ở nhiều doanh nghiệp nhà nước, Tinh thần tự chủ, tự chịu trách nhiệm chưa thực sự cao, vẫn còn tư tưởng ỷ lại vào nhà nước làm cho doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả. b. Các yếu tố pháp lí và thể chế Hệ thống chính sách, cơ chế quản lí hiện tại của Nhà nước chưa tạo ra môi trường cạnh tranh thực sự giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Môi trường kinh doanh cũng còn một số bất cập về khung khổ pháp lí và thể chế, về cấu trúc thị trường và hành vi cạnh tranh. Thể chế kinh tế thị trường chưa hoàn thiện thể hiện ở sự thiếu đồng bộ của các yếu tố thị trường như: thị trường tiền tệ, thị tường đất đai, bất động sản, thị trường lao động, khoa học - công nghệ… Độc Quyền, bảo hộ và bao cấp vẫn còn tồn tại khá phổ biến trong nền kinh tế như triệt tiêu động lực của cạnh tranh, tạo ra tâm lí ỷ lại của nhiều doanh nghiệp, đồng thời tạo bất bình đẳng giữa các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp nhỏ và vừa. Cho đến nay, tuy đã có nhiều cố gắng trong trong công tác xây dựng pháp luật, nhưng hệ thống luật pháp, chính sách kinh tế của Việt Nam về các vấn đề trên còn chưa hòan chỉnh và có nhiều bất cập so với các quy định Quốc tế, đặc biệt là còn thiếu minh bạch không nhất quán và thiếu tính ổn định để tạo ra môi trường kinh doanh bình đẳng, khuyến khích các doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh lành mạnh. Các cơ sở pháp lí đảm bảo cạnh tranh chậm được ban hành và sửa đổi. Việt Nam mới có Luật cạnh tranh, chưa hợp nhất các bộ luật thành thành các bộ luật thống nhất cho các thành phần kinh tế tham gia cạnh tranh (mới đang xây dựng luật đầu tư chung cho các đối tác nước ngoài và doanh nghiệp trong nước, Luật doanh nghịêp cho các lọai hình doanh nghiệp)… Bên cạnh đó, việc thực thi pháp luật còn rất hạn chế. Nhiều chủ trương chính sách đúng đắn của Đảng, Chính phủ ban hành chưa được thực hiện triệt để. Bộ máy điều hành ở một số bộ và địa phương còn yếu kém, chưa đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp. Tóm lại, sau hai mươi năm đổi mới, chúng ta đã làm được nhiều việc. Nền kinh tế của chúng ta đã phát triển mạnh mẽ, các doanh nghiệp Việt Nam đã từng bước tham gia vào "đấu trường" cạnh tranh và đã có những thành tựu rõ rệt. Hàng Việt Nam đã khẳng định được khả năng cạnh tranh của mình ở nhiều cấp độ: nhiều mặt hàng tiêu dùng đã đứng vững và tiếp tục mở rộng thị phần trong nước; một số mặt hàng công nghiệp, nông nghiệp , thuỷ sản trở thành sản phẩm chủ lực trong xuất khẩu với sản lượng và kim ngạch ngày càng tăng. Qui mô và tốc độ tăng trưởng xuất khẩu ngày một tăng. Tuy vậy, vẫn còn những rào cản, hạn chế khả năng cạnh tranh của kinh tế nước ta hiện nay: Trình độ sản xuất lạc hậu, cơ cấu kinh tế nông nghiệp vẫn chiếm tỉ trọng cao trong nền kinh tế, những yếu kém trong quản lí kinh tế theo cơ chế thị trường, sự eo hẹp của đồng vốn, sự thiếu đồng bộ và ổn định của các bộ luật về kinh tế… Để phát triển nền kinh tế, tăng cường năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, đòi hỏi sự nổ lực của tòan Đảng, toàn dân, sự đổi mới về tư duy kinh tế, sự phấn đấu không ngừng và dũng cảm của các doanh nghiệp… III. Các giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế