Những yếu tố trên, đặc trưng của quá trình toàn cầu hóa, đã làm cho hội nhập kinh tế quốc tế trở thành một trào lưu, một xu thế tất yếu. Bất cứ một nền kinh tế nào muốn không bị gạt ra ngoài lề của dòng chảy phát triển, đều phải nỗ lực hội nhập vào xu thế chung, điều chỉnh chính sách, mở cửa thị trường thông qua cắt giảm thuế quan và dỡ bỏ rào cản phi thuế quan, làm cho việc trao đổi hàng hóa, luân chuyển vốn, lao động, công nghệ và kỹ thuật trên phạm vi thế giới ngày càng tự do, thông thoáng hơn.
48 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1197 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nâng cao năng lực cạnh tranh của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ệt Nam và ngân hàng nước ngoài trên lãnh thổ Việt Nam.
2.3.THỰC TRẠNG VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA HỆ THỐNG NHTM VIỆT NAM.
Thực trạng về năng lực tài chính.
Vốn chủ sở hữu
Bảng 1: Quy mô vốn chủ sở hữu của các NHTM Việt Nam
Đơn vị: tỷ đồng
Năm
Nhóm NH
Năm 2002
2006
Mức tăng bình quân 2006/2000
(lần)
Tổng Số vốn
Chủ sở
Hữu
Số NH
Bình quân 1 NH
Tổng Số vốn
Chủ sở
Hữu
Số
NH
Bình quân 1 NH
1.NHTM Nhà nước
6670
5
1334
18397
5
3680
2.75
2.NHTM cổ phần
-NHTM cổ phần đô thị
-NHTM CP nông thôn
2450
98
48
27
21
91
4.6
5958
358
33
22
11
271
32.5
2.97
7.70
3.Ngân hàng L.Doanh
1152
4
288
1378
4
344
1.20
4. C.Nhánh NH nước ngoài
5720
25
240
6952
28
260
1.08
Tổng cộng
16090
33043
(Nguồn: NHNN Việt Nam)
Nhóm NHTM nhà nước.
Quy mô vốn của một NHTM nhà nước còn quá nhỏ bé, không so sánh được với các NHTM nước ngoài có chi nhánh ở Việt Nam.
Việc tăng vốn chủ sở hữu chỉ làm tăng vốn danh nghĩa là chính.
Trong tương lai, khả năng ngân sách nhà nước bổ sung vốn chủ sở hữu cho các NHTM Nhà nước là rất hạn hẹp.
Triển vọng tăng vốn điều lệ hạn chế kéo theo sự giám năng lực cạnh tranh của các NHTM Nhà nước.
Nhóm NHTM cổ phần.
Vốn chủ sở hữu liên tục tăng nhưng quy mô rất nhỏ bé.
Các NHTM cổ phần tăng quy mô vốn bằng chính thực lực của mình và còn nhiều khả năng tăng vốn.
Mặc dù có xu thế phát triển quy mô vốn chủ sở hữu nhưng trong giai đoạn trước mắt, năng lực tài chính chưa thoát khỏi tình trạng khó khăn.
Nhóm ngân hàng liên doanh.
Việc tăng vốn góp của các ngân hàng liên doanh phụ thuộc khả năng tài chính của các ngân hàng mẹ.
Nhóm chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
Nhóm ngân hàng này có năng lực tài chính tiềm tàng, là đối thủ cạnh tranh chủ yếu của các NHTM Việt Nam trên thị trường trong nước và quốc tế.
Khả năng phòng ngừa chống đỡ rủi ro.
Về rủi ro: Được đánh giá qua tiêu thức nợ quá hạn. Qua phân tích về tỷ lệ nợ quá hạn của các ngân hàng Việt Nam và kết quả xử lý nợ tồn đọng, nhóm NHTM có tỷ lệ nợ quá hạn thấp nhất là nhóm các ngân hàng liên doanh và nhóm ngân hàng nước ngoài, từ đó cho thấy, giữa các NHTM Việt Nam và nhóm ngân hàng nước ngoài có sự chênh lệch rất lớn về chất lượng tín dụng.
Bảng 2: Tỷ lệ nợ quá hạn của các ngân hàng Việt Nam (%)
Đơn vị: %
Nhóm
NH
Năm 2002
Năm 2003
Năm 2004
Năm 2005
Năm 2006
(1)
(2)
(1)
(2)
(1)
(2)
(1)
(2)
(1)
(2)
NHTMNN
11.43
4.72
8.83
1.98
7.62
2.22
5.13
2.34
2.90
2.08
NHTMCP
21.67
14.85
15.48
11.72
10.43
6.65
6.44
4.59
3.80
2.88
NHLD&N.
ngoài
1.29
0.71
0.62
0.42
0.55
0.43
0.15
0.15
0.13
0.13
Toàn hệ
Thống NH
10.09
5.12
8.52
2.79
7.23
2.56
4.86
2.44
2.88
2.09
(Nguồn: NHNH Việt Nam)
- Về dự phòng rủi ro: Chi phí dự phòng rủi ro được lập để xử lý nợ quá hạn mất vốn không đủ khả năng xử lý. Điều này một mặt do quy định vê mức trích lập dự phòng rủi ro, mặt khác do khả năng trích lập dự phòng rủi ro của các NHTM hạn chế vì khả năng chênh lệch giữa tổng thu nhập và tổng chi phí luôn ở mức rất thấp
- Về khả năng đảm bảo thanh toán và an toàn hệ thống: Nhìn chung, khả năng thanh toán ngay của các ngân hàng thương mại Việt Nam còn thấp. Rủi ro tiềm ẩn dẫn đến mất an toàn không chỉ cho từng ngân hàng mà còn nguy cơ cho cả hệ thống tương đối cao.
Khả năng sinh lời.
Phân tích mức sinh lời của các NHTM Việt Nam và khả năng sinh lời của NHTM một số nước trong khu vực, thì ROE của các ngân hàng Việt Nam chênh lệch không nhiều, ROA thì chênh lệch quá lớn, khả năng sinh sinh lời trên tổng tài sản có thấp cho thấy hiệu quả sử dụng tài sản của các NHTM Việt Nam thấp.
Bảng 3: Mức sinh lời của NHTM Việt Nam (%)
Ngân hàng
2002
2003
2004
2005
ROE
ROA
Vtc/Tts
ROE
ROA
Vtc/Tts
ROE
ROA
Vtc/Tts
ROE
ROA
Vtc/Tts
NHCT Việt Nam
8.1
0.3
27.00
9.1
0.2
41.50
6.7
0.2
29.22
6.23
0.24
25.96
NHCPNT Việt Nam
9.6
0.4
24.00
14.0
0.6
23.33
16.2
0.4
40.50
18.80
0.09
20.89
NHĐT&PT Việt Nam
6.5
0.3
21.67
21.7
0.4
54.25
13.5
0.4
33.75
10.60
0.45
23.56
NHNo&PTNT Việt Nam
14.6
0.8
18.25
15.2
0.4
38.00
7.4
0.3
24.67
6.78
0.24
28.25
Bình quân khối NHTM
12.85
0.36
35.69
15.85
0.38
41.71
9.43
0.3
31.43
9.79
0.39
25.10
Bình quân NHTM CPĐT
9.47
11.77
16.49
16.86
(*)
(Nguồn: Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam, tổng hợp số liệu báo cáo của NHCT Việt Nam)
Thực trạng năng lực hoạt động của các NHTM Việt Nam.
Khả năng huy động vốn.
Bảng 4: Thị phần huy động vốn của các NHTM.
Đơn vị: %
Nhóm NHTM
2002
2003
2004
2005
2006
NHTM Nhà nước
73
78.7
78.7
78.1
74.7
NHTMCP
11.5
10.8
11.3
11.3
13.8
NHLD và CNNN
14.5
9.3
8.8
9.2
9.9
Các TCTD phi NH
1.0
1.2
1.4
1.4
1.6
Tổng số
100
100
100
100
100
(Nguồn: NHNN Việt Nam)
Về thị phần huy động: các NHTM nhà nước luôn giữ thị phần lớn nhất trong nhiều năm (trên 70%); trong khi đó nhóm các NHTM cổ phần chỉ trên dưới 10%/ năm; nhóm các ngân hàng liên doanh và Chi nhánh ngân hàng nước ngoài thị phần còn nhỏ do bị giới hạn bởi phạm vi và quy mô huy động và không có mạng lưới cơ sở.
Về thực trạng mức tăng huy động vốn: năng lực huy động vốn của các NHTM Việt Nam là cao và vẫn còn nhiều triển vọng, những sẽ có sự cạnh tranh mẽ hơn khi một số các quy định được nới nỏng.
