Có thể nói tiêu thụ sản phẩm là một bài toán luôn luôn cần lời giải của bất cứ doanh nghiệp nào kinh doanh trên thị trường, dù doanh nghiệp đó mới thâm nhập thị trường hay đang trên đà phát triển.
Sự chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước đã tạo ra nhiều cơ hội cũng như thách thức đối với các doanh nghiệp Việt nam mà đặc biệt là các doanh nghiệp Nhà nước. Công ty bánh kẹo Hải Châu là một trong những doanh nghiệp Nhà nước từ lâu đã khẳng định được vị trí của mình trên thị trường, sản phẩm của Hải châu giừ đây đã có mặt trên khắp mọi miền đất nước. Ngày nay, khi thu nhập của người dân tăng lên, đời sống được nâng cao rõ rệt thì nhu cầu thưởng thức bánh kẹo cũng theo đó mà thay đổi. Người tiêu dùng ngày càng quan tâm đến những sản phẩm cao cấp - một loại sản phẩm ít được các doanh nghiệp trong nước chú ý. Hải châu vốn là một doanh nghiệp năng động, đi trước đón đầu nên đã phát hiện ra những thay đổi về nhu cầu đó của người tiêu dùng. Trong những năm gần đây, Hải châu đặc biệt coi trọng công tác sản xuất cũngnhư tiêu thụ sản phẩm cao cấp - sản phẩm mang tính chiến lược của Công ty trong thời gian tới.
Bằng sự nỗ lực của tập thể cán bộ cũng như của người lao động, sản phẩm cao cấp của Hải châu đã từng bước thâm nhập vào thị trường. Nhưng hiện nay, công tác tiêu thụ sản phẩm cao cấp của Công ty đang gặp nhiều khó khăn đòi hỏi tập thể lãnh đạo phải có những giải pháp đông bọ nhằm hạn chế điểm yếu phát huy thế mạnh nâng cao khả năng tiêu thụ sản phẩm cao cấp. Những vấn đề đó đã được trình bày trong chuyên đề “Nâng cao khả năng tiêu thụ sản phẩm cao cấp của Công ty bánh kẹo Hải châu”.
67 trang |
Chia sẻ: Kuang2 | Lượt xem: 924 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nâng cao khả năng tiêu thụ các sản phẩm cao cấp của công ty bánh kẹo Hải Châu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
771
820
118
77
121
894
720
295
( Nguồn : Phòng tổ chức công ty bánh kẹo Hải Châu).
Nhận thấy, lao động nữ chiếm một tỉ lệ tương đối cao, khoảng 68% đến 70% tổng lao động trong công ty, riêng năm 2002 tỉ lệ này lên đến 75%. Đây là một tỉ lệ khá phù hợp với lĩnh vực kinh doanh của công ty.
Những lao động có trình độ từ cao đẳng trở lên ngày càng tăng: năm 1998 là 9%, năm 1999 là 9,6%, năm 2000 là 7,1%, năm 2001 là 11,37%, đến năm 2002 tỉ lệ này tăng lên 11,9%. Tỉ lệ cán bộ quản lý thường chiếm khoảng 10% tổng số lao động của toàn công ty.
Vì sản phẩm bánh kẹo có tính thời vụ nên công ty vẫn duy trì lao động không chính thức (dưới dạng hợp đồng ) với tỉ lệ khoảng 18% đến 29%. Duy trì một cơ cấu lao động hợp lý cộng với những chính sách khuyến khích người lao động là cơ sở để tăng năng suất, nâng cao chất lượng, hạ giá thành, từ đó nâng cao khả năng tiêu thụ sản phẩm.
7. Đặc điểm về công nghệ sản xuất
Công nghệ là yếu tố vô cùng quan trọng, nhất là trong thời đại ngày nay, khi khoa học kỹ thuật phát triển với tốc độ nhanh chóng. Ai đi đầu trong việc áp dụng công nghệ hiện đại, người đó sẽ chiến thắng trong cạnh tranh. Chính vì vậy, ngày nay, khoa học công nghệ được coi là một yếu tố đầu vào vô cùng cần thiết đối với mỗi doanh nghiệp và nó được xem như là một tài sản vô hình của bất cứ ai sở hữu nó.
Vì nó có vai trò to lớn như vậy nên công tác quản trị kỹ thuật công nghệ là một bộ phận không thể thiếu của công tác quản trị doanh nghiệp, là cơ sở của quản trị chiến lược và kế hoạch. Quản trị kỹ thuật công nghệ tốt là cơ sở để thực hiện có hiệu quả các công tác định mức kinh tế - kỹ thuật, điều hành sản xuất. Chất lượng của công tác quản trị kỹ thuật công nghệ ảnh hưởng trực tiếp đến việc đảm bảo và nâng cao chất lượng của sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
Hải Châu có thể được coi là một trong những doanh nghiệp đi đầu trong việc đầu tư, đổi mới công nghệ. Việc áp dụng công nghệ hiện đại vào sản xuất sản phẩm cao cấp đã làm cho chất lượng sản phẩm không ngừng được nâng cao, hơn hẳn các doanh nghiệp trong nước thậm chí không thua kém gì hàng ngoại nhập.
Hiện nay, công ty có các dây chuyền sản xuất sản phẩm cao cấp sau đây:
Bảng 6: Một số dây chuyền sản xuất sản phẩm cao cấp hiện tại của
Công ty bánh kẹo Hải Châu.
Tên dây chuyền
Số lượng
Nước chế tạo
Năm chế tạo
Năm sử dụng
Công suất
Trình độ
1.Dây chuyền bánh Hương Thảo
1
Đài Loan
1991
1991
2,5 - 2,8 tấn/ca
Tự động, bao gói thủ công
2..Dây chuyền
kem xốp
1
CHLB
Đức
1993
1994
1 tấn/ca
Tự động, bao gói thủ công
3. Dây chuyền kẹo cứng cao cấp
1
CHLB
Đức
1996
1997
3 tấn/ca
T.động, bao gói thủ công
4. D/C sôcôla
1
CHLB Đức
2001
3tấn/ngày
Tự động
( Nguồn : Phòng kỹ thuật công ty bánh kẹo Hải Châu )
8. Đặc điểm về tài chính
Để hoạt động sản xuất kinh doanh được diễn ra một cách thường xuyên, liên tục, doanh nghiệp luôn luôn phải sử dụng các yếu tố đầu vào mà vốn là một trong những nguồn lực không thể thiếu. Trong môi trường kinh tế với sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt, các đối thủ cạnh tranh xuất hiện ngày càng nhiều với các loại sản phẩm mới phong phú, hấp dẫn. Chính vì thế, doanh nghiệp phải không ngừng đầu tư đổi mới công nghệ, sản xuất sản phẩm mới thoả mãn ngày càng cao nhu cầu của người tiêu dùng. Một nguồn tài chính ổn định, dồi dào sẽ tạo cho doanh nghiệp có thể chủ động, tận dụng cơ hội, hạn chế rủi ro trong kinh doanh.
Theo quyết định thành lập và cấp giấp phép kinh doanh của công ty ngày 29/09/1994 và 09/11/1994 thì vốn điều lệ của công ty là 4,938 tỷ đồng. Trong những năm qua, vốn của công ty bánh kẹo Hải Châu tăng lên khá nhanh. Chúng ta có thể thấy hiện trạng vốn của công ty qua bảng sau:
Bảng 7: Cơ cấu vốn của công ty bánh kẹo Hải Châu
Vốn
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
Mức
(Tỷ.đ)
Tỷ trọng
(%)
Mức
( Tỷ.đ)
Tỷ trọng
(%)
Mức
( Tỷ.đ)
Tỷ trọng
(%)
I.Theo cơ cấu
78,987
100
97,098
100
107,926
100
1.Vốn cố định
57,705
73,06
60,378
62,18
78,274
72.97
2.Vốn lưu động
21,282
26,94
26,72
37,82
29,652
27.03
II.Theo nguồn
78,987
100
97,089
100
107,926
100
1. Ngân sách
30,889
39,11
32,453
33,42
33,541
31,08
2. Vay
37,731
47,77
51,860
53,41
58,247
53,97
3. Tự có
10,367
13,12
12,785
13,17
16,138
14,95
(Nguồn : Phòng kế toán - tài vụ công ty bánh kẹo Hải Châu)
Sản phẩm cao cấp là sản phẩm đòi hỏi chi phí lắp đặt dây chuyền tương đối cao bởi chủ yếu là phải nhập từ nước ngoài, qua nhiều trung gian thương mại. Chính vì vậy, vốn cố định trong công ty tồn tại với một tỷ trọng khá cao và thường nằm trong tài sản cố định.
* Năm 1999, tổng giá trị tài sản cố định là 57,705 tỷ đồng.