nước ta 1. Phát triển nguồn nhân lực có kĩ năng quản lí nền kinh tế theo cơ chế thị trường và đội ngũ lao động có tay nghề cao Phải nói rằng Việt Nam đang dần dần hình thành một đội ngũ quản lí năng động có kiến thức về quản lí và chấp nhận cạnh tranh. Tuy vậy, đội ngũ này chưa mạnh. Đại đa số vẫn theo đuổi chiến lược kinh doanh ngắn hạn, thụ động chủ yếu dựa vào kinh nghiệm hơn là căn cứ vào phân tích thị trường. Trên thương trường cũng như chiến trường, sự thắng lợi dựa vào nhiều yếu tố nhưng trong đó con người là yếu tố quyết định. Cần nâng cao năng lực kinh doanh cho đội ngũ quản lí các doanh nghiệp. Mặt khác, để có sản phẩm đủ sức cạnh tranh cần phải có đội ngũ lao động có tay nghề cao, có khả năng sử dụng các thiết bị máy móc hiện đại. Điều này đòi hỏi ngành giáo dục và đào tạo phải thay đổi cơ cấu đào tạo, đảm bảo sự cân đối giữa đào tạo các nhà nghiên cứu, các kĩ sư và lực lượng công nhân có trình độ tay nghề cao. 2. Mở rộng mạng lưới liên kết Qui mô doanh nghiệp nhỏ bé, tiềm lực yếu (khoảng 90% tổng số doanh nghiệp là doanh nghiệp nhỏ và vừa), khả năng tổ chức thị trường yếu làm giảm khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường quốc tế. Để tăng cường khả năng cạnh tranh, các doanh nghiệp Việt Nam cần có sự liên kết, hợp tác. Sự liên kết giúp cho các doanh nghiệp tập trung được nguồn vốn và nhân lực, tạo vị thế trong thương trường. 3. Xây dựng và hoàn thiện khung pháp lí cho hoạt động kinh doanh Để tăng cường khả năng cạnh tranh trên trường quốc tế, đòi hỏi chúng ta phải tạo mọi điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam phát triển. Một trong các điều kiện qua trọng là tạo hành lang pháp lí thuận lợi. Việt Nam cần xây dựng và hoàn thiện các văn bản về luật kinh tế tạo khung pháp lí thuận lợi cho việc phát triển kinh doanh. Một mặt cần rà soát và chỉnh sửa những văn bản pháp luật không còn phù hợp. Mặt khác cần xây dựng bổ sung những luật mới nhằm tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh. ở nước ta trước đổi mới các doanh nghiệp nhà nước có tính độc quyền nên không tạo ra sức ép của cạnh tranh buộc phải đổi mới kĩ thuật nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả sản xuất kinh doanh. Vì thế để phát triển nền kinh tế thị trường chúng ta phải tạo ra môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Hiện nay nhà nước cần tạo môi trường pháp lý thuận lợi bình đẳng cho các doanh nghiệp hợp tác và cạnh tranh để phát triển; chỉ thực hiện độc quyền nhà nước trong một số ngành, một số lĩnh vực vì lợi ích của đất nước, hạn chế độc quyền kinh doanh, không để lợi dụng địa vị độc quyền nhằm duy trì đặc quyền, đặc lợi, lũng đoạn thị trường khắc phục tình trạng kinh doanh trái phép, trốn lậu thuế, cần tăng cường kiểm tra, kiểm soát và xử lý nghiêm các vi phạm để làm lành mạnh thị trường. Trước đây ngành bưu chính viễn thông là ngành độc quyền của nhà nước hiện nay nhà nước ta đã có chính sách thông thoáng hơn đã xuất hiện một số công ty viễn thông mới như công ty S-fone. Các chính sách mới đó đã tạo ra rất nhiều lợi ích cho người tiêu dùng như giá dịch vụ viễn thông giảm… Đồng thời phải kiểm tra giám sát việc thực thi luật pháp tránh gây phiền hà ảnh hưởng đến hoạt động của các doanh nghiệp. 