Đề tài Ngành công nghiệp chế biến gỗ, thách thức và cơ hội

Báo cáo này được chia thành 5 phần, bao gồm: Phần I. Giới thiệu chung Phần II. Thực trạng ngành công nghiệp chế biến gỗ của Việt Nam Phần III. Thách thức và cơ hội của ngành công nghiệp chế biến gỗ VN Phần IV. Khuyến nghị về hoàn thiện chính sách và các giải pháp để thúc đẩy sự phát triển bền vững ngành công nghiệp chế biến gỗ Việt Nam Phần V. Phụ lục Phần VI. Tài liệu tham khảo

pdf37 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1721 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Ngành công nghiệp chế biến gỗ, thách thức và cơ hội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
DN theo loại sản phẩm chính (năm 2007) Loại sản phẩm chính DN trong nước/liên doanh FDI (% vốn nước ngoài) Tổng Đồ gỗ 2.165 302 2.476 Dăm gỗ XK 22 3 25 Ván nhân tạo 11 4 15 Tổng cộng: 2.198 309 2.526 (Nguồn: VIFORES, 2008) 1.2 Kết quả sản xuất kinh doanh của ngành công nghiệp chế biến gỗ - Giá trị sản xuất của ngành công nghiệp chế biến lâm sản (tính theo phương pháp công xưởng) tăng mạnh trong thời kỳ 2000-2005. Giá trị sản xuất của ngành công nghiệp chế biến gỗ tính theo giá thực tế của năm 2005 so với năm 2000 tăng 4,44 lần và tăng 2,9 lần tính giá so sánh năm 1994. Tổng giá trị sản xuất tính theo giá thực tế năm 2005 đạt 60.059 tỷ đồng, tương đương với khoảng 4 tỷ USD. Bảng 11. Giá trị sản xuất của ngành công nghiệp CBG và lâm sản giai đoạn 2000-2005 Đơn vị tính: Tỷ VND Hoạt động Giá trị sản xuất công nghiệp chế biến lâm sản 2000 2002 2003 2004 2005 a) Sản xuất sản phẩm gỗ và lâm sản - Giá thực tế 6059,3 8587,0 11.249,0 14.766,8 19.539,3 - Giá so sánh 3598,0 4488,0 5494,4 6570,3 8120,4 b) Sản xuất giường tủ, bàn ghế - Giá thực tế 7435,5 12.971,6 20.719,7 30.356,7 40.519,9 - Giá so sánh 3930,9 6057,3 7846,3 10.179,0 13.411,1 Tổng GTSX thực tế 13.494,8 21.558,6 31.968,7 45.143,5 60.059,2 Tổng GTSX so sánh 1994 7528,9 10.545,3 13.331,7 16.749,3 21.531,5 (Nguồn: Niên giám thống kê 2006 - Tổng cục Thống kê và FOMIS) - Theo tính toán dựa trên số liệu công bố của Tổng cục thống kê năm 2005, hiệu quả sử dụng tài sản cố định được đo bằng tỷ số giữa giá trị sản xuất và giá trị tài sản cố định của doanh nghiệp CBG năm 2005 là 9,67 - tức là 1 đồng vốn đầu tư tài sản cố định làm ra 9,67 đồng giá trị sản phẩm. Số liệu điều tra điển hình tại 60 doanh nghiệp chế biến đồ gỗ xuất khẩu có 16 vốn đầu tư trong nước ở tỉnh Bình Định cho thấy tỷ số này năm 2006 là 3,18, năm 2007 đạt 3,7 và năm 2008 đạt 4,0. Hiệu quả đồng vốn (tỷ số giữa doanh thu và tổng giá trị tài sản cố định và tài sản lưu động) năm 2006 là 0,95 - tức là 1 đồng vốn đầu tư sản xuất chỉ tạo ra 0,95 đồng doanh thu - năm 2007 đạt 1,03 và năm 2008 ước tính là 1,1 (GTZ, 2007). - Tỷ số giữa doanh thu thuần và vốn đầu tư sản xuất (chỉ tiêu này phản ánh 1 đồng vốn đầu tư sản xuất làm ra được bao nhiêu đồng doanh số) bình quân có tăng trưởng ở mức độ thấp. Thời kỳ 2000-2006 tỷ số giữa doanh thu thuần và vốn đầu tư sản xuất đạt 1,259, từ năm 2001 đến 2006 đạt 1,267. - Tỷ suất lợi nhuận của các DNCBG (là tỷ số giữa lợi nhuận trước thuế và vốn đầu tư) không cao. Tỷ suất lợi nhuận bình quân cả nước đạt 2,5 %. Tuy nhiên có sự khác biệt rất lớn về tỷ suất lợi nhuận của các doanh nghiệp ở các vùng, miền khác nhau. Tỷ suất lợi nhuận của các DNCBG miền Nam đạt 5,48% và cao hơn gần 14 lần tỷ suất lợi nhuận của DNCBG miền Bắc (DNCBG miền Bắc chỉ đạt 0,04%). Doanh nghiệp vùng Duyên hải Nam Trung Bộ có tỷ suất lợi nhuận cao nhất (9,24%), tiếp theo là DN vùng Đông Nam Bộ (3,28%). (Theo báo cáo khảo sát 60 DN ở Bình Định thì chỉ tiêu lợi nhuận/doanh thu lại đạt khá thấp: 1,37% năm 2006, 2,24% năm 2007 và ước đạt 2,1% năm 2008). Bên cạnh đó, một bộ phận không nhỏ các doanh nghiệp đang hoạt động trong tình trạng thua lỗ. Bình quân chung các DNCBG vùng Tây Bắc lỗ 6,8%, các DNCBG vùng Tây Nguyên lỗ 0,35%. - Giá trị doanh thu bình quân một lao động đối cho các DNCBG cả nước thời kỳ 2000-2006 đạt giá trị 65,689 triệu đồng và tăng đều hàng năm. Doanh thu bình quân một lao động trong các DNCBG tính chung cho cả nước năm 2006 đạt 123,265 triệu đồng bằng 176% giá trị đạt được năm 2000. Chỉ tiêu này của 60 DN tỉnh Bình Định tính cho năm 2006 đạt 102 triệu đồng (tương đương 6.180 USD), năm 2007 là 130 triệu đồng và năm 2008 đạt 154 triệu đồng. Thu nhập bình quân của người lao động năm 2006 là 12 triệu đồng, năm 2007 là 13 triệu và năm 2008 là 16 triệu (GTZ/2008). Bảng 12. Phát triển ngành công nghiệp chế biến gỗ giai đoạn 2000-2006 Năm Số DN Lao động Vốn (tỷ VND) Doanh thu thuần (tỷ VND)* Doanh thu/vốn (đồng)* Doanh thu/1lao động (tr. đồng)* 2000 742 63.203 3.023 4.417 1,461 69,885 2001 887 66.123 3.604 4.338 1,023 65,605 2002 1.078 82.734 5.256 6.472 1,231 72,266 2003 1.186 89.661 5.738 7.157 1,247 79,822 2004 1.478 108.624 7.834 10.459 1,335 96,286 2005 1.710 113.079 10.655 13.333 1,251 117,980 2006 2032 112.440 10.938 13.860 1,267 123,265 B/q chung 1,259 65,689 17 Bảng 13. Kết quả sản xuất kinh doanh ngành công nghiệp chế biến gỗ năm 2005 Miền và vùng Số doanh nghiệp Vốn (tr. đồng) Lợi nhuận trước thuế ( tr. đồng) Tỷ suất lợi nhuận/vốn (%) Cả nước 1718 10.664.012 269.098 2,50 Miền Bắc 906 2.805.438 10.743 0,04 Đồng bằng Sông Hồng 530 1.416.897 - 10.010 - 0,07 Đông bắc 165 587.635 - 1.867 - 0,03 Tây bắc 20 47.586 - 3.277 - 6,8 Bắc Trung Bộ 191 753.108 25.897 3,40 Miền Nam 811 4.704.069 257.800 5,48 DH Nam Trung Bộ 135 864.196 77.807 9,24 Tây nguyên 99 1.272.894 - 4.517 - 0,35 Đông Nam bộ 476 