Bảng 5: Mức tăng trưởng huy động vốn của NHTM
Đơn vị: %
Khối ngân hàng
2002
2003/
2002
2004/
2003
2005/
2004
2006/
2005
BQ
1. NHTM Nhà nước
100
127
123
164
118
33
2. NHTMCP
100
118
128
164
152
40
3. NHLD và CNNN
100
122
118
155
131
31
(Nguồn: Tính theo báo cáo hàng năm của NHNN Việt Nam)
Hệ số đòn bẩy huy động vốn: Là tỷ lệ so sánh giữa tổng tài sản nợ với vốn chủ sở hữu. các NHTM nhà nước hoạt động dựa trên nguồn vốn huy động là chính, trong khi khả năng tăng vốn tự có còn gặp khó khăn, nên tiềm ẩn rủi ro hệ thống cao. Vấn đề an toàn trở nên bức thiết đối với các NHTM Việt Nam trong việc tăng vốn chủ sở hữu để nâng cao khả năng cạnh tranh.
Bảng 6: Đòn bẩy huy động vốn của NHTM Việt Nam (Số lần)
Nhóm NHTM
2002
2004
2005
2006
1. NHTM Nhà nước
40.0
31.5
28.0
27.5
2. NHTMCP
15.4
15.7
16.2
15.5
3. NHLD và CNNN
6.2
6.7
7.5
9.4
Toàn ngành
19.7
21.0
20.8
20.5
(Nguồn: Tập hợp từ các báo cáo của các NHTM)
Năng lực tín dụng và đầu tư.
Năng lực tín dụng: tỷ trọng thị phần của các NHTM nhà nước lớn hơn hẳn so với các nhóm ngân hàng khác (trên 70%), tuy nhiên, thị phần của nhóm này đang có xu hướng giảm dần, trong khi thị phần của nhóm NHTM cổ phần (trên dưới 10%) có xu hướng tăng lên. Rủi ro tín dụng của nhóm các NHTM trong nước cao hơn hẳn so với các ngân hàng liên doanh và chi nhánh ngân hàng nước ngoài
Năng lực cho thuê tài chính của các NHTM còn yếu, dự báo mức độ cạnh tranh trên thị trường cho thuê tài chính trong vài năm tới là chưa đáng kể.
Năng lực đầu tư tài chính của các NHTM Việt Nam còn kém ưu thế do hạn chế về khả năng tài chính và kinh nghiệm.
Năng lực phát triển dịch vụ.
Mở tài khoản thanh toán: Hiện nay, các ngân hàng thương mại trong nước có quan hệ tín dụng với hầu hết các doanh nghiệp trong nước nên nắm giữ tuyệt đối tài khoản thanh toán của nhóm khách hàng này, tuy nhiên, các NHTM trong nước sẽ bị sức ép cạnh tranh mạnh mẽ từ các đối tác nước ngoài về thị phần dịch vụ tài khoản cá nhân.
Dịch vụ thanh toán quốc tế: Hiện tại hầu hết ngân hàng nhà nước và một số ít NHTM cổ phần được thực hiện thanh toán quốc tế, trong đó chủ yếu là phương thức tín chứng từ và chuyển tiền. So với các ngân hàng nước ngoài thì NHTM Việt Nam sẽ bị sức ép mạnh trong quá trình cạnh tranh do dịch vụ này là lợi thế của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
Thẻ thanh toán:
Khả năng thu hút đối tượng sử dụng thẻ quốc tế thuộc nhóm ngân hàng nước ngoài, còn các NHTM trong nước sẽ có cơ hội phát triển thị phần thẻ nội địa.
Khả năng xây dựng mạng lưới cơ sở chấp nhận thẻ tăng lên thì đây là cơ hội tốt để các NHTM trong nước xây dựng mạng lưới chấp nhận thẻ rộng rãi.
Khả năng đầu tư xây dựng mạng lưới giao dịch: Nhờ có khả năng về tài chính, công nghệ tin học và kinh nghiệm nên lợi thế thuộc về nhóm ngân hàng nước ngoài, tuy nhiên nhóm ngân hàng sẽ gặp hạn chế về địa bàn giao dịch và địa điểm đặt ATM. Tuy nhiên, quá trình hội nhập sẽ tạo áp lực cạnh tranh cho các ngân hàng nước ngoài.
Thực trạng về tổ chức bộ máy, quản trị điều hành.
Về tổ chức bộ máy.
Khả năng nguồn nhân lực: Phân tích cơ cấu lao động theo trình độ chuyên môn thì các NHTM trong nước còn thấp xa so với các ngân hàng nước ngoài; nhóm ngân hàng liên doanh và ngân hàng nước ngoài cũng có chất lượng lao động khá do nguồn tuyển dụng chặt chẽ, lại được đào tạo thường xuyên, luôn được tiếp cận công nghệ hiện đại và ít có màng lưới ở vùng chưa có điều kiện phát triển.
Bộ máy tổ chức- mô hình quản lý: Các NHTM Việt Nam gặp khó khăn về mô hình quản lý và bộ máy tổ chức do màng lưới rộng theo địa giới hành chính, năng lực nhân viên chưa sẵn sàng đáp ứng mô hình ngân hàng hiện đại,
Về quản trị tài sản.
Quản trị tài sản có: Việc quản trị rủi ro tại các NHTM Việt Nam còn kém hiệu quả; dịch vụ phi tín dụng chưa phát triển; các NHTM Việt Nam còn sử dụng vốn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn ở mức thiếu an toàn.
Quản trị tài sản nợ: Việc quản trị tài sản nợ tại các NHTM Việt Nam trong thời gian qua đã bộc lộ nhiều bất cập, như: An toàn nguồn vốn rất thấp, việc quản lý vốn khả dụng chưa được quản lý theo mô hình trực tuyến, việc hình thành thương hiệu riêng về sản phẩm huy động vốn chưa thật hiệu quả.
Khả năng phối kết hợp của các ngân hàng trong nước: Các ngân hàng chưa có sự đồng thuận, hợp tác, còn chú trọng đến lợi ích riêng, thiếu quan tâm cần thiết đến lợi ích của toàn hệ thống.
Năng lực công nghệ thông tin, tin học ngân hàng.
Khả năng cạnh tranh của các NHTM trong nước về phương diện công nghệ còn thua kém nhiều so với nhóm ngân hàng nước ngoài.
2.4. ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA HỆ THỐNG NHTM VIỆT NAM.
Việc gia nhập WTO đã mở ra những cơ hội phát triển mới cho thị trường tài chính Việt Nam. Tuy nhiên, bên cạnh đó, đầu tư trong lĩnh vực tài chính – ngân hàng cũng đặt ra nhiều thách thức và rủi ro đối với các ngân hàng thương mại của Việt Nam.
Trong một hai năm trở lại đây, hoạt động kinh doanh tiền tệ - ngân hàng của Việt Nam phát triển mạnh mẽ, bên cạnh những mặt đạt được còn không ít những hạn chế mà hệ thống ngân hàng của Việt Nam đã bộc lộ. Tính hấp dẫn của kinh doanh tiền tệ - ngân hàng được đánh giá là cao hơn so với các ngành kinh tế khác. Lợi nhuận trên vốn tự có của nhiều ngân hàng đạt 9 – 10%, cao hơn nhiều so với mức 1- 2% của ngành công nghiệp.
Từ thực tiễn cạnh tranh của các NHTM Việt Nam trong xu thế hội nhập có thể đưa ra một số đánh giá như sau.
Điểm mạnh của các ngân hàng trong nước.
Trước hết là mạng lưới. Các NHTM trong nước có một mạng lưới rộng khắp thông qua các chi nhánh và sở giao dịch.
Thứ hai, các ngân hàng trong nước đã thiết lập được mối quan hệ với các hệ thống các khách hàng. Mỗi ngân hàng đã có hệ thống khách hàng truyền thống để chăm sóc và rằng buộc bởi nhiều mối quan hệ từ nhiều năm, đặc biệt là khối các ngân hàng thương mại nhà nước.
Thứ ba, với thâm niên hoạt động của mình, các ngân hàng nội địa rất am hiểu tập quán phong tục, tâm lý khách hàng Việt Nam. Đây là một lợi thế trong việc chăm sóc khách hàng.
Điểm hạn chế của các ngân hàng trong nước.
Thứ nhất: Yếu điếm lớn nhất đối với ngân hàng thương mại Việt Nam ở nội lực của chính các ngân hàng, với quy mô vốn nhỏ, nguồn nhân lực hạn chế, trình độ công nghệ còn chậm tiến so với các nước trong khu vực.
