Đề tài Ngân hàng điện tử tại Việt Nam- Triển vọng phát triển

Mở đầu Ngân hàng điện tử là một phương thức mới của các hoạt động tài chính ngân hàng. Sự ảnh hưởng lớn lao của nó không chỉ ở những gì mà người ta dễ nhận ra như tăng số lượng khách hàng và dịch vụ ngân hàng, giảm bớt chi phí, giảm bớt khâu trung gian, tào điều kiện thuận lợi cho khách hàng .mà còn ở những điều khó nhận thấy hơn như mô hình thanh toán, hiệu quả hoạt động tài chính, cấu trúc thị trường, luật pháp, chính sách, , từ đó ảnh hưởng sâu rộng tới toàn bộ nền kinh tế xã hội của các nước và trên toàn thế giới. Ngân hàng điện tử là cuộc cách mạng trong lĩnh vực tài chính ngân hàng. Nó không chỉ mở ra cơ hội phát triển cho ngành tài chính ngân hàng mà còn cho các ngành khác như công nghệ thông tin, du lịch, sản phẩm và dịch vụ tiêu dùng . Ngân hàng điện tử là một phần của thương mại điện tử và tiến trình "toàn cầu hoá". Trong vòng 10 năm, hệ thống ngân hàng Việt Nam đã đưa ngân hàng điện tử Việt Nam đi lên từ con số không và đạt được những thành tích đáng kể. Ngân hàng điện tử mang tính chất xúc tác thúc đẩy nhanh chóng quá trình cải tổ làm thay đổi hệ thống ngân hàng Việt Nam nói riêng và kinh tế Việt Nam nói chung, góp phần thực hiện các cam kết của nước ta trên lộ trình gia nhập ASEAN, AFTA, APEC và tương lai là WTO. Luận văn gồm 3 chương và 67 trang

doc78 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1507 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Ngân hàng điện tử tại Việt Nam- Triển vọng phát triển, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phát hành thẻ. Dưới đây là sơ đồ một giao dịch bằng thẻ: Mạng riêng ngân hàng Ngân hàng chấp nhận thẻ Hệ thống TTDT Ngân hàng phát hành thẻ INTERNET Thanh toán Đại lý thanh toán thẻ Chủ thẻ Toàn Việt Nam hiện có khoảng 7000 đại lý thanh toán thẻ với tổng doanh số bán hàng bằng thẻ là USD 90 triệu/năm. Trong đó 48% là đại lý cho Vietcombank, 20% là đại lý cho ngân hàng ANZ, 15% cho ngân hàng United Over Sea Singapore (UOB), 10% cho ngân hàng á châu (ACB) và 7% là của các ngân hàng khác. Bảng 2: Sơ đồ thị phần thanh toán thẻ VIETCOMBANK 48% ANZ 20% UOB 15% ACB 10% Các NH khác 7% Các đại lý thanh toán thẻ chủ yếu tập trung ở các thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Huế, Đà Nẵng, Nha Trang, Thành Phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Vũng Tàu. Vietcombank chiếm ưu thế cả về số lượng đại lý và doanh thu bán hàng. ACB là ngân hàng cổ phần Việt Nam duy nhất tham gia vào thị trường này, mặc dù chỉ chiếm một thị phần khiêm tốn. So với Việtcombank và một số ngân hàng khác được sự đầu tư rất lớn về trang thiết bị thanh toán thẻ, ACB quả là một ngân hàng hoạt động tương đối hiệu quả bằng chính sự nỗ lực của mình. Bảng 3: Số lượng đại lí 3/98 3/99 3/00 3/01 3/02 Tỷ lệ tăng trưởng Việt Nam 4,391 4,673 5,530 6,538 7,756 18,6% Khu Vực AP 5,855,840 6,419,088 7,600,832 9,414,793 12,271,272 30,3% (Nguồn: Báo cáo hàng quý Trung tâm Thẻ Visa & Mastercard) Bảng 4 : Doanh số chấp nhận thẻ (Triệu USD) 3/98 3/99 3/00 3/01 3/02 Tỷ lệ tăng trưởng Việt Nam 133 130 155 160 192 32% Khu Vực AP 148,200 155,030 212,030 256,605 301,360 29% (Nguồn: Báo cáo hàng quý Trung tâm Thẻ Visa & Mastercard) Do bị hạn chế hơn về số lượng chi nhánh, các ngân hàng nước ngoài chủ yếu tập trung khai thác những đại lý có doanh thu lớn. Ví dụ như UOB chỉ ký kết đại lý với các khách sạn 4-5 sao hoặc các địa điểm có doanh thu bán hàng bằng thẻ trên USD 10.000/tháng. Do không phải đầu tư lớn ban đầu về công nghệ, với kinh nghiệm nhiều năm của ngân hàng nước ngoài cộng thêm đội ngũ nhân viên trẻ năng động nhiệt tình, các ngân hàng nước ngoài vẫn hoạt động hiệu quả hơn ngân hàng trong nước. Số lượng đại lí ít, chi phí thấp nhưng doanh số cao và do vậy tỷ suất lợi nhuận vẫn cao hơn. Dịch vụ chấp nhận thẻ là dịch vụ bán lẻ, lợi nhuận không cao bằng dịch vụ tín dụng, song tỷ lệ rủi ro rất thấp. Dưới đây là tỷ lệ gian lận trong thanh toán thẻ ở Việt Nam , khu vực và trên thế giới. Bảng 5: Tỷ lệ gian lận trong thanh toán thẻ 1999 2000 2001 2002 Việt Nam 0,03% 0,05% 0,01% 0,02% Khu vực Châu á Thái Bình Dương 0,12% 0,13% 0,08% 0,10% Thế giới 0,12% 0,14% 0,10% 0,11% (Nguồn: Báo cáo hàng quý Trung tâm Thẻ Visa & Mastercard) Với lượng khách du lịch tới Việt Nam ngày càng tăng, đây vẫn đang là loại hình dịch vụ đáng để các ngân hàng khai thác. 2.2 Dịch vụ phát hành thẻ Vietcombank vẫn là ngân hàng dẫn đầu trong lĩnh vực này. Cho tới nay, các loại hình thẻ do Vietcombank phát hành bao gồm thẻ Visa, thẻ MasterCard, thẻ thông minh, thẻ ghi nợ. Thẻ ghi nợ nội địa của Vietcombank có tên là VCB-ATM với cách sử dụng đơn giản và giá rất cạnh tranh. Bạn muốn mua một thẻ tín dụng quốc tế của Vietcombank ? Chỉ cần mở một tài khoản với số dư tối thiểu là 500.000 đồng và trả một tiền phí phát hành là 100.000 đồng. Thẻ này cho phép bạn rút tiền bằng hệ thống máy ATM của Vietcombank trên toàn quốc. Cho tới cuối năm 2002, Vietcombank đã phát hành 20,000 thẻ VCB-ATM. Thẻ tín dụng của Vietcombank cũng chiếm lĩnh thị trường trong nước. Các tổ chức và cá nhân thường mua loại thẻ này khi đi công tác nước ngoài. Theo ông Vũ Viết Ngoạn, Tổng giám đốc Vietcombank, thì tổng giao dịch bằng thẻ tín dụng Vietcombank năm 2001 đạt USD 86,5 triệu tăng 22% so với năm trước. Số lượng thẻ tín dụng phát hành, tính đến hết 2000 là 3.060 thẻ tăng 130% so với năm trước. Một ngân hàng phát hành thẻ đáng nói đến, đó là Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần á Châu (ACB). Bên cạnh hai loại thẻ tín dụng là Visa và MasterCard, ACB còn phát hành một số thẻ nội địa như thẻ SaiGon Tourist- thẻ thanh toán cho các hoạt động du lịch, thẻ Saigon Co-op - thẻ dùng để mua hàng hoá tại các siêu thị, thẻ Mai Linh - thẻ trả tiền taxi, thẻ Phước Lộc Thọ. Đặc biệt là từ tháng 6 năm 2002, ACB cho ra đời một loại thẻ mới có tên gọi ACB e-card. Loại này tương tự như VCB-ATM. Người mua loại thẻ này phải mở một tài khoản với số dư tối thiểu là 1 triệu đồng và phải trả phí thường niên là 100,000 đồng. Tuy nhiên chủ thẻ sẽ được trả tỷ lệ lãi là 0,2% trên số dư tiền gửi mà họ không sử dụng đến. Chủ thẻ được cú thể cho thêm tiền gửi vào tài khoản của họ vào bất cứ lúc nào họ muốn. Loại thẻ này cho phép chủ thẻ mua hàng hoá hoặc rút tiền mà không mất phí. Cho đến cuối năm 2002, ACB đã phát hành 10.000 ACB e- card. Nếu so sánh với các ngân hàng Việt Nam khác, ACB vượt trội hơn hẳn về chất lượng dịch vụ, đặc biệt là dịch vụ sau bán hàng. Tháng 