LỜI MỞ ĐẦU
A – LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÍN DỤNG CHO NGƯỜI NGHÈO
1.Nghèo đói, và thực trạng nghèo đói ở nước ta hiện nay
1.1. Đói nghèo
1.1.1. Quan niệm về đói nghèo
1.1.2. Thước đo đói nghèo
1.2. Thực trạng đói nghèo ở Việt Nam
1.3.Chiến lược quốc gia về xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam
1.4. Giải pháp xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam hiên nay
2.Các quan điểm tín dụng cho người nghèo
2.1. Vai trò của tín dụng trong việc giảm nghèo đói ở nông thôn
2.2. Các trường phái lý thuyết về tín dụng cho người nghèo
2.2.1. Trường phái cổ điển
2.2.2. Trường phái kiềm chế tài chính
2.2.3. Trường phái “ohio”
2.2.4. Trường phái thể chế kiểu mới
2.2.5. Tiếp cận đa hệ thống – xu hướng mở rộng tín dụng cho người nghèo
2.3. Tác động của tài chính vi mô tới quá trình giảm nghèo
2.3.1. Định nghĩa về tài chính vi mô
2.3.2.Tác động tới quá trình xóa đói giảm nghèo
3.Nhu cầu về các dịch vụ tài chính cho người nghèo
3.1. Nhu cầu về tín dụng qui mô nhỏ
3.2.Nhu cầu về tiết kiêm
B - MỘT SỐ MÔ HÌNH ĐÃ THÀNH CÔNG VÀ BÀI HỌC RÚT RA CHO VIỆT NAM
1.Một số mô hình tài chính vi mô thành công trên thế giới
1.1.Ngân hàng Grameen thuộc Cộng hòa Bangladesh (GB)
1.2.Ngân hàng nông nghiệp và hợp tác xã tín dụng Thailand (BAAC)
2.Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
2.1.Quan niệm sai lầm về hoạt động tài chính vi mô
2.2.Tại sao các dự án trên lại đi đến thất bại
C- THỰC TRẠNG TÀI CHÍNH VI MÔ Ở NÔNG THÔN VIỆT NAM HIỆN NAY
1. Khái niệm tài chính vi mô
2. Hoạt động tài chính vi mô ở nông thôn Việt Nam
2.1. Cấu trúc
2.2. Khu vực tài chính chính thức
2.2.1. Ngân hàng Chính Sách Xã Hội
2.2.1.1. Hoàn cảnh ra đời
2.2.1.2. Mục tiêu, nguồn vốn và lãi suất
2.2.1.3.Kết quả đạt được sau 5 năm hoạt động
2.2.1.4.Định hướng trong thời gian tới
2.2.2.Qũy tín dụng nhân dân
2.2.2.1. Hoàn cảnh ra đời
2.2.2.2. Nguồn vốn và lãi suất
2.2.2.3. Kết quả hoạt động
2.2.2.4. Định hướng phát triển giai đoạn từ năm 2008-2013 của Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương
2.3. Khu vực bán chính thức
2.3.1. Chương trình cung cấp tín dụng cho người nghèo của các tổ chức xã hội
2.3.2. Các chương trình tín dụng của Hội liên hiệp Phụ Nữ
2.3.3. Các chương trình cung cấp tín dụng cho người nghèo của các tổ chức phi chính phủ quốc tế
2.4. Khu vực tài chính không chính thức
2.4.1. Cho vay nặng lãi
2.4.2. Vay bạn bè hoặc người thân
2.4.3. Các câu lạc bộ tín dụng nông thôn: Họ, phường, Hụi
D – GIẢI PHÁP NÂNG CAO KHẢ NĂNG TIẾP TÍN DỤNG CHO NGƯỜI NGHÈO Ở NÔNG THÔN VIỆT NAM HIỆN NAY
1. Xây dựng và hoàn thiện cơ sở pháp lý cho hoạt động tài chính vi mô
2. Phát triển hoạt động của khu vực chính thức đến đối tượng là nông dân và những người di cư
2.1.Tăng cường thể chế cho các định chế tài chính chính thức
2.2.Mở rộng mạng lưới kênh cung cấp vốn
2.3.Phát triển cơ chế cho vay thích ứng với điều kiện cuả người nghèo
2.4.Tiết kiệm là bắt buộc và phải đi kèm với hoạt động tín dụng
3. Chương trình tiết kiệm và tín dụng thông qua các tổ chức xã hội cần áp dụng rộng rãi
4. Thực hiện các chương trình của Chính phủ
5. Xây dựng năng lực pháp lý cho khu vực tài chính bán chính thức
KẾT LUẬN
67 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1434 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nâng cao khả năng tiếp cận tín dụng cho người nghèo ở nông thôn Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng quản lý, hình thành nhiều danh sách khác nhau ở cơ sở, gây khó khăn cho NHCSXH trong việc thực hiện chính sách của nhà nước dẫn tới sự mất công bằng giữa các địa phương.
Thứ ba là thiếu cơ chế gắn kết thống nhất và hiệu quả để lồng nghép, phối hợp giữa các chương trình, dự án kinh tế xã hội trên một địa bàn, giữa hoạt động tín dụng cuả NHCSXH với các hoạt động khuyến công – nông – ngư, chuyển giao công nghệ….của các tổ chức Nhà nước, các đơn vị sự nghiệp, các tổ chức chính trị, xã hội
Thứ tư là thiếu sự gắn bó chặt trẽ và thường xuyên giữa các cơ quan chủ quản chương trình với NHCSXH trong quá trình xây dựng chính sách, thực hiện chương trình, nhất là trong công tác kiểm tra, đánh giá hiệu quả của chương trình.
Định hướng trong thời gian tới
NHCSXH đã để ra mục tiêu phấn đấu “ đến năm 2020 có nguồn lực tài chính đủ mạnh, đa dạng kênh tín dụng chính sách; có khả năng đáp ứng nhu cầu vốn chính sách, phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn và nông dân, góp phần vào phát triển thị trường tài chính ở nông thôn; cung cấp tín dụng chính sách có ưu đãi cuả chính phủ đối với người nghèo, người có thu nhập thấp, vùng khó khăn, vùng dân tộc ít người chưa có điều kiện tiếp cận với tín dụng thương mại để giúp họ có điều kiện phấn đấu vươn lên làm chủ cuộc sống, góp phần giữ gìn sự ổn định chính trị, xã hội"
Thực hiện định hướng phát triển trên đây đòi hỏi NHCSXH phải bằng mọi giải pháp mở rộng dịch vụ tín dụng có chất lượng, đúng bằng chính sách; đồng thời từng bước đa dạng hóa các dịch vụ ngân hàng, trước hết là phát triển dịch vụ huy động vốn, dịch vụ thành toán;…
Trước mắt NHCSXH đã để ra một số nhiệm vụ từ 2008 đến năm 2010 như sau:
Tập trung huy động, khai thác nguồn lực tài chính không phải trả lãi hoặc lãi suất thấp, tranh thủ các nguồn tài trợ nhân đạo trong và ngoài nước để lập quỹ đầu tư cho người nghèo và các đối tượng chính sách vay vốn ưu đãi, phục vụ sản xuất kinh doanh, tạo việc làm cải thiện đời sống, đặc biệt coi trọng thu hồi nợ đến hạn để tái đầu tư quay vòng vốn
Đảm bảo 100% vốn tín dụng chính sách của Chính phủ đến được với hộ nghèo và các đối tượng chính sách xã hội khác
Phấn đấu đạt mức tăng trưởng dư nợ chung cho các chương trình trong giai đoạn 2008-2010 khoảng 30-35 %
Tiếp tục bổ sung và hoàn chỉnh chính sách, cơ chế quản lý , đặc biệt là cơ chế huy động vốn , cơ chế tín dụng và cơ chế tài chính. Đến năm 2010, các chi phí quản lý ngành( trừ chi phí lãi suất huy động vốn) được thực hiện trên cơ sở nguồn thu lãi cho vay và nguồn thu các dịch vụ ngân hàng…
Qũy tín dụng nhân dân
2.2.2.1. Hoàn cảnh ra đời
Qũy tín dụng nhân dân ra đời năm 1993 và cũng đóng một vài trò tích cực trong việc cung cấp nguồn tín dụng cho khu vực nông thôn. QTDND là các tổ chức tài chính do hộ nông dân thành lập tự quản lý, có quy mô nhỏ ở cấp xã. QTDND thành lập ở cấp xã do chi nhánh Ngân hàng Nhà nước tại các tỉnh cấp giấy phép hoạt động. So với NHCSXH và ngân hàng và phát triển nông thôn thì QTDND gần gũi với hộ nông dân hơn.