Mặc dù vốn điều lệ của các ngân hàng đã tăng mạnh so với trước đây nhưng còn nhỏ bé so với thế giới và khu vực. Mức vốn tự có trung bình của một ngân hàng thương mại Nhà nước là 4.200 tỷ đồng, tổng mức vốn tự có của 5 ngân hàng thương mại Nhà nước chỉ tương đương với một ngân hàng cỡ trung bình trong khu vực. Hệ thống ngân hàng thương mại quốc doanh chiếm đến trên 75% thị trường huy động vốn đầu vào và trên 73% thị trường tín dụng
Trong khi đó, hệ số an toàn vốn bình quân của các ngân hàng thương mại Việt Nam thấp (dưới 5%), chưa đạt tỷ lệ theo yêu cầu của Ngân hàng Nhà nước và thông lệ quốc tế (8%). Chất lượng và hiệu quả sử dụng tài sản Có thấp (dưới 1%), lại phải đối phó với rủi ro lệch kép là rủi ro kỳ hạn và rủi ro tỷ giá.
Theo nghiên cứu của các chuyên gia ngân hàng nếu trích lập đầy đủ những khoản nợ khó đòi thì vốn tự cho của nhiều ngân hàng thương mại Việt Nam, nhất là ngân hàng thương mại Nhà nước, ở trong tình trạng âm.
Thứ hai: Hệ thống dịch vụ ngân hàng trong nước còn đơn điệu, chất lượng chưa cao, chưa định hướng theo nhu cầu khách hàng và nặng về dịch vụ ngân hàng truyền thống. Các ngân hàng huy động vốn chủ yếu dưới dạng tiền gửi chiếm 94% tổng nguồn vốn huy động và cấp tín dụng là hoạt chủ yếu của ngân hàng, chiếm trên 80% tổng thu nhập.
Do không thể đa dạng hóa các loại hình dịch vụ ngân hàng đã khiến các ngân hàng thương mại Việt Nam chủ yếu dựa vào công cụ lãi suất để cạnh tranh thu hút khách hàng. Tuy nhiên, công cụ này cũng chỉ có tác dụng ở mức giới hạn nhất định”.
Tình hình nợ xấu vẫn có xu hướng giảm nhưng chưa chắc chắn, trong đó đáng chú ý là các tổ chức tín dụng nhà nước. Một số nguyên nhân dẫn đến tình trạng nợ quá hạn gia tăng tại các ngân hàng thương mại quốc doanh là do: Việc cho vay chủ yếu dựa vào tài sản đảm bảo, trong khi thị trường bất động sản và thị trường hàng hóa chưa phát triển và còn nhiều biến động phức tạp; tự do hóa lãi suất có xu hướng làm cho mặt bằng lãi suất trong nước tăng lên, tạo điều kiện thu hút thêm tiết kiệm vào hệ thống ngân hàng.
Tuy nhiên, lãi suất tiền gửi tăng lên làm cho lãi suất cho vay cũng tăng, tạo thêm gánh nặng về chi phí cho các doanh nghiệp phụ thuộc nặng nề vào nguồn vay từ ngân hàng. Hậu quả là, ngân hàng vẫn tiếp tục cho vay để nuôi nợ, dẫn đến tình trạng mất vốn ngày càng lớn.
Một điểm nữa: Của thị trường tài chính nước ta là, cơ cấu hệ thống tài chính còn mất cân đối, hệ thống ngân hàng vẫn là kênh cung cấp vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế chủ yếu. Tính chung cả nội tệ và ngoại tệ, thì số vốn vay huy động ngắn hạn chuyển cho cho vay trung và dài hạn chiếm tới khoản 50% tổng số vốn huy động ngắn hạn.
Việc sử dụng vốn cho vay trung và dài hạn ở nước ta hiện nay tới 50% là quá cao, nếu duy trì quá lâu sẽ là yếu tố gây rủi ro lớn và có nguy cơ gây ra thiếu an toàn cho toàn bộ hệ thống.
CHƯƠNG 3
GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA HỆ THỐNG NHTM VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2010.
3.1. ĐỊNH HƯỚNG NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA NHTM VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2010.
3.1.1. Mục tiêu tổng quát.
Đến năm 2010, về cơ bản, hoàn thành cơ cấu lại NHTM Việt Nam; các NHTM Việt Nam phải khẳng định được khả năng cạnh tranh bình đẳng với các ngân hàng nước ngoài.
Cải cách căn bản, triệt để và phát triển toàn diện hệ thống các TCTD theo hướng hiện đại, hoạt động đa năng để đạt trình độ phát triển trung bình tiên tiến trong khu vực ASEAN với cấu trung đa dạng về sở hữu, về loại hình TCTD, có quy mô hoạt động lớn hơn, tài chính lạnh mạnh, đồng thời tạo nền tảng đến sau năm 2010 xây dựng được hệ thống các TCTD hiện đại, đạt trình độ tiên tiến trong khu vực Châu Á, đáp ứng đầy đủ các chuẩn mực quốc tế về hoạt động ngân hàng, có khả năng cạnh tranh với các ngân hàng trong khu vực và trên thế giới. Bảo đảm các TCTD, kể các TCTD nhà nước hoạt động kinh doanh theo nguyên tắc thị trường và vì mục tiêu chủ yếu là lợi nhuận. Phát triển hệ thống TCTD hoạt động an toàn và hiệu quả vững chắc dựa trên cơ sở công nghệ và trình độ quản lý tiên tiến, áp dụng thông lệ, chuẩn mực quốc tế về hoạt động ngân hàng thương mại. Phát triển các TCTD phi ngân hàng để góp phần phát triển hệ thống tài chính đa dạng và cân bằng hơn. Phát triển và đa dạng hóa các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng, đặc biệt là huy động vốn, cấp tín dụng, thanh toán với chất lượng cao và màng lưới phân phối phát triển hợp lý nhằm cung ứng đầy đủ, kịp thời, thuận tiện các dịch vụ, tiện ích ngân hàng cho nền kinh tế trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Hình thành thị trường dịch vụ ngân hàng, đặc biệt là thị trường tín dụng cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng giữa các loại hình tổ chức tín dụng, tạo cơ hội cho mọi tổ chức, cá nhân có nhu cầu hợp pháp, đủ khả năng và điều kiện được tiếp cận một cách thuận lợi các dịch vụ ngân hàng. Ngăn chặn và hạn chế mọi tiêu cực trong hoạt động tín dụng.
Tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại hệ thống ngân hàng. Tách bạch tín dụng chính sách và tín dụng thương mại trên cơ sở phân biệt chức năng cho vay của ngân hàng chính sách với chức năng kinh doanh tiền tệ của ngân hàng thương mại. Bảo đảm quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức tín dụng trong kinh doanh. Tạo điều kiện cho các TCTD trong nước nâng cao năng lực quản lý, trình độ nghiệp vụ và khả năng cạnh tranh. Bảo đảm quyền kinh doanh của các ngân hàng và các tổ chức tín dụng tài chính nước ngoài theo các cam kết của Việt Nam với quốc tế. Gắn cải cách ngân hàng với cải cách doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhà nước. Tiếp tục củng cố, lành mạnh hóa và phát triển các ngân hàng cổ phần; ngăn ngừa và sử lý kịp thời, không để xẩy ra đổ vỡ ngân hàng ngoài sự kiểm soát của NHNN đối với các TCTD yếu kém. Đưa hoạt động của quỹ tín dụng nhân dân đi đúng hướng và phát triển vững chắc, an toàn, hiệu quả.
Phương châm hành động của các TCTD là "an toàn – hiệu quả - phát triển bền vững- hội nhập quốc tế"
Một số chỉ tiêu tiền tệ và hoạt động ngân hàng giai đoạn 2006-2010.
1
Lạm phát(%/ năm)
Thấp hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế
2
Tăng trưởng bình quân tổng phương tiện thanh toán (M2) (%/năm)
18- 20
3
Tỷ lệ M2/GDP đến cuối năm 2010(%)
100 -115
4
Tỷ trọng tiền mặt lưu thông ngoài hệ thống ngân hàng/ M2 đến năm 2010(%)
Không quá 18
5
Tăng trưởng bình quân tín dụng (%/năm)
18 - 20
6
Tỷ lệ an toàn vốn đến năm 2010(%)
Không dưới 8
7
Tỷ lệ nợ xấu/ tổng dư nợ đến năm 2010 (%)
Dưới 5
8
Chuẩn mực giám sát ngân hàng đến năm 2010
Chuẩn mực quốc tế (Basell)
9
Dự trữ quốc tế tối thiểu đến năm 2010
12 tuần nhập khẩu
Một số ngân hàng thương mại đạt mức vốn tự có tương đương 800- 1000 triệu USD đến năm 2010, có thương hiệu mạnh và khả năng cạnh tranh quốc tế. Phấn đấu hình thành được ít nhất một tập đoàn tài chính hoạt động đa năng trên thị trường tài chính trong và ngoài nước.