* Năm 2000, tăng so với năm 1999 là 2,673 tỷ đồng.
* Năm 2001, tăng so với năm 2000 là 17,896 tỷ đồng.
Đến năm 2001, tổng vốn của công ty đã tăng lên 107,926 tỷ đồng trong đó vốn cố định là 78,274 tỷ đồng, chiếm 72,97%.
9. Công tác tiêu thụ sản phẩm
Tiêu thụ sản phẩm là một trong sáu chức năng hoạt động cơ bản của doanh nghiệp. Mặc dù sản xuất có chức năng trực tiếp tạo ra sản phẩm, song tiêu thụ lại đóng vai trò là điều kiện tiền đề không thể thiếu trong quá trình kinh doanh.
Cùng với sự phát triển đi lên của công ty, các hoạt động tiếp thị, nghiệp vụ Marketing để tiêu thụ sản phẩm ngày càng được đẩy mạnh và có hiệu quả hơn. Công ty đã chú trọng đầu tư đào tạo, tăng cường thêm đội ngũ tiếp thị, duy trì và phát triển các thị trường hiện có cả về chiều rộng và chiều sâu, từng bước mở rộng thêm thị trường mới ở các tỉnh miền núi phía bắc, miền Trung, vùng sâu vùng xa. Tính đến nay, công ty đã có gần 400 đại lý ở khắp mọi miền đất nước, sản phẩm của Hải Châu hầu như đã có mặt trong từng gia đình.
Không chỉ dừng lại ở thị trường trong nước, công ty cũng đang bước đầu thông qua một số bạn hàng để xuất khẩu sang các nước láng giềng như Trung Quốc, Lào, Campuchia. Từ nhiều năm nay, ngay từ đầu năm, công ty đã tổ chức tốt Hội nghị khách hàng để triển khai thực hiện các chính sách, chế độ về tiếp thị phù hợp với từng địa bàn, từng thời kỳ nhằm khuyến khích khách hàng tiêu thụ sản phẩm Hải Châu.
Với mạng lưới phân phối rộng, quy mô sản xuất kinh doanh lớn, công ty chủ yếu sử dụng kênh phân phối gián tiếp (75 - 80%). Bao gồm:
* Gián tiếp dài: là kênh phân phối qua từ 2 trung gian trở lên mới đến tay người tiêu dùng.
Đại lý Bán buôn Bán lẻ
Công ty Người tiêu dùng
Bán buôn Bán lẻ
* Gián tiếp ngắn:
Công ty Người bán lẻ Người tiêu dùng
Vì Hải Châu có sản phẩm bán ra thường với khối lượng lớn nên để hàng hoá có thể đến tận tay người tiêu dùng phải qua nhiều trung gian như đại lý, bán buôn, bán lẻ. Với quy mô thị trường lớn, việc sử dụng kênh phân phối gián tiếp sẽ giúp cho công ty có thể tận dụng được tính ưu việt của phân công lao động xã hội, hàng hoá lưu thông, tốc độ cung ứng nhanh, kịp thời.
* Kênh trực tiếp : Bên cạnh việc sử dụng kênh tiêu thụ gián tiếp, công ty cũng sử dụng kênh phân phối trực tiếp nhưng chỉ chiếm khoảng 20- 25% tổng khối lượng tiêu thụ.
Công ty Cửa hàng giới thiệu sản phẩm Người tiêu dùng.
Trong một vài năm trở lại đây, công ty đã có những biện pháp thúc đẩy hoạt động tiêu thụ nhưng chỉ dừng lại ở khuyến khích các đại lý cấp 1 mà không chú ý đến lợi ích người tiêu dùng, người có vai trò quyết định đến hoạt động tiêu thụ sản phẩm nên sản phẩm cao cấp của công ty doanh số thu được thấp, ít được người tiêu dùng lựa chọn. Hoạt động khuyến mại của công ty còn chưa hiệu quả, linh hoạt. Công ty chỉ dừng lại ở việc khuyến mại đối với từng loại sản phẩm trong thời gian ngắn, hình thức khuyến mãi đơn điệu như mua số lượng nhiều tặng thêm sản phẩm cùng loại. Đây thực chất là một hình thức giảm giá bán sản phẩm trong một thời kỳ, không có tính chất khuyến khích tiêu dùng.
Hải Châu sử dụng công cụ cạnh tranh chủ yếu là giá bán nên các hoạt động về quảng cáo, chiêu thị, giao tiếp khuyếch trương không được chú trọng nhiều. Các loại sản phẩm của Hải Châu ít được biết đến qua hoạt động này. Các sản phẩm của công ty rất ít khi quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng. Ngược lại, công ty bánh kẹo Hải Hà, Biên Hoà có hoạt động quảng cáo rất mạnh đặc biệt là khi tung ra thị trường sản phẩm mới. Bên cạnh đó, các công ty hoạt động tiếp thị bằng cách cử nhân viên đi bán hàng đến từng người tiêu dùng hoặc có thể mời họ ăn thử bánh kẹo mới và tặng quà để họ giới thiệu với người khác. Đồng thời thu thập ý kiến của người tiêu dùng về các loại sản phẩm. Mặc dù chi phí cho hoạt động này cao nhưng việc tiếp cận thị trường của sản phẩm mới là nhanh chóng và hiệu quả.
Công ty Hải Châu tham gia hội chợ hàng năm như: hội chợ hàng tiêu dùng, hội chợ hàng công nghiệp, hội chợ xuân với mục đích là giới thiệu sản phẩm và ký các hợp đồng tiêu thụ. Mặc dù chi phí cho hoạt động này không nhiều, chủng loại được trưng bầy và giới thiệu không đa dạng nhưng công ty cũng đã ký được một số hợp đồng đại lý trong năm vừa qua. Về hoạt động này các đối thủ cạnh tranh với Hải Châu cũng tỏ ra rất mạnh. Công ty Hải Hà tham gia các hội chợ với quy mô lớn hơn, chủng sản phẩm được trưng bầy nhiều hơn và công ty này cũng đã khá nhiều thành công trong việc ký các hợp đồng đại lý.
III. Thực trạng tiêu thụ sản phẩm cao cấp của công ty bánh kẹo Hải châu
1. Kết quả sản xuất kinh doanh chung của công ty trong một vài năm gần đây
Trong những năm qua, Công ty bánh kẹo Hải Châu cũng như nhiều doanh nghiệp khác hoạt động trong nền kinh tế thị trường đều gặp phải những thách thức to lớn. Trên thị trường ngày càng xuất hiện nhiều đối thủ cạnh tranh với nhiều chủng loại hàng hoá, mẫu mã đa dạng, phong phú. Đặc biệt trong một vài năm trở lại đây, các công ty bánh kẹo của thành phố Hồ Chí Minh mà nổi bật là công ty TNHH Kinh Đô đã liên tục đầu tư đổi mới công nghệ, mở rộng thị trường ra miền Bắc- thị trường truyền thống của Hải Châu. Một mặt đối phó với các doanh nghiệp trong nước, mặt khác, công ty còn phải chịu sự chi phối của hội nhập kinh tế khu vực và thế giới.
Song, bằng sự nỗ lực của ban lãnh đạo, sự ủng hộ của tập thể công nhân viên trong công ty, cùng với sự quan tâm, giúp đỡ của các cấp, các ngành, công ty đã khắc phục mọi khó khăn để vươn lên hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu mà tổng công ty giao. Mức tăng trưởng hàng năm đạt tương đối cao và ổn định. Cụ thể:
Bảng 8: Một số chỉ tiêu đạt được qua các năm của công ty bánh kẹo Hải Châu
( Đơn vị : tỷ đồng)
Năm
Giá trị
TSL
Doanh thu thuần
Năm sau so với năm trước
(GTTSL)
+/-
%
1998
92,744
104,2509233
+16,654
+15,799%
1999
104,873
117,8035433
+12,129
+13,07%
2000
119,52
134,8850571
+14,647
+13,966%
2001
136,361
156,4666662
+16,841
+14,09%
2002
152
183,6918661
+15,639
+11,46%
Nhận thấy, tổng giá trị sản lượng tăng qua các năm, trung bình năm sau cao hơn nẳm trước là 13,677%. Đây là một con số đáng mừng mà công ty đạt được trong cả một thời kỳ dài liên tục.