6 năm 2002, ACB mở hai quầy hoạt động ngoài giờ nhằm cung cấp dịch vụ trợ giúp và thông tin cho các khách hàng mua thẻ Visa, thẻ MasterCard và các loại thẻ khác của ACB. Tham gia vào thị trường phát hành thẻ còn có các ngân hàng khác như EXIMBANK, Sacombank, ANZ và Ngân Hàng Đông á. Ngân Hàng Đông á mới khai trương trung tâm thẻ vào tháng 7 năm 2002. Nhưng theo Bà Lý Thị Ngọc, Giám Đốc trung tâm thẻ, Ngân Hàng Đông á dự tính sẽ phát hành 1000 thẻ vào cuối năm 2002. Điều này hoàn toàn dựa trên cơ sở hệ thống khách hàng mở tài khoản giao dịch và tài khoản tiết kiệm sẵn có của ngân hàng. Ngân Hàng Đông á còn có một hệ thống chấp nhận thẻ tại 5 chi nhánh ngân hàng và 20 siêu thị trên toàn quốc. Là một ngân hàng 100% vốn nước ngoài, với rất nhiều kinh nghiệm trong thanh toán và phát hành thẻ, cộng thêm công nghệ ngân hàng hiện đại sẵn có, song ANZ chỉ tham gia phát hành thẻ ghi nợ nội địa và thẻ ghi nợ quốc tế. Thẻ ghi nợ là loại thẻ cho phép chủ thẻ trả tiền hoặc rút tiền từ tài khoản tiết kiệm hoặc vãng lai của mình. Còn thẻ tín dụng có thể nói là loại thẻ tiêu trước trả sau. Người mua thẻ tín dụng sẽ được ngân hàng phát hành thẻ cấp cho một hạn mức tín dụng nhất định. Chủ thẻ tín dụng sẽ được tiêu dùng trong phạm vi hạn mức tín dụng đó. Nếu vượt quá hạn mức này, chủ thẻ phải xin cấp phép của ngân hàng phát hành. Chủ thẻ phải thanh toán trả lại cho ngân hàng phát hành số dư có trong tài khoản thẻ vào một thời gian nhất định nào đó, tuỳ theo quy định của ngân hàng. Thẻ ghi nợ ít rủi ro hơn cho cả ngân hàng lẫn chủ thẻ. Song hạn chế của nó là; Nó chỉ có thể chấp nhận bởi các thiết bị thanh toán thẻ của chính ngân hàng phát hành hoặc một số rất hạn chế các ngân hàng khác. Trong khi đó thẻ tín dụng được chấp nhận phổ biến trên toàn thế giới. Cho tới nay ANZ đã phát hành khoảng 10.000 thẻ ghi nợ, cho phép mua hàng hoán tại các siêu thị và rút tiền ở các máy ATM trong và ngoài nước. ANZ đang có kế hoạch liên kết với một số các ngân hàng cổ phần Việt Nam trong việc giúp đỡ họ tham gia vào thị trường thanh toán và phát hành thẻ. Việc Đầu tư cho một hệ thống thanh toán thẻ đối với các ngân hàng cổ phần là rất khó khăn, thời gian thu hồi vốn lâu. Do vậy, đây chính là cơ hội của các ngân hàng cổ phần để tham gia vào "sân chơi chung" này. Nhìn chung việc sử dụng "tiền nhựa" ngày càng trở nên phổ biến trong những năm gần đây. Trong một thị trường với gần 80 triệu dân thì con số thẻ phát hành còn quá nhỏ bé. Việt Nam đang hướng tới thưong mại điện tử và việc sử dụng thẻ sẽ trở nên phổ cập trong đại bộ phận dân chúng. Bảng 6: Số lượng thẻ phát hành và trị giá giao dịch 12/1999 6/2000 12/2000 6/2001 Số lượng thẻ phát hành (nghìn) 3 5 7 9 Số lượng giao dịch (nghìn) 14 18 28 38 Trị giá giao dịch (Triệu USD) 2 2 4 5 (Nguồn: Báo cáo hàng quý Trung tâm Thẻ Visa & Mastercard) 2.3 ATM và dịch vụ rút tiền tự động Chiếc máy ATM đầu tiên được lắp đặt bởi ngân hành Hồng Kông và Thượng Hải (HSBC) tại thành phố Hồ Chí Minh. Từ đó đến nay số lượng máy ATM tham gia vào thị trường tăng lên nhanh chóng. Sau năm 1996, trên thị trường chỉ hai ngân hàng có máy ATM. Đó là ANZ và HSBC. Ngân Hàng Citibank sau đó cũng lắp đặt ATM nhưng chỉ đọc được thẻ do Citibank phát hành. Do vậy có thể nói ANZ và HSBC là hai ngân hàng dẫn đầu trong mảng dịch vụ này. Tuy nhiên, do chính sách bảo hộ ngân hàng trong nước của Chính phủ, mà hai ngân hàng này không thể phát triển số lượng máy ATM lắp đặt của mình. ANZ chỉ có 2 máy lắp tại hai chi nhánh Hà nội và thành phố Hồ Chí Minh. HSBC cũng chỉ có hai máy tại thành phố Hồ Chí Minh. ATM thực chất chỉ là một công cụ rút tiền. Nó được kết nối mạng với các tổ chức thẻ quốc tế và các ngân hàng trên thế giới, cho phép đọc và chuyển tải thông tin của chủ thẻ tới ngân hàng phát hành thẻ. Nhờ vậy mà chủ thẻ có thể rút tiền từ tài khoản tín dụng, vãng lai hay tiết kiệm của họ vào bất cứ lúc nào họ muốn. Với số luợng khách du lịch nước ngoài ngày càng tăng. Mặt bằng giá hàng hoá và dịch vụ ở Việt Nam tương đối rẻ so với khách nước ngoài. Mà không phải địa điểm bán hàng nào cũng sẵn có thiết bị thanh toán thẻ cộng thêm thói quen bán hàng bằng tiền mặt của người Việt Nam. Do vậy khách nước ngoài thực sự có nhu cầu sử dụng tiền mặt. Các quầy thu đổi ngoại tệ không mở cửa 24/24. Đối với các ngân hàng nước ngoài, chi phí cho một nhân viên ngân hàng phục vụ khách rút/đổi tiền là không nhỏ. ATM chính là biện pháp hữu hiệu nhất. Tuy nhiên chi phí cho việc lắp đặt vận hành một hệ thống ATM là rất tốn kém mà không phải bất cứ ngân hàng Việt Nam nào cũng có khả năng đầu tư. Do vậy mà mãi đến tháng 5 năm 2002, cùng với việc ra mắt chính thức hệ thống nối mạng Vietcombank toàn quốc (Vietcombank - Online), Vietcombank cũng tung ra thị trường hệ thống ATM của mình. Cho tới cuối năm 2002, Vietcombank đã lắp đặt và đưa vào sử dụng 70 máy ATM trên toàn quốc. Dự tính con số này sẽ lên tới 100 đến 150 máy nhằm phát triển dịch vụ thanh toán thẻ, dịch vụ ngân hàng tiêu dùng nói riêng và dịch vụ ngân hàng điện tử nói chung của Vietcombank. Các ngân hàng khác cũng tiến hành triển khai kế hoạch ATM của mình, nhưng rất khác nhau cả về phương hướng lẫn kết quả. BIDV chính thức khai trương hệ thống ATM vào tháng 6 năm 2002. 6 Máy ATM đầu tiên của BIDV được lắp đặt tại các chi nhánh ngân hàng ở Hà nội, 1 máy ở Đà Nẵng, 4 máy ở thành phố Hồ Chí Minh, 1 máy ở Bình Dương. BIDV đang tiến hành hoàn tất hệ thống nối mạng dự kiến cho đến hết 2003. Hiện nay ATM của BIDV mới chỉ dùng để nhân viên ngân hàng rút tiền lương bằng thẻ do BIDV phát hành. Tháng 10 năm 2001, Ngân Hàng Công Thương Việt Nam (Vietincombank) công bố đưa vào hoạt động hệ thống ATM. 30 máy ATM loại hiện đại nhất được lắp đặt tại tất cả chi nhánh ngân hàng này trên toàn quốc. Kế hoạch của Vietincombank là sẽ đưa con số này lên đến 100 vào cuối năm 2003. Vietincombank đồng thời phát hành thẻ nội địa với giá cả hết sức hấp đẫn. Thẻ này cho phép rút tiền tại, xem số dư tài khoản, chuyển tiền từ tài khoản tiết kiệm sang tài khoản vãng lai tại các máy ATM của Vietincombank. Tuy nhiên kế hoạch này dường như không kết qủa cho lắm. Cho đến nay, số lượng thẻ phát hành vẫn rất khiêm tốn. Khách hàng trong nước thì vẫn đến xếp hàng gửi và rút tiền tại quầy. Khách nước ngoài thì chưa thể rút tiền từ ATM Vietincombank vì nó chưa được nối mạng quốc tế. Thế là các ATM Vietincombank hiện đang trong tình trạng "thất nghiệp". Ngân Hàng Nông Nghiệp và Phát triển Nông Thôn (VBARD) cũng có kế hoạch đầu