Quỹ tín dụng nhân dân ban đầu được tổ chức theo 3 cấp: các QTDND khu vực, QTDND ở địa phương và QTDND Trung ương. Vào thời điểm hưng thịnh nhất, hệ thống này có gần 1.000 QTDND, 12 QTDND khu vực và QTDND Trung ương. Năm 1998, cuộc khủng hoảng kinh tế đã ảnh hưởng đến hệ thống ngân hàng ở Viêt Nam, kể cả mạng lưới QTDND. Nhiều QTDND thấy khó có thể duy trì các chỉ số hoạt động ở mức an toàn.
Triển khai thực hiện chỉ thị 57/CT-TW ngày 10/10/2000 của Bộ Chính trị, hệ thống TDND đã chuyển đổi từ mô hình 3 cấp thành 2 cấp gồm QTDTƯ và QTD cơ sở, có sự liên kết chặt trẽ trong hoạt động.Từ năm 2002 đến nay, toàn bộ hệ thống đã phát huy hiêu quả tính liên kết chặt chẽ của mô hình 2 cấp, tăng cường củng cố, chấn chỉnh toàn diện, và các chỉ tiêu về thành viên, huy động, dư nợ, thu nhập……đểu tăng trưởng khá. Kể từ năm 2002 đến 2008, mạng lưới hoạt động của QTDTƯ đã vươn ra 25 tỉnh, thành phố với một hội sở, 24 chi nhánh và 30 phòng giao dịch trực thuộc , hoạt động trên 56 tỉnh thành có QTDND trong cả nước.
2.2.2.2. Nguồn vốn và lãi suất
Nguyên tăc hoạt động của QTDND là huy động vốn để cho vay lại. tổng nguồn vốn của QTDND ở Việt Nam chiếm khoảng 4.737.619 triệu đồng vào năm 2003, trong đó 3.207.683 triệu đồng ( hay 68%) huy động từ nguồn tiết kiệm.
Cách thức hoạt động của QTDND là huy động vốn của người dân và sau đó cho vay đối với các thành viên khác. Thủ tục vay và nhận tiền gửi rất đơn giản, dễ tiếp cận phù hợp với trình độ học vấn thấp của người dân nông thôn và thuận tiện trong thu hồi vốn và lãi. Hơn nữa, sự đa dạng hóa các sản phẩm tín dụng và tiết kiệm đã tạo ra nhiều lựa chọn khác nhau đối với các hộ gia đình có thu nhập khác nhau. QTDND có quan hệ gần gũi với người nông dân trong làng xã hơn so với NHNN&PTNT và tham gia bảo hiểm tiền gửi. điều này làm người gửi tiền và người đi vay tin tưởng hơn vào QTDND, và cho phép QTDND ngày càng mở rộng hoạt động trên thị trường tài chính nông thôn. Tuy nhiên giống như NHNN&PTNT, QTDND cũng chưa huy động các khoản tiền gửi tiết kiệm nhỏ nhỏ của hộ gia đình nghèo.
Trong năm 2003, tổng dư nợ của QTDND là 4.049.627 triệu đồng và tổng số người vay là 663.757 người. Khoản vay trung bình tăng từ 1,88 triệu đồng trong năm 1997 lên khoảng 4,1 triệu đồng năm 2003.
Quỹ tín dụng áp dụng mức lãi suất khác nhau tùy thuộc vào từng vùng và thường cao hơn so với 1%, mặc dù với lãi suất cao, nhu cầu khoản vay từ QTDND vẫn ở mức cao do thủ tục đơn giản, dịch vụ thuận tiện và gần gũi với khách hàng.
2.2.2.3. Kết quả hoạt động
Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương
Về hoạt động kinh doanh
Trải qua 12 năm ra đời và phát triển, đặc biệt kể từ năm 2002 đến 2008, cùng với sự lớn mạnh không ngừng của toàn hệ thống, với chức năng là đầu mối của toàn hệ thống, QTDTƯ đã tích cực , chủ động khai thác mọi nguồn vốn nhằm đáp ứng tốt nhất nhu cầu nguồn vốn vay cho các QTD cơ sở, góp phần đảm bảo khả năng chi trả, khả năng thanh toán cho các QTD thành viên , từng bước đáp ứng nhu cầu ngày càng phong phú, đa dạng của khách hàng. Ngoài việc chủ động tìm kiếm, mở rộng quan hệ hợp tác với các tổ chức tài chính, trường liên ngân hàng, thị trường mở…
Tổng nguồn vốn hoạt động của QTDTƯ không ngừng tăng trưởng qua các năm,cụ thể là: Năm 2002: 1.352,1 tỷ đồng; năm 2003: 1.776,9 tỷ đồng; năm 2004: 2.365,5 tỷ đồng; năm 2005: 3.304,9 tỷ đồng; năm 2006: 4.494,3 tỷ đồng; năm 2007: 6.248,4 tỷ đồng. Tốc độ tăng trưởng nguồn vốn bình quân qua các năm là 35,8%. Cơ cấu nguồn vốn như sau: vốn điều lệ và các quỹ: 216,2 tỷ đồng, chiếm 3% tổng nguồn vốn; vốn huy động: 4.500,3 tỷ đồng, chiếm 72%; vốn vay:1.137,5 tỷ đồng, chiếm 18%.
Về sử dụng vốn, tổng dư nợ của QTDTƯ đến 31/12/2007 là 4.653,6 tỷ đồng, gấp 5 lần so với năm 2002, tốc độ tăng trưởng bình quân qua các năm là 36,4%. Cơ cấu dư nợ đến 31/12/2007 theo đối tượng cho vay như sau: cho vay trong hệ thống là 2.401,5 tỷ đồng, chiếm 52% tổng dư nợ; cho vay ngoài hệ thống là 2.252 tỷ đồng , chiếm 48% tổng dư nợ. Phân theo thợi hạn cho vay: Dư nợ cho vay ngắn hạn : 3.363 tỷ đồng, chiếm 72% tổng dư nợ; dư nợ cho vay trung hạn: 1.131 tỷ đồng, chiếm 24,3% ; dư nợ cho vay dài hạn: 125 tỷ đồng, chiếm 2,7%; nợ chờ xử lý: 34 tỷ đồng, chiếm 0,7%. Cơ cấu sử dụng vốn của QTDTƯ được phân bổ hợp lý, tỷ lệ dư nợ cho vay trên tổng nguồn vốn hoạt động là 74%, tỷ lệ kinh doanh trên thị trường liên ngân hầng chiếm 16% góp phần phân tán rủi ro, từng bước đa dạng hóa các nguồn thu theo hướng giảm dần tỷ trọng các khoản thu từ hoạt động tín dụng, bảo đảm sự phát triển an toàn, hiệu quả và bền vững cho hệ thống.
Trong những năm qua mặc dù hoạt động kinh doanh của QTDTƯ còn gặp nhiều khó khăn, chênh lệch lãi suất đầu vào, đầu ra thấp, nhưng QTDTƯ đã từng bước mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng hoạt động, tiết kiệm chi phí một cách hợp lý, từ đó góp phần hoàn thành kế hoạch chỉ tiêu lợi nhuận được giao:
Đơn vị: triệu đồng
Chỉ tiêu
2002
2003
2004
2005
2006
2007
Lợi nhuận
11.508
11.795
14.525
16.798
22.734
31.157
Nộp NSNN
3.664
3.710
4.067
4.703
6.365
8.724
Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động 5 năm ( 2002-2007) và định hướng phát triển giai đoạn từ 2008-2013 của QTDNDTƯ
Về các công tác trọng tâm khác
QTDTƯ đã thực hiện thành công Đề án mở rộng mạng lưới hoạt động của hệ thống QTDTƯ do thủ tướng Chính phủ phê duyệt, giải quyết xong toàn bộ số nợ tồn đọng do bàn giao sáp nhập QTD khu vực thành chi nhánh QTDTƯ ; đã triển khai thí điểm thành lập và tổ chức tốt việc sơ kết thí điểm thành lập và tổ chức tốt việc sơ kết thí điểm mô hình Quỹ an toàn hệ thống tại tỉnh Thái Bình, trên cơ sở đó, có kế hoạch chỉ đạo triển khai nhân rộng ở một số tỉnh như Hưng Yên, An giang. Xác định rõ vị trí, vai trò đầu mối quan trọng, QTDTƯ đã phối hợp với các Vụ, Cục chức năng của ngân hàng Nhà nước tổ chức thành công đại hội thành lập Hiệp hội QTDND Việt Nam
Nhận thức rõ nhiệm vụ trọng tâm hỗ trợ cho sự phát triển bền vững của toàn hệ thống, nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống QTDND, đồng thời thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh như một ngân hàng thương mại, trong những năm qua, QTDTƯ thường xuyên bám sát chỉ đạo, điều hành chính sách tiền tệ của ngân hàng Nhà nước, đồng thời theo dõi, nắm bắt diễn biến thị trường để hoạch định chiến lược, điều chỉnh công tác tín dụng phù hợp với khả năng quản lý và nguồn vốn huy động. QTDTƯ đã chỉ đạo các đơn vị trực thuộc bám sát mục tiêu tăng cường huy động vốn, đẩy mạnh hoạt động kinh doanh, kiểm soát tăng trưởng tín dụng nóng, tăng cường củng cố và nâng cao chất lượng tín dụng, kế hoạch hóa nguồn vốn khả dụng để sẵn sàng đáp ứng nhu cầu rút tiền gửi của khách hàng và hỗ trợ chi trả tiền gửi cho QTD cơ sở, đặc biệt la vào giai đoạn thời vụ…Chính vì vậy, mặc dù nguồn vốn trên thị trường khan hiếm, đặc biệt những tháng cuối năm, nhưng QTDTƯ vẫn đáp ứng tương đối đầy đủ nhu cầu vôn chi trả tiền gửi vào hệ thống, cũng như nhu cầu vôn hỗ trợ chi trả của các QTD cơ sở, ổn định hoạt động cho toàn hệ thống QTDND và giữ vững lòng tin đối với dân chúng.