Bên cạnh đó, hàng năm công ty đã cố gắng tạo đủ công ăn, việc làm cho hơn một ngàn lao động, đời sống vật chất và tinh thần ngày càng được cải thiện. Với những thành tích đã đạt được, công ty đã được Chính phủ, Bộ, Ngành tặng cờ thi đua xuất sắc liên tục trong các năm (1999-2001 )và được Bộ Tài chính cùng UBND thành phố Hà Nội tặng bằng khen về thành tích nộp thuế. Trong những năm qua và đặc biệt là năm 2002, bằng sự cố gắng vươn lên của công ty, sản xuất kinh doanh tiếp tục được đẩy mạnh, tăng nguồn tích luỹ khấu hao, tạo nguồn chi trả vốn vay đầu tư đúng và trước kỳ hạn hanh toán.Trong 5 năm vừa qua, công ty đã cơ bản hoàn trả hết các khoản vốn vay đầu tư của các dự án giai đoạn 1995- 2001 với nguồn vốn gần 50 tỷ đồng tạo tiền đề cho các chương trình đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh các năm 2002 - 2005. Đồng thời, do chủ động về tài chính và thanh toán nên công ty đã tiết kiệm và giảm thấp được chi phí lãi vay ngân hàng đồng thời khắc phục được những biến động về tỷ giá ngoại tệ trong những thời điểm thanh toán. Dưới đây là kết quả sản xuất kinh doanh của công ty trong một vài năm gần đây:
Bảng 9: Báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh của công ty bánh kẹo Hải Châu
( Đơn vị: tỷ đồng)
Chỉ tiêu
1998
1999
2000
2001
2002
1.Tổng doanh thu
104,905503202
118,543218618
135,731985318
157,449102968
184,845246885
Trongđó
Doanhthu
xuất khẩu
2.Các khoản giảm trừ
0,654579909
0,739675297
0,846928215
0,982436729
1,153380720
Chiết khấu
0,378422243
0,427617135
0,489621620
0,567961079
0,666786306
Giảm giá
0,013442742
0,015190299
0,017392892
0,020175755
0,023686337
Hàng bán trả lại
0,26271492
0,296867863
0,339913703
0,394299896
0,462908077
Thuế xuất khẩu
Thuế tiêu thụ đặc biệt
3. Doanh thu thuần
104,250923293
117,803543321
134,885057103
156,466666239
183,691866165
4. Giá vốn hàng bán
93,484415601
105,637389629
120,954811125
140,307580905
164,721099983
5.Lợi nhuận gộp
10,66507692
12,166153692
13,930245977
16,159085334
18,970766182
6. Chi phí bán hàng
4,010944398
4,532367170
5,189560410
6,019890075
7,067350948
7. Chi phí quản lý doanh nghiệp
3,084166376
3,485108005
3,990448666
4,628920452
5,434352611
8 Lợi tức thuần từ hoạt động kinh doanh
3,671396918
4,148678517
4,750236902
5,10274806
6,469062623
9.Thu nhập từ hoạt động tài chính
0,366048542
0,413634853
0,473611907
0,549389812
0,644983639
10.Chi phí từ hoạt động tài chính
2,005545764
2,266266713
2,594875386
3,010055448
3,533805096
11.Lợi tức từ hoạt động
tài chính
-1,639497221
-1,852631860
-2,121263480
-2,460665636
-2,888821457
12.Các khoản thu nhập bất thường
0,352372264
0,398180658
0,455916853
0,528863550
0,620885808
13.Các khoản chi phí bất thường
0,103983147
0,117500956
0,134538595
0,156064770
0,183220040
14. Lợi tức bất thường
0,248389117
0,280679702
0,321378259
0,372798780
0,437665768
15.Tổng lợi nhuận trướcthuế
2,280288813
2,576726359
2,950351681
3,422407950
4,017906933
6.Thuếthu nhập
doanh nghiệp
phải nộp
O,729692419
0,824552434
0,944112537
1,095170543
1,285730217
17. Lợi nhuận sau thuế
1,550596394
1,752173925
2,006239144
2,327237407
2,732176716
(Nguồn: Phòng Kế hoạch- vật tư công ty bánh kẹo Hải Châu)
Cùng với việc hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu do tổng công ty giao cho, qua các năm thu nhập của công nhân không ngừng tăng lên, đời sống được cải thiện. Cụ thể, thu nhập bình quân năm 1998 là 800 ngàn đồng, năm 1999 là 900 ngàn đồng( tăng 12,5% so với năm trước), năm 2000 là 1 triệu đồng( tăng 11,11% so với năm trước), năm 2001 thu nhập bình quân là 1,15 triệu đồng( tăng 15 % so với năm 2000) và năm 2002, thu nhập của cán bộ công nhân viên đã tăng lên 1,2 triệu đồng/người( tăng 17,39 % so với năm 2001).
Riêng trong năm 2002, công ty đã hoàn thành vượt mức kế hoạch đề ra
- Về giá trị tổng sản lượng, kế hoạch đề ra là 142,126 tỷ đồng, nhưng thực tế công ty đã đạt được 152 tỷ đồng, vượt mức kế hoạch đề ra là 5,6%
- Về tổng doanh thu , kế hoạch mà tổng công ty giao cho là 163,03 tỷ đồng, công ty đã thực hiện được 183,6918 tỷ đồng, cao hơn mức kế hoạch đề ra là 20,6618 tỷ đồng ( tương đương 12,67%).
- Về các khoản nộp ngân sách, dự kiến kế hoạch là 6,4 tỷ đồng, nhưng trên thực tế công ty đã nộp ngân sách là 6,5 tỷ đồng, vượt cao hơn so với kế hoạch là 0,1 tỷ đồng ( tương đương 2%).
- Về tổng vốn kinh doanh, theo kế hoạch tổng công ty giao trong năm 2002 là 24,35 tỷ đồng, nhưng công ty đã nâng số vốn của mình lên 25,372 tỷ đồng, vượt cao hơn so với kế hoạch đề ra là 1,022 tỷ đồng ( tương đương4,18%).
- Về sản phẩm các loại:
+ Bánh các loại: theo kế hoạch tổng công ty giao là 6650 tấn, nhưng công ty đã đạt được 7102 tấn, vượt mức kế hoạch đề ra là 452 tấn ( tương đương 6,79%).
+ Kẹo các loại và sôcôla : kế hoạch đề ra là 1470 tấn, công ty đã thực hiện được 1840 tấn, vượt mức kế hoạch đề ra là 370 tấn (tương đương 25,17%).
+ Bột canh các loại: theo kế hoạch sản xuất năm 2002 là 8350 tấn, nhưng công ty đã đạt 8485 tấn cao hơn kế hoạch đề ra 135 tấn (tương đương 1,61%)
Do đạt được những kết quả như trên , công ty đã được Chính phủ, Bộ, Ngành tặng cờ thi đua xuất sắc liên tục trong các năm (1999-2001), đồng thời được Bộ Tài chính và UBND thành phố Hà Nội tặng bằng khen về thành tích nộp thuế. Năm 2002, tập thể công nhân viên công ty bánh kẹo Hải Châu đã được đón nhận Huân chương lao động hạng nhất về thành tích sản xuất kinh doanh và các mặt công tác từ năm 1998 - 2002.
Trong những năm vừa qua, bằng sự cố gắng vươn lên của tập thể cán bộ công nhân viên, cùng với sự giúp đỡ của các ban ngành, Hải Châu đã khắc phục mọi khó khăn, phấn đấu vượt qua mọi thử thách trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Do vậy, hàng năm công ty đều hoàn thành và vượt mức toàn diện các chỉ tiêu kế hoạch sản xuất kinh doanh được giao với kết quả ngày càng cao, tạo thế ổn định đi lên vững chắc, dần lấy lại vị trí của mình trên thương trường.
2. Thực trạng về tiêu thụ sản phẩm cao cấp của công ty bánh kẹo Hải Châu
Sản phẩm cao cấp là sản phẩm đòi hỏi trình độ khoa học công nghệ cũng như tay nghề người lao động ở mức độ cao .Chính vì vậy để sản xuất ra sản phẩm cao cấp và để sản phẩm có thể tiêu thụ được trên thị trường thì chi phí đầu tư phải rất lớn .Trong hoàn cảnh hiện nay số doanh nghiệp có khả năng sản xuất sản phẩm cao cấp còn ở mức hạn chế .Chỉ có những doanh nghiệp nào đủ tiềm lực về tài chính ,về kinh nghiệm nghề nghiệp mới dám bước chân vào lĩnh vực này.
Hải Châu là một doanh nghiệp có thể nói là mạnh dạn trong sản xuất kinh doanh ,đặc biệt là tìm tòi những sản phẩm mới ,sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng .Hiện nay công ty sản xuất trên 100 mặt hàng thuộc 30 chủng loại sản phẩm trong đó có các sản phẩm cao cấp là bánh Kem Xốp ,bánh Biscuit ,bánh Pettit,kẹoCaramen , Kẹo cứng và Socola .