tư vào hệ thống ATM. Máy thì mua rồi, song lắp đặt và kết nối mạng vẫn đang nằm trong kế hoạch. Việc triển khai hệ thống ATM của VBARD còn cần rất nhiều thời gian và sức lực. Các ngân hàng cổ phần, vốn ít, cơ sở kỹ thuật công nghệ kém nên chưa thể tham gia vào lĩnh vực này. Sacombank lại có cách đi của riêng mình. Đó là liên kết với ngân hàng ANZ. Cho tới nay, Sacombank đã phát hành thẻ nội địa và đưa vào hoạt động 3 máy ATM tại các chi nhánh. Con số này còn quá khiêm tốn. Song qua đó Sacombank có cơ hội để học tập và phát triển hệ thống ATM của mình mà không phải dò dẫm và đầu tư quá lớn. 2.4 Dịch vụ ngân hàng qua điện thoại và Internet Internet thâm nhập vào Việt Nam từ cuối năm 1997. Và đến năm 2000, Internet trở nên phổ biến. Phần lớn các ngân hàng và các tổ chức tài chính Việt Nam đều có các trang Web. Mục đích chủ yếu của các trang Web là giới thiệu và cung cấp thông tin về các sản phẩm và dịch vụ của các ngân hàng. Trong năm 2000, chưa có một giao dịch tài chính nào được thực hiện qua mạng. Tháng 10 năm 2000, Incombank, là ngân hàng đầu tiên giới thiệu dịch vụ tài chính qua internet đồng thời cung cấp dịch vụ hỏi đáp qua mạng cho khách hàng. Incombank là ngân hàng đầu tiên và duy nhất tham gia vào thanh toán qua mạng, nằm trong dự án Thương Mại Điện Tử Việt Nam do Bộ Thương Mại chủ trì. Bộ Thương Mại đánh giá rất cao những gì đạt được trong dự án này. Nó đóng vai trò nền tảng cho Internet-banking hay e-banking. Tháng 11 năm 2002, Incombank khai trương dịch vụ ngân hàng qua Internet hay còn gọi là Internet - banking. Dịch vụ này cho phép khách hàng tra soát, chuyển tiền, trả tiền dịch vụ qua trang chủ của Incombank vào bất cứ lúc nào. Năm 2001, lần lượt các ngân hàng tung ra thị trường dịch vụ Internet -banking. Đó là ACB, Vietcombank, Techcombank, BIDV. Cho tới nay Internet -banking của Vietcombank đã tiến vượt trội hơn hẳn các ngân hàng khác. ACB tiến hành dịch vụ ngân hàng qua điện thoại gọi là -phone-banking, cho phép khách hàng dùng điện thoại di động kết nối với hệ thống ngân hàng để nghe các thông tin về tài khoản như số dư, liệt kê giao dịch, hay các thông tin chứng khoán của công ty chứng khoán ACB. Tháng 9 năm 2002, Techcombank tiến hành dịch vụ phone-banking. Hiện đại hoá dịch vụ ngân hàng và hệ thống thanh toán đang từng bước cải thiện dịch vụ ngân hàng truyền thống, mang lại lợi ích không nhỏ cho cả ngân hàng lẫn khách hàng. Dưới đây là một số địa chỉ trang chủ của các ngân hàng: - - - - - - - - - Trang chủ Ngân hàng Vietcombank: Trang chủ của ngân hàng ACB Tuy nhiên trang chủ của các ngân hàng Việt Nam còn rất nghèo nàn cả về hình thức lẫn nội dung. Chủ yếu giống như một tờ quảng cáo và các thông tin về ngân hàng thì rất chung chung. Trang chủ của các ngân hàng liên doanh và nước ngoài vẫn hấp dẫn hơn. Một số ngân hàng như ANZ, HSBC, Citibank, Deutsche bank cung cấp dịch vụ tỷ giá hối đoái trực tuyến hay kết nối trang chủ của họ với các trang thông tin nổi tiếng như Yahoo nhằm thu hút khách hàng. Do ảnh hưởng của một số ngành có liên quan như, bưu chính viễn thông, điện: cước phí internet, điện thoại cao, nguồn điện không ổn định...Internet -banking hay phone -banking còn chưa phổ biến. 2.5 Thị trường điện tử liên ngân hàng 2.5.1 Hệ thống liên ngân hàng trung ương - Interbank Trong một nỗ lực cải thiện hệ thống thanh toán, tháng 5 năm 2002, ngân hàng trung ương đã đưa vào hoạt động hệ thống thanh toán liên ngân hàng. Đó là hệ thống máy tính nằm trong dự án trị giá USD 13,1 triệu do Ngân Hàng Thế Giới tài trợ nhằm giúp Việt Nam hiện đại hoá hệ thống thanh toán thông tin ngân hàng. Một hệ thống thanh toán nối mạng trên toàn quốc mà trung tâm là Ngân Hàng Nhà Nước được lắp đặt. Nó cho phép kết nối 100 chi nhánh các ngân hàng trong cả nước. Hệ thống này có rất nhiều điểm tiến bộ so với hệ thống bù trừ giấy tờ trì trệ và cồng kềnh... Tốc độ giao dịch nhanh hơn, an toàn và thuận tiện hơn. Với hệ thống này, thời gian thực hiện cho một giao dịch rút ngắn chỉ còn 10 giây. Tuy nhiên còn nhiều khó khăn đặt ra. Đó là vẫn chưa có một quy định vận hành, nhằm đảm bảo cho hệ thống này hoạt động hoàn hảo. Hơn thế nữa, vấn đề thiếu nhân viên chuyên nghiệp vận hành hệ thống đang được đặt ra. 2.5.2. Hệ thống liên ngân hàng cục bộ - Intrabank Song song với hệ thống liên ngân hàng trung ương, các ngân hàng thương mại cũng tiến hành cải tổ hệ thống liên ngân hàng cục bộ. BIDV tiến hành mở rộng hệ thống thanh toán của mình bao trùm tất cả các chi nhánh ngân hàng này trên toàn quốc. VBARD tiến hành dự án trị giá USD 94 triệu do ngân hàng thế giới tài trợ. Trong đó có hạng mục hiện đại hoá hệ thống thanh toán trị giá USD 13,17 triệu. Vietcombank đã có Vietcombank - Online, cho phép khách hàng kiểm tra, thanh toán trên tài khoản của họ qua các chi nhánh Vietcombank khác nhau. 2.5.3. Hệ thống liên ngân hàng quốc tế -S.W.I.F.T Đây là hệ thống, nơi diễn ra hàng ngàn trao đổi thông tin, hoạt động có liên quan đến chuyển tiền qua các quốc gia, mở thư tín dụng cho xuất nhập khẩu hàng hoá. Hiện tại có 36 ngân hàng (bao gồm 151 chi nhánh) tham gia S.W.I.F.T, trong đó có 15 ngân hàng Việt Nam và 21 ngân hàng nước ngoài. Bằng việc nâng các cấp hệ thống liên ngân hàng trong nước và quốc tế, thanh toán của hệ thống ngân hàng Việt Nam đã, đang và sẽ được cải thiện theo chiếu hướng nhanh, gọn và hiệu quả hơn. III. Đánh giá tiềm năng thị trường dịch vụ ngân hàng điện tử Căn cứ tình hình đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, chỉ số tăng trưởng kinh tế qua các năm gần đây, và đặc biệt là tiến bộ đạt được trong lĩnh vực cải cách ngân hàng, có thể nói thị trường Việt Nam , thị trường của gần 80 triệu dân là một thị trường tiềm năng cho dịch vụ ngân hàng điện tử. Vấn đề là tiềm năng đó như thế nào, khai thác nó ra sao. Trong khoá luận này tôi xin trình bày một số số liệu khảo sát có liên quan tới thị trường dịch vụ này. Qua đó có thể giúp chúng ta xem xét đánh giá thị trường 1. Khảo sát thị trường Chi tiết kết quả khảo sát bao gồm các mục sau: 1.1 Độ tuổi Nhìn chung dân số Việt Nam là dân số trẻ trên thế giới. Việt Nam là nước đông dân thứ hai ở Nam á và đứng thứ 14 trên toàn thế giới (80 triệu dân). Trong đó Phụ nữ chiếm 50,8 % và nam là 49,2%. Tỷ lệ sinh sản tăng 1,36% /năm. 32 % là từ 0 đến 14 tuổi, 62 % từ 15 đến 64 tuổi và 6% là lớn hơn 65 tuổi. Bảng 7: Độ tuổi 10 - 14 tuổi 15 - 64 tuổi > 65 tuổi 1.2. Trình độ học vấn Bảng 8: Trình độ học vấn Trình độ học vấn % Sau đại học 4% Đại học 34% Cao đẳng, trung