Song song với công tác chỉ đạo hoạt động an toàn trong kinh doanh, QTDTƯ thường xuyên củng cố, kiện toàn tổ chức, ban hành kịp thời các văn bản hướng dẫn nghiệp vụ theo quy định của nhà nước và bổ sung, sửa đổi một số văn bản nghiệp vụ phù hợp với hoạt động của QTDTƯ, tạo điều kiện thuận lợi, an toàn cho hoạt động kinh doanh. Ngoài ra, QTDTƯ thường xuyên chỉ đạo hệ thống tăng cường khai thác nguồn vốn trong nước, nhất là vốn trung, dài hạn; thường xuyên kiểm soát việc gia tăng tín dụng ngoài hệ thống; giám sát việc chấp hành các chỉ tiêu kế hoạch của toàn hệ thống và từng chi nhánh; tăng cường kiểm tra, kiểm soát nội bộ, đặc biệt là công tác tín dụng, nhằm đảm bảo an toàn hoạt động kinh doanh luôn chú trọng mục tiêu hỗ trợ nhu cầu về vốn ở mức cao nhất cho các QTD cơ sở, hoàn thành các chỉ tiêu, kế hoạch mà Ngân hàng nhà nước giao.
Bên cạnh việc tập trung triển khai các hoạt động kinh doanh, trong những năm qua, QTDTƯ còn tích cực đàm phán trao đổi, mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế để không ngừng tìm kiếm nguồn vốn trung, dài hạn cho toàn hệ thống. QTDTƯ đặc biệt chú trọng đến việc thu hút sự quan tâm, hỗ trợ hệ thống về kỹ thuật công nghệ. Mặc dù trong điều kiện năng lực tài chính còn hạn chế, QTDTƯ đã tranh thủ triển khai thực hiện việc xây dựng phần mềm tin học phục vụ cho các hoạt động nghiệp vụ như: Hệ thống phần mềm ngân hàng bán lẻ, hệ thống thanh toán chuyển tiền điện tử nội bộ, hệ thống phần mềm phục vụ công tác báo cáo thống kê, thông tin tín dụng……..
Hoạt động của QTDTƯ đến nay đã đi vào ổn định, vững chắc và đã khẳng định được vị thế của mình trong nền kinh tế, tuy nhiên, QTDTƯ vẫn gặp phải một số khó khăn và tồn tại như sau:- Nguồn vốn điều lệ hiện nay của QTDTƯ quá nhỏ bé, ảnh hưởng lớn tới khả năng đáp ứng nhu cầu về vốn phục vụ thành viên phát triển sản xuất kinh doanh cũng như bị hạn chế nhiều trong việc áp dụng trình độ công nghệ thông tin ứng dụng vào hoạt động ngân hàng, từ đó hạn chế khả năng mở rộng các dịch vụ ngân hàng, đồng thời làm giảm năng lực cạnh tranh của QTDTƯ trong tiến trình hội nhập.
- Chính sách thuế đối với QTDTƯ hiện nay quá cao. Theo quy định của nhà nước, chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp đối với hệ thống QTDTƯ hiện nay là 28%. Theo QTDTƯ thì tỷ lệ này hiện quá cao vì đây là tổ chức ra đời để hỗ trợ thành viên là chính và không vì lợi nhuận. hơn nữa, vốn tự có của các QTD cơ sỏ còn quá nhỏ bé, nếu nhà nước giảm tỷ lệ đóng góp nghĩa vụ với nhà nước sẽ tạo điều kiện cho các QTDND tăng vốn tự có lên phù hợp nhằm mở rộng quy mô hoạt động và tăng cường năng lực tài chính để đổi mới công nghệ, nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường.
- Trình độ của cán bộ QTDTƯ còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng được nhu cầu mở rộng nghiệp vụ ngân hàng hiện đại của QTDTƯ.
- Công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ tuy đã được nâng lên nhưng chất lượng công tác chưa sâu, cá biệt còn có cán bộ vi phạm đạo đức nghề nghiệp, thực hiện cơ chế chính sách về quản lý tín dụng, an toàn tài sản chưa nghiêm, từ đó làm ảnh hưởng đến kết quả của toàn hệ thống.
Việc ứng dụng công nghệ tin học vào hoạt động nghiệp vụ của QTDTƯ tuy đã được triển khai nhưng hiệu quả việc khai thác thông tin phục vụ điều hành còn thấp.
Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở
Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở được tổ chức tại xã, thôn, và là tổ chức tín dụng tập thể của dân. Cán bộ của quỹ do thành viên bầu, sống tại thôn xã, hiểu từng hộ dân, hộ vay là những thành viên của quỹ nên quá trình thẩm định nhanh chỉ 2-3 ngày. Thủ tục vay đơn giản, dân dễ tiếp cận, thuận tiện trong thu hồi vốn và lãi. Đa phần các hộ nông dân trả nợ sòng phẳng nên tỷ lệ nợ quá hạn bình quân của các QTDND cơ sở những năm gần đây chỉ dưới 1%( thái bình, hà tây, hải dương..), thấp hơn nhiều so với nợ qúa hạn của ngân hàng. Các QTDND cơ sỏ hoạt động an toàn và có lợi nhuận, phát huy được thế mạnh là tổ chức tín dụng “tại nhà” của hộ nông dân.
QTDND cơ sở ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp vốn tín dụng cho hộ nghèo và những hộ chưa đủ điều kiện tiếp cận tới nguồn vốn của ngân hàng. Hàng năm, QTDND cơ sở đã cung cấp hàng ngàn tỷ đồng cho hàng trăm thành viên của quỹ vay.
Bảng 5: Tình hình nguồn vốn và cho vay của QTDND cơ sở trong
những năm gần đây:
2001
2002
2003
Đến tháng 9/2005
So sánh(%)
02/01
03/02
1.Tổng nguồn vốn(tỷ đ)
- Bình quân 1quỹ
2.Tổngvốn huy động(tỷ đ)
- Bình quân 1 quỹ
3.Tổng dư nợ (tỷ đồng)
-Bình quân 1 quỹ
4.Số lượt hộ vay vốn (ngàn lượt)
- Bình quân 1 quỹ
5.Tỷ lệ nợ quá hạn(%)
2959,1
3,26
1952,3
2,15
2559,1
2,82
661,4
0,73
2,2
3573,8
4,02
2370,3
2,66
3089,1
3,47
660,4
0,74
1,4
5281,0
5,88
3576,0
3,98
4514,0
5,03
700,0
0,78
0,8
6331,0
6,96
4384,0
4,82
5487,0
6,04
120,8
123,3
121,4
123,7
120,7
123,0
99,8
101,4
147,8
146,3
150,8
149,6
146,1
144,9
106,0
105,4
Nguồn: Tổng hợp và tính từ số liệu Ngân hàng Nhà nước, tạp chí Ngân hàng số 1-2004 và số 9-2004, thông tin từ QTDTƯ và Vũ xuân trường, Thời báo kinh tế số 182, ngày 13-9-2005.
Mặc dù vậy, hoạt động của các QTDND cơ sở còn có những bất cập sau:
- Nguồn vốn hoạt động của các QTDND phần lớn còn quá ít, mỗi quỹ chỉ vài tỷ, cá biệt có quỹ chỉ có khoảng 1 tỷ đồng. trong khi đó, số lượng thành viên mỗi quỹ tới nghìn, nhu cầu vốn cho phát triển kinh tế ngày càng cao. Do đó nhiều quỹ không đáp ứng nhu cầu món vay lớn của các thành viên.
- Thời hạn cho vay phần lớn là ngắn hạn, dưới 1 năm,từ năm 2001 trở lại đây đã cho vay trung dài hạn nhưng còn rất ít. Dư nợ cho vay trung hạn và dài hạn năm 2002 bình quân là 4% tổng dư nợ,gần đây tỷ trọng này đã được tăng lên, nhưng cũng chỉ dưới 10% theo nhu cầu vốn đầu tư dài hạn của hộ sản xuất nông nghiệp nông thôn.