Trước hết là bánh kem Xốp, một sản phẩm truyền thống của công ty tù những năm 90 người tiêu dùng đã quá quen thuộc với cái tên Hải Châu khi lựa chọn mua loại bánh này tại các cửa hàng. Cùng với sự phát triển của xã hội của khoa học kỹ thuật thế giới, sản phẩm bánh kem Xốp của bánh kẹo Hải Châu đã không còn như ngày đầu mới có trên thị trường .Chính vì vậy vào những năm 1994 công ty đã đầu tư đổi mới máy móc thiết bị nhập dây chuyền hiện đại từ cộng hòa liên bang Đức công xuất 1 tấn/ ca .Nhờ đó sản phẩm được nâng cao về mặt chất lượng đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm (do dây chuyề hoạt động khép kín ) .Hiện nay trên thị trường có nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước sản xuất mặt hàng này nhưng bánh kem Xốp của Hải Châu vẫn có lợi thế cạnh tranh.
Bánh Biscuit,bánh Pettit,bánh Opera : là các loại bánh được sản xuất trên dây truyền hiện đại của Đài Loan nguyên vật liệu chính nhập ngoại ,chủ yếu là từ Pháp, ấn Độ,Trung Quốc.Các sản phẩm này đòi hỏi hình dáng bao bì hấp dẫn, sang trọng, vì thế công ty đã sử dụng hộp thiếc thay cho hộp giấy hộp nhựa trước kia.Mặc dù bao bì đẩy giá thành lên cao, nhưng nó làm tăng độ hấp dẫn người tiêu dùng và từ đó nâng cao khách hàng tiêu dùng .
Tuy Hải Châu có thế mạnh về sản xuất bánh nhưng công ty vẫn chú trọng đầu tư , liên tục đổi mới sản phẩm kẹo để đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu cuả thị trường. Sản phẩm kẹo cao cấp của công ty hiện nay bao gồm kẹo Caramen, kẹo cứng cao cấp và Sôcôla .Để sản xuất kẹo cao cấp công ty phải nhập nguyên liệu từ nước ngoài qua nhiều trung gian. Mặt khác công nghệ lại phức tạp nhiều giai đoạn sản xuất nên đòi hỏi công ty phải áp dụng quy trình kỹ thuật nghiêm ngặt đúng quy cách.
Để nâng cao khả năng tiêu thụ công ty không ngừng nâng cao chất lượng hạ giá thành sản phẩm tiếp nhận những công nghệ tiên tiến từ các nước có nền công nghiệp phát triển như Cộng Hòa Liên Bang Đức, Tây Âu.
Trong một vài năm gần đây, tuy đạt được tốc độ tăng trưởng khá cao và ổn định nhưng sản phẩm cao cấp của công ty gặp rất nhiều khó khăn trong khâu tiêu thụ. Kẹo caramen và sôcôla của công ty là những sản phẩm cao cấp có chất lượng không thua kém gì sản phẩm của các doanh nghiệp khác, nhưng mức tiêu thụ đã không đạt như kế hoạch đề ra. Chúng ta có thể thấy thông qua bảng sau:
Bảng 10: Tình hình thực hiện kế hoạch tiêu thụ kẹo cao cấp của công ty bánh kẹo Hải Châu
Đơn vị : tấn
Năm
Kế hoạch
Thực hiện
Thực hiện so với kế hoạch
+/ _
TH/ KH(%)
1998
200
210
+10
105%
1999
250
220
-30
88%
2000
250
230
-20
92%
2001
300
250
-50
83,33%
2002
320
280
-40
87,5%
( Nguồn: phòng Kế hoạch - vật tư công ty bánh kẹo Hải Châu)
Trong đó tình hình tiêu thụ theo chủng loại hàng hóa như sau:
Bảng 11: Tình hình tiêu thụ kẹo cao cấp theo chủng loại
(Đơn vị: tấn)
Tên sản phẩm
Năm 98
Năm 99
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
KH
TH
%
KH
TH
%
KH
TH
%
KH
TH
%
KH
TH
%
Kẹo Caramen
80
85
106,25
130
100
76,92
150
145
96,66
130
100
76,92
150
145
96,66
Kẹo cứng cao cấp
120
125
104,16
165
148
89,69
160
129
80,62
165
148
89,69
160
129
80,62
Kẹo Sôcôla
5
2
40
10
6
60
Tổng
200
210
105
250
225
88
250
230
92
300
250
83,33
320
280
87,5
( Nguồn: Phòng Kế hoạch- vật tư công ty bánh kẹo Hải Châu)
Bên cạnh kẹo cao cấp, công ty còn sản xuất các loại bánh cao cấp như bánh opera, bánh kem xốp, bánh Biscuit, bánh hộp. Các sản phẩm này đã trở nên quen thuộc với người tiêu dùng nhưng sản lượng tiêu thụ đạt được cũng chỉ ở mức thấp, liên tục trong nhiều năm liền mức tiêu thụ không đạt như kế hoạch đề ra. Duy chỉ có sản phẩm tiêu thụ nhiều nhất vẫn là bánh kem xốp - một sản phẩm truyền thống của công ty. Tình hình thực hiện kế hoạch tiêu thụ bánh cao cấp có thể được tóm tắt như sau:
Bảng 12: Tình hình thực hiện kế hoạch tiêu thụ bánh cao cấp của công ty bánh kẹo Hải Châu
Đơn vị : tấn
Năm
Kế hoạch
Thực hiện
Thực hiện so với kế hoạch
+/ _
TH/KH(%)
1998
800
850
+ 50
106,25%
1999
900
880
- 20
97,77%
2000
850
850
0
100%
2001
930
850
-80
91,39%
2002
950
910
- 40
95,78%
( Nguồn : phòng Kế hoạch - vật tư công ty bánh kẹo Hải Châu).
Trong đó tình hình tiêu thụ bánh cao cấp theo chủng loại như sau:
Bảng13: Tình hình tiêu thụ bánh cao cấp theo chủng loại
Tên sản phẩm
Năm 98
Năm99
Năm2000
Năm2001
Năm2002
KH
TH
%
KH
TH
%
KH
TH
%
KH
TH
%
KH
TH
%
Bánh Opera
160
150
93,75
200
180
90
200
170
85
210
200
95,23
230
210
91,3
Bánh Pettit
135
120
88,88
150
135
90
160
150
93,75
150
145
96,66
150
135
90
Bánh kem Xốp
350
400
114,28
400
465
116,2
350
400
114,28
400
350
87,5
450
430
95,53
Bánh Biscuit
155
180
116,12
150
100
66,66
140
130
92,85
170
155
91,17
120
135
112,5
Tổng
800
850
106,25
900
800
97,77
850
850
100
930
850
91,39
950
910
95,78
Tuy nhiên, để đánh giá tình hình tiêu thụ sản phẩm cao cấp, chúng ta nên dùng thước đo giá trị. Bằng cách sử dụng chỉ tiêu giá trị sản lượng, chúng ta có thể loại bỏ được sự tác động của giá cả thị trường đến các chỉ tiêu đánh giá(dùng mức giá cố định ).