cấp 10,5% Học nghề 16% Phổ thông trung học 23% Phổ thông trung học cơ sở 12,5% Nhìn chung trình độ học vấn của Việt Nam vào loại cao so với khu vực. Đây là một thế mạnh để Việt Nam tham gia tiếp thu và áp dụng kiến thức mới, công nghệ mới. 1.3. Nghề nghiệp Bảng 9: Nghề nghiệp Nghề nghiệp % Kinh doanh tự do 26% Nhân viên 20% Cán bộ 18% Chủ doanh nghiệp 11% Giao sư 8% Buôn bán nhỏ 8% Cán bộ chính phủ 4% Giảng viên/giáo viên 3% Nghệ sĩ 1% Nghệ nhân 1% Chiếm một tỷ lệ lớn - 26% là người kinh doanh tự do, 20% là nhân viên, 18% là cán bộ cấp trung và cao 11% là chủ doanh nghiệp, số còn lại là lao động kỹ năng cao như giáo sư, nghệ sĩ. Việc kiểm soát thu nhập người kinh doanh tự do là rất khó. Chưa kể đến các vấn đề bức bối khác như buôn lậu, trốn thuế. Chính vì vậy tỷ lệ thanh toán tiền mặt khá cao. 1.4 Tăng trưởng kinh tế, thu nhập bình quân, thói quen tiêu dùng và tiết kiệm 10 1997 1999 2001 8 6 4 2 0 1998 2000 2002 8,15% 5.76% 4,77% 6,75% 6,84% 7% Bảng 10: Mức tăng trưởng GDP GDP tính theo đầu người mỗi năm: Hà Nội: USD 720/người/năm Đà Nẵng: USD 530/người/năm Thành phố Hồ Chí Minh: USD 1460/người/năm Cần Thơ: USD 353/người/năm Cơ cấu GDP năm 2001: - Nông, lâm, ngư nghiệp: 38,95% - Công nghiệp: 37,75% - Dịch vụ: 23,3% So với các năm trước, cơ cấu này đã thay đổi theo chiều hướng tiến bộ rất nhiều. Song tỷ lệ dịch vụ vẫn còn quá nhỏ cho việc phát triển dịch vụ ngân hàng. Đại bộ phận dân số chiếm 75% có thu nhập bình quân USD35-USD 50/tháng, 13% có thu nhập USD 70/tháng, 10% có thu nhập USD100-USD200/tháng, 5% có thu nhập USD 300-USD500 và 2% có thu nhập trên USD600/tháng. Thu nhập bình quân đầu người thấp. Dẫn đến chỉ số tiêu dùng và dịch vụ thấp. Nói đến ngân hàng, thường người ta nghĩ ngay đến việc gửi tiền tiết kiệm và không nghĩ đến việc trả tiền cho các dịch vụ ngân hàng. Tiết kiệm chiếm 31% tổng thu nhập cá nhân. 1.5. Nhận thức về dịch vụ tài chính ngân hàng 95% số người được hỏi trả lời là nhận tiền lương hay thu nhập bằng tiền mặt. Số còn lại nhận bằng chuyển khoản và séc. Sau đó 98% chi tiêu của họ được thanh toán bằng tiền. Điều này chứng tỏ sự "thống trị " của tiền mặt trong hệ thống thanh toán. Thói quen dùng tiền mặt còn được phản ánh qua cách tiết kiệm. 64% người được hỏi nói rằng họ đâu có kế hoạch tiết kiệm. Chẳng qua là không tiêu tiền hoặc nghĩ rằng tiêu như thế là đủ rồi. 45% dân có thói quen giữ tiền mặt hoặc mua vàng hay ngoại tệ mạnh và cất đi một chỗ. Chỉ có 34% gửi tiền vào ngân hàng. Thói quen này là do mối quan hệ giữa các cá nhân người tiêu dùng và ngân hàng không tốt hoặc không có. Có người nghĩ ngân hàng là một nơi xa lạ, lạnh lùng rất khó tiếp xúc. Có người cho rằng gửi tiền ngân hàng không an toàn và mất thì giờ cho các thủ tục giấy tờ. Trong 10 năm trở lại đây, tình hình này có phần được cải thiện. Ngân hàng tự tìm đến với khách hàng bằng quảng cáo, nhân viên tiếp thị và nhiều hình thức khác. 2. Nhu cầu về dịch vụ ngân hàng điện tử Trên đây là nhận thức nói chung trong dân về dịch vụ ngân hàng. Còn đối với người đã từng sử dụng dịch vụ ngân hàng thì sao. Yêu cầu của họ về dịch vụ này như thế nào? 2.1 Nhu cầu thiết yếu: Trong số những người gửi tiền ngân hàng: 50% vì muốn giữ tiền ở một nơi an toàn, 31 % vì muốn có lãi, 29% vì mục đích tiết kiệm. Trong số những người không gửi tiền ngân hàng: 65 % vì không có tiền hay có nhưng cần tiền mặt cho mục đích khác, 15% vì không tin tưởng ngân hàng và số còn lại là chưa hiểu về dịch vụ ngân hàng. Nhìn chung, nhận thức về sử dụng dịch vụ ngân hàng trong giao dịch là rất nhỏ. Bảng 11: Các loại hình giao dịch bán lẻ Loại hình dịch vụ Mô tả (%) Nhận thức về dịch vụ (%) Có hiểu biết tốt về dịch vụ (%) Tham gia sử dụng Tần số sử dụng Vay Vay để kinh doanh, mua nhà, mua xe 80% 20% 10% Hàng năm Giao dịch qua quầy Rút tiền, chyển tiền, đổi tiền, séc 65% 30% 20% Hàng tháng, hàng năm Giao dịch bằng thiết bị điện tử Internet, điện thoại, thẻ tín dụng, ATM 35% 15% 4% Bảng 11 cho thấy phần đông dân, (80%) cho rằng ngân hàng liên quan đến việc vay và cho vay. Trong số biết đến dịch vụ vay, thì chỉ có 20% có kiến thức tương đối tốt về vay. Và trong số hiểu biết về vay cũng chỉ có 10% đi vay ngân hàng. Tần số giao dịch là năm/lần. Các dịch vụ qua quầy và dịch vụ điện tử được biết đến ít hơn. 70% dân biết đến dịch vụ ngân hàng qua quầy, nhưng gần một nửa trong số đó mơ hồ về thủ tục và quy định về chuyển tiền, rút tiền, mua , bán ngoại tệ. Tần số giao dịch là 3 hay 6 tháng/lần. Công nghệ hiện đại ngày càng trở nên phổ biến. Nhưng cũng chỉ có 15% dân tham gia các dịch vụ ngân hàng điện tử. Các ngân hàng Việt Nam đã sao lãng trong việc tiếp cận và giáo dục khách hàng cá nhân. Đó cũng là nguyên nhân chính dẫn đến việc các dịch vụ ngân hàng tiêu dùng không tồn tại ở Việt Nam. Khi được hỏi về chất luợng dịch vụ của ngân hàng trong nước và nước ngoài, người tiêu dùng đánh giá như sau: Bảng 12: Đánh giá về chất lượng dịch vụ ngân hàng Nhu cầu thiết yếu Ngân hàng nước ngoài Ngân hàng trong nước An toàn và bảo vệ khách hàng 8,85 8,60 Độ tin cậy 8,49 8,46 Bảo vệ thông tin cá nhân 8,91 8,43 Tốc độ phục vụ 8,76 8,06 Thủ tục 8,58 7,93 Thái độ phục vụ 8,73 7,5 Có kiến thức hiểu biết tốt 8,77 7,5 Khách hàng yêu cầu cao nhất ở ngân hàng là sự an toàn và độ tin cậy. Nhìn chung chất lượng phục vụ các ngân hàng nước ngoài vẫn tốt hơn (8/10 điểm). Nhưng khoảng cách giữa ngân hàng nước ngoài và trong nước không quá lớn. Đó chính là dấu hiệu rất tốt cho các ngân hàng Việt Nam. 2.2. Nhu cầu thứ yếu Phát triển xã hội ngày một đi lên. Nhu cầu khách hàng ngày càng cao. Nhất là khi xuất hiện một số dịch vụ mới và sự cạnh tranh của các ngân hàng nước ngoài. Đánh giá về việc đáp ứng nhu cầu khách hàng còn được thể hiện như sau: Bảng 12: Đánh giá về chất lượng đáp ứng nhu cầu thứ yếu dịch vụ ngân hàng Nhu cầu thứ yếu Ngân hàng nước ngoài Ngân hàng trong nước Lãi suất tiền gửi cao 7,99 7,69 Thời gian mở cửa 8,10 7,70 Công nghệ hiện đại 8,80 7,71 Thủ tục, điều kiện linh hoạt 8,26 7,69 Lãi suất cho vay thấp 7,78 7,68 Nhiều chi nhánh 7,66 8,08 Dịch vụ 24/24 - ATM 8,47 6,85 Phí ngân hàng thấp 7,59 7,82 Công nghệ của các ngân hàng nước ngoài cao hơn. Nhưng điểm mạnh của ngân hàng trong nước là có nhiều chi nhánh hơn, phí ngân hàng thấp hơn. 3. Đánh giá chung tình hình hiện tại của hệ thống ngân hàng Việt Nam trong việc triển khai dịch vụ ngân hàng điện tử 3.1 Nhu cầu thị trường Kể từ năm 1996, có thể coi việc chiếc máy ATM đầu tiên do HSBC được lắp đặt là bằng chứng xuất hiện