- Đội ngũ cán bộ của nhiều QTDND cơ sỏ chưa có trình độ chuyên nghiệp cao, chưa được đào tạo chính quy, cá biệt chưa qua đào tạo, nhiều cán bộ thiếu kinh nghiệm. Do đó, hoạt động nghiệp vụ còn có những bất cập, khó khăn,ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của quỹ.
- Cơ sở vật chất kỹ thuật nhiều quỹ còn nghèo nàn. Trụ sở, phương tiện làm việc còn rất đơn giản, thiếu thốn. Điều này làm giảm sự hấp dẫn và độ tin cậy của quỹ trong việc huy động vốn, đặc biệt là đối với khách hàng gửi tiết kiệm. đối với những xã có cả chi nhánh của NHNN&PTNT trên cùng địa bàn, thì điều này càng bất lợi cho quỹ cạnh tranh huy động vốn tiết kiệm.
- Bên cạnh những quỹ hoạt động an toàn và có hiệu quả, vẫn còn những quỹ chưa tạo dựng được uy tín đối với dân cư nông thôn, trình độ quản lý yếu kém,cho vay sai nguyên tắc, sai quy định, dư nợ quá hạn cao, dẫn đến hoạt động kém hiệu quả và có nguy cơ thiếu an toàn. Năm 2003 Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thu hồi giấy phép hoạt động của 81 Quỹ tín dụng nhân dân (QTDND) hoạt động yếu kém, không đủ điều kiện tồn tại và phát triển. Trong đó, 28 QTDND không đủ điều kiện chuyển đổi hoạt động theo Luật Hợp tác.
2.2.2.4. Định hướng phát triển giai đoạn từ năm 2008-2013 của Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương.
Phát huy những thành tích đã đạt được, đồng thời để khắc phục những yếu kém, tồn tại, QTDTƯ định hướng một số nhiệm vụ trong thời gian 2008-2013 như sau:
- Tranh thủ sự ủng hộ của Chính phủ, Bộ tài chính và các Bộ, ngành có liên quan để triển khai các giải pháp thực hiện tăng vốn điều lệ theo lộ trình của Đề án đã được Chính phủ phê duyệt.
- Nâng cao chất lượng các sản phẩm huy động truyền thống, áp dụng các sản phẩm huy động mới phù hợp với nhu cầu của khách hàng nhằm không ngừng đẩy mạnh việc khai thác nguồn vốn, phấn đấu đạt mức tăng trưởng nguồn vốn huy động hàng năm từ 25- 30%. Duy trì và không ngừng và mở rộng mối quan hệ trên thị trường tiện tệ với các tổ chức tín dụng, tổ chức tài chính trong nước nhằm thu hút nguồn vốn phục vụ nhu cầu ngày càng tăng của thành viên và khách hàng.
- Cải tiến công tác điều hành vốn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn hợp lý cho các QTD thành viên. Mở rộng dư nợ đi đôi với nâng cao chất lượng tín dụng, đa dạng hóa dịch vụ ngân hàng, ưu tiên các thành viên trong hệ thông, mở rộng khách hàng ngoài hệ thống, từng bước cải tiến chính sách, chế độ tín dụng để nâng cao hiệu quả kinh doanh; giảm tỷ lệ nợ xấu xuống dưới 2% tổng dư nợ, phấn đấu đạt mức tăng trưởng dư nợ cho vay hằng năm từ 20-25%.
- Nâng cấp, đổi mới công nghệ trong phạm vi khả năng tài chính cho phép để nâng cao năng lực cạnh tranh, phục vụ tốt công tác hạch toán kế toán và điều hành kinh doanh .
- Phát triển nguồn nhân lực thông qua chính sách tuyển dụng mới, đào tạo và đào tạo lài cán bộ, đáp ứng nhu cầu phát triển lâu dài, bền vững của hệ thống.
- Tiếp tục mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế trên cơ sở thực hiện tốt các dự án đã triển khai với các tổ chức quốc tế, sử dụng nguồn vốn từ các dự án một cách hiệu quả, an toàn, thực hiên đúng các cam kết đã ký nhằm thu hút sự hỗ trợ về tài chính, kỹ thuật cho QTDTƯ và hệ thống QTDND, tăng cường vị thế QTDTƯ trên bình diện quốc tế.
- Tăng cường và nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ, kịp thời phát hiện, chỉnh sưa những thiếu sót trong hoạt động, xử lý nghiêm các hành vi có ý làm trái nguyên tăc; thường xuyên bồi dưỡng trình độ nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp cho cán bộ, nhân viên; thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí đưới mọi hình thức.
- Thành lập chi nhánh tại các tỉnh có QTDND và các phòng giao dịch trực thuộc các chi nhánh để mở rộng kinh doanh, phục vụ thành viên, góp phần nâng cao uy tín của QTDTƯ.
- Nâng cao năng lực thể chế, tối ưu hóa quy trình quản lý theo tiêu chuẩn ISO90010.
- Tiếp tục cải thiện điều kiện làm việc cho tập thể, người lao động; từng bước nâng cấp trang thiết bị nhằm bảo đảm an toàn hoạt động kinh doanh; cải thiện thu nhập cho người lao động phù hợp với mặt bằng thu nhập chung, góp phần động viên người lao động nâng cao năng suất, chất lượng phục vụ….
2.3. Khu vực bán chính thức
2.3.1. Chương trình cung cấp tín dụng cho người nghèo của các tổ chức xã hội
Các tổ chức xã hội hoạt động ở 4 cấp hành chính: Trung ương, tỉnh thành phố, huyện và xã. Cơ cấu tổ chức này giúp các tổ chức xã hội mở rộng hoạt động của mình từ trung ương đến địa phương. Nhiều tổ chức xã hội như Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội nông dân Việt Nam, Hội cựu chiến binh, trợ giúp ngân hàng trong việc cho vay đối với hộ nông dân
Sứ mệnh cơ bản của các tổ chức xã hội lầ vận động quần chúng, từ khi chính sách đổi mới bắt đầu năm 1988, việc cung cấp dịch vụ tín dụng được coi là một hoạt động bổ trợ cho các tổ chức này thực hiện các chức năng của mình. Mối quan tâm chủ đạo của tổ chức xã hội là sự cải thiện đời sống kinh tế của hội viên. Hoạt động tín dụng không những phù hợp với mối quan tâm này mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện chức năng vận động xã hội và hỗ trợ các hoạt động khác.
2.3.2. Các chương trình tín dụng của Hội liên hiệp Phụ Nữ
Mạng lưới
HPN Việt Nam được thành lập năm 1930 như một tổ chức xã hội đại diện cho phụ nữ của mọi tầng lớp xã hội. Liên Hiệp bảo vệ quyền lợi và lợi ích chính đáng, hợp pháp cuẩ phụ nữ và tạo điều kiện cho phụ nữ thực hiện quyền bình đẳng và tham gia vào quá trình phát triển. HPN là một tổ chức xã hội vơi tổng số phụ nữ trên 18 tuổi. các hội viên chủ yếu là phụ nữ nông thôn ở độ tuổi từ 30 đến 50.
HPN có một mạng lưới toàn quốc từ Trung ương tới cấp cơ sở ở các thôn, xóm. Cấu trúc tổ chức này cho phép HPN tiếp cận cả những người nghèo nhất ở vùng củ đất nước. Điều này lý giải tại sao nhiều tổ chức phi chính phủ quốc tế( NGO) chọn HPN làm đối tác trong các chương trình phát triển.
Giống như các tổ chức xã hội khác, HPN không có chức năng cung cấp dịch vụ tín dụng. tuy nhiên, kể từ khi bắt đầu công cuộc đổi mới vào cuối thập niên 80, việc cấp tín dụng đã được coi là một hoạt động nhằm tăng thu nhập cải thiện điều kiện sống của hội viên.
Trong những năm gần đây, HPN hoạt động tích cực trong việc cung cấp tín dụng cho các hội viên nghèo trong cả nước. hầu hết các chương trình của HPN đều có cấu phần tín dụng và tiết kiệm. Các hoạt động tín dụng và tiết kiệm của họ được chia thành 2 nhóm:
- Liên kết với ngân hàng nông nghiệp và phát triên nông thôn va ngân hàng chính sách xã hội.
HPN, phối hợp với NHNN&PTNT và NHCSXH, thường làm nhà môi giới giữa ngân hàng và người cho vay. HPN thực hiện vai trò này thông qua việc hỗ trợ thành lập các nhóm vay vốn, giới thiệu người vay, xác nhận đơn xin vay của hội viên, hỗ trợ ngân hàng thẩm định khoản vay và nhắc nhở hội viên trả nợ gốc và lãi cho ngân hàng.
Ở một số HPN thực hiện bảo lãnh cho hội viên vay vốn của ngân hàng , tuy nhiên, NHNN&PTNT cũng lo ngại rằng HPN không có khả năng tài chính để thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh trong trường hợp có nhiều người vay không trả nợ được. Thu nhập từ phí hội viên và các nguồn nội bộ khác rất hạn chế, trong khi hoa hồng họ nhận được quá ít, không đủ để bù đắp cho khoản vay không thu hồi được.