Kết quả tiêu thụ sản phẩm cao cấp của công ty có thể được tính trong bảng sau:
Bảng 14. Kết quả tiêu thụ sản phẩm cao cấp của công ty bánh kẹo Hải Châu (đơn vị :tỷ đồng)
Năm
GTSLSPCC
SGTSL
DTSPCC
SDT
GTSLSPCC
SGTSL (%)
DTSPCC
SDT (%)
1998
38,59
92,744
40,723
104,2509233
41,609
39,06
1999
40,3
104,873
42,5049
117,8035433
48,427
35,69
2000
39,15
119,52
42,2367
134,8850571
32,75
31,31
2001
39,505
136,361
43,7412
156,4666662
28,97
27,95
2002
44,275
152
48,3634
183,6918661
29,12
26,32
Trong đó:
Bảng15:Giá trị sản lượng sản phẩm cao cấp theo chủng loại(đơn vị :tỷ đồng)
Tên sp
Năm98
Năm99
Năm2000
Năm2001
Năm2002
KH
TH
KH
TH
KH
TH
KH
TH
KH
TH
1. Kẹo các loại
6,8
7,15
8,5
7,55
8,6
7,9
10,9
8,74
12,3
10,87
Kẹo Caramen
3,2
3,4
4
3,8
4,4
4
5,2
4
6
5,8
Cứng cao cấp
3,6
3,75
4,5
3,75
4,2
3,9
4,95
4,44
4,8
4,17
Sôcôla
0,75
0,3
1,5
0,9
2. Bánh các loại
29,245
31,45
32,85
32,72
30,72
31,25
33,85
30,765
34,8
33,405
Bánh Opera
4,8
4,5
6
5,4
6
5,1
6,3
6
6,9
6,3
Bánh Pettit
4,32
3,84
4,8
4,32
5,12
4,8
4,8
4,64
4,8
4,32
KemXốp
14,7
16,8
16,8
19,53
14,7
16,8
16,8
14,7
18,9
18,06
Biscuit
5,425
6,3
5,25
3,5
4,9
4,55
5,95
5,425
4,2
4,725
3. Tổng sản phẩm cao cấp
36,045
38,59
41,35
40,3
39,32
39,15
44,75
39,505
47,7
44,275
Bảng 16:Doanh thu sản phẩm cao cấp theo chủng loại
Tên sản phẩm
Năm 98
Năm 99
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
KH
TH
KH
TH
KH
TH
KH
TH
KH
TH
1.Kẹo các loại
7,14
7,537
8,925
7,9538
9,03
8,33
11,4075
9,6893
12,915
11,4678
Caramen
3,36
3,587
4,2
3,9976
4,62
4,22
5,46
4,6842
6,3
6,119
Cứng cao cấp
3,78
3,95
4,725
3,9562
4,41
4,11
5,1975
4,6886
5,04
4,3993
Sôcôla
0,75
0,3165
1,575
09495
2.Bánh các loại
30,7072
33,186
34,4925
34,5511
33,536
33,9067
36,8585
34,0519
38,832
36,8956
Opera
5,04
4,7475
6,3
5,697
6,6
5,3805
6,615
6,33
7,245
6,6339
Pettit
4,536
4,0512
5,09
4,5576
5,376
5,064
5,04
4,8952
5,064
4,5619
Kem Xốp
15,435
17,7408
17,64
20,604
16,17
18,48
18,48
16,611
21,735
20,4078
Biscuit
5,6962
6,6465
5,5125
3,6925
5,39
4,9822
6,7235
6,2157
4,788
5,2932
3.Tổng bánh kẹo
37,8472
40,723
43,4175
42,5049
42,566
42,2367
48,266
43,7412
51,747
48,3634
Qua kết quả so sánh trên, chúng ta có thể thấy được giá trị sản lượng của sản phẩm cao cấp luôn luôn < 30% tổng giá trị sản lượng toàn công ty. Trong khi đó, tỷ lệ vốn đầu tư (chỉ tính máy móc thiết bị) để sản xuất sản phẩm này không dưới 70% tổng vốn kinh doanh. Vì thế, chúng ta có thể nhận xét rằng: công ty đã đầu tư quá nhiều vào sản xuất các mặt hàng cao cấp nhưng thực tế giá trị sản phẩm tạo ra không cân xứng với những gì đã hao phí.
Trong những năm gần đây, mặc dù có tốc độ tăng trưởng cao và ổn định nhưng so với những công ty khác thì Hải Châu có thị phần tương đối thấp. Trên thị trường, đặc biệt là thị trường miền Bắc, Hải Châu luôn luôn phải đứng sau một đối thủ cạnh tranh lớn nhất là công ty bánh kẹo Hải Hà. Chúng ta có thể thấy qua bảng so sánh sau:
Bảng 17 : Thị phần sản phẩm cao cấp của công ty bánh kẹo Hải Châu
Năm 1998
Năm 1999
Năm 2000
Năm2001
Năm 2002
HảiChâu
6,23%
6,65%
7,71%
8,51%
9,65%
Hải Hà
11,33%
12,35%
12,99%
13,49%
15,1%
3. Đánh giá chung về thực trạng
3.1. Những ưu điểm
Sản phẩm cao cấp của công ty được sản xuất bằng công nghệ hiện đại vì thế có chất lượng không thua kém gì so với những doanh nghiệp khác, kể cả hàng ngoại nhập. Mặt khác, do tận dụng được nguồn lao động trong nước nên giá cả là tương đối phù hợp với thu nhập của người dân.
3.2. Những tồn tại
Theo số liệu chứng minh, chúng ta có thể thấy tình hình tiêu thụ sản phẩm cao cấp của công ty đang gặp rất nhiều khó khăn. Liên tục trong nhiều năm liền doanh nghiệp không đạt được theo kế hoạch đề ra về cả sản lượng lẫn doanh thu.
Mặt khác, sản phẩm mới (sôcôla) tuy đã ra đời được 2 năm nhưng khách hàng chưa thực sự biết đến, vì thế thiết bị hoạt động không hết công suất.
3.3. Những nguyên nhân
3.3.1. Nguyên nhân khách quan
3.3.1.1. Do ảnh hưởng của văn hoá, xã hội và thói quen tiêu dùng
Văn hoá xã hội, thói quen tiêu dùng là nhân tố có tác động lớn đến khả năng tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Hiện nay, tâm lý của người tiêu dùng khi lựa chọn sản phẩm cao cấp là tập trung vào những sản phẩm có xuất xứ từ nước ngoài. Sở dĩ có sự lựa chọn như vậy vì mục đích tiêu dùng chủ yếu là để biếu, tặng trong những dịp lễ tết...Chính vì vậy mà công tác tiêu thụ sản phẩm cao cấp của công ty trong thời gian qua rất chậm, doanh số bán ra thấp, không đạt được mục tiêu, kế hoạch đề ra.
3.3.1.2. Nguyên vật liệu chủ yếu phải nhập từ nước ngoài
Để sản xuất sản phẩm cao cấp, nguyên liệu chủ yếu công ty phải nhập từ nước ngoài, vì vậy bị phụ thuộc rất nhiều vào nhà cung ứng( cả về giá cả lẫn phương thức thanh toán). Mặt khác, do các thủ tục hành chính của chúng ta quá rườm rà nên việc nhập vật tư gặp nhiều khó khăn gây ảnh hưởng đến việc cung ứng nguyên vật liệu, đôi khi làm lỡ cơ hội kinh doanh.
3.3.1.3. Sức ép từ các đối thủ cạnh tranh trong ngành
Hiện nay, trong xu thế hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, các doanh nghiệp trong nước liên tục đổi mới công nghệ, sản phẩm được nâng cao cả về chất lượng lẫn mẫu mã, bao bì. Một mặt, Hải Châu phải cạnh tranh với những doanh nghiệp đang tồn tại trên thị trường như công ty bánh kẹo Hải Hà, công ty TNHH Kinh Đô, công ty bánh kẹo Tràng An...mặt khác là sự đe doạ gia nhập thị trường của các doanh nghiệp mới. Chính vì vậy, khả năng tiêu thụ sản phẩm nói chung và sản phẩm cao cấp nói riêng của công ty gặp rất nhiều khó khăn.
3.3.2. Nguyên nhân chủ quan
3.3.2.1. Bao bì, mẫu mã không hấp dẫn, không phù hợp
Sản phẩm cao cấp là sản phẩm đòi hỏi rất khắt khe về hình thức, bao bì, nhãn hiệu hàng hoá. Trong một vài năm trở lại đây, bao gói đã được cải tiến nhiều về màu sắc, mẫu mã nhưng chưa có sự hấp dẫn đối với khách mua. Màu sắc của bao gói không mang dáng vẻ riêng của Hải Châu trong khi đó trên thị trờng bánh kẹo có một số công ty đã có màu sắc riêng. Ví dụ: Bao gói màu xanh đậm là sản phẩm của công ty bánh kẹo Quảng Ngãi, màu mận chín là sản phẩm của công ty bánh kẹo Lam Sơn (Thanh Hoá)... Có nhiều ý kiến cho rằng: bao bì một số các sản phẩm socola có màu sắc nhạt không phù hợp với tâm lý chung của khách hàng thích các mầu đậm khi mua sôcôla.
Về qui cách và chất lượng bao gói của công ty Hải Châu cũng có nhiều hạn chế. Bao gói của các đối thủ hầu hết các loại bánh là gói gối (dán kép) trong khay đựng bánh bằng nhựa mỏng không những làm cho gói bánh trở nên vuông cạnh, hấp dẫn mà còn bảo vệ cho bánh không bị vỡ, đồng thời nó làm cho gói bánh trông to hơn, rất thu hút khách hàng. Ngược lại bao gói bánh các loại của công ty Hải Châu dễ vỡ bánh và bị bung các múi dán. Bao gói của các sản phẩm cao cấp khác thường là có để hở một khoảng trống đằng sau túi bánh nhằm tăng thêm độ hấp dẫn đối với sản phẩm thì bao gói của Hải châu thì lại quá kín, vì thế làm giảm lòng tin đối với khách hàng khi lựa chọn sản phẩm.