5.431.209 178.532 3,28 ĐB Sông Cửu Long 101 289.973 5.978 2,06 (Nguồn: Tính theo số liệu công bố của T.Cục Thống kê năm 2006 và FOMIS năm 2007) 2. Thực trạng cung cấp gỗ nguyên liệu cho công nghiệp chế biến gỗ 2.1 Các loại gỗ nguyên liệu của công nghiệp chế biến - Theo loại sản phẩm được chế biến ra, gỗ nguyên liệu được chia thành các loại: Gỗ nguyên liệu cho đồ mỹ nghệ, gỗ nguyên liệu cho hàng mộc cao cấp, gỗ nguyên liệu cho ván nhân tạo, gỗ nguyên liệu cho sản xuất giấy và ván sợi, gỗ nguyên liệu cho xây dựng ... Trong từng nhóm gỗ nguyên liệu này lại được chia thành các phân loại nhỏ hơn như: loại gỗ nguyên liệu cho ván nhân tạo được chia thành gỗ nguyên liệu cho gỗ dán lạng, gỗ nguyên liệu cho ván dăm, gỗ nguyên liệu cho ván ghép thanh. - Theo quá trình hình thành gỗ, gỗ nguyên liệu được chia thành 2 loại là gỗ rừng trồng (gỗ được khai thác từ rừng trồng) và gỗ tự nhiên (gỗ được khai thác từ rừng tự nhiên). - Căn cứ vào đường kính và khả năng sử dụng của gỗ, gỗ nguyên liệu có thể được phân thành gỗ lớn và gỗ nhỏ. - Căn cứ vào mức độ chế biến đã thực hiện đối với gỗ nguyên liệu người ta phân thành gỗ tròn và gỗ xẻ. - Theo quan điểm thương mại, gỗ nguyên liệu được chia thành hai loại gỗ nguyên liệu sản xuất trong nước và gỗ nguyên liệu nhập khẩu. Thực tế còn có những cách phân loại khác. Những sự phân biệt về các loại gỗ nguyên liệu nêu trên cho thấy gỗ nguyên liệu của công nghiệp chế biến mới chỉ nói lên được một phần nào đó sự đa dạng về chủng loại của gỗ nguyên liệu. Trong thực tế, gỗ nguyên liệu còn có sự đa dạng về kích cỡ, nguồn gốc. Đồng thời, thương mại và sử dụng gỗ nguyên liệu có liên quan đến nhiều các đối tượng khác nhau. Từ đây, việc phân tích nhu cầu về gỗ nguyên liệu rất khó khăn và phức tạp. 18 2.2 Thực trạng cung cấp gỗ nguyên liệu cho công nghiệp chế biến gỗ Trong năm năm vừa qua, cùng với sự phát triển của ngành công nghiệp chế biến gỗ của Việt Nam trong thời gian vừa qua thì nhu cầu và thực tế sử dụng gỗ nguyên liệu cũng phát triển một cách mạnh mẽ. Theo một số phân tích, tổng khối lượng gỗ sử dụng ở Việt Nam năm 2003 là trên 8,8 triệu m3, trong đó 51,61% được sử dụng cho công nghiệp chế biến gỗ, 18,66% được sử dụng làm nguyên liệu cho ván dăm, MDF và dăm gỗ, 29% được sử dụng cho công nghiệp chế biến giấy và bột giấy, số còn lại được sử dụng làm gỗ trụ mỏ. Năm 2005, tổng khối lượng gỗ nguyên liệu sử dụng của Việt Nam là 10 triệu m3, trong đó 53,4% được sử dụng cho công nghiệp chế biến gỗ, 20,19% được sử dụng làm nguyên liệu cho ván dăm, MDF và dăm gỗ, 25,52% được sử dụng cho công nghiệp chế biến giấy và bột giấy, số còn lại được sử dụng làm gỗ trụ mỏ. Năm 2008, tổng khối lượng gỗ nguyên liệu sử dụng vào khoảng 11 triệu m3, trong đó gỗ nguyên liệu cho công nghiệp chiếm 57,34%, gỗ cho sản xuất giấy và bột giấy chiếm 24,2%, gỗ nguyên liệu cho sản xuất ván nhân tạo (ván dăm, MDF) và sản xuất dăm gỗ xuất khẩu là 17,6%, gỗ trụ mỏ vào khoảng 0,86%. Bảng 14. Tổng khối lượng gỗ nguyên liệu sử dụng và cơ cấu sử dụng giai đoạn 2003-2008 2003 2005 2008 1. Tổng khối lượng gỗ nguyên liệu đã sử dụng2 (triệu m3) 8,8 10 11 2. Cơ cấu sử dụng (%) - Gỗ sử dụng cho công nghiệp chế biến gỗ 51,61 53,4 57,34 - Gỗ làm nguyên liệu cho ván dăm, MDF và dăm gỗ 18,66 20,19 24,2 - Gỗ cho công nghiệp chế biến giấy và bột giấy 29,05 25,52 17,6 - Gỗ trụ mỏ 0,68 0,89 0,86 (Nguồn: Tập hợp từ nhiều nguồn báo cáo khác nhau, như: Dự thảo Chiến lược phát triển lâm nghiệp Việt Nam 2006 – 2020, Niên giám thống kê 2007, FOMIS – 2006 và các nguồn khác) Trước khi cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu xảy ra, nói một cách chính xác hơn là cho đến hết quý II năm 2008, một số phân tích và đánh giá, dựa trên những số liệu về tăng trưởng của khối lượng gỗ nguyên liệu tiêu thụ trong thời gian qua và sự phát triển của các doanh nghiệp chế biến gỗ, tốc độ tăng trưởng kinh tế trong nước và quốc tế, đã cho rằng tổng khối lượng gỗ nguyên liệu ở Việt Nam sẽ tăng trưởng với tốc độ từ 20%-30% năm và trong đó chủ yếu là tăng trưởng nhu cầu gỗ nguyên liệu cho công nghiệp chế biến, xấp xỉ 50%/năm. 2 Số liệu đã làm tròn 19 Biểu đồ 6. Dự báo tăng trưởng của nhu cầu gỗ nguyên giai đoạn 2008 - 2020 0 2000000 4000000 6000000 8000000 10000000 12000000 14000000 1 2 3 Tổng nhu cầu gỗ công nghiệp (gỗ lớn) Nhu cầu gỗ nguyên liệu cho ván dăm, MDF và dăm gỗ Nhu cầu gỗ nguyên liệu cho sản xuất giấy và bột giấy Gỗ trụ mỏ Hiện nay, với những thông tin về khủng hoảng kinh tế quốc tế và những khó khăn trong sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp chế biến gỗ thì những phân tích và dự báo đã nêu không còn đủ tin cậy và ít được trích dẫn trong các báo cáo. Tuy nhiên, cho đến nay cũng chưa có một tài liệu nào phân tích và dự báo về tổng khối lượng gỗ nguyên liệu cho công nghiệp chế biến ở Việt Nam và triển vọng trong vài năm tới. Theo quán sát và những thông tin thực tế đã thu thập được, chúng tôi cho rằng tổng lượng gỗ nguyên liệu tiêu thụ ở Việt Nam sẽ giảm đi đáng kể. Có nhiều khả năng tổng sản lượng gỗ nguyên liệu sẽ được tiêu thụ ở Việt Nam năm 2009 chỉ bằng mức tiêu thụ của năm 2003 và trong đó lượng tiêu dùng cho sản xuất dăm, ván nhân tạo và MDF sẽ có tỷ trọng cao nhất, tiếp theo là gỗ nguyên liệu cho công nghiệp chế biến, sau đó là gỗ nguyên liệu cho công nghiệp giấy và bột giấy. 2.2.1 Gỗ nguyên liệu khai thác trong nước Gỗ nguyên liệu cho ngành công nghiệp chế biến gỗ của Việt Nam được đáp ứng bằng hai nguồn, khai thác trong nước và nhập khẩu. Tỷ trọng giữa gỗ nguyên liệu được khai