Hiện nay HPN vẫn còn liên kết với NHNN&PTNT và NHCSXH là một trong những hoạt động quan trọng để giúp cho hội viên tiếp cận tới nguồn vốn tín dụng chính thức. HPN đã ký “Thỏa thuận chung giữa HPN với NHNN&PTNT và NHCSXH để duy trì mối liên kết giữa hai tổ chức trong các hoạt động tín dụng và tiết kiệm.
2.3.3. Các chương trình cung cấp tín dụng cho người nghèo của các tổ chức phi chính phủ quốc tế. Theo khảo sát về TCVM của DFID và ngân hàng Nhà nước, các chương trình của các tổ chức phi chính phủ quốc tế chiếm khoảng 7,6% các chương trình tín dụng chính thức (1,9 tỷ USD) và chiếm khoảng 4% tổng vốn trong hoạt động TCVM (kể cả khu vực không chính thức). Sự đa dạng của các chương trình của các tổ chức phi chính phủ quốc tế được thể hiện qua các mục tiêu khác nhau. Một số tổ chức chỉ quan tâm đến hoạt động tiết kiệm và tín dụng. Các tổ chức khác thì xem hoạt động tín dụng và tiết kiệm như là một công cụ tiếp cận với cộng đồng để thực hiện các chương trình phát triển khác.
Đa số các chương trình có mức lãi suất cao hơn lãi suất cho vay của NHNN&PTNT. Có 8/16 chương trình do Quỹ cứu trợ nhi đồng Nhật khảo sát áp dụng mức lãi suất cho vay 1,5%/ tháng cao gấp ba lần lãi suất của NHCSXH.
Hầu hết các chương trình đều đề cập đến việc đảm bảo trang trải đủ chi phí nhằm duy trì sự bền vững chương trình khi thiết lập lãi suất cho vay và các chương trình có tham khảo, xem xét lãi suất của NHNN&PTNT khi quyết định lãi suất cho vay do NHNN&PTNT hạ lãi suất cho vay.
Mặc dù có sự khác biệt về quy mô( nguồn vốn), phạm vi cung cấp dịch vụ và mục tiêu, hầu hết các tổ chức phi chính phủ quốc tế đều coi rằng tín dụng cho người nghèo có ý nghĩa quan trọng để cải thiện cuộc sống của họ. Phụ nữ nghèo, người nghèo là dân tộc thiểu số, người nghèo tại các vùng xa xôi hẻo lánh là những đối tượng mục tiêu của các chương trình tiết kiệm tín dụng này. Tỷ lệ hoàn vốn trong các chương trình này rất cao và quá trình huy động tiết kiệm cũng rất có hiệu quả.
Nghiên cứu gần đây của DFID kết luận rằng sự phát triển nhanh chóng của khu vực tài chính chính thức đã thu hẹp thị trường cho các NGO, nhưng thị phần đó vẫn còn lớn và vẫn còn nhiều chỗ để hoạt động tài chính vi mô phát triển.
Một trở ngại bên ngoài quan trọng hơn đối với sự phát triển các chương trình của NGO là tiến độ phát triển chậm của khuôn khổ pháp lý phù hợp và vị thế pháp lý cho các chương trình đó.
2.4. Khu vực tài chính không chính thức
Mặc dù đã có nhiều nỗ lực trong việc cung cấp tín dụng, các định chế tài chính chính thức không thể áp dụng các định chế tài chính chính thức không thể đáp ứng mọi nhu cầu tín dụng của các hộ gia đình, tạo nên một thị trường ngỏ cho các dịch vụ tài chính không chính thức và chiếm ưu thế trong thị trường tài chính ở nông thôn. Cùng lúc, nhiều hộ gia đình nhận được các khoản vay khác nhau từ cả các dịch vụ tài chính chính thức và không chính thức. các dịch vụ tài chính không chính thức rất đa dạng: cho vay bằng tiền, bằng hiện vật, các khoản vay nóng và bán lúa non. Đặc trưng của các dịch vụ tài chính không chính thức là đúng lúc đơn giản và dễ tiếp cận.
Các loại hình cho vay không chính thức sau:
2.4.1. Cho vay nặng lãi:
Người cho vay nặng lãi cho vay với các kỳ hạn khác nhau( mùa vụ, ngày) bằng tiền hoặc bằng hiện vật. Họ thường là những người khấm khá ở nông thôn và có nhiều tiền hoặc hàng hóa. Bản chất che đậy cuẩ hoạt động này khiến cho không có số liệu về người hành nghề cho vay lấy lãi. Những đặc điểm chính của người cho vay lấy lãi như sau: Họ tuân thủ một phương pháp thị trường khi cho vay, lãi suất thỏa thuận hàng tháng. Gia đình nông thôn có ít tài sản thế chấp phải trả lãi suất cao hơn nhà khá giả do vậy gia đình nông thôn măc nợ có thể dễ dàng trở nên nghèo đói.
Dịch vụ này khá linh hoạt nhưng có một chi phí cơ hội cao, có thể cho vay bất kỳ ai và vào bất kỳ ai và bất kỳ lúc nào, bất kể người vay nghèo hay khá giả. Cải thiện các dịch vụ tín dụng chính thức thông qua khuyến khích cạnh tranh sẽ tạo nhều cơ hội hơn cho các gia đình nông thôn tiếp cận các chương trình tín dụng tốt hơn.
2.4.2. Vay bạn bè hoặc người thân
Tín dụng loại này thường không có lãi suất và kỳ hạn, cũng linh hoạt, phụ thuộc vào mối quan hệ giữa người cho vay và người đi vay và khả năng có các nguồn thu nhập bổ sung. Người nghèo có thể không phải vay của người thân hay bạn bè vì quan hệ xã hội mật thiết. theo truyền thống để duy trì các quan hệ tình cảm tốt, người ta phải giúp đỡ người thân hoặc bạn bè nghèo bằng cách cho tiền chứ không phải cho vay
2.4.3. Các câu lạc bộ tín dụng nông thôn: Họ, phường, Hụi
Về cơ bản thì Họ, Phường, Hụi có bản chất giống nhau. Tên của những loại này có nghĩa là “ người thân, bè bạn và những cá nhân có cùng lợi ích”. Thường thì đó là những hội tín dụng nhỏ do người địa phương tự lập ra. Mỗi hội có từ 5 đến 20 thành viên thường là thuộc cùng một dọng họ với nhiều thế hệ khác nhau và hoặc là có cùng lợi ích, nghề nghiệp.. ví dụ như hội nông dân, hội buôn bán,…… mỗi hội là một tổ chức hoạt động riêng rẽ và không có quan hệ gì với các hội khác hoặc các định chế chính thức.
Một hội trưởng được các thành viên bầu ra để nhận tiền đóng và giữ sổ sách. Các thành viên đóng góp tiết kiệm để gây quỹ cho vay lần lượt từng thành viên của hội. tiết kiêm có thể bằng tiền mặt và hoặc là hiện vật như thóc lúa hoặc vàng. Số tiền mặt tiết kiệm hàng tháng phụ thuộc vào thỏa thuận trong hội.
Việc cho vay được thực hiện cho vay lần lượt theo vòng quay. Các hôi của nông dân thường gặp gỡ trong một thời điểm mùa vụ để huy động vốn và quyết định về việc cho vay. Mỗi thành viên đều có quyền được vay một lần trong một chu kỳ quay vòng. Vốn được cho vay tới các thành viên trã lãi cao nhất. Đó gọi là “mua nợ”.