3.3.2.2. Công tác nghiên cứu thị trường, xúc tiến và thúc đẩy bán hàng triển khai còn chậm
Nghiên cứu thị trường là khâu đầu tiên trong tổ chức hoạt động tiêu thụ nhưng nó là khâu quyết định đến sự thành bại của doanh nghiệp. Một trong những lý do khiến cho khả năng tiêu thụ sản phẩm cao cấp của công ty diễn ra chậm là vì công ty chưa thực sự chú trọng đến công tác nghiên cứu thị trường. Bên cạnh đó, vấn đề xúc tiến bán hàng cũng chưa đi đúng hướng. Trong thời gian gần đây, công ty có chương trình khuyến mãi những chỉ dừng lại ở việc khuyến khích các đại lý cấp 1. Điều đó gây ảnh hưởng không tốt đến tình hình tiêu thụ của công ty bởi các đại lý, vì lợi ích của mình mà mua thật nhiều hàng để hưởng ưu đãi trong khi lại không tiêu thụ được. Còn người tiêu dùng thì chưa được khuyến khích nên vẫn thờ ơ với sản phẩm của doanh nghiệp.
Là một doanh nghiệp có quy mô tương đối lớn trong ngành nhưng hiện nay, công ty bánh kẹo Hải Châu chưa có phòng Marketing riêng biệt. Tất cả các hoạt động từ cung ứng vật tư, lập kế hoạch, tổ chức tiêu thụ đều do một phòng Kế hoạch- vật tư đảm nhiệm. Các hoạt động tiếp thị, nghiên cứu thị trường, quảng cáo diễn ra không thường xuyên, phương thức quảng cáo kém hấp dẫn nên không gây được sự chú ý của người tiêu dùng. Ngoài ra, công ty chưa xây dựng chiến lược kinh doanh dựa trên phân tích sự tác động của môi trường bên ngoài cũng như môi trường bên trong doanh nghiệp. Chính vì vậy, công ty không tạo được cho mình thế chủ động khi tham gia vào thị trường.
3.3.2.3. Giá cả cứng nhắc, không quan tâm đến thị trường.
Trong nền kinh tế thị trường, để kinh doanh thành công, doanh nghiệp phải lấy thị trường làm trung tâm, việc sản xuất cái gì, như thế nào cho ai và giá cả là do thị trường quyết định. Nhưng thực tế ở công ty bánh kẹo Hải Châu, cũng như đa số các doanh nghiệp khác ở Việt Nam thì lại không theo quy tắc đó. Thật vậy, công tác hoạch định giá cả do hai phòng Kế hoạch vật tư và phòng Kế toán tài vụ cùng đảm nhiệm nên khó có thể thay đổi, điều chỉnh kịp theo giá cả thị trường. Không những thế, việc xác định giá cả được công ty xây dựng trên cơ sở chi phí kinh doanh chứ không phải theo giá cả thị trường. Chính vì vậy, sản phẩm cao cấp của công ty không có lợi thế cạnh tranh về giá.
Chương III
Một số giải pháp nhằm nâng cao khả năng tiêu thụ các sản phẩm cao cấp của công ty bánh kẹo hải châu
I. Định hướng phát triển của công ty từ nay đến năm 2005
1. Các chỉ tiêu kế hoạch
Sang năm 2003 và những năm tới, Việt Nam chính thức bước vào tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Đứng trước những cơ hội và thách thức mới, tập thể công ty bánh kẹo Hải Châu đã ra quyết tâm tạo thế chủ động hội nhập kinh tế, không ngừng cải tiến mẫu mã, nâng cao chất lượng sản phẩm.
Dự kiến tới tháng 4 năm 2003, công ty sẽ tung ra thị trờng sản phẩm mới-bánh mềm cao cấp, được sản xuất theo công nghệ tiên tiến của Tây Âu. Trong những năm tới đây, Hải Châu phấn đấu đạt mức tăng trưởng bình quân năm sau cao hơn năm trước 15%. Thu nhập của cán bộ công nhân viên cố gắng duy trì bằng năm 2002 (1,2 triệu đồng/ người/tháng ).
Về hoạt động tiêu thụ, trong những năm tới, công ty tiếp tục phát triển mạng lới phân phối, quảng bá sản phẩm mới đặc biệt là sôcôla và bánh mềm cao cấp - các sản phẩm cao cấp mang tính chiến lược của công ty trong thời gian tới.
1. Về giá trị tổng sản lượng: trong năm 2003, công ty cố gắng đạt trên 170 tỷ đồng, bằng 115% so với năm 2002.
Trong đó giá trị sản lượng sản phẩm cao cấp là: 66,6 tỷ đồng, bằng 141% so với năm 2002.
2. Về doanh thu: trong năm 2003 kế hoạch là : 211,25 tỷ đồng, bằng 115% so với năm 2002.
Trong đó, doanh thu từ các sản phẩm cao cấp là: 76,59 tỷ đồng, bằng 148% so với năm 2002.
Kế hoạch tiêu thụ sản phẩm cao cấp của công ty có thể tóm tắt trong bảng sau:
Bảng 18 : Kế hoạch tiêu thụ sản phẩm cao cấp năm 2003
Tên sản phẩm
Số lượng
Giá trị sản lượng
Doanh thu
Tấn
So với KH 2002 (%)
Tấn
So với KH 2002 (%)
Tỷ
So với KH 2002 (%)
1. Kẹo cao cấp các loại
470
146,87
19
154,47
21,85
169,18
Kẹo Caramen
250
166,67
10
1666,67
11,5
182,53
Kẹo cứng cao cấp
200
125
6
125
6,9
136,9
Sôcôla
20
200
3
200
3,45
219,04
2. Bánh cao cấp các loại
1200
126,31
47,6
136,78
54,74
140,96
Bánh Opera
300
130,43
9
130,43
10,35
142,85
Bánh Petit
200
133,33
6,4
133,33
7,36
145,33
Bánh kem xốp
600
133,33
25,2
133,33
28,98
133,33
Bánh Biscuit
200
166,67
7
166,67
8,05
186,12
Tổng
1670
131,49
66,6
141
76,59
148
2. Những cơ hội
2.1. Nhu cầu về sản phẩm cao cấp ngày càng tăng
Trong những năm gần đây, nền kinh tế nước ta có tốc độ tăng trưởng khá cao và ổn định. Thu nhập của người dân cũng được nâng lên, đời sống được cải thiện. Ngày nay, người tiêu dùng quan tâm nhiều đến chất lượng, hình thức sản phẩm chứ không chú trọng nhiều đến số lượng. Mặt khác, ngày càng có nhiều mối quan hệ xã hội đòi hỏi con người phải “giao tiếp” với nhau và quà biếu đã trở thành cầu nối hữu hiệu. Chính vì vậy, sản phẩm cao cấp là sản phẩm được ưa chuộng nhất.
2.2. Sản phẩm cao cấp của công ty luôn đi trước các đối thủ cạnh tranh
Sản phẩm cao cấp là sản phẩm đòi hỏi công nghệ chế biến cao, quy trình kỹ thuật nghiêm ngặt. Vì thế các doanh nghiệp có quy mô vốn nhỏ, tiềm lực tài chính không đủ mạnh sẽ không giám mạo hiểm đầu tư. Hải Châu là một trong những doanh nghiệp có tiềm lực tài chính dồi dào, lại được hưởng sự ưu đãi về chi phí sử dụng vốn nên luôn đi đầu trong đầu tư đổi mới sản phẩm cũng như có sản phẩm mới tung ra thị trường. Vì thế, trong những giai đoạn đầu của chu kỳ sống sản phẩm, hầu như chưa có đối thủ cạnh tranh.
2.3. Xu thế hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế
Nước ta đang trong giai đoạn hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Hoạt động này sẽ tạo cơ hội xuất khẩu hàng hoá sang các nước lân cận, và tiến xa hơn là thị trường Châu âu cho các doanh nghiệp Việt Nam trong đó có công ty bánh kẹo Hải Châu .
Hiện tại Công ty đã có mối quan hệ vớimột số nước trong khu vực và một số nước Châu Âu nhưng đó chỉ là việc tiếp nhận công nghệ hay nhập nguyên vật liệu còn xuất khẩu sản phẩm chỉ là dự kiến trong tương lai. Trong những năm tới, Công ty đặc biệt quan tâm đến thị trường các nước ASEAN - một thị trường sôi động và đầy tiềm năng.
3. Những nguy cơ
3.1. Cạnh tranh ngày càng gay gắt, đối thủ cạnh tranh xuất hiện ngày càng nhiều
Trên thị trường bánh kẹo hiện nay, các doanh nghiệp đua nhau quảng bá sản phẩm của mình. Hàng loạt các chương trình khuyến mãi, tiếp thị, chiêu khách được các doanh nghiệp thực hiện trên quy mô lớn. Sản phẩm liên tục được đổi mới về cả hình thức lẫn chất lượng, ngày càng thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng. Điều đó có tác dụng thúc đẩy doanh nghiệp phải luôn luôn đổi mới nhưng cũng sẽ là nguy cơ dẫn đến thất bại của nhiều doanh nghiệp nếu như không có chiến lược kinh doanh đúng đắn.