4. Tăng cường xâm nhập thị trường Quốc tế Tăng cường nghiên cứu thị trường thế giới, tìm cơ hội để các sản phẩm của doanh nghiệp có thể xâm nhập thị trường quốc tế. Để làm được điều này, cần tạo cơ chế để các doanh nghiệp có điều kiện giới thiệu sản phẩm của mình thông qua các cuộc tiếp xúc trực tiếp, thông qua hệ thống quảng cáo và qua hệ thống mạng tòan cầu. 5. Tăng cường đầu tư cho xây dựng và phát triển thương hiệu Giới phân tích nhận định trong giai đoạn hội nhập như vũ bão hiện nay việc xây dựng thương hiệu cho sản phẩm là điều kiện tối quan trọng để đứng vững trên thị trường không những trong nước mà còn là thị trường quốc tế. Các doanh nghiệp cần thấy rõ được lợi thế làm việc xây dựng thương hiệu tạo ra. Cần có những chính sách cụ thể trong việc xây dựng thương hiệu vì nó tạo niềm tin cho khách hàng. Một thương hiệu nổi tiếng là lợi thế cạnh tranh rất tốt, nhưng để có điều đó thì doanh nghiệp cần kết hợp cả việc quảng bá thương hiệu đồng thời nâng cao chất lượng sản phẩm mẫu mã để tạo lòng tin cho khách hàng. Khi đã tạo được ấn tượng ban đầu về thương hiệu của mình đối với khách hàng thì các doanh nghiệp cần tham gia hội trợ thương mại để quảng bá và khẳng định thương hiệu của mình. Ngoài ra doanh nghiệp cần gửu sản phẩm tham gia những cuộc thi về chất lượng hàng hoá như Sao vàng đất Việt, hàng Việt Nam chất lượng cao, nếu có được những danh hiệu được bình chọn càng khẳng định thương hiệu của doanh nghiệp với khách hàng thúc đẩy việc tiêu thụ sản phẩm, tạo ra lợi thế cạnh tranh. Trong tài liệu theo điều tra của Hội nông dân Việt Nam trong số 137 doanh nghiệp được hỏi có đến 19% thừa nhận mình lười xây dựng thương hiệu vì "ngại" nạn hàng giả, hàng nhái thương hiệu. 11,8% cho rằng thiếu nhân lực để tiến hành xây dựng thương hiệu và không ít doanh nghiệp lo tốn kém khi làm việc này. Nhưng thực ra chi phí xây dựng đăng ký nhãn hiệu không tốn kém cho lắm. Đơn cử khi làm nhãn hiệu Coffe G7 của công ty Cà phê Trung nguyên tại 24 quốc gia , mức chi phí bỏ ra chỉ ở mức 4.500 USD. Đây là một giá rẻ so với việc bị nhái thương hiệu, kiện tụng để đòi lại thương hiệu. Chúng ta đã mất hàng triệu đô la dùng cho việc kiện tụng các công ty Mĩ. Khi bị mất thương hiệu các doanh nghiệp đã sử dụng đến hình thức Franchising tức là nhượng quyền thương mại. Theo đó doanh nghiệp Franchising trao cho bên nhận quyền kinh doanh sử dụng mô hình kỹ thuật kinh doanh sản phẩm hay dịch vụ của công ty mình trên thương hiệu của mình đổi lại doanh nghiệp mở Franchising (doanh nghiệp nhận quyền kinh doanh) phải trả cho doanh nghiệp Franchising một khoản thu phí sử dụng bản quyền hay triết khấu % doanh thu trong thời gian do 2 bên thoả thuận. Thông thường chi phí đầu tư cơ sở hạ tầng nhân lực chi cho bên mở Franchising đảm nhận doanh nghiệp Franchising chỉ chuyển giao mô hình kinh doanh hỗ trợ về thương hiệu quảng bá. Ví dụ: vừa qua công ty thực phẩm kinh đô đã áp dụng hình thức Franchising tại Việt Nam cụ thể đối với các đối tác kinh doanh của kinh đô đã bỏ vốn đầu tư mở Bakery dưới sự hỗ trợ kiểm duyệt của kinh đô Bakery. Cà phê Trung nguyên cũng áp dụng phương pháp nêu trên đã có tới 1000 