thác trong nước và gỗ nguyên liệu nhập khẩu đã có sự thay đổi lớn trong hơn một thập kỷ qua. Trước những năm 2000, lượng gỗ nguyên liệu trong nước chiếm tỷ trọng rất lớn và chủ yếu là gỗ được khai thác từ rừng tự nhiên trong nước rất cao. Theo số liệu thống kê, sản lượng gỗ khai thác từ rừng tự nhiên của Việt Nam có năm đã đạt tới 1,8 triệu m3 gỗ tròn. Trong những năm 2000-2003, lượng gỗ nguyên liệu khai thác trong nước cho công nghiệp chế biến bắt đầu giảm. Theo một số các số liệu thống kê, lượng gỗ nguyên liệu khai thác trong nước chiếm từ 60% đến 70% tổng lượng tiêu dùng (khoảng 250.000 đến 300.000 m3). Hơn thế lượng gỗ nguyên liệu là gỗ khai thác từ rừng tự nhiên trong nước năm 2003 giảm xuống 500.000 m3/năm, đến năm 2004 lượng gỗ này chỉ còn là 300.000 m3 và năm 2005 giảm xuống 150.000 m3. Theo kế hoạch, lượng gỗ khai thác từ rừng tự nhiên trong nước năm 2008 là 180.000 m3. Nếu tính cả lượng gỗ khai thác do xây dựng các công trình thuỷ điện, 20 thuỷ lợi và hạ tầng cơ sở khác thì tổng lượng khai thác từ rừng tự nhiên của Việt Nam một năm vào khoảng 400.000 m3. Theo một số phân tích nhu cầu nguyên liệu gỗ từ rừng tự nhiên trong những năm vừa qua là rất lớn, bình quân khoảng trên 4 triệu m3/năm và gỗ nguyên liệu trong nước chỉ đáp ứng 10% nhu cầu, 90% còn lại phải nhập khẩu. Nhờ có sự phát triển mạnh mẽ của các hoạt động trồng rừng, sản lượng gỗ khai thác từ rừng trồng của Việt Nam trong những năm qua đã có những sự tăng trưởng khá, mức tăng trưởng về sản lượng khai thác tính bình quân là trên 10%/năm. Tuy nhiên không phải toàn bộ khối lượng sản phẩm này đều được dùng cho công nghiệp chế biến gỗ do gỗ khai thác từ rừng trồng trong nước chủ yếu là gỗ có đường kính nhỏ, chất lượng gỗ không đáp ứng được các yêu cầu. Trong thực tế chỉ có khoảng từ 30 – 40% sản lượng này đã được dùng cho công nghiệp chế biến gỗ (khoảng 1,2 – 1,5 triệu m3) và chúng đáp ứng được từ 40 – 50% nhu cầu gỗ nguyên liệu rừng trồng (3-4 triệu m3/năm) của công nghiệp chế biến. Biểu đồ 7. Sản lượng gỗ khai thác từ rừng trồng ở Việt Nam giai đoạn 2003 - 20083 (Nguồn: Kết hợp từ các số liệu của Tổng cục thống kê - 2008, Bộ Nông nghiệp & PTNT 2008) 2.2.2 Nhập khẩu gỗ nguyên liệu cho công nghiệp chế biến gỗ của Việt Nam - Hàng năm, ngành chế biến gỗ của Việt Nam vẫn phải nhập khối lượng gỗ nguyên liệu rất lớn. Trong 3 năm vừa qua (2006-2008), các doanh nghiệp đã phải chi ra tới hơn 2,7 tỷ USD, hay 41,54% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu sản phẩm gỗ, để nhập nguyên liệu. Cụ thể hơn, 3 Số liệu năm 2008 là số liệu ước tính 0 500 1000 1500 2000 2500 3000 3500 2003 2004 2005 2006 2007 2008 21 năm 2006 các doanh nghiệp đã bỏ ra 760 triệu USD, hay 39,4% tổng kim ngạch xuất khẩu sản phẩm gỗ, để nhập khẩu nguyên liệu. Năm 2007, phải nhập tới 1,022 tỷ USD trong tổng số 2,354 tỷ USD, chiếm 43,4% so với kim ngạch xuất khẩu. Trong 10 tháng năm 2008, tổng kim ngạch nhập khẩu gỗ nguyên liệu là 952 triệu USD, dự kiến hết năm 2008 phải nhập tới 1,4 tỷ USD tăng 400 triệu so với năm 2007. Hiện nay, ngành gỗ đặt ra mục tiêu tới năm 2020 nguồn gỗ trong nước đáp ứng được khoảng 70% nhu cầu nguyên liệu chế biến, với sản lượng khoảng 22 triệu m3 gỗ/năm. - Thị trường cung cấp gỗ nguyên liệu chính cho Việt Nam: Việt Nam đang nhập khẩu gỗ nguyên liệu từ nhiều quốc gia khác nhau (xem thêm số liệu chi tiết trong Bảng 15). + Các nước Đông Nam Á (Lào, Myama, Malaysia, Inđonêxia): Gỗ nguyên liệu nhập khẩu từ các nước này gồm: gỗ lớn, gỗ cứng từ rừng tự nhiên, gỗ rừng trồng và ván nhân tạo. + Các nước thuộc châu Đại Dương (Úc, Newzylan,...) là nguồn nhập khẩu gỗ rừng trồng (Keo, Bạch Đàn). + Các nước thuộc châu Phi: Nam phi là nguồn cung cấp gỗ Bạch Đàn từ rừng trồng. Trong khi đó các nước Ghana, Camorun cung cấp gỗ từ rừng tự nhiên. + Các nước Nam Mỹ: Chúng ta đang nhập gỗ Bạch Đàn từ rừng trồng của Brazil, Chi Lê. + Từ Trung Quốc là nguồn chính để nhập khẩu các loại ván nhân tạo. + Từ các nước Bắc Mỹ là nguồn nhập khẩu các loại gỗ có chất lượng cao như Sồi, Anh Đào... - Việc nhập khẩu gỗ từ một số quốc gia có nền lâm nghiệp chưa phát triển đang đứng trước những nguy cơ bị các tổ chức phi chính phủ quốc tế lên án và yêu cầu hạn chế. Các nước này cũng đang cần phải hoàn thiện công tác quản lý rừng bền vững để đáp ứng được những yêu cầu của các tổ chức quốc tế đề ra, các loại gỗ xuất khẩu phải có chứng chỉ rừng mới được xuất sang các nước khác, nên trong một vài năm tới việc nhập khẩu gỗ từ các nước có nền lâm nghiệp chưa phát triển sẽ bị hạn chế rất nhiều. Do vậy, nguồn nguyên liệu cho chế biến sẽ bị ảnh hưởng nếu như Việt Nam không chuẩn bị trước kế hoạch phát triển những năm tới. - Hiện nay Việt Nam chưa có một tổ chức nhập khẩu nguyên liệu gỗ chuyên nghiệp. Các tổ chức nhập khẩu gỗ của Việt Nam có thể chia 3 loại: Một là, các doanh nghiệp tự đi nhập khẩu gỗ cho doanh nghiệp mình để sản xuất. Hai là, doanh nghiệp nhập khẩu gỗ vừa để cho doanh nghiệp mình sản xuất và vừa để bán cho các doanh nghiệp khác ở trong nước. Thứ ba, các doanh nghiệp chuyên nhập khẩu gỗ để cung cấp cho các doanh nghiệp chế biến gỗ trong nước (loại doanh nghiệp này còn ít). 