Các mục tiêu cụ thể.
Mục tiêu tăng năng lực tài chính.
Vốn tự có: Đến năm 2010, NHTM Việt Nam cần tăng tỷ lệ vốn tự có và tổng tài sản Có điều chỉnh theo mức độ rủi ro phải đạt 8%.
Khả năng sinh lời: Phấn đấu sau năm 2010, các NHTM lớn của Việt Nam đạt ROA bình quân là 1% và ROE bình quân là 15%.
Nợ xấu: Đến nay các NHTM Việt Nam xóa cơ bản nợ quá hạn trước thời điểm 31/12/2000. Đến năm 2010, các chỉ tiêu nợ xấu của NHTM Việt Nam xác định theo chuẩn IAS giới hạn trong phạm vi cho phép theo thông lệ quốc tế.
Mục tiêu tăng năng lực quản trị điều hành ngân hàng.
Phấn đấu đến năm 2010, các NHTM về cơ bản áp dụng quy trình quản trị ngân hàng theo chuẩn quốc tế.
Mục tiêu tăng năng lực cung cấp dịch vụ ngân hàng.
Tiếp tục khẳng định khả năng và lợi thế trong việc phát triển các dịch vụ ngân hàng truyền thống, đáp ứng yêu cầu của thị trường mục tiêu hiện tại, trên cơ sở không ngừng nâng cao chất lượng và đa dạng hóa tiện ích dịch vụ theo hướng cạnh tranh.
Mục tiêu tăng năng lực công nghệ ngân hàng.
Đến năm 2010 sẽ hiện đại hóa căn bản công nghệ ngân hàng.
3.1.3. Quan điểm, định hướng về giải pháp thực hiện mục tiêu.
Về nguồn lực tổng thể.
Phát huy tối đa khả năng nội lực và triệt để hóa khả năng ngoại lực đối với hệ thống NHTM nói chung và từng NHTM nói riêng.
Về sử dụng giải pháp: Phải sử dụng đồng bộ nhiều giải pháp, song cần mạnh dạn sử dụng một số giải pháp mạnh, trong đó có thể có giải pháp đặc thù.
Về lộ trình thực hiện: Quán triệt quan điểm cần tăng tốc, phát triển nhanh nhưng vững chắc, có trọng tâm và đáp ứng hiệu quả trong cạnh tranh và hội nhập.
Về sự hỗ trợ của nhà nước: Để nâng cao năng lực cạnh tranh trong quá trình hội nhập, các NHTM Việt Nam có sự hỗ trợ tích cực, tối đa của Nhà nước.
GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA NHTM VIỆT NAM.
3.2.1. Nhóm giải pháp tài chính nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của hệ thống NHTM Việt Nam.
Đối với NHTM Nhà nước:
Giải pháp tăng vốn tự có của NHTM Nhà nước.
Dự báo nhu cầu vốn tự có của các NHTM nhà nước đến năm 2010: số vốn cần tăng thêm là: 101600 tỷ đồng.
Các giải pháp tăng vốn tự có: Thứ nhất, các NHTM Nhà nước chưa cổ phần hóa cần được sử dụng phần lợi nhuận còn lại để bổ sung không hạn chế quỹ dự trữ vốn bổ sung điều lệ. Thứ hai, nhà nước cung cấp bổ sung vốn điều lệ: Chính phủ cho phép nới lỏng cơ chế thanh khoản của trái phiếu đặc biệt đã cấp; Chính phủ sử dụng hoặc chỉ định một số nguồn ngân sách khả thi cho việc mua lại trái phiếu đặc biệt đáo hạn. Thứ ba, tăng vốn điều lệ từ nguồn tích lũy. Thứ tư, phát hành trái phiếu dài hạn. Thứ năm, cổ phần hóa NHTM Nhà nước.
Giải pháp tháo gỡ khó khăn để sử lý nợ tồn đọng, khẩn chương làm sạch bảng cần đối tài sản.
Phân loại nợ và hạch toán nợ theo chuẩn quốc tế để minh bạch tình hình tài chính:
Việc phân loại nợ và hạch toán nợ theo thông lệ quốc tế phải quán triệt đúng tiêu chí và cấu trúc phân loại nợ.
Việc phân loại các khoản cho vay của NHTM trước hết phải dựa trên phân tích kết hợp hai yếu tố là khả năng trả nợ và tình hình tài chính của khách hàng, được mô phỏng theo sơ đồ:
Khả năng
Trả nợ
Tình hình
tài chính
Rất tốt
Tốt
Trung bình
Trung bình yếu
kém
Rất tốt
Nợ tốt
Nợ tốt
Nợ cần chú ý
Nợ dưới tiêu chuẩn
Nợ khó đòi
Tốt
Nợ tốt
Nợ tốt
Nợ cần chú ý
Nợ khó đòi
Nợ khó đòi
Trung bình
Nợ cần chú ý
Nợ cần chú ý
Nợ dưới tiêu chuẩn
Nợ khó đòi
Nợ mất vốn
Trung bình yếu
Nợ dưới tiêu chuẩn
Nợ khó đòi
Nợ khó đòi
Nợ mất vốn
Nợ mất vốn
kém
Nợ khó đòi
Nợi khó đòi
Nợ mất vốn
Nợ mất vốn
Nợ mất vốn
Ngoài ra, để đánh giá phân loại nợ phù hợp, ngân hàng phải kết hợp đánh giá thêm một số tiêu chuẩn sau của khách hàng: Năng lực tài sản máy móc và thiết bị phục vụ kinh doanh; năng lực quản lý của hội đồng quản trị, Ban lãnh đạo; chất lượng hệ thông báo cáo, thông tin và kiểm soát nội bộ; khả năng hiện tại và triển vọng sắp tới về thị trường đầu vào và đầu ra; chính sách của Nhà nước về ngành nghề, sản phẩm kinh doanh của khách hàng.
Trong 5 nhóm nợ được phân loại thì 3 nhóm gồm nợ dưới tiêu chuẩn, nợ khó đòi và nợ mất vốn gọi là nợ xấu.
Đối với NHTM cổ phần và ngân hàng liên doanh.
Đối với NHTM cổ phần.
Tăng vốn tự có để mở rộng mạng lưới, công nghệ, dịch vụ mà không bị sức ép của thị trường huy động vốn, như: nâng giới hạn vốn pháp định với việc thành lập NHTM cổ phần mới lên mức tối thiểu là 300 tỷ đồng không phân biệt theo điều kiện; xóa bỏ loại hình NHTM cổ phần nông thôn.
Đối với ngân hàng liên doanh.
Xem xét một cách cụ thể để tăng quy mô, phạm vi và màng lưới hoạt động.
Nhóm giải pháp xây dựng và hoàn thiện thể chế.
Xây dựng và hoàn thiện chiến lược kinh doanh.
Để tài nghiên cứu khuyến nghị các nhà hoạch định chính sách NHTM Việt Nam một số điểm trong xây dựng và hoàn thiện chiến lược kinh doanh, như: Nhận thức đúng về tầm quan trọng của việc này; đánh giá thực tế phát triển kinh doanh hiện tại và ít nhất là 3 năm trong quá khứ, thực lực và khả năng của đối tác cùng tham gia trên thị trường; môi trường kinh doanh; xây dựng mục tiêu,
Đổi mới hoàn thiện mô hình tổ chức: Đa dạng hóa các mô hình tổ chức ngân hàng, có bước đi thận trọng trong cổ phần hóa NHTM Nhà nước.
Xây dựng và hoàn thiện cơ chế quản trị rủi ro: Nội dung này gồm:
- Xây dựng thể chế quản lý tài sản Nợ và tài sản Có theo chuẩn quốc tế.
- Xây dựng và hoàn thiện thể chế tín dụng.
- Hoàn thiện hệ thống kế toán theo chuẩn quốc tế.
- Xây dựng và phát triển hệ thống thông tin quản lý.
- Hoàn thiện thể chế kiểm soát nội bộ và kiểm toán nội bộ.
- Xây dựng thể chế quản trị chiến lược marketing.