của dịch vụ ngân hàng điện tử. Cho tới nay, với số lượng máy ATM trên thị trường, số lượng thẻ phát hành, số lượng địa điểm chấp nhận thẻ, sự xuất hiện của các dịch vụ mới như phone-banking, internet-banking, chúng ta có thể khẳng định sự tồn tại và phát triển bước đầu của ngân hàng điện tử ở Việt Nam. Rõ ràng nhu cầu cho ngân hàng điện tử là có và có tăng. Song, đại bộ phận nhu cầu đều tập trung ở các thành phố lớn, nơi có thu nhập tương đối cao và ổn định. Nhu cầu này cũng rất khác nhau và chưa thực sự chín muồi. Điều này thách thức các ngân hàng nỗ lực tuyên truyền giáo dục khách hàng. Chi phí cho loại hình dịch vụ này còn cao so với mặt bằng thu nhập. Đó chính là giải thích cho việc tuy nhận thức về ngân hàng điện tử tương đối tốt nhưng tỷ lệ tham gia thực sự không nhiều. Và nếu không tham gia dịch vụ này thì hiểu biết tường tận về dịch vụ này cũng không thể nâng cao. Thói quen tiêu tiền mặt, cộng thêm tính sẵn có của dịch vụ ngân hàng điện tử chưa cao cũng là nguyên nhân dẫn đến việc dịch vụ này chưa phổ biến. Không phải bất cứ địa điểm nào cũng có mặt loại hình dịch vụ này. Các ngân hàng đang sẵn sàng cho việc phát triển dịch vụ này. Nghĩa là cung đã có. Vậy việc khai thác và tăng cầu cho dịch vụ ngân hàng điện tử là một điều hết sức bức thiết. 3.2 Kinh tế pháp lý và chính trị xã hội Tuy nhiên việc tăng cầu trong dân cho ngân hàng điện tử không chỉ cần nỗ lực của các ngân hàng mà còn đòi hỏi các chính sách vĩ mô của nhà nước. Cơ cấu kinh tế nước ta chưa thoát khỏi kinh tế nông ngiệp. Cơ cấu dịch vụ quá thấp chưa cho phép ngân hàng điện tử, một loại hình dịch vụ cao cấp của một nền kinh tế tương đối phát triển. Điều kiện chính trị hiện nay chưa cho phép nền kinh tế nước ta "mở" hoàn toàn. Do vậy cũng còn nhiều hạn chế đối với việc nhận thức của dân về các vấn đề tiến bộ, hạn chế phát triển một số ngành như thông tin viễn thông, điện, điện tử. Quá trình "đổi mới" mới diễn ra trong 10 năm gần đây. Đó là một quãng thời gian quá ngắn, chưa đủ để làm thay đổi thói quen sống và làm việc của đại bộ phận dân chúng. Về mặt xã hội, cũng phải lưu ý tới nhận xét của nhiều học giả rằng, do lịch sử hàng nghìn năm sống trong nền "văn minh làng xã" đông đảo dân chúng Việt Nam chưa xây dựng được một tác phong "làm việc đồng đội" ở tầm toàn xã hội và tầm quốc tế, cũng như chưa có được lối sống theo pháp luật chặt chẽ, theo kỷ luật lao động công nghiệp tiêu chuẩn hoá, đều là những yếu tố mà thương mại điện tử nói chung hay ngân hàng điện tử nói riêng đòi hỏi một cách nghiêm ngặt. Hệ thống pháp lý liên quan đến thương mại điện tử và ngân hàng điện tử mới hình thành, chưa đầy đủ và thiếu đồng bộ. Các quy định về tài chính nói riêng và các quy định chung khác có liên quan thay đổi trong một thời gian khá ngắn. Điều này khiến cho hoạt động của các ngân hàng còn dè dặt, lòng tin của dân đối với ngân hàng chưa cao. 3.3. Công nghệ và nhân lực Như trên đã trình bày, công nghệ thông tin và tin học phát triển chính là một trong những động lực chính tạo ra ngân hàng điện tử. Sự phát triển công nghệ thông tin là một điều không thể phủ nhận. Và càng không thể phủ nhận nỗ lực của các ngân hàng trong việc áp dụng công nghệ hiện đại. Chính phủ cũng đã ban hành một số chính sách kịp thời để khuyến khích sự phát triển này: - Thu thuế thấp nhất đối với hoạt động trong lĩnh vực công nghệ thông tin - Đầu tư ngân sách nhà nước (hơn 5%) cho xây dựng cơ sở hạ tầng và phát triển công nghệ thông tin. - Sửa đổi luật ngân hàng - Chi 1 tỷ đồng cho dự án phát triển thương mại đIện tử. Gồm 14 tiểu dự án về hạ tầng cơ sở pháp lý. Đội ngũ nhân lực tin học và ngân hàng có thể nói khá mạnh: trẻ, thông minh, sánh tạo. Song, lực lượng này hiện nay chưa được tập hợp một cách có hệ thống và chưa được khai thác một cách đúng mức và có hiệu quả. Đa phần trong số họ làm việc cho các công ty nước ngoài. Trong khi các công ty trong nước thiếu một lực lượng chuyên nghiệp thực sự đủ năng lực để xử lý các hệ thống và phần mềm ứng dụng toàn quy mô lớn. Nhìn chung, trong vòng một thời gian ngắn, ngân hàng điện tử đã đi lên những thành công hôm nay từ con số không. Nó chứng tỏ sự phát triển tất yếu của ngành ngân hàng nói riêng và kinh tế xã hội nói chung. Tuy nhiên, để duy trì những thành công bước đầu và phát triển như mong đợi, dịch vụ ngân hàng điện tử còn đòi hỏi rất nhiều nỗ lực của hệ thống ngân hàng Việt Nam, các ngành có liên quan và Chính phủ. Chương III: Giải pháp nhằm thúc đẩy dịch vụ ngân hàng điện tử ở Việt Nam I. Xu hướng phát triển ngân hàng điện tử ở Việt Nam 1. Xu hướng trước mắt Theo báo cáo của ASEAN tháng 10 năm 2001, Việt Nam đã được xếp vào một trong số những quốc gia sẵn sàng cho thương mại điện tử. Bảng 13: Tình hình phát triển E - BANKING ở ASEAN Xuất hiện Tham gia Phát triển Phát triển mở rộng Singapore Malaysia Thailand Philippines Brunei Indonesia Việt Nam Cambodia Myanmar Lào Điều này có nghĩa là Việt Nam mới bắt đầu nhận ra sự tồn tại tất yếu của thương mại điện tử và có kế hoạch chuẩn bị cho việc tiến hành. Chính phủ Việt Nam đã có những cam kết về thương mại điện tử trong lộ trình gia nhập AFTA, APEC và tiến tới là WTO. Bằng chứng là trong 5 năm qua thương mại điện tử Việt Nam hay cụ thể là ngân hàng điện tử Việt Nam đã bước đi những bước đáng kể. Như đã phân tích ở trên, hệ thống ngân hàng Việt Nam còn xa mới theo kịp các nước trong khu vực. Singapore có ATM từ năm 1979, Malaisia có ATM vào năm 1981, còn chúng ta, mới chỉ bắt đầu từ 1996. Kể từ cuối năm 2001, hệ thống ATM phát triển bùng nổ ở Việt Nam. Các ngân hàng đang trong một cuộc chạy đua về ATM. Xu thế này sẽ vẫn tiếp tục phát triển trong một vài năm tới. Bởi vì các ATM hiện nay mới chỉ tập trung nhiều ỏ Hà nội và thành phố Hồ Chí Minh. Tất cả các ngân hàng đều có mong muốn hệ thống ATM của mình có mặt tại các tỉnh thành trong cả nước. Đi đôi với ATM là dịch vụ thẻ, bao gồm cả phát hành và chấp nhận thanh toán. Thẻ và ATM là mục tiêu trước mắt của các ngân hàng. Chủ trương phát triển dịch vụ ngân hàng tiêu dùng, ngân hàng bán lẻ buộc các ngân hàng phải nhanh chóng mở rộng hệ thống khách hàng cá nhân. Nhưng những ràng buộc như hạn chế về số lượng chi nhánh, số lượng nhân viên, thời gian phục vụ tại quầy đã khiến cho việc phục vụ một số lượng lớn khách hàng là vô cùng khó khăn. Chính vì vậy, thẻ và ATM là dịch vụ lợi thế nhất mang lại hiệu quả cho cả khách hàng và ngân hàng. Tuy nhiên việc lắp đặt chồng chéo ATM của các ngân hàng là không thể tránh khỏi. Chi phí quá lớn