22 Bảng 15. Thị trường cung cấp gỗ nguyên liệu chính cho Việt Nam (đến 6/2008) Thị trường Giá trị (USD) Tổng số 504.329.718 Maylaysia 90.581.628 Lào 59.408.153 Mỹ 56.718.767 Trung Quốc 52.148.992 Myanma 37.726.565 Campuchia 28.626.099 Thái Lan 28.555.752 Braxin 24.787.537 New Zealand 21.094.730 Đài Loan 14.494.645 Uragoay 12.142.671 Cốtđivoa 9.646.566 Solomo 8.180.981 Indonexia 7.667.880 Chile 6.850.858 Oxtraylia 6.640.447 Camorun 4.667.615 Nam Phi 4.253.256 Ghana 4.148.589 Phần Lan 3.756.195 Costa Rica 3.565.408 Hồng Kông 3.153.316 Nhật Bản 2.875.128 Pháp 2.630.743 Đức 2.546.695 Áo 2.513.028 Singapore 2.476.331 Canada 2.471.143 - Mặc dầu khối lượng gỗ nhập khẩu rất lớn, nhưng đến nay Việt Nam chưa hình thành những chợ gỗ có quy mô lớn để cho các doanh nghiệp chế biến gỗ đến giao dịch mua bán. - Gỗ được nhập khẩu ở nhiều quốc gia khác nhau và luật lệ, thủ tục xuất khẩu ở mỗi nước lại khác nhau, trong khi đó các kiến thức về lĩnh vực này của doanh nghiệp nhập khẩu gỗ của 23 Việt Nam còn hạn chế, cộng với giá vận tải tăng (do gia dầu tăng) làm cho giá thành của gỗ nhập khẩu tăng cao. - Tiêu chuẩn gỗ nguyên liệu và các sản phẩm gỗ như: tiêu chuẩn về kích thước, độ bền cơ lý, màu sắc, hoá chất an toàn và vệ sinh môi trường... của Việt Nam còn thiếu và chưa tương thích với các tiêu chuẩn của quốc tế dẫn đến việc sử dụng nguyên liệu kém hiệu quả, tăng giá thành, giảm sức cạnh tranh. Bảng 16. Chủng loại gỗ nguyên liệu Việt Nam nhập khẩu từ Malaysia (đến 6/2008) Chủng loại Đơn vị tính Lượng Trị giá (USD) Giá trị trung bình (USD) Gỗ tạp m3 166.984 23.428.024 140 Ván MDF kg 72.251 26.629 0,4 kiện 17.400 9.918 0,6 m2 513.229 1.151.154 2,2 m3 41.483 13.451.034 261 tấm 404.921 2.162.451 5,3 Ván MDF tổng hợp 16.801.186 Gỗ chò m3 45.890 16.236.909 354 Ván PB kg 1.200 21.072 18 m3 37.109 5.186.602 140 tấm 138.771 1.978.465 14 Ván PB tổng hợp 7.186.138 Gỗ cao su m3 9.192 2.990.954 325 Gỗ keo m3 25.179 2.951.874 117 Gỗ sến nghệ m3 11.454 2.318.656 202 Gỗ kapur m3 7.965 1.716.048 215 Ván plywood m3 3.004 1.077.927 359 tấm 6.930 34.378 5,0 Ván plywood tổng 1.168.845 (Nguồn: Số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan Việt Nam, 2008) - Malaysia là thị trường cung cấp gỗ quan trọng cho Việt Nam, chiếm 17,85% tổng giá trị gỗ nhập khẩu, nhưng nguồn cung gỗ nguyên liệu từ thị trường này ngày càng giảm. Giá nguyên liệu gỗ biến động mạnh và có xu hương tăng cao trong những năm tới. Cùng với những biện pháp nhằm quản lý rừng, chính phủ Malaysia đang giảm dần tỷ lệ khai thác rừng hàng năm. Mặt khác, năng suất khai thác cũng như chế biến của Malaysia chưa đạt hiệu quả cao, tỷ lệ phế phẩm trong ngành khai thác và chế biến gỗ của Malaysia còn khá cao (33% đối với gỗ xẻ, 44% đối với gỗ dán). Vì vậy, các doanh nghiệp Việt Nam cần liên kết với nhau để nhập 24 nguyên liệu gỗ từ Malaysia để giảm giá thành, các loại chi phí như chi phí giao dịch, cước vận chuyên, bảo hiểm và cần nghiên cứu thành lập liên doanh với các doanh nghiệp Malaysia dưới hình thức các doanh nghiệp Malaysia xuất khẩu nguyên liệu gỗ sang Việt Nam để các liên doanh này chế biến xuất sang các thị trường thứ ba. Giá gỗ trong nước rẻ hơn gỗ nhập khẩu, một m3 gỗ dầu mua trong nước giá 80 USD thì giá gỗ dầu nhập khẩu lên tới ít nhất 105 USD (131%). Giá gỗ nhập khẩu cao nhưng doanh nghiệp vẫn phải nhập khẩu vì nguồn cung gỗ rừng tự nhiên trong nước rất hạn chế, gỗ rừng trồng chủ yếu là gỗ nhỏ. - Việc phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu có những khó khăn như sau: + Trong bối cảnh thị trường gỗ thế giới mang tính toàn cầu hoá nên rất nhiều nước trên thế giới thay đổi chính sách về khai thác và xuất khẩu gỗ nguyên liệu. Hiện nay nhiều nước đã ra lệnh cấm xuất khẩu gỗ tròn và hạn chế xuất khẩu gỗ xẻ. + Thiếu một hệ thống thu thập cập nhật và xử lý thông tin về chế biến, thương mại, thị trường, đối tác, nguyên liệu và sản phẩm gỗ kể cả trong nước và trên thế giới. + Việc xuất và nhập khẩu gỗ phải được các cơ quan có trách nhiệm xác nhận nguồn gốc gỗ đó được khai thác hợp pháp và cấp chứng chỉ FSC. Nhưng hiện nay không phải quốc gia nào cũng có tổ chức cấp chứng chỉ FSC. + Biên độ thời gian rộng, từ lúc ký hợp đồng ngoại thương mua gỗ đến khi bán hàng nội địa hàm chứa nhiều rủi ro như: biến động về giá cả, tiêu hao nguyên liệu, tăng chi phí quản lý và thay đổi về nhu cầu tiêu thụ nguyên liệu. + Nguồn nguyên liệu gỗ nhập khẩu đã đang và phong phú về nguồn gốc, chất lượng và chủng loại, khác biệt về hệ thống đo đạc và hệ thống quy đổi nên phát sinh nhiều rủi ro. Riêng về chất lượng gỗ nguyên liệu trên thế giới đang thực thi các cấp quản lý chất lượng sau: + Châu Mỹ: Chất lượng căn cứ trên tỷ lệ sử dụng gỗ, tỷ lệ phần mặt đẹp trên phách gỗ và mắt chết. + Châu Âu chia ra 4 cấp chất lượng, A,B,C,D và mỗi nhà cung cấp có 1 cấp chất lượng khác nhau. + Cấp chất lượng riêng của khu Nam Thái Bình Dương + Cấp chất lượng riêng của khu vực Nam Phi Tuỳ vào tiêu chí chất lượng gỗ cao hay thấp mà giá trị sẽ thay đổi tương ứng. Vậy đòi hỏi các nhà nhập khẩu gỗ Việt Nam phải thông thạo các quy định này và cần phải trở thành nhà nhập khẩu mang tính chuyên nghiệp. 