Giải pháp phát triển dịch vụ gắn liền với sự quản trị chặt chẽ.
Đối với dịch vụ huy động vốn.
- Quản lý chặt chẽ tính kỳ hạn của các nguồn vốn.
- Quản lý vốn khả dụng một cách có hiệu quả
- Phát triển sản phẩm huy động theo nhóm khách hàng.
- Phát triển mạng lưới huy động trên cơ sở thị trường.
Đối với dịch vụ tín dụng.
- Hết sức thận trọng trong việc tăng quy mô tín dụng, đặc biệt là đối với các NHTM Nhà nước.
- Phát triển các sản phẩm tín dụng đi đôi với tăng cường các biện pháp nâng cao chất lượng tín dụng.
- Tổ chức phân tích báo cáo kinh tế theo từng ngành, hàng, nhóm sản phẩm để đưa ra các định hướng chỉ đạo, điều hành công tác tín dung.
- Tăng cường kiểm tra và giám sát tín dụng và củng cố, hoàn thiện hệ thống thông tin tín dụng.
Đối với hoạt động kinh doanh ngoại tệ: Các ngân hàng cần quan tâm đến những rủi ro có thể nảy sinh từ sự thay đổi tỷ giá và lãi suất của ngoại tệ; cần dự báo chính xác về diễn biến của thị trường tài chính quốc tế để có quyết sinh kinh doanh ngoại tệ trong và ngoài nước. Các NHTM phải có sự phân cấp và kiểm soát chặt chẽ mạng lưới kinh doanh ngoại tệ của mình.
Phát triển các dịch vụ ngân hàng khác, như: Thẻ thanh toán; các sản phẩm dịch vụ: dịch vụ ngân hàng hiện đại, thanh toán, tài trợ thương mại quốc tế, tư vấn đầu tư, dịch vụ hỗ trợ bảo hiểm,
Giải pháp phát triển hạ tầng công nghệ thông tin.
Thứ nhất, Các NHTM phải tăng quy mô vốn tự có mạnh mẽ mới có điều kiện vững chắc để đầu tư công nghệ thông tin.
Thứ hai, Cần đầu tư có trọng tâm, trọng điểm; đầu tư nhanh vào các công nghệ ngân hàng đang rất yếu hoặc chưa có; khẩn cấp đầu tư xây dựng hệ thống dự phòng đảm bảo cho hoạt động kinh doanh ngân hàng an toàn trong mọi tình huống.
Thứ ba, Xây dựng hệ thống phần mềm và hệ thống hạ tầng công nghệ kỹ thuật (phần cứng, thiết bị, đường truyền, viễn thông,)
Giải pháp phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Các NHTM cần xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực, và nguồn nhân lực này phải được quản lý và phát triển theo định hướng từng bước phù hợp với các nguyên tắc và quy luật thị trường lao động, đồng thời cũng cần chú trọng đào tạo nguồn nhân lực,
3.2.6. Giải pháp từ chính các ngân hàng.
Tăng cường năng lực tài chính.
Năng lực tài chính của các NHTM nước ta nhìn chung là kém, tất cả các chỉ số đều còn thấp so với các nước trong khu vực. Do đó, để nâng cao năng lực tài chính, các ngân hàng nên thực hiện một số biện pháp như: khẩn trương tăng vốn điều lệ và xử lý dứt điểm nợ tồn đọng nhằm lành mạnh hóa tình hình tài chính, nâng cao khả năng cạnh tranh và chống rủi ro.
Đối với các NHTM nhà nước, cần áp dụng các biện pháp thực tế như phát hành cổ phiếu ở mức cần thiết hoặc bán tài sản và thuê lại để bổ sung vốn điều lệ nhằm đạt được tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu 8%, xử lý hết nợ tồn đọng.
Đối với các NHTM cổ phần, cần tăng vốn điều lệ thông qua sát nhập, hợp nhất, phát hành bổ sung cổ phiếu; đối với những NHTM hoạt động quá yếu kém, không thể tăng vốn điều lệ và không khắc phục được những yếu kém về tài chính thì có thể thu hồi giấy phép hoạt động.
Hiện đại hóa công nghệ ngân hàng và hệ thống thanh toán, chú trọng hoạt động marketing, đa dạng hóa và nâng cao tiện ích các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng hiện đại dựa trên công nghệ hiện đại.
Công nghệ ngân hàng nước ta dù được chú trọng trong thời gian qua nhưng vẫn bị đánh giá là yếu kém. Hiện nay, nhiều ngân hàng đã triển khai các phần mềm hiện đại với chức năng hoạt động giao dịch trực tuyến, tạo thêm nhiều sản phẩm gia tăng cho khách hàng trong quá trình giao dịch với ngân hàng. Nhìn chung, các phần mềm mà một số NHTM đang ứng dụng đều là những phần mềm thế hệ mới được nhiều ngân hàng trên thế giới đang sử dung. Tuy nhiên, công tác triển khai chậm và khi triển khai xong, một số bộ phận lại chưa tạo được một cơ chế nhằm khai thác hiệu quả công nghệ đó.
Cùng với việc hiện đại hóa công nghệ, các NHTM cần có chính sách khai thác công nghệ hiệu quả thông qua việc phát triển những sản phẩm và nhóm sản phẩm dựa trên công nghệ cao nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh về sản phẩm, dịch vụ, tạo ra sự đa dạng trong lựa chọn sản phẩm và tăng cường bán chéo sản phẩm đến khách hàng. Đồng thời, việc phát triển đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ cũng sẽ góp phần phân tán và hạn chế bớt rủi ro trong quá trình hoạt động.
Ngoài ra, các NHTM cần cải tiến và đơn giản hóa các thủ tục hành chính, thủ tục vay vốn nhằm tạo thuận lợi cho khách hàng.
Xác định khách hàng mục tiêu, xây dựng chiến khách hàng và tăng cường phát triển mạng lưới.
Xây dựng chiến lược khách hàng đúng đắn, ngân hàng và khách hàng luôn gắn bó với nhau, phải tạo ra, giữ vững và phát triển mối quan hệ lâu bền với tất cả khách hàng. Cần đánh giá cao khách hàng truyền thống và khách hàng có uy tín trong giao dịch ngân hàng. Đối với khách hàng này, khi xây dựng chiến lược ngân hàng phải hết sức quan tâm, gắn hoạt động của ngân hàng với hoạt động của khách hàng, thẩm định và đầu tư kịp thời các dự án có hiệu quả rõ ràng.
Ngoài ra, các đặc tính sản phẩm từ các ngân hàng đều có điểm giống nhau nên tạo ra sự khác biệt là hết sức quan trọng. Về chiến lược thu hút tiền gửi, cần xây dựng một hệ thống thanh toán điện tử rộng khắp nhằm tạo cho dân chúng thói quen sử dụng tài khoản ngân hàng. Đồng thời, những thủ tục rắc rối cần được cắt giảm để tạo thuận lợi tối đa cho khách hàng.
Bên cạnh đó, để đẩy mạnh tín dụng cần tạo được quy trình cung cấp linh hoạt sản phẩm của ngân hàng, đặc biệt đối với khách hàng tiềm năng có thể đưa ra điều kiện cho vay và lãi suất ưu đãi hơn theo thỏa thuận giữa hai bên.
Nâng cao năng lực quản trị điều hành.
Cần cải cách bộ máy quản lý điều hành theo tư duy kinh doanh mới. Đồng thời, xây dựng chuẩn hóa và văn bản hóa toàn bộ quy trình nghiệp vụ của các hoạt động chủ yếu của NHTM, thực hiện cải cách hành chính doanh nghiệp.
Nâng cao chất lượng đội ngũ nhân viên ngân hàng.
Cần đào tạo lại cán bộ để thực hiện tốt các nghiệp vụ ngân hàng hiện đại. Hơn nữa, cần tiêu chuẩn hóa đội ngũ cán bộ làm công tác hội nhập quốc tế, nhất là những can bộ trực tiếp tham gia vào quá trình đàm phán, ký kết hợp đồng quốc tế, cán bộ thanh tra giám sát và cán bộ chuyên trách làm công tác pháp luật quốc tế, cán bộ sử dụng và vận hành công nghệ mới.