D – GIẢI PHÁP NÂNG CAO KHẢ NĂNG TIẾP TÍN DỤNG CHO NGƯỜI NGHÈO Ở NÔNG THÔN VIỆT NAM HIỆN NAY
1. Xây dựng và hoàn thiện cơ sở pháp lý cho hoạt động tài chính vi mô
Khuôn khổ pháp lý là một trong những điêù kiện hết sức quan trọng đối với các tổ chức hoạt động trong lĩnh vực tài chính, tiền tệ nói chung và các tổ chức tài chính vi mô nói riêng. Có thể nói rằng các tổ chức tài chính vi mô chỉ có thể hoạt động an toàn lành mạnh và phát triển bền vững khi chúng được điều chỉnh bởi các quy định pháp luật phù hợp với đặc thù của tài chính vi mô
Tính chất chính thức hay bán chính thức của hoạt động tài chính vi mô là xét về mặt tổ chức và cơ sở pháp lý, không xét về mặt nội dung hoạt động bởi nội dung hoạt động phải được hiểu thống nhất cho dù chủ thể thực hiện là ngân hàng thương mại hay một NGO. Như vậy, cần phải làm rõ được hoạt động tài chính vi mô là một hoạt động riêng, độc lập hay là một trong những hoạt động ngân hàng thì mới có thể giải được bài toán về mô hình cũng như là cơ sở pháp lý cho hoạt động tài chính vi mô. Trong quá trình xây dựng chế định về vấn đề này đang có sự lúng túng trong việc xác định phạm vi, tính chất hoạt động cũng như xác định mô hình tổ chức tài chính vi mô và có nhiều quan điểm về vấn đề này:
-Từ những tranh luận trong cách hiểu về hoạt động tài chính ngân hàng là tất cả các hoạt động về tiền gửi, sử dụng tiền đó để cấp tín dụng và cung ứng dịch vụ thanh toán hay chỉ là một trong các họat động đó, hoạt động TCVM cũng đang đứng giữa sự khẳng định hay không khẳng định là hoạt động ngân hàng. Mặt khác, nếu đặt giả thiết những tổ chức tiến hành các hoạt động này sẽ được ngân hàng nhà nước với tư cách là cơ quan quản lý cấp giấy phép hoạt động ngân hàng như một tổ chức không phải tổ chức tín dụng có hoạt động ngân hàng thì cũng không phù hợp với những điều kiện đặt ra trong luật các TCTD. Trong các loại hình TCTD thì không có loại hình TCVM . nếu xây dựng mô hình tổ chức tài chính vi mô theo một trong những loại hình TCTD hiện thời thì không khả thi vì mô hình tổ chức và các quy định áp dụng cho TCTD hiện nay không phù hợp với quy mô và đặc điểm của hoạt động tài chính vi mô. Trên thực tế hoạt động TCVM được thực hiện dưới dạng các chương trình do các tổ chức đoàn thể như hội phụ nữ cấp tỉnh, huyện…là các đơn vị không có tư cách pháp nhân thực hiện. Do đó không thể áp dụng các quy định của luật TCTD về cấp giấy phép hoạt động ngân hàng cho tổ chức TCVM.
- Nếu cho rằng đây là lĩnh vực riêng biệt, do những tổ chức riêng biệt thực hiện,do đó cần xây dựng một khung pháp lý riêng biệt thì cũng không hợp lý vì như trên đã để cập, chúng ta đang đi tìm lời giải cho một trong ba khu vực của TCVM . Nếu khu vực chính thức và bán chính thức được xác định như một lĩnh vực độc lập thì khu vực chính thức và phi chính thức được xác định với tư cách nào? Phải chăng vấn đề TCVM có thể phân lập thành nhiều khu vực?
- Nhưng cũng có quan điểm cho rằng khu vực chính thức và không chính thức như cách phân biệt trên thì đều có cơ sở pháp lý nhất định để thực hiện( tổ chức tín dụng hoạt động TCVM với ý nghĩa là hoạt động ngân hàng tuân thủ các quy định của Luật các TCTD , quan hệ vay mượn qua bạn bè, họ hàng...được thực hiện như một quan hệ vay mượn dân sự và tuân theo qui định của pháp luật dân sự), vậy với những tổ chức cũng đang thực hiện việc cung cấp dịch vụ tài chính cho người nghèo như các tổ chức phi chính phủ nước ngoài,các đoàn, hội, đội… trong nước và nước ngoài….trong nước hoàn toàn có thể điều chỉnh một cách độc lập.
Như vậy hoạt động TCVM không chỉ là hoạt động ngân hàng và không chỉ nằm trong sự quản lý của cơ quan chức năng về hoạt động ngân hàng. Để có thể xây dựng được một khung pháp lý cụ thể về vấn đề cần có sự đánh giá cụ thể và tách bạch về hai nội dung chủ yếu sau: Về hoạt động: ở mức độ khái quát cho phép nhận dạng các khâu tài chính trong hệ thống tài chính ở nước ta trong điều kiện nền kinh tế thị trường bao gồm: ngân sách nhà nươc, tín dụng, bảo hiểm, tài chính doanh nghiệp, tài chính dân cư và tài chính của các tổ chức phi kinh doanh. Trong khâu tài chính này,có thể có những khâu thực hiện các hoạt động về TCVM. Chẳng hạn như là việc sử dụng các nguồn lực tài chính do nhà nước huy động để cho người nghèo và các đối tượng chính sách khác ưu đãi phục vụ sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm, cải thiện đời sống; thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia về xóa đói giảm nghèo, ổn định xã hội; các hoạt động cho vay, tương trợ trong dân cư; các quan hệ tài chính phát sinh trong hoạt động của các tổ chức phi kinh doanh phổ biến mang tính chất bổ trợ các hoạt động chính, nhằm tạo lập, phân phối, sử dụng quỹ tiền tệ phục vụ cho hoạt động chức năng được nhà nước quy định hoặc thừa nhận; hoặc việc các tổ chức tín dụng thực hiện cho vay người nghèo……..
Về tổ chức: trong khi cung ứng tài chính là một lĩnh vực rất rộng, việc căn cứ vào đối tượng được phục vụ để đánh giá hoạt động TCVM dẫn đến viếc có rất nhiều tổ chức đã, đang và sẽ hoạt động tài chính vi mô. Chính vì vậy, việc xây dựng một khung pháp lý riêng về TCVM,trong đó bao gồm các quy định về hoạt động và tổ chức sẽ là không hợp lý. Với mục tiêu quy chuẩn hóa hoạt động của NGOs đang hoạt động cho vay, tài trợ cho người nghèo, vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn như hiện nay, trước hết cần xây dựng khung pháp lý về tổ chức và hoạt động của chính các tổ chức đó. Trên cơ sở đó mới có thể đề ra được các quy định về việc các tổ chức này có được cung ứng các dịch vụ tài chính cho người nghèo hay không và cung ứng như thế nào.
Nhìn ra một số nước như Campuchia, Bangladesh, Philipin, Indonesia hay Uganda nhưng nơi hiện đang thực hiện các hoạt động TCVM mạnh cũng không có sự nhất quán trong việc xây dựng quy chế tài chính vi mô. TCVM không được đưa ra một định nghĩa rõ ràng( Bangladesh) hay chỉ đơn thuần là một sự liệt kê các dịch vụ tài chính mà tổ chức hoạt động TCVM cung cấp( Campuchia, Philipin…) Theo đó, việc định nghĩa như thế nào là tổ chức TCVM cũng không rõ ràng, không có định nghĩa cụ thể về các tổ chức TCVM mà chỉ đề cập đến tính chất của các hoạt động TCVM ( campuchia) hay lại là sự liệt kê các dịch vụ tài chính mà tổ chức nào cung cấp các dịch vụ này được xem là tổ chức TCVM(chẳng hạn ở Băngladesh, tổ chức TCVM thông thường là tổ chức được nhận tiền gửi từ các thành viên để cấp tín dụng hoặc các dịch vụ tài chính khác cho thành viên là những người nghèo và không có ruộng đất)
Rõ ràng nếu chúng ta xây dựng một khuôn khổ pháp lý riêng cho khu vực TCVM bán chính thức, vô hình chung chúng ta sẽ bị loại trừ hai khu vực TCVM còn lại, hay nói cách khác là cùng một nội dung về TCVM nhưng được đề cập và quản lý ở mảng khác nhau. Vấn đề giờ đây là cần thống nhất về mặt quản lý và xây dựng cơ sở pháp lý:
Nếu nhằm mục tiêu thống nhất về mặt tổ chức thì chỉ có một hệ thống tổ chức TCVM được tiến hành các hoạt động vi mô, ngoài hệ thống này không một đối tượng nào khác được thực hiện hoạt động tài chính vi mô, ngoài hệ thống này không một đối tượng nào khác được thực hiện hoạt động TCVM.
Nếu nhằm mục tiêu thống nhất về mặt hoạt động thì bất kỳ một đối tượng nào khi thực hiện các hoạt động tài chính vi mô phải tuân thủ các quy định chung. Đó có thể là về giấy phép, về mức vốn, thời gian hoạt động, hoạt động thông tin, báo cáo, chịu sự kiểm tra, thanh tra của cơ quan có thẩm quyền… Hoạt động tài chính vi mô có thể do tổ chức chuyên hoạt động TCVM đảm nhiệm hoặc là một trong những lĩnh vực mà một tổ chức hoạt động đa lĩnh vực có thể thực hiện.
Do có nhiều đối tượng có thể trở thành tổ chức TCVM trong khi hoạt động TCVM xét ở khía cạnh đối tượng phục vụ cũng khá đa dạng nên chúng ta sẽ quản lý vấn đề này một cách độc lập về tổ chức và hoạt động. Cơ quan chức năng sẽ quản lý về mặt tổ chức và hoạt động. Khi các đối tượng này tiến hành việc cung ứng dịch vụ tài chính cho người nghèo, tùy thuộc vào việc các dịch vụ này thuộc lĩnh vực ngân hàng hay dân sự mà các quy định pháp luật tương ứng được áp dụng. Khi chưa tách bạch được hoạt động TCVM là một hoạt động riêng biệt, độc lập thì chưa thể xây dựng một quy chế riêng biệt, độc lập cho hoạt động này.