25 + Nhu cầu nguyên liệu ngày càng tăng trưởng. Trong khi đó nguồn nguyên liệu gỗ trong nước còn hạn chế, phụ thuộc vào nhập khẩu. Đây là thách thức lớn đối với Việt Nam trong sự phát triển bền vững của ngành công nghiệp gỗ. 3. Tình hình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm gỗ 3.1 Xuất khẩu sản phẩm gỗ Trong những năm gần đây, ngành chế biến và xuất khẩu sản phẩm gỗ đã có bước phát triển vượt bậc, kim ngạch xuất khẩu sản phẩm gỗ đạt khoảng 2,5 tỷ USD năm 2007, tăng 3,4 lần so với năm 2003 (567 triệu USD) và tăng hơn 10 lần so với năm 2000 (219 triệu USD). Theo đó, sản phẩm gỗ đã giữ vị trí số 5 trong 10 sản phẩm xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Hiện tại, sản phẩm gỗ của Việt Nam đã có mặt tại 120 thị trường trên thế giới, nhưng thị trường lớn và chủ yếu là Mỹ, EU và Nhật Bản. Bảng 17. Kim ngạch xuất khẩu sản phẩm gỗ (1996-2008) Đơn vị: Triệu USD Năm 1996 1998 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008* KNXK 61 108 219 334 435 567 1.154 1.562 1.930 2.500 2.800 Biểu đồ 8. Tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu sản phẩm gỗ của Việt Nam Tăng trưởng KNXK 0 500 1000 1500 2000 2500 3000 3500 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 Series1 Series2 Bảng 18. Kim ngạch xuất khẩu sản phẩm gỗ sang các thị trường chính (2003 – 2007) Đơn vị: Triệu USD Năm Thị trường 2003 2004 2005 2006 2007 Mỹ 115,46 318,8 566,96 744,1 930 EU 160,74 379,1 457,63 500,23 630 Nhật Bản 137,91 180 240,8 286,8 300 26 - Đồ gỗ Việt Nam đã có mặt trên thị trường của 120 nước trên thế giới với giá cả hợp lý và chất lượng vừa phải, hợp với thị hiếu của người tiêu dùng. Năm 2006, Việt Nam xuất khẩu với kim ngạch vào khoảng 2 tỷ USD. - Năm 2005, các nước nhập khẩu sản phẩm gỗ Việt Nam như sau: Mỹ đứng đầu nhập 25,8% tổng sản lượng sản phẩm gỗ xuất khẩu của Việt Nam, sau đó lần lượt là các nước Nhật 16%; Anh là 11%; Đài Loan 6,1%; Pháp 4,6%; Đức 4,3%; Úc 3,5%; Hà Lan 3,2%; Hàn Quốc 3%; Trung Quốc 2,8%; Bỉ 2%; Tây Ban Nha 1,7%; Đan Mạch 1,6%; Malaysia 1,4%; Các nước còn lại 17,8%. Biểu đồ 9. Cơ cấu thị trường xuất khẩu Cơ cấu thị trường XK 25% 15% 10%6%4% 4% 3% 3% 3% 3%2% 2%2% 1% 17% Mỹ Nhật Anh Đài loan Pháp Đức Úc Hà lan Hàn quốc TQ Bỉ TBN DM - Cơ cấu sản phẩm gỗ xuất khẩu bao gồm: bàn ghế ngoài trời 32%; nội thất, phòng khách, phòng ăn 31,4%; nội thất phòng ngủ 4,1%; đồ gỗ nhà bếp 3,25. Các loại đồ gỗ khác 17,8% và đồ gỗ kết hợp với vật liệu khác 5,1%. Biểu đồ 10. Cơ cấu sản phẩm xuất khẩu Cơ cấu sản phẩm XK 35% 34% 4% 3% 19% 5% DGNT NTPK NTPN Bếp DG khác DG+ da 27 Năm năm vừa qua, từ 2003 - 2007 là thời kỳ phát triển mạnh nhất của ngành xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ Việt Nam. Năm 2003, kim ngạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của cả nước mới chỉ đạt 567 triệu USD, năm 2004 với tốc độ tăng trưởng 88%, xuất khẩu ngành hàng đã bứt phá ngoạn mục để đạt kim ngạch 1,1 tỷ USD. Các năm tiếp theo, kim ngạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng cao, tăng 35% năm 2005, tăng 23,5% năm 2006. Năm 2007, kim ngạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ đạt 2,4 tỷ USD, tăng 24,5% so với năm 2006, đứng thứ 5 trong số các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Hiện nay, Việt Nam đã khẳng định vị trí của mình trên bản đồ thị trường nội thất thế giới. 3.2 Sản xuất và tiêu thụ nội địa Việc phân tích tình hình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm đồ gỗ trong thị trường nội địa hiện nay là một việc làm hết sức khó khăn. Sự khó khăn này có nguồn gốc từ cả các nguyên nhân khách quan vè chủ quan. Về mặt khách quan, sự phát triển kinh tế, xã hội và kéo theo đó là sự phát triển rất nhanh về nhu cầu về các sản phẩm gỗ và từ đây là sự phát triển của các cơ sở sản xuất đồ gỗ phục vụ các nhu cầu nội địa. Về chủ quan, trong khoảng một thập kỷ qua chỉ có một vài nghiên cứu nhỏ về sản xuất và tiêu thụ nội địa của các sản phẩm đồ gỗ. Bên cạnh đó các số liệu thống kê không cụ thể và không chính xác. Trong nghiên cứu này chúng tôi cũng đã tiến hành khảo sát và thu thập thông tin về sản xuất và tình hình tiêu thu nội địa của các sản phẩm gỗ tại một số tỉnh (Phú Thọ, Hải Phòng, Quảng Ninh, Bắc Ninh, Hà Nội, Bình Định, TP Hồ Chí Minh). Do điều kiện về thời gian và kinh phí nên số mẫu điều tra và thông tin thu thập được còn có những hạn chế. Tuy nhiên, những số liệu thực tế đã thu thập được cũng cho thất một số vấn đề cơ bản sau đây: 1. Đã có sự bùng nổ về nhu cầu các sản phẩm đồ gỗ trong thị trường nội địa: Việt Nam đã đạt được những thành tích đáng khích lệ về tăng trưởng kinh tế trong hơn một thập kỷ qua. Kết quả của sự tăng trưởng kinh tế là đời sống của người dân đã được nâng cao. Từ đây, nhu cầu các sản phẩm gỗ phục vụ cuộc sống cũng tăng rất mạnh mẽ. Các hộ gia đình có điều kiện kinh tế và đời sống khác nhau có những nhu cầu rất khác nhau. Tuy nhiên, nhu cầu chủ yếu của các gia đình là các sản phẩm đồ gỗ gia dụng như giường, tủ và bàn ghế. Khảo sát ngẫu nhiên tại 210 hộ gia đình khu vực thành thị của 7 tỉnh cho thấy mức tiêu thu sản phẩm đồ gỗ bình quân hộ gia đình là 3 triệu đồng/năm. Đồng thời 100% số hộ gia đình trả lời rằng họ đang có nhu cầu về sử dụng sản phẩm gỗ và nhu cầu sản phẩm đồ gỗ bình quân là 6 triệu đồng/hộ gia đình. Điều này cho thấy nhu cầu sản phẩm đồ gỗ trong hộ gia đình người dân là tương đối lớn. Khảo sát tại 10 khác sạn và nhà nghỉ cho thấy các nhà nghỉ tiêu dùng trung bình 12 triệu đồng sản phẩm gỗ cho một căn phòng, khách sạn hai sao sử dụng từ 16 đến 20 28 đồng/căn phòng, khách sạn ba sao sử dụng từ 20 – 30 triệu đồng/căn phòng, khách sạn 4 sao sử dụng từ 50 đến 80 triệu đồng/cho một căn phòng. Theo ý kiến của các khách sạn ba sao và 4 sao thì cứ khoảng 5 năm họ phải tiến hành thay mới các sản phẩm đồ gỗ để thu hút người ở. Kết quả khảo sát này chỉ ra rằng số lượng khách sạn và nhà nghỉ được xây mới hàng năm ở Việt Nam cũng đang có nhu cầu và tiêu thụ một lượng sản phẩm gỗ có giá trị rất lớn. 2. Phần lớn các sản phẩm đồ gỗ phục vụ nhu trong nước hiện nay do các cơ sở sản xuất quy mô nhỏ cung cấp. Trong 5 năm vừa qua đã có sự bùng nổ về các cơ sở sản xuất đồ gỗ quy mô nhỏ phục vụ tiêu dùng nội địa. Khảo sát thực tế cho thấy tốc độ tăng trưởng về số lượng các cơ sở