Ngành ngân hàng cũng nhận thức được rằng thách thức trong quá trình hội nhập là rất lớn và ngày càng phức tạp nhưng nếu đẩy nhanh quá trình này sẽ giúp ngành ngân hàng tận dụng được cơ hội để phát triển, qua đó nâng cao vị thế, sức cạnh tranh của hệ thống ngân hàng và của các doanh nghiệp Việt Nam trên chính trường quốc tế. Do đó, nhiệm vụ phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế trong những năm tới là rất nặng nề. Năm 2006 Việt Nam gia nhập WTO, là năm đầu tiên thực hiện kế hoạch 5 năm 2006- 2010, đồng thời đây là giai đoạn cần nhiều sự nỗ lực mạnh mẽ hơn nữa trong hội nhập kinh tế quốc tế. Do vậy, ngành ngân hàng cần phải tập trung phấn đấu hoàn thành tốt các kế hoạch và mục tiêu của chính sách tiền tệ, triển khai tích cực và có hiệu quả các đề án cải cách và đổi mới hệ thống ngân hàng Việt Nam, tiếp tục hoàn thiện và thực thi mạnh mẽ Chiến lược phát triển và hội nhập quốc tế của ngành, theo đó hoạt động hội nhập quốc tế của ngành ngân hàng cần được triển khải một cách thực chất và sâu rộng hơn trên cơ sở nắm vững và vận dụng sáng tạo chính sách đối ngoại và các Nghị quyết về hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng và Chính phủ nhằm đem lại lợi ích tối đa cho sự nghiệp phát triển kinh tế của đất nước và của hệ thống ngân hàng Việt Nam.
3.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ.
Hội nhập kinh tế quốc tế trở thành một xu thế thời đại, và diễn ra mạnh mẽ trên nhiều lĩnh vực, biểu hiện xu hướng tất yếu khách quan của nền kinh tế. Để bắt nhịp với xu thế đó, Việt Nam đã chủ động tham gia vào quá trình hội nhậ kinh tế quốc tế: gia nhập khối ASEAN, tham gia vào khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), và đã gia nhập vào tổ chức thương mại thế giới (WTO), và tham gia vào nhiều tổ chức kinh tế quốc tế cũng như các hiệp định thúc đẩy quan hệ thương mại song phương khác. Trong bối cảnh chung đó của cả nền kinh tế, các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam sẽ phải đối mặt với những thử thách như thế nào, tận dụng cơ hội ra sao và biến thách thức thành cơ hội để không phải thua thiệt trên sân nhà. Điều này đòi hỏi hệ thống NHTM phải chủ động nhận thức và sãn sàng tham gia vào quá trình hội nhập và cạnh tranh này.
Có thể nói, ngân hàng là một trong những lĩnh vực hết sức nhạy cảm và phải mở cửa gần như hoàn toàn theo các cam kết gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, hệ thống ngân hàng Việt Nam được xếp vào diện các ngành chủ chốt, cần được tái cơ cấu nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh. Để giành thế chủ động trong tiến trình hội nhập, Việt Nam cần xây dựng một hệ thống ngân hàng có uy tín, đủ năng lực cạnh tranh, hoạt động có hiệu quả cao, an toàn, có khả năng huy động tốt hơn các nguồn vốn trong xã hội và mở rộng đầu tư.
Việc này đòi hỏi sự nỗ lực nhiều mặt từ phía Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước, và chính nội tại các ngân hàng thương mại.
3.3.1.Kiến nghị với Quốc hội.
Xây dựng NHNN Việt Nam trở thành một ngân hàng trung ương thực sự.
Ở Việt Nam, NHTW được thành lập thuộc sở hữu của nhà nước, gọi là Ngân hàng nhà nước Việt Nam. Là một định chế công cộng của Nhà nước, nhưng mối quan hệ của NHTW với Chính phủ không hoàn toàn giống với các định chế công cộng khác của Nhà nước. Mối quan hệ này ở các nước khác nhau cũng không giống nhau. Tùy thuộc vào đặc điểm ra đời của NHTW, thế chế chính trị, nhu cầu của nền kinh tế cũng như truyền thống văn hóa của từng quốc gia mà NHTW có thể được tổ chức theo mô hình trực thuộc hay độc lập với Chính phủ.
Mô hình NHTW trực thuộc chính phủ là mô hình trong đó NHTW nằm trong nội các chính phủ và chịu sự chi phối trực tiếp của chính phủ về nhân sự, về tài chính và đặc biệt về các quyết định liên quan đến việc xây dựng và thực hiện chính sách tiền tệ. Các nước áp dụng mô hình này phần lớn là các nước Đông Á (Hàn quốc, Đài Loan, Singapore, indonesia, Việt Nam) hoặc các nước thuộc khối XHCN trước đây. Theo mô hình này, Chính phủ có thể dễ dàng phối hợp chính sách tiền tệ của NHTW đồng bộ với các chính sách kinh tế vĩ mô khác nhằm đảm bảo mức độ và liều lượng tác động hiệu quả của tổng thể các chính sách đối với các mục tiêu vĩ mô trong từng thời kỳ. Mô hình này được xem là phù hợp với yêu cầu cần tập trung quyền lực để khai thác tiềm năng xây dựng kinh tế trong thời kỳ tiền phát triển.
Điểm hạn chế chủ yếu của mô hình là NHTW sẽ mất đi sự chủ động trong việc thực hiện chính sách tiền tệ. Sự phụ thuộc vào chính phủ có thể làm cho NHTW xa rời mục tiêu dài hạn của mình là ổn định giá trị tiền tệ, góp phần tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, sự lớn mạnh nhanh chóng của các nước thuộc nhóm NIEs như Singapore, Hàn quốc, Đài loannơi NHTW là một bộ phận trong guồng máy chính phủ là một bằng chứng có sức thuyết phục về sự phù hợp của mô hình tổ chức này đối với truyền thống văn hóa Á đông.
Mô hình NHTW độc lập với chính phủ là mô hình trong đó NHTW không chịu sự chỉ đạo của chính phủ mà là quốc hội. Quan hệ giữa NHTW và chính phủ là quan hệ hợp tác. Các NHTW theo mô hình này là Ngân hàng dự trữ liên bang Mỹ, NHTW Thụy sĩ, Anh, Pháp, Đức, Nhật bản và gần đây là NHTW châu Âu (ECB). Xu hướng tổ chức ngân hàng trung ương theo mô hình này đang càng tăng lên ở các nước phát triển. Theo mô hình này, NHTW có thể toàn quyền quyết định việc xây dựng và thực hiện chính sách tiền tệ mà không bị ảnh hưởng bởi các áp lực chi tiêu của ngân sách hoặc các áp lực chính trị khác. Mặt khác, theo quan điểm dân chủ cổ truyền của châu Âu thì mọi chính sách phải được phục vụ cho quyền lợi của công chúng và phải được quyết định bởi quốc hội- cơ quan đại diện cho quyền lực của toàn dân- chứ không phải một nhóm các nhà chính trị -chính phủ. Chính vì vậy, NHTW do có vai trò hết sức quan trọng tới đời sống kinh tế nên không thể đặt dưới quyền chính phủ được mà phải do quốc hội kiểm soát. Tuy nhiên, không phải tất cả các NHTW được tổ chức theo mô hình này đều đảm bảo được sự độc lập hoàn toàn khỏi áp lực của Chính phủ khi điều hành chính sách tiền tệ. Mức độ độc lập của mỗi NHTW phụ thuộc vào sự chi phối của người đứng đầu nhà nước vào cơ chế lập pháp và nhân sự của NHTW.
Điểm bất lợi chủ yếu của mô hình này là khó có sự kết hợp hài hòa giữa chính sách tiền tệ- do NHTW thực hiện và chính sách tài khóa- do Chính phủ chi phối để quản lý vĩ mô một cách hiệu quả.
Không có một mô hình nào có thể được coi là thích hợp cho mọi quốc gia. Việc lựa chọn mối quan hệ thích hợp giữa NHTW và Chính phủ phải tùy thuộc vào chế độ chính trị, yêu cầu phát triển kinh tế, đặc điểm lịch sử và sự phát triển của hệ thống ngân hàng của từng nước. Tuy nhiên, trong một chừng mực nhất định nó cũng bị ảnh hưởng bởi trào lưu của thế giới.
Xây dựng Luật về tổ chức và kinh doanh tiền tệ của hệ thống ngân hàng.
Hoàn thiện hệ thống pháp luật ngân hàng.
Cùng với việc gia nhập WTO, Việt Nam cần tiến hành sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện hệ thống pháp luật ngân hàng như sau:
Sửa đổi Luật NHNN, Luật các Tổ chức tín dụng và các văn bản pháp luật khác có liên quan để đảm bảo NHNN Việt Nam trở thành ngân hàng trung ương hiện đại, tăng cường tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức tín dụng trong hoạt động kinh doanh.