cho việc đầu tư lắp đặt hệ thống này có thể phải xem lại đối với một số ngân hàng vốn nhỏ. Tránh tình trạng đầu tư mua máy mà chưa đưa vào sử dụng trong thời gian dài, gây đọng vốn quá lâu. Dịch vụ phone-banking và internet-banking trong thời gian tới mới chỉ bước đầu đưa vào hoạt động hoặc thử nghiệm hoạt động. Nguyên nhân là các dịch vụ này đòi hỏi một cơ sở hạ tầng công nghệ cao. Cần có thời gian cho các ngân hàng thiết lập và nâng cấp hệ thống kỹ thuật cũng như cho người tiêu dùng nâng cao nhận thức và có một hiểu biết tương đối về dịch vụ có tính chất cách mạng trong lĩnh vực tài chính này. 2 Xu hướng lâu dài Nền tảng của thương mại điện tử và ngân hàng điện tử là Internet. Internet đang phát triển rất nhanh cả về phạm vi bao phủ, phạm vi ứng dụng và chất lượng vận hành. Hiện nay, có khoảng 100 triệu người đang sử dụng Internet. Theo dự báo số người sử dụng Internet trên toàn thế giới năm 2005 sẽ lên tới 1 tỷ người. Tính đến cuối năm 2000, số thuê bao Internet ở Việt Nam là 113.000 và chưa đầy 1000 doanh nghiệp có trang chủ riêng. Tuy nhiên phải tính đến việc chúng ta mới chỉ ra nhập Internet từ cuối năm 1997. Không nằm ngoài xu hướng phát triển trong khu vực và trên toàn thế giới, Internet cũng sẽ bùng nổ ở Việt Nam trong những năm tới. Đó chính là cơ sở để phát triển ngân hàng điện tử ở Việt Nam. Hiện nay Chính phủ đang xem xét để thông qua kế hoạch tổng thể nằm thực hiện nghiêm túc chỉ thị 58/CT-TW chỉ đạo về công nghệ thông tin trong tình hình mới. Đào tạo nguồn nhân lực để phát triển công nghệ thông tin. Trong mọi lĩnh vực, nguồn nhân lực là hết sức quan trọng. Nguồn nhân lực công nghệ thông tin nước ta mới đang ở dạng tiềm năng chứ chưa phải ở dạng khả năng khai thác. Mục tiêu của chúng ta là khuyến khích nâng cao trình độ ứng dụng công nghệ thông tin, có những chính sách nhằm thu hút tài năng tin học, có những sản phẩm phần mềm thay thế được nhập khẩu. ứng dụng công nghệ thông tin ở tất cả các hoạt động kinh tế xã hội. Điều này không những xây dựng một nền kinh tế mới mà còn nâng cao nền kinh tế tri thức, làm nền tảng cho sự phát triển của các loại hình dịch vụ cao cấp. Xây dựng cơ sở hạ tầng viễn thông và Internet ở Việt Nam. Với quyết tâm cao của ngành bưu chính viễn thông, của đông đảo cộng đồng khoa học công nghệ, hạ tầng cơ sở viễn thông giai đoạn tới phải được nâng lên ngang bằng với khu vực. Mục tiêu là tạo ra sự bùng nổ đột biến Internet ở Việt Nam. Và chỉ có cách đó chúng ta mới hoà nhập, sử dụng thương mại điện tử, Chính Phủ điện tử như Chính phủ nước ta đã cam kết với chính phủ các nước Đông nam á. Kế hoạch đồng bộ hiện đại hoá công nghệ ngân hàng. Hoàn thiện nâng cấp kỹ thuật hệ thống mạng thông tin ngân hàng rộng khắp từ Trung ương đến tất cả các chi nhánh. Xây dựng cơ sở dữ liệu toàn ngành, phục vụ công tác quản lý của Ngân Hàng Nhà Nước. Ưu tiên phát triển hệ thống thanh toán Quốc gia. Phổ cập dịch vụ ngân hàng tiêu dùng trong dân. Hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp lý trong các nghiệp vụ ngân hàng, đặc biệt là các lĩnh vực liên quan trực tiếp tới công nghệ ngân hàng hiện đại. II. Một số kiến nghị giải pháp cho việc phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử ở Việt Nam Trong quá trình đương đầu với những thách thức mới trên thị trường, ngành ngân hàng thế giới luôn theo đuổi hai mục tiêu chiến lược. Đó là cạnh tranh toàn cầu và không ngừng phát triển khoa học công nghệ. Ngành ngân hàng ngày nay đang dần thay thay thế phương thức hoạt động truyền thống bằng phương thức mới. Đó chính là ngân hàng điện tử. Khái niệm ngân hàng điện tử tuy còn mới mẻ đối với Việt Nam. Song, để phát triển thương mại điện tử thì việc tiến hàng ngân hàng điện tử là điều thiết yếu, giúp nền kinh tế Việt Nam nhanh chóng hoà nhập với nền kinh tế toàn cầu. Vấn đề chỉ còn là thời gian và những biện pháp cả ở tầm vĩ mô và vi mô để tạo ra một môi trường tốt cho ngân hàng điện tử phát triển. 1. Kiến nghị giải pháp vĩ mô Chính phủ đóng vai trò đặc biệt quan trọng để thực hiện ngân hàng điện tử thông qua việc đưa ra các định hướng, xây dựng cơ sở hạ tầng pháp lý, triển khai cơ sở hạ tầng kỹ thuật cũng như ban hành các chính sách phát triển một cách hợp lý. Chính phủ cần thể hiện rõ là người dẫn đầu cuộc chơi trong việc đem lại lợi ích quốc gia. Cụ thể có những việc cần làm như sau: 1.1. Cải cách nâng cao hệ thống quản lý ngân hàng Một hệ thống tài chính ngân hàng hoạt động hiệu quả là một trong số điều kiện tiên quyết sự ổn định và phát triển một nền kinh tế, đặc biệt là đối với các quốc gia đang phát triển. Ngành ngân hàng Việt Nam mới chỉ chuyển đổi cơ cấu trong một thời gian ngắn. Khoảng thời gian này chưa để đủ tạo ra một hệ thống ngân hàng theo tiêu chuẩn quốc tế. Quá trình đổi mới vẫn còn đang tiếp diễn. Ngoài những bước đi ban đầu, ngành ngân hàng Việt Nam cần được củng cố thêm rất nhiều tạo cơ sở để phát triển ngân hàng điện tử. * Hiện đại hoá tổ chức và hoạt động hành chính của các ngân hàng thương mại - Cải thiện và củng cố lại các quy tắc quản lý kế toán của các ngân hàng thương mại theo tiêu chuẩn quốc tế - Nâng cao năng lực quản lý trong ngành ngân hàng. Giảm bớt hệ thống quản lý, nhân viên cồng kềnh. Giảm bớt số lượng ngân hàng nhỏ, không hiệu qủa. - Tiến hành kế hoạch tập trung xúc tiến và trao đổi các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng điện tử một cách nghiên túc. - Tạo điều kiện đa dạng hoá sản phẩm dịch vụ ngân hàng. - Thông tin kịp thời về những tiến bộ công nghệ tới các cán bộ ngân hàng. Đầu tư thoả đáng cho việc xây dựng một nguồn nhân lực chuyên nghiệp. * Tạo điều kiện để hệ thống ngân hàng Việt Nam giao lưu với ngân hàng trong khu vực và trên thế giới Do chức năng và tính chất của hoạt động, hệ thống ngân hàng một nước luôn đòi hỏi một mối liên hệ chặt chẽ với hệ thống ngân hàng thế giới. Chính phủ cần: - Dần dần dỡ bỏ chính sách quản lý và bảo hộ quá chặt chẽ đối với hệ thống ngân hàng bằng cách để các ngân hàng Việt Nam tham gia vào các tổ chức tài chính khu vực và thế giới, khuyến khích đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực tài chính. - Đưa các chương trình hợp tác xây dựng cơ sở hạ tầng, đầu tư thương mại điện tử vào kế hoạch phát triển hàng năm. - Hợp tác triển khai các dự án thương mại điện tử có quy mô quốc gia theo tiêu chuẩn quốc tế. 1.2 Xây dựng và cải thiện hành lang pháp lý và các quy định khung cho ngân hàng điện tử * Xây dựng hệ thống luật, các quy định khung cho ngân hàng điện tử Hệ thống luật