sản xuất đồ gỗ tính chung cho các tỉnh khảo sát là 50%. Các địa phương như Bắc Ninh, Hà Tây (khi chưa sáp nhập địa giới hành chính) và Hà Nội có tốc độ tăng trưởng số lượng các cơ sở sản xuất là 80%. Tuy nhiên, hầu hết các sơ sở sản xuất đồ mộc mới thành lập đều là đơn vị sản xuất quy mô đầu tư nhỏ hoặc là cơ sở thực hiện việc gia công sản phẩm cho các cơ sở sản xuất lớn. Khảo sát ở 50 cơ sở sản xuất đồ mộc mới thành lập cho thấy quy mô vốn đầu tư một cơ sở sản xuất đồ mộc nội địa có giá trị từ 50 đến 100 triệu và 80% số cơ sở này thực hiện sản xuất sản theo kiểu gia công theo đơn đặt hàng của cơ sở sản xuất lớn hơn. Doanh thu bình quân của các cơ sở sản xuất này biến động từ 30 – 70 triệu đồng/tháng. Khảo sát ở 30 cơ sở sản xuất có vốn đầu tư từ 100 đến 500 triệu đồng cho thấy doanh thu của các cơ sở này đạt từ 50 đến 500 triệu đồng/tháng. Theo đánh giá chung của các cơ sở mức tăng trưởng chung về quy mô của doanh thu đạt 10 – 20%/năm. Hiện nay nhiều các công ty sản xuất đồ gỗ đã quan tâm đến sản xuất và đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng trong nước. Tuy nhiên, những thông tin và phân tích về sản xuất và tiêu thụ nội địa của các công ty đó không phải là vấn đề quan tâm trong báo cáo này. 3. Đã có sự chuyên môn hóa và liên kết sản xuất tương đối cao: Ở nhiều nơi, ví dụ như các làng nghề ở Bắc Ninh hay Hà Nội, đã hình thành lên các cơ sở sản xuất chỉ chuyên sản xuất một hoặc một số chi tiết của sản phẩm hoàn chỉnh. Sự chuyên môn hóa còn mang tính chất liên vùng hoặc liên khu vực. Ví dụ: những cơ sở sản xuất đồ mộc tại Hà Nội liên kết với các cơ sở sản xuất ở Bắc Ninh và khu vực thuộc tỉnh Hà Tây trước đây để sản xuất các sản phẩm bàn ghế có yêu cầu kỹ thuật cao. Sự chuyên môn hóa này đã và đang có tác dụng rất lớn trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm. 4. Chủng loại, kiểu dáng và chất lượng sản phẩm cung cấp cho thị trường rất đa dạng: Hiện nay các cơ sở sản xuất đồ gỗ của Việt Nam đang cung cấp cho thị trường hàng vạn mặt hàng với rất nhiều kiểu dáng và chất lượng rất khác nhau. Mỗi loại mặt hàng lại có rất nhiều kiểu dáng, kích thước và trang trí khác nhau. Tuy nhiên, không khó để nhận ra rằng một bộ phận 29 lớn sản phẩm được sản xuất ra phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nước của các cơ sở sản xuất nhỏ đều là sản phẩm không có sự soát về chất lượng và theo đáng giá chung của người tiêu dùng là chất lượng sản phẩm thấp. Chỉ có một số rất ít người tiêu dùng mà chúng tôi đã phỏng vấn cho rằng chất lượng sản phẩm gỗ họ đã mua là phù hợp với yêu cầu và chí phí mà họ đã bỏ ra. Nhiều người cho rằng sản phẩm của họ mua không được sản xuất từ loại gỗ mà họ đã được cở sở sản xuất cho biết. Theo đánh giá của những người tiêu dùng việc thiếu hệ thống tiêu chuẩn và kiểm soát chất lượng đang là cản trở cho việc ra quyết định đầu tư mua sản phẩm gỗ. Có 50% số người được trả lời phỏng vấn cho rằng đồ gỗ ngoại nhập sẽ được họ ưu tiên lựa chọn nếu như phải ra quyết định mua sản phẩm. Kết quả khảo sát cũng phản ánh rằng các cơ sở sản xuất đồ gỗ của Việt Nam sẽ có khả năng mất dần thị phần nếu như họ không có sự cải tiến về chất lượng đối với các sản phẩm tiêu dùng trong nước. 5. Hình thức bán hàng hay cung cấp sản phẩm rất đa dạng: Hiện nay người mua hàng có thể trực tiếp đến các cửa hàng buôn bán sản phẩm đồ gỗ để lựa chọn hàng cần mua. Nếu người mua không muốn sử dụng các sản phẩm sản xuất trước thì họ có thể đặt hàng và các cơ sở sản xuất đồ gỗ sẽ cử người đến thiết kế và sau đó tiến hành sản xuất và lắp đặt phù hợp với yêu cầu của người tiêu dùng. Người mua hàng cũng có thể mua hàng trên mạng internet. Thông thường các khách hàng có thu nhập thấp và nhu cầu tiêu dùng sản phẩm có chất lượng thấp thường đến mua trực tiếp ở các của hàng hoặc cơ sở sản xuất. Trong khi đó các khách hàng có thu nhập cao và có nhu cầu sản phẩm với chất lượng cao thường tìm đến các cơ sở sản xuất để đặt hàng theo những thiết kế và chất lượng nhất định. Vẫn còn rất ít khách hàng thực hiện việc mua hàng trên mạng internet. 6. Giá cả sản phẩm phụ thuộc vào thỏa thuận giữa người mua và người bán: 100% số người mà chúng tôi đã phỏng vấn cho rằng giá cả sản phẩm mà họ đã mua là do thỏa thuận giữa hai bên. Có 60% người trả lời phỏng vấn cho rằng giá cả sản phẩm mà họ đã mua là cao. Theo những người này nguyên nhân chính của việc họ đã phải trả giá cao cho sản phẩm mà họ tiêu dùng là do họ thiếu thông tin về thị trường, giá cả loại gỗ đã được sử dụng để đóng sản phẩm để ra quyết định mua sản phẩm và quan trọng hơn là người bán hàng thực hiện không đúng cam kết về chủng loại gỗ và chất lượng sản phẩm. Rất khó để phân tích và đánh giá về sự gia tăng giá cả của các sản phẩm đồ gỗ do chất lượng, mẫu mã sản phẩm liên tục được thay đổi. Tuy nhiên các cơ sở sản xuất đều cho rằng giá cả sản phẩm gỗ liên tục tăng lên và theo đáng giá của họ giá cả của sản phẩm đồ gỗ ở thị trường trong nước đã tăng lên 80% so với 5 năm trước đây. Theo ý kiến của các cơ sở sản xuất thì giá cả sản phẩm đồ gỗ sẽ tiếp tục tăng do sự khan hiếm về gỗ nguyên liệu. 30 7. Gỗ nguyên liệu sử dụng các sản phẩm đồ gỗ cho thị trường nội địa: Gỗ nguyên liệu của các cơ sở sản xuất đồ gỗ cho tiêu dùng nội địa hiện nay bao gồm gỗ khai thác từ rừng trồng trong nước, gỗ tự nhiên khai thác trong nước và gỗ tự nhiên nhập khẩu từ nước ngoài. Theo đánh giá của các cơ sở sản xuất thì tỷ trọng gỗ nguyên liệu là gỗ khai thác từ rừng trồng trong nước đang tăng lên rất nhanh và gỗ tự nhiên dùng cho sản xuất