Xây dựng, chỉnh sửa, bổ sung các quy định pháp luật ngân hàng về cấp phép hiện diện thương mại, về tổ chức hoạt động quản trị điều hành của các tổ chức tín dụng kể cả trong và ngoài nước hướng tới nguyên tắc không phân biệt đối xử, phù hợp với các cam kết và lộ trình gia nhập WTO, các quy định pháp luật cần tuân thủ nguyên tắc minh bạch hóa và có thể dự báo.
Rà soát danh mục các dịch vụ tài chính – ngân hàng theo Phụ lục về dịch vụ tài chính – ngân hàng của GATS để xây dựng, bổ sung, hoàn chỉnh các quy định, đảm bảo các tổ chức tín dụng được thực hiện đầy đủ các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng theo GATS và thông lệ quốc tế.
Nghiên cứu xây dựng khung pháp lý cho các mô hình tổ chức tín dụng mới, các tổ chức có hoạt động mang tính chất hỗ trợ cho hoạt động của các tổ chức tín dụng (công ty xếp hạng tín dụng, công ty môi giới tiền tệ) nhằm phát triển hệ thống các tổ chức tín dụng. Các Nghị định về tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính, công ty tài chính sẽ được ban hành mới thay thế cho các văn bản pháp quy cũ về vấn đề này.
Hoàn thiện các quy định về quản lý ngoại hối, cải cách hệ thống kế toán ngân hàng phù hợp chuẩn mực kế toán quốc tế. Hoàn thiện các quy định về thanh toán không dùng tiền mặt.
Tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện quy định về các nghiệp vụ và dịch vụ ngân hàng mới (quản lý ngân quỹ, quản lý danh mục đầu tư, các dịch vụ ủy thác, các sản phẩm phát sinh, dịch vụ ngân hàng điện tử, dịch vụ thuê mua tài chính)
Tách biệt Luật các TCTD thành các Luật riêng biệt
- Luật NHTM: điều chỉnh tổ chức và hoạt động các NHTM.
- Luật các tổ chức tài chính phi ngân hàng: điều chỉnh tổ chức và hoạt động của các tổ chức tài chính không phải là NHTM nhưng có kinh doanh tiền tệ.
Đảm bảo tính độc lập của các tổ chức kinh doanh tiền tệ, như:
Bỏ hẳn cơ chế xin cho nếu cơ chế đó không ảnh hưởng tới việc kinh doanh mà NHNN cần quản lý; quy định rõ ràng nội dụng được phép kinh doanh (hoặc bị cấm kinh doanh); hạn chế tình trạng để nhiều khoảng hở của Luật; áp dụng các quy phạm quốc tế để các doanh nghiệp trong và ngoài nước đều bình đẳng trong thực hiện và công bằng khi áp dụng chuẩn mực đánh giá.
3.3.2. Kiến nghị đối với Chính phủ và Ngân hàng nhà nước.
Về phía Chính phủ.
Trước hết, Cần phải cải cách Doanh nghiệp nhà nước, tạo ra sân chơi bình đẳng hơn cho các doanh nghiệp. Việc bảo hộ cho khu vực doanh nghiệp nhà nước là nguyên nhân gây ra nợ khó đòi, nợ quá hạn, nợ xấu tại các NHTM nhà nước cao. Chính vì vậy, nếu không kiên quyết đẩy mạnh tiến trình cải cách doanh nghiệp nhà nước thì việc cải thiện năng lực cạnh tranh của nền kinh tế nói chung và các NHTM nói riêng sẽ khó thực hiện.
Thứ hai, Cần hoàn thiện hệ thống pháp luật. Đẩy nhanh tiến độ ban hành Luật cạnh tranh và kiểm soát độc quyền, đưa luật này trở thành công cụ để Chính phủ kiểm soát hoạt động cạnh tranh.
Thứ ba, Thống nhất quan điểm, xác định rõ và cụ thể về lộ trình mở cửa tài chính. Tự do hóa chính phải được thực hiện sau cùng, sau khi đã thực hiện cải cách cơ cấu và tự do hóa thương mại. Nếu có được lộ trình hội nhập tài chính thích hợp sẽ đảm hệ thống tài chính hội nhập hiệu quả, tăng năng lực cạnh tranh mà không bị vướng vào các dạng khủng hoảng tài chính – ngân hàng khác nhau.
Thứ tư, Khẩn trương hoàn thiện hoạt động của thị trường tiền tệ và hoàn thiện hoạt động của thị trường chứng khoán, xác định cụ thể lộ trình mở cửa thị trường tài chính – ngân hàng.
Về phía ngân hàng nhà nước Việt Nam.
Nâng cao nâng lực của NHNN về điều hành chính tiền tệ.
Trong điều kiện mở cửa dịch vụ ngân hàng, NHNN cần nâng cao năng lực xây dựng và thực thi chính sách tiền tệ thông qua những biện pháp dự kiến được triển khai từ nay đến năm 2010 như sau.
Thành lập Ban Điều hành thị trường tiền tệ để tăng cường sự thống nhất, phối hợp giữa các Vụ, Cục trong điều hành chính sách tiền tệ.
Hoàn thiện các cơ chế điều hành các công cụ chính tiền tệ nhằm nâng cao hiệu quả điều tiết tiền tệ của từng công cụ, tăng cường vai trò chủ đạo của nghiệp vụ thị trường mở trong điều hành chính sách tiền tệ; gắn điều hành tỷ giá với lãi suất, gắn điều hành nội tệ với điều hành ngoại tệ; nghiên cứu, lựa chọn lãi suất chủ đạo của NHNN để định hướng và điều tiết lãi suất thị trường.
Phát triển thị trường tiền tệ an toàn hiệu quả, tạo cơ sở quan trọng cho việc tiếp nhận và chuyển tải tác động của chính sách tiền tệ đến nền kinh tế.
Nâng cấp và đồng bộ hóa máy móc thiết bị, chương trình phần mềm ứng dụng nối mạng các giao dịch nghiệp vụ thị trường tiền tệ và đấu thấu tín phiếu, trái phiếu chính phủ qua NHNN.
Tiếp tục đổi mới cơ chế điều hành tỷ giá và quản lý ngoại hối theo hướng kiểm soát có chọn lọc các giao dịch vốn (Việt Nam đã tự do hóa hoàn toàn đối với giao dịch vãng lai), giảm dần tình trạng đô-la hóa, cho phép các tổ chức và các nhân được tham gia rộng rãi hơn vào các giao dịch hối đoái, kể cả các nghiệp vụ phái sinh.
Hoàn thiện hệ thống thông tin nội bộ ngành theo hướng hiện đại hóa, đảm bảo nắm bắt kịp thời, đầy đủ, chính xác thông tin về tiền tệ, tín dụng, tăng cường phối hợp trao đổi thông tin với các Bộ, Ngành để phục vụ cho việc điều hành chính sách tiền tệ.
Tăng cường vai trò công tác thống kê, nâng cao năng lực thu thập tổng hợp thông tin trong lĩnh vực tiền tệ, hoạt động ngân hàng và cán cân thanh toán phục vụ xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ quốc gia.
Đổi mới một cách căn bản công tác dự báo và xây dựng chính sách tiền tệ hàng năm theo hướng áp dụng mộ hình kinh tế lượng vào phân tích dự báo và lượng hóa các mục tiêu chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ; Nâng cao năng lực phân tích và dự báo tiền tệ, dự báo lạm phát.
Nâng cao năng lực của NHNN về thanh tra, giám sát ngân hàng.
- Cấu trúc lại mô hình tổ chức và chức năng hệ thống thanh tra theo chiều dọc gồm cả 4 khâu: cấp phép và các quy định về an toàn hoạt động ngân hàng, giám sát từ xa, thanh tra tại chỗ, xử lý vi phạm.
- Hoàn thiện quy định về an toàn hoạt động ngân hàng phù hợp với thông lệ quốc tế (Basel 1), đồng thời đảm bảo việc tuân thủ các quy định này; ban hành quy định mới về đánh giá xếp hạng TCTD theo tiêu chuẩn CAMEL(S).
- Xây dựng khuôn khổ, quy trình và phương pháp thanh tra, giám sát dựa trên cơ sở rủi ro; xây dựng sổ tay thanh tra tại chỗ các TCTD Việt Nam để các thanh tra viên sử dụng như cẩm nang thanh tra, giám sát; thiết lập hệ thống cảnh báo sớm để phát hiện các TCTD đang gặp khó khăn thông qua giám sát từ xa và xếp hạng TCTD.