Ở các nước, sự quản lý của Ngân hàng trung ương đối với hoạt động TCVM là rất khác nhau, có nước không quản lý, có nước quản lý bằng cách cấp giấy phép hoạt động ngân hàng có hạn chế, có nước ban hành các quy định pháp lý ngoài luật ngân hàng áp dụng riêng cho các tổ chức TCVM . Ở Việt Nam, với những nội dụng đã phân tích ở trên và để có thể đáp ứng yêu cầu cần thiết hiện nay là phải có cơ sở pháp lý cho hoạt động của khu vực TCVM bán chính thức, có thể giải quyết theo hướng xem hoạt động TCVM của khu vực này như hoạt động ngân hàng của các tổ chức không phải tổ chức tín dụng. Điều này xuất pháp từ các lý do cũng như đáp ứng được các mục tiêu sau:
- Về điều kiện: để được cấp giấy phép hoạt động ngân hàng, tổ chức không phải là tổ chức tín dụng phải đáp ứng các điều kiện như hoạt động ngân hàng là cần thiết và có liên quan chặt chẽ với hoạt động chính, có đủ vốn, điều kiện vật chất phù hợp với yêu cầu của hoạt động ngân hàng, có phương án kinh doanh khả thi về hoạt động ngân hàng( khoản 2 điều 22 luật Các TCTD)
- Về tính chất hoạt động: hoạt động TCVM là mô hình gắn tín dụng với tiết kiệm, tuy ở quy mô nhỏ nhưng có thể coi là hoạt động ngân hàng khi trong bản thân các nghiệp vụ của hoạt động này ( như cho vay, huy động vốn…) có thể tiềm ẩn những rủi ro và cần sự điều tiết của một cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành.
- Về thẩm quyền quản lý: Với các điều kiện và tính chất trên, Ngân hàng Nhà nước sẽ là cơ quan quản lý về hoạt động tài chính vi mô. Điều này cũng phù hợp với thông lệ quốc tế về quản lý hoạt động TCVM.
Với những định hướng trên, vấn đề còn lài của chúng ta là cần phải có những quy định cần thiết và hợp lý về phạm vi hoạt động, kiểm tra, giám sát, về bảo đảm an toàn, các yêu cầu về báo cáo, lãi suất, tài sản bảo đảm…mà tổ chức có hoạt động TCVM phải thực hiện để đảm bảo đúng tính chất của các hoạt động đó là TCVM.
2. Phát triển hoạt động của khu vực chính thức đến đối tượng là nông dân và những người di cư.
Tăng cường thể chế cho các định chế tài chính chính thức
Cho đến nay mặc dù hoạt dộng cho vay đối với hộ nghèo đã được thực hiện rất thành công ở các nước trên thế giới và ngay cả ở Việt Nam. Nhưng vẫn còn rất nhiều định chế tài chính chính thức vẫn chưa tin tưởng vào khả năng tiếp cận tín dụng của họ, do vậy cần phải hình thành ý thức cam kết cho vay đối với hộ nghèo trong các cán bộ tác nghiệp cũng như cán bộ quản lý và tăng cường năng lực cho các nhân viên của các định chế tài chính.
Mở rộng mạng lưới kênh cung cấp vốn
Vấn đề cách biệt được xem như là một cản trở cho người nghèo tiếp cận tới các dịch vụ tín dụng từ các định chế tài chính, cụ thể là NHNN&PTNT, cần phải xúc tiến mở rộng mạng lưới cấp liên xã. Các biện pháp thực hiện việc mở rộng để tăng cường khả năng tiếp cận bao gồm:
Thành lập thêm ngân hàng liên xã
Phối hợp với các tổ chức xã hội trong quá trình tiếp cận người nghèo
Việc mở rộng mạng lưới cần phải gắn với việc tiêu chẩn hóa tổ chức cũng như sắp xếp biên chế của các tổ chức tài chính. Ví dụ, cần xác định các tiêu chí giới hạn về số lượng khoản vay, khối lượng giao dịch hàng ngày, số lượng sổ sách chứng từ mà mỗi cán bộ tín dụng , kế toán và thủ quỹ phải xử lý, thực hiện nhằm tránh tình trạng quá tải như hiện nay. Một ví dụ khác nữa là khi một chi nhánh ngân hàng đạt được một mức độ nhất định về số lượng cán bộ, về quy mô hoạt động kinh doanh , khi đó chi nhánh ngân hàng liên xã đó sẽ tự động được tách ra làm 2 đơn vị để đam bảo tính chất quy mô nhỏ và khả năng mở rộng tiếp cận của mình.
Mạng lưới cung cấp tín dụng cho người nghèo cũng có thể được mở rộng thông qua việc cấp giấy phép thành lập các quỹ tín dụng nhân dân khi hội đủ điều kiện.
Phát triển cơ chế cho vay thích ứng với điều kiện cuả người nghèo
Các định chế tài chính cần đa dạng hóa và đưa ra thị trường các công cụ được cải tiến phù hợp nhằm tăng cường kha năng tiếp cận người nghèo, họ nên áp dụng các phương thức , thông lệ quốc tế có hiệu quả nhất đối với hoạtđộng cho vay qua nhóm nhằm đảm bảo lợi thế về chi phí thu được từ quy mô hoạt động.
Cần tăng cường năng lực thẩm định các món vay nhỏ và quy trình thẩm định cũng nên được hoàn thiện hơn nữa. cần soạn thảo các bảng tham khảo nhanh về doanh thu và chi phí dưới hình thức của một danh sách kiểm tra đối với từng hoạt động sản xuất khác nhau như: chăn nuôi, trồng trọt và các hoạt động kinh tế thông thường khác.
Các định chế tài chính nên khuyến khích người vay trả nợ theo hình thức trả góp từng phần hơn là trả nợ một lân như hiện nay, đặc biệt khi người nghèo gặp nhiều khó khăn trong việc giữ các khoản tiền tiết kiệm nhỏ của họ một cách an toàn. Bên cạnh đó, cũng cần có một cơ chế thống nhất khuyến khích họ trả nợ đúng hạn. kinh nghiệm cho vay đối với hộ nghèo ở các nước trong khu vực và qua các chương trình của các tổ chức phi chính phủ đã cho thấy người nghèo có thể trả nợ tốt hơn theo phương thức trả góp từng phần hơn là phương thức trả toàn bộ nợ gốc một lần khi khoản vay đến hạn.
Tiết kiệm là bắt buộc và phải đi kèm với hoạt động tín dụng
Tiết kiệm nhỏ, một nửa bị lãng quên của tài chính vùng nông thôn, có tầm quan trọng rất cơ bản đối với việc huy động nguồn lực trong nước. Tiết kiệm là thức ăn tốt cho người sản xuất nhỏ và ngân hàng, các tổ chức tài chính yếu kém được vực dậy bằng việc thúc đẩy tiết kiệm hơn là bất kỳ biện pháp khắc phục nào khác.
Tín dụng và tiết kiệm là những công cụ quan trọng đối với việc tài trợ các hoạt động kinh tế. Tín dụng được sử dụng vào các tài khoản đầu tư hiện tại và được hoàn trả trong tương lai. Ngược lại, tiết kiệm nhằm mục đích tích lũy tài sản hôm nay , để đầu tư trong tương lai. Vì vậy, cần phải tuân thủ tính tương tác giữa tiết kiệm và tín dụng; đồng thời gắn dết chúng với nhau một cách chặt trẽ nhất cơ thể. Việc gắn kết tín dụng với tiết kiệm nhằm giúp cho khách hàng dần tạo ra thu nhập cho chính bản thân họ và nâng cao chất lượng cuộc sống.
3. Chương trình tiết kiệm và tín dụng thông qua các tổ chức xã hội cần áp dụng rộng rãi
Lựa chọn giải pháp
Mặc dù các tổ chức xã hội đã tham gia các hoạt động tín dụng và tiết kiệm trong một thời gian dài, song các tổ chức này chưa có một chiến lược để thực hiện các chương trình của riêng họ. nhằm mục tiêu cải thiện mức sống và vị trí xã hội của các thành viên, các tổ chức xã hội cần thực hiện hai giải pháp chính sau đây:
Một là tăng cường mối liên kết giữa người nghèo với các định chế tài chính chính thức.
Hai là mở rộng các chương trình tín dụng và tiết kiệm của chính mình để huy động và hình thành quỹ nội bộ cho vay thành viên.
Tăng cường thể chế
HPN và Hội nông dân cần xem xét lại và hoàn thiện cơ cấu tổ chức. các tổ chức xã hội có tham gia hoạt động tiết kiệm và tín dụng cần tập hợp nhằm đưa ra ý kiến chung cũng như thiết lập mối quan hệ liên kết với các định chế tài chính chính thức.
Các tổ chức này cũng cần thành lập một ban/bộ phận chuyên trách về tín dụng trong cơ cấu tổ chức mình và tiến hành tổ chức lại các hoạt động hiện tại trong lĩnh vực này một cách có hệ thống,đồng thời tiến hành đào tạo các nhân viên ở các vị trí tương ứng.