3.2. Khoa học công nghệ được đổi mới không ngừng
Khoa học công nghệ là một yếu tố đầu vào không thể thiếu của mỗi doanh nghiệp. Nó góp phần nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm, từ đó nâng cao khả năng tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Ngày nay, khoa học công nghệ phát triển với tốc độ như vũ bão, con người có khả năng tìm ra những nguồn nguyên liệu mới, vì thế dẫn đến nguy cơ có nhiều sản phẩm thay thế. Chính vì vậy, sản phẩm của doanh nghiệp có thể sẽ bị lạc hậu so với các đối thủ cạnh tranh.
3.3. Sự mất ổn định của nền kinh tế thế giới
Kinh tế thế giới có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động xuất nhập khẩu của mỗi doanh nghiệp và Hải Châu cũng nằm trong số những doanh nghiệp đó. Để sản xuất sản phẩm cao cấp, công ty phải nhập nguyên liệu từ nước ngoài. Mặt khác tình hình thế giới trong tương lai sẽ có nhiều biến động phức tạp ảnh hưởng đến giá cả thị trường, tỷ giá hối đoái. Vì vậy, trong thời gian tới hoạt động cung ứng nguyên vật liệu cho sản xuất sản phẩm cao cấp của công ty sẽ gặp nhiều khó khăn, từ đó nó ảnh hưởng đến tiến độ sản xuất cũng như khả năng tiêu thụ của doanh nghiệp.
II. Những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao khả năng tiêu thụ sản phẩm cao cấp của công ty bánh kẹo hải châu
1. Đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu, dự báo thị trường
Như chúng ta đã biết, nghiên cứu thị trường là khâu đầu tiên và là khâu quan trọng nhất trong công tác tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Mục đích của nghiên cứu thị trường là thu thập được những thông tin chính xác về cung, cầu hàng hoá trên thị trường. Nghiên cứu thị trường một cách nghiêm túc, chính xác là cơ sở để ra các quyết định kinh doanh đúng đắn, cũng như có những chính sách tiêu thụ hợp lý nhằm tận dụng cơ hội, hạn chế nguy cơ đối với doanh nghiệp.
Qua nghiên cứu thực tế ở công ty bánh kẹo Hải Châu, tôi nhận thấy công ty chưa thực sự chú trọng đến hoạt động nghiên cứu thị trường. Là một doanh nghiệp Nhà nước có quy mô sản xuất lớn, lại có hệ thống phân phối trên 61 tỉnh thành trong cả nước nhưng đến nay, công ty vẫn chưa có phòng Marketing riêng. Từ nghiên cứu thị trường, cung ứng vật tư, điều độ sản xuất đến tổ chức tiêu thụ đều do phòng Kế hoạch- vật tư đảm nhiệm. Thực tế đó đã khiến cho việc nắm bắt thông tin về thị trường không chính xác, kịp thời, do đó đã không dự báo được chính xác sự biến động của thị trường.
Như vậy, để tận dụng chuyên môn hoá vào sản xuất kinh doanh, công ty nên thành lập phòng Marketing riêng, tăng cường tổ chức các hoạt động nghiên cứu thị trường dưới nhiều hình thức, đồng thời cần quản lý chặt chẽ các nguồn thông tin từ các đại lý, các chi nhánh, đặc biệt là thông tin từ người tiêu dùng. Kết quả của hoạt động nghiên cứu thị trường sẽ là cơ sơ để doanh nghiệp đưa ra những dự báo chính xác về môi trường kinh doanh trong thời kỳ chiến lược.
2. Xây dựng và lựa chọn chiến lược sản phẩm
Kinh doanh là phải gắn với sản phẩm và thị trường. Chính vì vậy, để nâng cao khả năng tiêu thụ, doanh nghiệp phải xác định được sản phẩm nào nên đưa ra thị trường và vào thời điểm nào là phù hợp. Để xây dựng được một chiến lược phù hợp, doanh nghiệp phải phân tích được điểm mạnh, điểm yếu, cũng như những cơ hội và nguy cơ sẽ xảy ra đối với doanh nghiệp.
Chiến lược kinh doanh dường như là khái niệm mới mẻ đối với công ty bánh kẹo Hải Châu. Bởi cũng như những doanh nghiệp khác trong nền kinh tế quốc dân, công ty chỉ tổ chức công tác kế hoạch theo truyền thống. Việc xây dựng kế hoạch do phòng Kế hoạch- vật tư đảm nhiệm dựa trên cơ sở thông tin từ quá khứ và hiện tại chứ không hề có công tác dự báo. Vì thế công ty không tạo được thế chủ động tấn công trong kinh doanh. Thực tế sản phẩm cao cấp của công ty có khả năng tiêu thụ kém cũng một phần do công ty chưa có chiến lược tiêu thụ riêng cho mặt hàng này.
Để có thể nâng cao khả năng tiêu thụ sản phẩm cao cấp, công ty phải phân đoạn thị trường theo các tiêu thức khác nhau( như theo khu vực địa lý, thu nhập...), từ đó xây dựng và lựa chọn chiến lược phù hợp với từng đoạn thị trường.
3. Không ngừng nâng cao chất lượng, cải tiến mẫu mã
Chất lượng sản phẩm là một trong những lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường, nó có tác dụng tạo cho người tiêu dùng sự tin tưởng khi mua sản phẩm của doanh nghiệp. Nâng cao chất lượng sản phẩm là cách tốt nhất để doanh nghiệp củng cố vị thế của mình trên thị trường. Bên cạnh chất lượng thì mẫu mã, hình thức có vai trò không nhỏ trong việc thu hút sự chú ý của người tiêu dùng.
Thực tế sản phẩm cao cấp của công ty bánh kẹo Hải Châu có chất lượng không thua kém gì các sản phẩm cùng loại khác. Nhưng trong môi trường kinh doanh thường xuyên biến động, doanh nghiệp không nên thoả mãn với những gì đạt được. Sản phẩm của doanh nghiệp có chất lượng cao trong hiện tại nhưng chưa chắc sẽ giữ được vị trí ấy trong tương lai. Vì thế, nâng cao chất lượng sản phẩm là biện pháp lâu dài giúp cho doanh nghiệp duy trì được lợi thế cạnh tranh. Tuy chất lượng được đánh giá cao nhưng mẫu mã, bao gói sản phẩm cao cấp thì có nhiều ý kiến cho rằng nó không phù hợp với thị hiếu, chưa thu hút được sự chú ý của người tiêu dùng.
Để nâng cao chất lượng sản phẩm, công ty phải:
* Đầu tư đổi mới máy móc, thiết bị, áp dụng công nghệ kỹ thuật hiện đại vào sản xuất.
* Nâng cao chất lượng nguyên vật liệu, lựa chọn người cung ứng tốt nhất về giá cả, chất lượng và phương thức thanh toán.
* Thực hiện đúng quy trình công nghệ sản xuất.
* Nâng cao trình độ tay nghề cho người lao động, trình độ quản lý cho các nhà quản trị.
Còn vấn đề mẫu mã, công ty phải thường xuyên thu thập ý kiến của các đại lý, các chi nhánh, người tiêu dùng sản phẩm và hơn nữa là phải tìm hiểu các đối thủ cạnh tranh.
4. Tăng cường tiết kiệm nguyên vật liệu, hạ giá thành sản phẩm.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, giá cả được coi là một trong những lợi thế cạnh tranh của mỗi danh nghiệp. Để nâng cao khả năng tiêu thụ sản phẩm doang nghiệp phải tạo cho mình một lợi thế cạnh tranh so với các doanh nghiệp khác. Hải Châu là một doang nghiệp luôn luôn theo đuổi chính sách định giá thấp. Ưu điểm lớn nhất của chính sách này là có thể cạnh tranh được với những sản phẩm khác cùng loại, tốc độ tiêu thụ nhanh nhưng lợi nhuận thu được thường thấp.
Như chúng ta đã biết, lợi nhuận cho một đơn vị sản phẩm có thể được tính theo công thức sau:
Psp = P - Zsp
Trong đó: Psp : lợi nhuận từ một đơn vị sản phẩm
P: giá bán một đơn vị sản phẩm
Zsp : Giá thành một đơn vị sản phẩm
Từ đó ta thấy lợi nhuận phụ thuộc vào giá bán và giá thành sản phẩm
Vì vậy, để chính sách định giá thấp có thể phát huy hiệu quả thì buộc doanh nghiệp phải tiết kiệm nguyên vật liệu, hạ giá thành sản phẩm. Chỉ có tiết kiệm nguyên vật liệu, hạ giá thành sản phẩm mới có thể tăng lợi nhuận cho Công ty. Do nguyên vật liệu để sản xuất sản phẩm cao cấp chủ yếu phải nhập khẩu từ nước ngoài nên để tránh lãng phí doanh nghiệp phải lựa chọn được nguồn cung ứng tốt nhất cả về giá cả, phương thức thanh toán và tốc độ cung ứng. Bên cạnh đó Công ty phải xây dựng kế hoạch dự trữ tối ưu đảm bảo cho sản xuất không bị gián đoạn hay dư thừa gây lãng phí.