quán mang thương hiệu tại Nhật, Thái Lan, Trung quốc.v.v…và mở rộng ở Mỹ, Đức, úc. Trước xu thế hội nhập nhu cầu về xây dựng thương hiệu tại Việt Nam đang trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết bởi nếu không có được những thương hiệu mạnh việc cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước sẽ càng thêm khó khăn, thậm chí còn bị đè bẹp ngay trên sân nhà. 6. Nâng cao chất lượng sản phẩm, đa dạng hóa và hạ giá thành sảnphẩm Yếu tố quan trọng để đảm bảo cạnh tranh thắng lợi là nâng cao chất lượng sản phẩm. Sẽ là vô nghĩa khi chúng ta dùng mọi biện pháp ngoại lai mà bản thân sản phẩm kém chất lượng. Chất lượng sản phẩm là yếu tố cơ bản tạo nên khả năng cạnh tranh của sản phẩm - điều này đã được khẳng định rõ ràng trong nền kinh tế thị trường. Nâng cao chất lượng sản phẩm luôn là mục tiêu thường xuyên và cấp thiết. Chất lượng sản phẩm được hình thành trong suốt quá trình từ chuẩn bị sản xuất đến sản xuất và nhập kho thành phẩm. Vì vậy, công tác quản lý chất lượng sản phẩm phải được tiến hành ở mọi khâu, mọi giai đoạn của quá trình sản xuất. Chất lượng sản phẩm ngày nay không chỉ ở độ bền, không chỉ ở việc hợp thị hiếu của người tiêu dùng mà còn vấn đề đảm bảo vệ sinh môi trường, phát triển bền vững,. Đa dạng hoá sản phẩm là việc tăng các danh mục sản phẩm kinh doanh, làm thay đổi cơ cấu sản phẩm sản xuất của doang nghiệp theo hướng có lợi hơn đồng thời khai thác triệt để các nhu cầu của thị trường nhằm mục đích thu được nhiều lợi nhuận. Để đa dạng hoá sản phẩm thành công điều đầu tiên cần thực hiện là chất lượng sản phẩm. Sản phẩm mới đòi hỏi phải có chất lượng cao, đó là điều kiện đầu tiên để sản phẩm mới thâm nhập thị trường. Đối với hàng hoá thông thường và thị trường có thu nhập thấp thì công cụ giá bán có vai trò to lớn trong công tác tiêu thụ sản phẩm cũng như khả năng cạnh tranh trên thị trường của Doanh nghiệp. Để cạnh tranh nhưng vẫn có lãi thì Doanh nghiệp thường tìm các biện pháp nhằm làm giảm giá thành sản xuất và giảm một số chi phí khác. kết luận Hội nhập kinh tế quốc tế đem đến cho Việt Nam nhiều cơ hội đồng thời là những thách thức to lớn. Sự cạnh tranh sẽ diễn ra khốc liệt. Để bảo đảm sự phát triển của nền kinh tế, đứng vững và đi lên trong cuộc cạnh tranh, đòi hỏi chúng ta phải tìm ra các giải pháp cả trên bình diện vĩ mô và vi mô. Các giải pháp phải được tiến hành đồng bộ từ việc đẩy nhanh hơn nữa việc chuyển đổi cơ chế quản lí kinh tế, việc xây dựng khung pháp lí phù hợp đến việc các doanh nghiệp phải có các đối sách và tự vận hành theo yêu cầu phát triển của chính mình và của quốc gia. tài liệu tham khảo 1. Cơ hội và thách thức khi Việt Nam gia nhập WTO. Tài liệu hội thảo của Bộ ngoại giao, Hà Nội, 2005 2. Chiến lược cạnh tranh. Nhà xuất bản KHKT 3.Kinh tế chính trị Mac-Lênin. Nhà xuất bản chính trị quốc gia 4. Quản lý doanh nghiệp trong cơ chế thị trường. NXB chính trị quốc gia- 2003 5. Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới, cơ hội và thách thức. NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005 6. Thời báo kinh tế Việt Nam 2004 7. Báo điện tử Việt Nam net: www.vnn.vn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35735.doc
Tài liệu liên quan