Mở rộng các chương trình tín dụng và tiết kiệm
Để cải thiện khả năng tiếp cận, các chương trình tín dụng của các tổ chức xã hội cần phải tăng cường năng lực quản lý, giám sát. Cán bộ cấp cơ sở cần phải được đào tạo cơ bản về các nghiệp vụ nhóm tín dụng và tiết kiệm, hoạt động tư vấn cho các nhóm, nhận biết các cơ hội kinh doanh,các hoạt động phát triển doanh nghiệp vi mô, những khó khăn trong quá trình sản xuất mà họ có thể điều chỉnh một cách tốt nhất với những thay đổi của thị trường.
Tổ chức xã hội cũng nên tăng cương năng lực trong việc thành lập nhóm và lựa chọn nhóm trưởng trong các nhóm hiện có cũng như mới thành lập.
4. Thực hiện các chương trình của Chính phủ
Trong khung chính sách chung về phát triển nông thôn và giảm nghèo, cần lưu ý tới những trường hợp cá biệt. Ở Việt Nam, cần chú ý tới khó khăn khi triển khai mở rộng các dịch vụ ở miền núi và nên phát triển thành một chương trình tín dụng hoạt động riêng biệt. tuy nhiên, chi phí giao dịch cao khi cung cấp dịch vụ tới các vùng này kéo theo là mức độ bao câp phải được làm rõ. Cùng với việc tiếp tục củng cố khu vực tài chinh chính thức nói chung , cần hoàn thiện môi trường thuận lợi cho TCVM, theo đó cần phải giảm dần vài trò của bao cấp chính phủ, tăng dần cách tiếp cận thương mại và nâng cao vị thế của khu vực tư nhân trong việc cung cấp các dịch vụ tài chính và khả năng của họ
5. Xây dựng năng lực pháp lý cho khu vực tài chính bán chính thức.
Xây dựng Bộ quy tắc chuẩn mực về TCVM. Để khắc phục những hạn chế về tính không đồng nhất, tản mạn của các chương trình TCVM thuộc khu vực bán chính thức, Ngân hàng Nhà nước và các tổ chức xã hội, tổ chức chính phủ nên xây dựng Bộ quy tắc chuẩn mực của Việt Nam về TCVM. Mục tiêu đầu tiên của bộ chuân mực là nhằm xây dựng và phổ biến các tiêu chuẩn cho hoạt động tài chính vi mô, tạo điều kiện cho người nghèo tiếp cận các dịch vụ tài chính một cách lâu dài và bền vững. Bộ chuẩn mực này sẽ bao trùm các lĩnh vực tổ chức, hoạt động, tài chính và báo cáo, tiến tới chấp nhận tài chính vi mô như một khu vực tài chính chính thức trong hệ thống tài chính. Các tổ chức tài trợ quốc tế tài trợ cho hoạt động tài chính vi mô và các Chính phủ tiếp nhận viện trợ bảo đảm áp dụng các thông lệ tốt nhất trong việc thiết kế các chương trình tài chính vi mô và phải đặt mục tiêu bền vững lên hàng đầu từ giai đoạn đề xuất dự án. Việc hình thành các chuẩn mực sẽ cho phép đánh giá hiệu quả hoạt động, nâng cao tinh thần trách nhiệm và khuyến khích các chương trình tài chính vi mô liên tục hoạt động của mình. Việc xây dựng các chuẩn mực cũng sẽ làm cho hoạt động TCVM của khu vực này trở nên hấp dẫn hơn đối với các nhà tài trợ.
Thành lập nhóm về hoạt động TCVM thuộc ngân hàng Nhà nước. Ngân hàng nhà nước đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc thúc đẩy hoạt động TCVM. Cách tốt nhất mà Ngân hàng nhà nước có thể góp phần phát triển TCVM là thông qua việc ban hành các quy định về công tác giám sát để khuyến khích việc thành lập các tổ chức TCVM và tạo điều kiện cho các chương trình tài chính vi mô ở khu vực bán chính thưc được cấp phép hoạt động. Ngoài ra, Ngân hàng Nhà nươc có thể thúc đẩy hoạt động của khu vực này thông qua các hoạt động hỗ trợ các dự án thí điểm , tiến hành nghiên cứu, thu thập và công bố thông tin. Để thực hiện các hoạt động trên rõ ràng cần thành lập nhóm chuyên trách về hoạt động TCVM thuộc Ngân hàng Nhà nước.
Tạo lập khuôn khổ pháp lý thuận lợi cho hoạt động tài chính vi mô. Kinh nghiệm của một số nước về tạo khuôn khổ pháp lý cho hoạt động TCVM cho thấy, có 3 phương án có thể lựa chọn để xây dựng quy chế: tổ chức TCVM áp dụng Luật các tổ chức tín dụng thì phải xem các tổ chức tai chính vi mô hoặc cho phép tự quản. nếu sử dụng Luật các TCTD thì phải xem các tổ chức tai chính vi mô hoạt động như một ngân hàng thương mại ( huy động tiết kiệm và cho vay như các định chế tài chính khác). Một phương án khác là sử dụng Luật các TCTD nhưng cho phép tổ chức TCVM có những ngoại lệ nhất định. Phương án thư ba là sử dụng một quy chế riêng đối với tổ chức TCVM trong đó xét đến sự khác biệt giữa các tổ chức TCVM và ngân hàng thương mại. phương pháp thứ ba là ban hành Nghị định riêng về hoạt động TCVM là phù hợp hơn cả.
KẾT LUẬN
Xóa đói giảm nghèo, giúp người nghèo ngày càng khá hơn trong cuộc sống là chương trình kinh tế xã hội rộng lớn có ý nghĩa to lớn về kinh tế và nhân đạo, Chính phủ Việt Nam đã xác định chương trình xóa đói giảm nghèo là một trong những giải pháp hàng đầu của chiến lược ổn định và phát triển kinh tế đến năm 2020.
Tín dụng là một công cụ chủ chốt phá vỡ vòng luẩn quẩn của sự nghèo đói và là một trong yếu tố quan trọng không thể thiếu trong chiến lược xóa đói giảm nghèo của các quốc gia đang phát triển, trong đó có Việt Nam.
Nâng cao khả năng tiếp cận tín dụng của người nghèo ở nông thôn Việt Nam hiện nay là một biện pháp nhằm sử dụng nguồn vốn có hiệu quả hơn trong việc giảm nghèo. Đề tài của chúng em không chỉ đề cập đến việc cung cấp vốn từ phía chính phủ cho người nghèo thông qua các trung gian tài chính mà còn đề cập đến vai trò của người dân trong việc sử dụng đồng vốn. Song do một số nguyên nhân chủ quan và khách quan nên chúng em mới chỉ đưa ra được những lý thuyết trên thế giới về tín dụng cho người nghèo, đó chính là nguồn gốc cho những chính sách của Chính phủ về công cuộc XĐGN. Các số liệu dẫn chứng cho đề tài chưa cập nhât được đầy đủ và chi tiết. Hơn thế nữa, các chính sách ỏ nước ta thường gắn XĐGN với hoạt động sản xuất nông nghiệp, điều này chưa được đề cập cụ thể trong đề tài. Tất cả những khiêm khuyết trên chúng em sẽ cố gắng khắc phục trong đề tài lấn sau.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PGS.TS. Đào văn Hùng.
- Phát triển hoạt động tài chính vi mô ở Việt Nam - Nhà xuất bản Lao động – Xã hội, năm 2005
Cẩm nang hướng dẫn lập kế hoạch thực hiện và quản lý chương trình tài chính vi mô - Nhà xuất bản thống kê, năm 2001
Tạp chí Ngân hàng
Số 9/ 2004
Số 1 – 2 /2005
Số 2 – 3 – 5 – 13 – 16 – 18 – 22 /2008
Tạp chí Nghiên cứu kinh tế
- Số 1 -10 – 11 /2005
Tạp chí Kinh tế phát triển
- Số 1/2005
PGS.TS.Phan Văn Vận. – TH.S Vũ Cương
Giáo trình kinh tế công cộng – Nhà xuất bản thống kê, năm 2007
Một số tài liệu tham khảo khác.
Danh mục sơ đồ, bảng biểu
Bảng 1:Tỷ lệ nghèo đói ở Việt Nam theo chuẩn nghèo quốc gia 2001-2005
Bảng 2: Tỷ lệ nghèo ở Việt Nam (%)
Bảng 3: Số hộ dự định tiết kiệm với mức tiết kiệm do họ đề xuất năm 2002 ở Bắc Kạn và Sơn La
Bảng 4: Mức tiết kiệm trong năm 2002 của các hộ ở Bắc Kạn.
Bảng 5: Tình hình nguồn vốn và cho vay của QTDND cơ sở trong những năm gần đây:
Biểu đồ 1: Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn 2006-2010
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 77728.doc