- Tăng cường vai trò và năng lực hoạt động của Bảo hiểm Tiền gửi Việt Nam và Trung tâm Thông tin Tín dụng trong việc thu thập, xử lý và cung cấp thông tin tín dụng nhằm hỗ trợ hoạt động kinh doanh của các TCTD và hoạt động giám sát rủi ro của NHNN đối với các TCTD.
Phối hợp cùng Bộ Tài chính tham gia xây dựng và phát triển đa dạng thị trường vốn, tạo điều kiện san sẻ bớt gánh nặng cung cấp vốn hiện nay mà các NHTM đang phải gánh vác.
Cổ phần hóa các NHTM.
NHNN cần nhanh chóng xin phép Chính phủ để đẩy nhanh thực hiện cổ phần hóa các NHTM nhà nước, tạo điều kiện cho các ngân hàng này hoạt động an toàn và hiệu quả hơn.
Thay đổi cơ chế tài chính liên quan tới việc bổ xung vốn điều lệ của các NHTM Nhà nước.
Một là, Không khống chế mức tối đa về quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, cho phép bổ sung tối đa quỹ này theo khả năng sinh lời của các NHTM Nhà nước.
Hai là, Không khống chế mức trích 5% từ lợi nhuận sau thuế hàng nằm để bổ sung quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ mà cho phép các NHTM Nhà nước tùy thuộc mức sinh lời hàng năm để tự quyết định tỷ lệ bổ sung và tối thiểu là 5%.
Thực hiện đúng chức năng của NHTW.
Làm đúng chức năng của ngân hàng quốc gia: Được thể hiện ở các nhiệm vụ sau đây.
Ngân hàng phát hành tiền: Ngân hàng Trung ương được giao trọng trách độc quyền phát hành tiền theo các quy định trong luật hoặc được chính phủ phê duyệt (về mệnh giá, loại tiền, mức phát hành) nhằm đảm bảo thống nhất và an toàn cho hệ thống lưu thông tiền tệ của quốc gia. Đồng tiền do NHTW phát hành là đồng tiền lưu thông hợp pháp duy nhất nó mang tính cưỡng chế lưu hành, vì vậy mọi người không có quyền từ chối nó trong thanh toán. Nhiệm vụ phát hành tiền còn bao gồm trách nhiệm của NHTW trong việc xác định số lượng tiền cần phát hành, thời điểm phát hành cũng như phương thức phát hành để đảm bảo sự ổn định tiền tệ và phát triển kinh tế.
Ngân hàng của các ngân hàng: NHTW không tham gia kinh doanh tiền tệ, tín dụng trực tiếp với các chủ thể trong nền kinh tế mà chỉ thực hiện các nghiệp vụ ngân hàng với các ngân hàng trung gian. Bao gồm:
- Mở tài khoản và nhận tiền gửi của các ngân hàng trung gian dưới dạng Tiền gửi dự trữ bắt buộc và tiền gửi thanh toán.
- Cấp tín dụng cho các ngân hàng trung gian dưới hình thức chiết khấu lại (tái chiết khấu) các chứng từ có giá ngắn hạn do các ngân hàng trung gian nắm giữ. Việc cấp tín dụng của NHTW cho các ngân hàng trung gian không chỉ giới hạn ở nghiệp vụ tái chiết khấu các chứng từ có giá mà còn bao gồm cả các khoản cho vay ứng trước có đảm bảo bằng các chứng khoản đủ tiêu chuẩn, các khoản tiền gửi bằng ngoại tệ tại NHTW.
Là trung tâm thanh toán bù trừ cho hệ thống ngân hàng trung gian: Vì các ngân hàng trung gian đều mở tài khoản và ký gửi các khoản dự trữ bắt buộc và dự trữ vượt mức tại NHTW nên chúng có thể thực hiện thanh toán không dùng tiền mặt qua NHTW thay vì thanh toán trực tiếp với nhau. Khi đó, NHTW đóng vai trò là trung tâm thanh toán bù trừ giữa các ngân hàng trung gian.
Ngân hàng của chính phủ: Là một định chế tài chính công cộng, NHTW đã được xác định ngay từ khi ra đời là ngân hàng của chính phủ. Với chức năng này, NHTW có nghĩa vụ cung cấp các dịch vụ ngân hàng cho chính phủ, đồng thời làm đại lý, đại diện và tư vấn chính sách cho chính phủ.
Chức năng quản lý vĩ mô về tiền tệ, tín dụng và hoạt động ngân hàng.
Đây là chức năng quyết định bản chất ngân hàng trung ương của một ngân hàng phát hành. Việc thực hiện chức năng này không thể tách rời khỏi các nghiệp vụ ngân hàng của NHTW. Nói cách khác, NHTW quản lý vĩ mô các hoạt động tiền tệ và tín dụng thông qua khả năng kinh doanhb của mình.
Xây dựng và thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia: Chính sách tiền tệ là chính sách kinh tế vĩ mô trong đó NHTW sử dụng các công cụ của mình để điều tiết và kiểm soát khối lượng tiền trong lưu thông nhằm đảm bảo sự ổn định giá trị tiền tệ đồng thời thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế và đảm bảo công ăn việc làm.
Thanh tra, giám sát hoạt động của hệ thống ngân hàng: Với tư cách là ngân hàng của các ngân hàng, NHTW không chỉ cung ứng các dịch vụ ngân hàng thuần túy cho các ngân hàng trung gian, mà thông qua các hoạt động đó, NHTW còn thực hiện vai trò điều tiết, giám sát thường xuyên hoạt động của ngân hàng trung gian nhằm: đảm bảo sự ổn định trong hoạt động ngân hàng và bảo vệ lợi ích của các chủ thể trong nề kinh tế, đặc biệt là của những người gửi tiền, trong quan hệ với ngân hàng.
KẾT LUẬN
Trong điều kiện nền kinh tế hội nhập sâu rộng cùng với thế giới, những ánh hưởng và tác động của nó đến nền kinh tế nói chung và đến ngành ngân hàng thương mại nói riêng là không thể tránh khỏi, bên cạnh những thuận lợi đem lại cho các ngân hàng thương mại thì các ngân hàng thương mại cũng phải đối mặt với những thách thức khó khăn như: có sự tham gia kinh doanh của nhiều ngân hàng trên thế giới, đối mặt với vấn đề tăng vốn, sự cạnh tranh khốc liệt hơn,để có thể tồn tại và phát triển các NHTM phải có những chiến lược trung và dài hạn và cụ thể hóa thành các sách lược ngắn hạn đặt ra từng mục tiêu, nhiệm vụ cần phải đạt được trong những hành động cụ thể đó.
Vấn đề nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong điều kiện nền kinh tế hội nhập không chỉ của riêng các ngân hàng thương mại, mà nó đòi hỏi phải có sự hỗ trợ từ nhiều phía khác nhau như từ chính phủ, từ ngân hàng nhà nước,bởi đây là lĩnh vực xương sống của nền kinh tế, có nhiều nhạy cảm. Sự sụp đổ của một ngân hàng sẽ kéo theo nhiều ngân hàng khác cùng sụp đổ chính vì thế ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế.
Xuất phát từ nghiên cứu hoạt động cạnh tranh của hệ thống NHTM Việt Nam đề án đã giải quyết được một số vấn đề lý thuyết cơ bản và đưa ra một số phương hướng giải pháp để góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của hệ thống NHTM Việt Nam. Tuy nhiên đây là một đề tài nghiên rộng và phức tạp mặc dù bản thân đã hết sức cố gắng nhưng do thời gian có hạn kiến thức của bản thân chưa nhiều nên chắc chắn bài viết còn nhiều hạn chế, khiếm khuyết. Em mong được sự góp ý của các thầy cô giáo.
Em xin chân thành cảm ơn cô giáo Th.s Nguyễn Thị Thùy Dương và các thầy cô trong khoa tài chính ngân hàng đã giúp đỡ, tạo điều kiện để em có thể hoàn thành đề tài này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình Ngân hàng thương mại - Trường Đại học Kinh tế Quốc dân. Chủ biên: T.s Phan Thị thu Hà.
Giáo trình Tài chính Doanh nghiệp - Đại học Kinh tế Quốc dân. Chủ biên: PGS.TS Lưu Thị Hương.
Lý thuyết Tài chính tiền tệ - Trường Đại học Kinh tế Quốc dân.
Tiền tệ Ngân hàng và thị trường Tài chính – Frederic S.Mishkin.
Tín dụng Ngân hàng - Hồ Diệu.
Văn kiện Đại hội IX.
Luật Ngân hàng Nhà nước và các Tổ chức Tín dụng.
Một số tạp chí ngân hàng, tài chính.
Các tài liệu khác.
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 6102.doc