pháp liên quan tới ngân hàng điện tử hiện nay được tạo ra bởi rất nhiều cấp độ khác nhau như Quốc hội, Thủ tướng chính phủ, các Bộ, Ngân Hàng Nhà Nước, Uỷ ban nhân dân thành phố. Tất nhiên các văn bản phát hành cấp Quốc hội vẫn có hiệu lực cao nhất. Nhưng điều này tạo ra sự chồng chéo về quy định mà vẫn không đầy đủ, rất khó áp dụng. Hơn thế nữa, việc thi hành chậm trễ các văn bản luật và dưới luật diễn ra rất phổ biến. Ví dụ như trường hợp quyết định 44/2002QĐ-TTg về vấn đề sử dụng hoá đơn điện tử trong thanh toán các dịch vụ do chính phủ ban hành ngày 21/3/2002. Nhưng đến ngày 8/10/2002, Ngân Hàng Nhà Nước mới ban hành thông tư 1092/2002/QĐ-NHNN hướng dẫn thực hiện quyết định này cho các ngân hàng thương mại. Cần có thêm các thông tư hướng dẫn thi hành các vấn đề như thanh toán điện tử, tiền điện tử, vấn đề an toàn và bảo mật...Tham khảo luật và các tiền lệ khu vực và thế giới để có chung "một tiếng nói" với các quốc gia khác. Việc ban hành và sửa đổi các quy chế ngân hàng phải căn cứ và xuất phát từ những hoạt động thương mại và công nghệ hiện đại. * Ban hành các quy chế nhằm tạo ra hệ thống thanh toán không dùng tiền mặt Hạn chế thanh toán tiền mặt, trước tiên là trong hệ thống ngân hàng. Tiến hành thanh toán qua tài khoản cho việc trả lương, thanh toán giữa các ngân hàng. Khuyến khích mở tài khoản cá nhân. 1.3. Đầu tư nâng cấp hạ tầng cơ sở công nghệ thông tin Nền tảng của ngân hàng điện tử là công nghệ thông tin, cần có sự đầu tư thoả đáng không chỉ từ các ngân hàng mà còn từ phía Chính phủ. * Thiết lập một hệ thống thanh toán tiêu chuẩn Hệ thống thanh toán ở Việt Nam còn nhiều điều bất cập, chưa hoàn thiện, chưa nối mạng quốc tế và bị lấn át bởi hệ thống thanh toán bằng tiền mặt. Việc cải tổ lại hệ thống thanh toán không chỉ mang lại lợi ích cho ngân hàng mà còn mang lại lợi ích quốc gia. Hệ thống liên ngân hàng điện tử mới đưa vào hoạt động gần đây như là một bước tiến căn bản tạo nền móng vững chắc cho hệ thống ngân hàng trên toàn quốc. Hệ thống này cần được duy trì và khai thác một cách có hiệu quả hơn. Ngân Hàng Nhà Nước cần có các chính sách hỗ trợ khuyến khích các ngân hàng thương mại tự đầu tư cho hạ tầng cơ sở thanh toán điện tử. Xoá bỏ một số quy định cản trở các ngân hàng thương mại trong việc thiết lập kế hoạch chiến lược lâu dài đầu tư hiên đại hoá cơ sở hạ tầng. * Xúc tiến ngành công nghệ tin học ngân hàng Công nghệ tin học ngân hàng đang phải đối mặt với rất nhiều rào cản như trình độ quản lý kỹ thuật yếu kém, phát triển không đồng đều, thiếu vốn... Chính phủ có thể cho phép các công ty tài chính nước ngoài đầu tư một phần trong lĩnh vực thông tin viễn thông nhưng không cho họ liên quan tới các hoạt động điều hành nhằm thu hút vốn và kinh nghiệm kỹ thuật của họ mà vẫn kiểm soát được lĩnh vực này. * Phổ cập công nghệ thông tin trong dân, xây dựng nguồn nhân lực tin học chuyên nghiệp Với cơ sở vật chất thiếu thốn như hiện nay, chúng ta không có hi vọng làm cho cả gần 80 triệu dân Việt Nam hiểu đầy đủ về Internet, song ít nhất chúng ta có thể đưa tin học tới mọi nơi có thể đến được. Đó là các công sở đã có hệ thống máy tính nối mạng Internet, là việc giảng dạy ở các cấp trường học, là việc tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng. Cần đưa báo chí, trung tâm thông tin lên mạng. Bằng cách tra cứu này, biến internet thành thứ công cụ gần gũi phổ biến cho các công ty và cá nhân. Cần đẩy mạnh kinh doanh thông tin trên internet nhằm lôi kéo các doanh nghiệp nối mạng. Các nội dung thông tin phải cập nhật, chính xác và bao trùm cả nước. Hoàn thiện các kỹ năng nghiệp vụ sử dụng internet. Phát triển internet là trước hết phải phát triển các nhà cung cấp dịch vụ internet. Bằng cách này mới mong tăng số lượng thuê bao internet. Các cơ quan quản lý nhà nước tích cực tham gia nối mạng để cung cấp các thông tin về chế độ chính sách, luật pháp, từ đó tạo thói quen dùng internet trong đời thường. Lựa chọn các doanh nghiệp để tham gia vào mạng. Khuyến khích tổ chức các hoạt động nghiên cứu sáng tạo tin học như cuộc thi "Trang Web ấn tượng năm 2000" do tổng công ty bưu chính viễn thông Việt Nam, Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam và Đài truyền hình Việt Nam tổ chức. Chúng ta đang thiếu một nguồn nhân lực công nghệ thông tin chuyên nghiệp. Việc sử dụng máy tính ngày càng phổ biến nhưng ít nhiều vẫn mang tính tự phát. Đặc biệt là trong lĩnh vực phần mềm. Chúng ta chưa có một lực lượng chuyên gia lập trình có khả năng xử lý ứng dụng hệ thống tầm cỡ quốc gia. Đây là vấn đề đặt ra cho Bộ Giáo dục Đào tạo, Bộ Khoa học Công nghệ Môi trường và Bộ Lao động Thương binh Xã hội. Điều đáng nói tới là phương pháp đào tạo giáo dục. Hiện nay, nhiều sinh viên tin học tài năng lại không được hoặc không thể sử dụng trong các lĩnh vực ngân hàng. Nguyên nhân là họ không có chút kiến thức tối thiểu về ngành tài chính ngân hàng. Việc khuyến khích các sinh viên tin học tham gia sáng tạo ứng dụng công nghệ thông tin trong lĩnh vực ngân hàng còn rất ít. II. Kiến nghị giải pháp vi mô Sau đây là một số giải pháp từ phía các ngân hàng thương mại, bộ phận đóng vai trò chính trong việc tiến hành và phát triển ngân hàng điện tử. 1. Chiến lược phát triển và quản lý hệ thống khách hàng Dịch vụ ngân hàng tiêu dùng ở Việt Nam mới chỉ bắt đầu xuất hiện. Nhìn ở tầm dân chúng rộng rãi, nhận thức và hiểu biết về ngân hàng chưa rõ ràng và đầy đủ. Về phía các ngân hàng, phần lớn các ngân hàng cho tới nay vẫn còn sao lãng việc phát triển hệ thống khách hàng cá nhân. Các ngân hàng thương mại quốc doanh dựa dẫm vào nhà nước mà bỏ qua sự cần thiết trong việc tìm đến với khách hàng. Còn các ngân hàng cổ phần thì còn quá nhỏ và thiếu kinh nghiệm. Trong nền kinh tế thị trường, việc xây dựng hệ thống khách hàng là vô cùng quan trọng. Khách hàng chính là sự tồn tại của doanh nghiệp. Phương thức cung cấp dịch vụ truyền thống của các ngân hàng Việt Nam không còn có đủ khả năng tồn tại trước thách thức của cơ cấu kinh tế thị trường. Trong xu thế toàn cầu hoá và sự phát triển công nghệ thông tin cho phép các đối thủ cạnh tranh mở rộng thị trường không chỉ trong phạm vị một nước mà là trên toàn thế giới. Nó tạo ra cho các ngân hàng có chiến lược marketing mạnh nhiều cơ hội và thách thức những ngân hàng có quy mô khách hàng nhỏ. Hơn bao giờ hết, đẩy mạnh marketing phát triển hệ thống khách hàng là nhiệm vụ đầu tiên của các ngân hàng. Ngày nay, sự khác biệt của các dịch vụ tài chính giữa các ngân hàng không còn là