hàng mộc nội địa đều là gỗ khai thác từ rừng trong nước. Lượng gỗ nhập khẩu để sản xuất đồ mộc tiêu dùng nội địa là tương đối nhỏ. Với những số liệu khảo sát nhỏ lẻ của chúng tôi thì rất khó đưa ra đánh giá và kết luận gì về những điều này vì những lý do sau đây: Một là: Hầu hết các cơ sở sản xuất đều dấu các thông tin thực về số lượng gỗ tự nhiên mà họ đã sử dụng. Hai là: Việc mua bán gỗ nguyên liệu được thực hiện qua nhiều tầng/lớp trung gian. Ba là: Thiếu sự kiểm định về chất lượng và nguồn gốc gỗ sử dụng. Theo ý kiến của các cơ sở sản xuất thì việc sử dụng gỗ nguyên liệu là gỗ khai thác từ rừng trồng gặp rất nhiều khó khăn và giá thành sản phẩm cũng tương đối cao do: - Gỗ khai thác từ rừng trồng trong nước đều là gỗ nhỏ và gỗ non nên phải gia công xử lý rất phức tạp và chi phí cao. - Người dân Việt Nam vẫn chưa quan tâm và ưu tiên sử dụng những sản phẩm gỗ được chế biến từ gỗ rằng trồng 4. Phân tích ảnh hưởng của các chính sách đổi mới đến ngành công nghiệp chế biến gỗ Việt Nam 4.1 Tổng quan các chính sách liên quan đến ngành chế biến gỗ Từ năm 1986, Việt Nam thực hiện đường lối Đổi mới, chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp sang cơ chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập quốc tế. Nhà nước đã ban hành nhiều luật pháp và chính sách mới để thực hiện đường lối Đổi mới. Công nghiệp chế biến gỗ và thương mại lâm sản là một ngành sản xuất trong nền kinh tế quốc dân, các hoạt động của ngành vừa chịu sự điều chỉnh của luật pháp và chính sách vĩ mô, đồng thời với các chính sách chuyên ngành. Những luật pháp chính sách chính có liên quan đến ngành chế biến và thương mại gỗ có khoảng 39 văn bản các loại. Trong đó có 13 luật và chính cách tầm vĩ mô và 26 văn bản chính sách vi mô. Luật và chính sách vĩ mô bao gồm: Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Thương mại, Luật Thuế Doanh nghiệp, VAT, thuế xuất nhập khẩu hàng hóa, các Hiệp định thương mại đa phương AFTA và song phương BTA. Các chính sách chuyên ngành tập trung điều chỉnh các lĩnh vực chính: quản lý doanh 31 nghiệp chế biến gỗ, xuất nhập khẩu gỗ, quản lý và khai thác gỗ rừng tự nhiên, kiểm tra kiểm soát vận chuyển gỗ và Chiến lược phát triển lâm nghiệp VN. Để thấy được tác động của chính sách đến ngành cần phân loại luật pháp và chính sách nói trên theo thời gian ban hành. Chúng tôi lấy mốc là năm 2000- là khoảng giữa thời điểm ban hành Luật Doanh nghiệp và chính sách quản lý xuất nhập khẩu 2001-2005, những chính sách này đã có tác động quan trọng nhất trong việc thúc đẩy ngành công nghiệp chế biến và thương mại gỗ phát triển. Giai đoạn trước năm 2000 có 24 (8 luật và 16 chính sách), sau năm 2000 có 15 (5 luật và 10 chính sách). Nhìn chung các luật, chính sách ban hành sau năm 2000 đều tiếp cận sâu hơn với cơ chế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế (chi tiết xem bảng 19). Bảng 19. Danh lục các luật và chính sách chủ yếu tác động đến hoạt động ngành công nghiệp chế biến và thương mại gỗ (1990-2007) TT Tên chính sách Thời điểm ban hành I Chính sách vĩ mô 1 Luật thuế XNK 1991,1998 2 Luật khuyến khích đầu tư trong nước 1994,1998 3 Luật doanh nghiệp Nhà nước 1995 4 Luật đầu tư nước ngoài tại VN 1996,2000 5 Luật Thương mại 1997 6 Luật thuế giá trị gia tăng (VAT) - Thông tư số 187/1998/TT-BTC, 29/12/1998 của Bộ trưởng Bộ Tài chính hướng dẫn bổ sung thuế giá trị gia tăng đối với hoạt động XDCB, sản xuất, chế biến sản phẩm nông lâm nghiệp - NĐ số 79/2000/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Luật thuế giá trị gia tăng (2000) 1997 7 Luật thuế thu nhập doanh nghiệp - NĐ số 30/1998/NĐ-CP, 13/5/1998 quy định chi tiết thi hành Luật thuế thu nhập doanh nghiệp - NĐ số 26/2001, 4/6/2001 Sửa đổi, bổ sung nghị định 30/1998/ NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Luật thuê thu nhập doanh nghiệp 1998 8 Luật Doanh nghiệp 1999 9 Quyết định số 46/2001/QD-TTg ngày 4/4/2001 cuả Thủ tướng Chính phủ về quản lý XNK hàng hóa thời kỳ 2001-2005 2001 10 Luật Hải quan 2001,2005 11 Luật Doanh nghiệp (chung) 2005 12 Luật đầu tư (chung) 2005 13 Hiệp định thương mại AFTA 2000 14 Hiệp định thương mại Việt Mỹ 2005 II Chính sách vi mô (chuyên ngành CBG) 15 QD số 99/CT, ngày 24/4/1989 của Chủ tịch HDBT về đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng chế biến từ gỗ 1989 32 16 QD số 146/CT, ngày 30/4/1991 của Chủ tịch HDBT về việc xuất khẩu gỗ và các loại LS khác năm 1991 1991 17 Nghị định số 114/HDBT, ngày 7/4/1992 của Chủ tịch HDBT về quản lý nhà nước đối với XNK 1992 18 Quyết định số 14/CT, ngày 10/5/1992 của Chủ tịch HDBT về giao cho Bộ LN thống nhất quản lý nhà nước về công nghiệp chế biến gỗ 1992 19 QD số 624, ngày 29/12/1993 của Thủ tướng Chính phủ về xuất khẩu sản phẩm gỗ và lâm sản 1993 20 Chỉ thị số 283/TTg, 14/6/1993 của Thủ tướng CP về thực hiện các biện pháp cấp bách để quản lý gỗ quý hiếm 1993 21 Chỉ thị số 462/TTg, 11/9/1993 của Thủ tướng CP về quản lý chặt chẽ việc khai thác vận chuyển và xuất khẩu gỗ 1993 CV số 595/XNK ngày 24/3/1994 của Bộ LN Hướng dẫn xây dựng kế hoạch về xuất nhập khẩu sản phẩm gỗ và LS năm 1994 1994 22 Quyết định số 374/NN-PTLN/QĐ, 30/3/1996 của Bộ trưởng Bộ NN&PTNT về Ban hành quy định tạm thời về nhập khẩu gỗ nguyên liệu 1996 23 Quyết định số 329/NN-CBLS/QĐ, 19/3/1997 của Bộ trưởng NN&PTNT về sửa đổi bổ sung quy chế về việc xét duyệt quy họach mạng lưới và cấp giấy phép chế biến gỗ, lâm sản cho các doanh nghiệp 1997 24 Chỉ thị số 286/TTg ngày 2/5/1997 về tăng cường các biện pháp cấp bách để bảo vệ và phát triển