5. Tăng cường hoạt động quảng cáo, hỗ trợ và xúc tiến tiêu thụ
Quảng cáo là hình thức truyền thông không trực tiếp nhằm giới thiệu sản phẩm của doanh nghiệp trên thị trường. Tổ chức tốt công tác quảng cáo là góp phần vào việc nâng cao khả năng tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Bên cạnh công tác quảng cáo thì hoạt động hỗ trợ và xúc tiến tiêu thụ cũng đóng vai trò không nhỏ đối với công tác tiêu thụ.
Thực tế ở công ty bánh kẹo Hải Châu, lợi thế của công tác quảng cáo chưa được khai thác. Hầu như công ty chưa có một chiến dịch quảng cáo nào có tầm cỡ, gây được sự chú ý của người tiêu dùng. Còn hoạt động khuyến mãi thì chỉ dừng lại ở các đại lý cấp1. Trong năm 2002 vừa qua, để thúc đẩy tiêu thụ sôcôla, công ty đã có chính sách chiết khấu 20% cho người mua trực tiếp,10% cho người môi giới đối với những hợp đồng trị giá từ 2 triệu đồng trở lên. Nhờ biện pháp này mà sản phẩm sôcôla được tiêu thụ làm tăng thêm cho doanh thu của công ty.
Vì vậy, để nâng cao khả năng tiêu thụ các sản phẩm cao cấp, công ty phải tổ chức các hoạt động quảng cáo và một trong những phường tiện phổ biến hiện nay là quảng cáo trên truyền hình. Hơn nữa, để phát huy tác dụng của quảng cáo, công ty phải lựa chọn thời điểm phù hợp như dịp lễ tết, những ngày quan trọng như Noel, Valentine...cùng với hình ảnh, màu sắc, âm thanh hấp dẫn. Bên cạnh đó, công ty nên có chính sách khuyến mãi đối với người tiêu dùng trực tiếp như quà tặng, phiếu rút thăm trúng thưởng...
6. Không ngừng củng cố và mở rộng hệ thống phân phối
Hệ thống phân phối có chức năng đưa sản phẩm từ nhà sản xuất đến tay người tiêu dùng đồng thời cũng đưa lại những thông tin phản hồi từ người tiêu dùng đến nhà sản xuất. Để đẩy mạnh hoạt động tiêu thụ, doanh nghiệp phải tổ chức tốt các kênh phân phối, tận dụng tối đa vai trò của chuyên môn hoá trong kinh doanh.
Công ty bánh kẹo Hải Châu là một doanh nghiệp có quy mô lớn, hiện nay công ty có khoảng 400 đại lý trên khắp mọi miền đất nước. Do vậy, quản lý hệ thống phân phối là một công việc không đơn giản. Mặt khác, công ty chủ yếu sử dụng kênh phân phối gián tiếp. Tuy có ưu điểm là tăng vòng quay của vốn, tốc độ cung ứng nhanh nhưng nhược điểm lớn nhất là thu thập thông tin phản hồi chậm, sự kiểm soát của công ty đối với các đại lý không chặt chẽ, có thể gây gian lận, các đại lý có thể cạnh tranh lẫn nhau. Vì thế, công ty phải không ngừng tăng cường công tác kiểm tra tình hình hoạt động của các đại lý và nên có chính sách ưu đãi, chiết khấu hợp lý đối với họ.
7. Kiến nghị về phía Nhà nước.
Sản phẩm cao cấp có thể nói là sản phẩm mới trên thị trường bánh kẹo Việt nam. Để sản xuất loại sản phẩm này, chi phí đầu tư là rất lớn nên yêu cầu Chính phủ có những chính sách ưu đãi nhất định đối với các doanh nghiệp trong việc nhập khẩu máy móc thiết bị, dây truyền sản xuất cũng như tạo một cơ chế hành chính gọn nhẹ giúp doang nghiệp có thể giảm thiểu được chi phí đầu tư.
Bên cạnh đó, việc sản xuất sản phẩm cao cấp phụ thuộc rất nhiều vào nguồn cung ứng nguyên vật liệu từ nước ngoài. Hiện nay, thuế nhập khẩu nguyên vật liệu còn ở mức cao vì vậy đề nghị với Nhà nước cần giảm thuế nhập khẩu để khuyến khích sản xuất đối với doanh nghiệp trong nước. Mặt khác, trên thị trường hiện xuất hiện nhiều loại sản phẩm cao cấp nhập khẩu từ nước ngoài. Để khuyến khích sản xuất trong nước, Nhà nước cần có chính sách bảo hộ, điều phối hàng ngoại nhập thông qua hạn ngạch và kiểm tra chặt chẽ để tránh tình trạng nhập lập, làm hàng giả, hàng kém chất lượng.
Kết luận
Có thể nói tiêu thụ sản phẩm là một bài toán luôn luôn cần lời giải của bất cứ doanh nghiệp nào kinh doanh trên thị trường, dù doanh nghiệp đó mới thâm nhập thị trường hay đang trên đà phát triển.
Sự chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước đã tạo ra nhiều cơ hội cũng như thách thức đối với các doanh nghiệp Việt nam mà đặc biệt là các doanh nghiệp Nhà nước. Công ty bánh kẹo Hải Châu là một trong những doanh nghiệp Nhà nước từ lâu đã khẳng định được vị trí của mình trên thị trường, sản phẩm của Hải châu giừ đây đã có mặt trên khắp mọi miền đất nước. Ngày nay, khi thu nhập của người dân tăng lên, đời sống được nâng cao rõ rệt thì nhu cầu thưởng thức bánh kẹo cũng theo đó mà thay đổi. Người tiêu dùng ngày càng quan tâm đến những sản phẩm cao cấp - một loại sản phẩm ít được các doanh nghiệp trong nước chú ý. Hải châu vốn là một doanh nghiệp năng động, đi trước đón đầu nên đã phát hiện ra những thay đổi về nhu cầu đó của người tiêu dùng. Trong những năm gần đây, Hải châu đặc biệt coi trọng công tác sản xuất cũngnhư tiêu thụ sản phẩm cao cấp - sản phẩm mang tính chiến lược của Công ty trong thời gian tới.
Bằng sự nỗ lực của tập thể cán bộ cũng như của người lao động, sản phẩm cao cấp của Hải châu đã từng bước thâm nhập vào thị trường. Nhưng hiện nay, công tác tiêu thụ sản phẩm cao cấp của Công ty đang gặp nhiều khó khăn đòi hỏi tập thể lãnh đạo phải có những giải pháp đông bọ nhằm hạn chế điểm yếu phát huy thế mạnh nâng cao khả năng tiêu thụ sản phẩm cao cấp. Những vấn đề đó đã được trình bày trong chuyên đề “Nâng cao khả năng tiêu thụ sản phẩm cao cấp của Công ty bánh kẹo Hải châu”.
Để có thể hoàn thành chuyên đề này, em xin ghi nhận và tỏ lòng biết ơn đến thầy giáo Phạm Văn Minh - Người đã tận tình hướng dẫn em trong suốt quá trình thực tập. Đồng thời xin gửi lời cảm ơn chân thành đến tập thể cán bộ Phòng Kế hoạch vật tư Công ty bánh keọ Hải Châu đã giúp đỡ em hoàn thành chuyên để này.
Do khả năng còn hạn chế nên chuyên đề không tránh khỏi thiếu sót, rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của thầy giáo và bạn đọc.
Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình quản trị kinh doanh tổng hợp tập 1 + tập 2 (NXB Hà nội 1997) - GSTS Ngô Đình Giao
2. Giáo trình chiến lược kinh doanh và phát triển doanh nghiệp (NXB Hà nội 2002) - PGSTS Nguyễn Thành Độ và TS Nguyễn Ngọc Huyền.
3. Giáo trình Marketting (NXB Hà nội 1999) - PGS.TS Trần Minh Đạo.
4. Giáo trình kinh tế học vi mô - GS.TS Ngô Đình Giao.
5. Giáo trình kinh tế quản lý - GS.TS Ngô Đình Giao
6. Báo cáo kết quả kinh doanh của Công ty bánh kẹo Hải châu từ năm 1998 - 2002.
7. Giáo trình Kinh tế vĩ mô (NXB giáo dục 1997)
8. Giáo trình Marketting công nghiệp (NXB thống kê 1994) - Robet Kotler.
9. Các tạp chí kinh tế khác.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 9469.doc