bao. Ngân hàng nào cũng có các dịch vụ như nhau Rất khó khăn để trở nên nổi trội trên thị trường. Do vậy cần phải duy trì một mối quan hệ tốt đối với khách hàng. Duy trì chất lượng dịch vụ, xây dựng kế hoạnh giữ vững thị phần và quy mô khách hàng. Nghiên cứu tìm hiểu kể cả nhu cầu nhỏ của khách hàng nhằm mang lại cho khách hàng dịch vụ cần thiết đúng lúc. Phưong châm là "đúng người, đúng sản phẩm, đúng lúc" Một số yêu cầu cụ thể đối với ngân hàng: * Hiểu khách hàng Xây dựng cơ sở dữ liệu về khách hàng, các sở thích, nhu cầu thiết yếu, thứ yếu. Nhằm đáp ứng nhu cầu của khách hàng thông qua việc phát triển dịch vụ, sản phẩm và xây dựng giá cho mỗi loại khách hàng * Luồng phân phối sản phẩm Các luồng sản phẩm mới phải thường xuyên đuợc tung ra xen kẽ luồng sản phẩm cũ. Giúp khách hàng luôn có nhiều sự lựa chọn. Đi đôi với việc này là các chiến dịch quảng bá khuyến khích khách hàng sử dụng sản phẩm mới. Từ đó dần thay thế sản phẩm cũ đã hết tuổi thọ trên thị truờng. * Tạo ra khách hàng Điều này đòi hỏi phải có một đội ngũ nhân viên marketing chuyên nghiệp, chủ động biến nhu cầu tiềm năng của khách hành thành nhu cầu thực sự, xoá bỏ định kiến của khách hàng, tăng cuờng dịch vụ sau bán hàng để nhanh chóng lấp đầy các "khe hở" hiểu biết chưa đầy đủ về dịch vụ của khách. 2. Xây dựng chiến lược đầu tư thực hiện ngân hàng điện tử Mỗi ngân hàng cần phải xây dựng một chiến lược công nghệ thông tin cho ngân hàng mình nhằm thực hiện chiến lược tổng thể của ngân hàng, có tính đến nội lực. Tránh tình trạng đầu tư tràn lan, mất cân đối, thời gian hoàn thiện kéo dài. Với 15% trong số các ngân hàng thể hiện quan tâm đối với ngân hàng điện tử hiện nay thì qủa là đáng ngại. Thực tế, đầu tư cho ngân hàng điện tử yêu cầu một lượng vốn quá cao mà không phải ngân hàng nào cũng đáp ứng nổi. Lãnh đạo các ngân hàng phải có sự quan tâm chỉ đạo sát sao. Với tầm nhìn của mình, lãnh đạo ngân hàng có thể thấy một bức tranh toàn cảnh, từ đó mà cân đối giữa ngân hàng điện tử và các phần dich vụ khác. Các ngân hàng đã tham gia thực hiện ngân hàng điện tử cần thực hiện triệt để hệ thống ngân hàng điện tử đã xây dựng, tránh tình trạng lãng phí về người và của. Cuối cùng, các ngân hàng không quên phối kết với các nhà hoạch định kinh tế vĩ mô, các ngành có liên quan để có thể từng bước hoàn thiện cơ chế, chính sách nhất là cơ sở hạ tầng truyền thông, chi phí giao dịch điện tử. 3. Vấn đề an toàn và bảo mật Vấn đề an toàn và bảo mật là vấn đề quan trọng đối với ngân hàng đặc biệt là ngân hàng điện tử. Để dẫn tới thành công trong phương thức cung cấp dịch vụ ngân hàng mới này, điều đầu tiên là ngân hàng phải chiếm được lòng tin của khách hàng. * áp dụng các biện pháp an toàn cần thiết Về mặt kỹ thuật, hiện nay một số các ngân hàng các hê thống an toàn như Secure Sockets Layer (SSL) hay Secure Electronic Transaction (SET). Ngoài ra các ngân hàng cần thiết lập một chính sách quản lý rủi ro nội bộ. Cuốn "Nguyên tắc quản lý rủi ro cho các hoạt động ngân hàng điện tử" do BASEL phát hành là một tài liệu tham khảo rất tốt. * Giáo dục khách hàng Thực tế, những sơ xuất của khách hàng do thiếu hiểu biết đã dẫn đến những rủi ro đáng tiếc. Khách hàng dường như phó mặc cho ngân hàng và không nghĩ rằng mình cũng phải có trách nhiệm tự bảo vệ. Ví dụ như một người để cho người thân của mình biết mã số bí mật và sử dụng thẻ tín dụng của mình một vài lần. Điều này rất dễ dẫn đến tranh chấp giữa ông ta với ngân hàng. Ông ta có thể từ chối các giao dịch xảy ra tại các địa điểm mà ông ta chứng minh là mình không thể có mặt ở đó. Ngân hàng có thể giáo dục hoặc cảnh báo nguy cơ cho khách hàng bằng các thông báo in trên bản sao kê tài khoản, thư, đơn đăng ký dịch vụ. Và luôn nhắc nhở khách hàng tuân theo các quy dịnh đảm bảo an toàn. 4. Thiết kế trang chủ và tận dụng tiến bộ của trang chủ Trang chủ, tiếng Anh là Web site có thể được sử dụng với nhiều mục đích khác nhau. Đối với ngân hàng thì nó là một thị trường thông tin trên mạng. Nó cho phép xúc tiến các hoạt động quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng. Trang chủ là cở sở của Internet-banking. Các ngân hàng thương mại Việt Nam cần lưu tâm hơn dến vấn đề thiết kế trang chủ, sao cho dẹp mắt, hấp dẫn hơn, thông tin cập nhật, phong phú hơn nhằm thu hút chú ý của khách hàng. Các ngân hàng cần cân nhắc đến việc tổ chức nhiều các giao dịch thực sự trên các trang chủ hơn nhằm chiếm lòng tin khách hàng, xoá bỏ mối e ngại ban đầu của khách hàng về Internet-banking, làm Internet-banking trở nên phổ biến. Kết luận Ngân hàng điện tử là một phương thức mới của các hoạt động tài chính ngân hàng. Sự ảnh hưởng lớn lao của nó không chỉ ở những gì mà người ta dễ nhận ra như tăng số lượng khách hàng và dịch vụ ngân hàng, giảm bớt chi phí, giảm bớt khâu trung gian, tào điều kiện thuận lợi cho khách hàng...mà còn ở những điều khó nhận thấy hơn như mô hình thanh toán, hiệu quả hoạt động tài chính, cấu trúc thị trường, luật pháp, chính sách,.., từ đó ảnh hưởng sâu rộng tới toàn bộ nền kinh tế xã hội của các nước và trên toàn thế giới. Ngân hàng điện tử là cuộc cách mạng trong lĩnh vực tài chính ngân hàng. Nó không chỉ mở ra cơ hội phát triển cho ngành tài chính ngân hàng mà còn cho các ngành khác như công nghệ thông tin, du lịch, sản phẩm và dịch vụ tiêu dùng... Ngân hàng điện tử là một phần của thương mại điện tử và tiến trình "toàn cầu hoá". Trong vòng 10 năm, hệ thống ngân hàng Việt Nam đã đưa ngân hàng điện tử Việt Nam đi lên từ con số không và đạt được những thành tích đáng kể. Ngân hàng điện tử mang tính chất xúc tác thúc đẩy nhanh chóng quá trình cải tổ làm thay đổi hệ thống ngân hàng Việt Nam nói riêng và kinh tế Việt Nam nói chung, góp phần thực hiện các cam kết của nước ta trên lộ trình gia nhập ASEAN, AFTA, APEC và tương lai là WTO. Tuy còn nhiều vấn đề phải nghiên cứu và hoàn thiện trong các lĩnh vực kinh tế, kỹ thuật, pháp luật và xã hội để có thể thúc đẩy ngân hàng điện tử phát triển ở Việt Nam, nhưng nhìn vào xu hướng phát triển ngân hàng điện tử trên thế giới và bước đi ban đầu của Việt Nam trong lĩnh vực này, ta có thể khẳng định rằng Việt Nam tất yếu sẽ triển khai thành công ngân hàng điện tử. Vì thời gian hạn chế nên bài khóa luận này không tránh khỏi có những thiếu sót về nội dung cũng như hình thức. Rất mong sự góp ý của các thầy cô để tôi có thể hoàn thiện thêm. Xin chân thành cảm ơn.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docngan_hang_dien_tu_o_viet_nam_191.doc
Tài liệu liên quan