rừng 1997 25 Chủ trương Đóng cửa rừng tự nhiên chủa Chính phủ: giảm sản lượng khai thác chính rừng tự nhiên 1997 26 Thông tư số 04/TT-BNN-CBNLS, 27/4/1998 của Bộ trưởng Bộ NN&PTNT về các doanh nghiệp có giấy phép đầu tư không phải xin phép hành nghề chế biến gỗ và lâm sản 1998 27 Quyết định số 65/1998/ QĐ-TTg,24/3/1998 của Thủ tướng CP về việc xuất khẩu sản phẩm gỗ , lâm sản và nhập khẩu nguyên liệu gỗ, lâm sản 1998 28 Quyết định số136/1998/QĐ-TTg, 31/7/1998 về sửa đổi một số quy định về thủ tục xuất khẩu sản phẩm gỗ lâm sản 1998 29 - Nghị định số 43/1999/NĐ-CP về tính dụng đầu tư phát triển của Nhà nước 1999 - Quyết định số 47/1999/QĐ-BNN-KL, 12/3/1999 của Bộ trưởng Bộ NN&PTNT ban hành quy định kiểm tra việc vận chuyển, sản xuất , kinh doanh gỗ và lâm sản 1999 30 Thông tư số 122/1999/TT-BNN-PTLN, 27/8/1999 của Bộ trưởng Bộ NN&PTNT về hướng dẫn xuất khẩu chi tiết sản phẩm gỗ mỹ nghệ và sản phẩm mộc tinh chế hoàn chỉnh bằng gỗ rừng tự nhiên 1999 31 Quyết định số 52/2001/QĐ-TTg, 12/4/2001 Phê duyệt chỉ tiêu sản lượng khai thác gỗ từ rừng tự nhiên giai đoạn 2001-2005 2001 32 - Quyết định số 62/QD-TTg ngày 4/4/2001 của Thủ tướng Chính phủ về quản lý xuất nhập khẩu hàng hóa thời kỳ 2001- 2005 2001 33 - TT sô 62/2001/TT-BNN của Bộ NN&PTNT Hướng dẫn việc XNK hàng hóa thuộc diện quản lý chuyên ngành nông nghiệp thời kỳ 2001-2005 33 Quyết định số 1494/QD/TCHQ ngày 26/12/2001 Ban hành quy định tạm thời về thủ tục hải quan đối với hàng hóa XNK 2001 34 Quyết định số 46/2001/QĐ-TTg,4/4/2001 về quản lý xuất nhập khẩu hàng hoá thời kỳ 2001-2005 2001 35 Thông tư số 62/2001/TT-BNN, 5/6/2001 của Bộ trưởng Bộ NN&PTNT về hướng dân việc xuất nhập khẩu hàng hoá thuộc diện quản lý chuyên ngành nông nghiệp theo quyết định số 46/2001/QĐ-TTg,4/4/2001 của Thủ tướng CP về quản lý xuất nhập khẩu hàng hoá thời kỳ 2001-2005 2001 36 Quyết định số 1494/2001/QĐ-TCHQ, 26/12/2001 của Tổng cục trưởng Tổng Cục Hải quan, Quy định tạm thời thủ tục hải quan đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu 2001 37 Thông tư số 102/2001/TT-BNN, 26/10/2001 của của Bộ trưởng Bộ NN&PTNT về hướng dân thực hiện quyết định số 178/1999/QĐ-TTg của Thủ tướng CP về Quy chế ghi nhãn hàng hoá lưu thông trong nước và hàng hoá xuất khẩu đối với hàng hoá chế biến từ lâm sản, ngũ cốc và hạt… 2001 38 Quyết định số 45/2002/QĐ- BTC , 10/4/2002 của Bộ Trưởng Bộ Tài chính về thay biểu thuế xuất khẩu 2002 39 Chiến lược phát triển LN VN 2006-2020 2007 40 CV số 4179/VPCP - NN, 12/8/2007 2007 4.2 Phân tích ảnh hưởng của các chính sách đến ngành công nghiệp chế biến gỗ VN 4.2.1 Phương pháp phân tích ảnh hưởng của luập pháp, chính sách đến ngành công nghiệp chế biến và thương mại lâm sản - Đánh giá tác động đồng bộ, tổng hợp của các chính sách trong từng giai đoạn: xem xét tác động của một chính sách trong mối tương quan với hệ thống chính sách có liên quan và môi trường kinh tế của cả nước trong từng giai đoạn ; - Lấy sự phát triển/tăng trưởng/ giảm sút của các tiêu chí chủ đạo của ngành công nghiệp chế biến và thương mại gỗ làm thước đo hiệu quả của các chính sách. - Độ trễ của chính sách Biểu đồ 10. Tương quan giữa luật pháp chính sách và các chỉ tiêu tăng trưởng của ngành CNCB Gỗ 34 Tăng trưởng ngành CNCB Gỗ 0 500000 1000000 1500000 2000000 2500000 3000000 3500000 4000000 1990 1995 2000 2005 2007 Go NK Dam go XK GTXK GTSX Lao dong So doanh nghiep Tăng trưởng GTSX CB gỗ 0 20000 40000 60000 80000 100000 120000 140000 1 2 3 4 5 Series2 Series1 Phát triển DNCBG 331 331 896 1718 2256 12 80 301 421 0 500 1000 1500 2000 2500 3000 1990 1995 2000 2005 2007 DN FDI Tong So DNCBG Chính sách vĩ mô Luật thuế XNK,1991 1998 ND,2000 Luật khuyến khích đầu tư trong 35 nước,1991 Luật khuyến khích đầu tư trong nước,1994 Luật đầu tư nước ngoài tại VN,1996 2000 Luật doanh nghiệp Nhà nước,1965 Luật Doanh nghiệp1999 Luật Doanh nghiệp (chung),2005 Luật thuế VAT,1997 ND,2000 Luật Hải quan 2001 Luật thuế thu nhập doanh nghiệp1998 Hiệpđịnhphương mại AFTA Hiệp định thương mại Việt Mỹ,2005 Quyết định về quản lý XNK hàng hóa thời kỳ 2001-2005 Chính sách chuyên ngành Chế biến và thương mại gỗ QD đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng chế biến từ gỗ,1989 QD việc xuất khẩu gỗ và các loại LS khác năm 1991 Nghị định về quản lý nhà nước đối với XNK,1992 QD về xuất khẩu sản phẩm gỗ và lâm sản,1993 Quyết định về Ban hành quy định tạm thời về nhập khẩu gỗ nguyên liệu,1996 Đóng cửa rừng tự nhiên,1997 Thông tư về các doanh nghiệp có giấy phép đầu tư không phải xin phép hành nghề chế biến gỗ và lâm sản,1998 Quyết định về quản lý xuất nhập khẩu hàng hóa thời kỳ 2001-2005 Chiến lược phát triển LN VN 2006-2020,2007 Qua biểu đồ trên cho thấy phần lớn luật pháp và chính sách vĩ mô quan trọng và các chính sách chuyên ngành có liên quan đến hoạt động của ngành công nghiệp chế biến gỗ được ban hành ở giai đoạn trước năm 1999. Đã có chủ trương và giải pháp về đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu gỗ và đồ gỗ trong những năm 1990, nhưng tác dụng thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp chế biến gỗ không lớn. Thậm chí một số chính sách chuyên ngành lâm nghiệp như cấm xuất khẩu gỗ tròn và gỗ xẻ (1993), đóng cửa rừng tự nhiên (1997)- thực tế là giảm mạnh khai thác chính gỗ rừng tự nhiên từ khoảng 700.000 m3/năm xuống 300-200.000 m3/năm sau năm 2000, đã gây nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp chế biến gỗ trong nước và liên doanh có vốn đầu tư nước ngoài. Nguyên nhân chính không phải từ những chính sách cụ thể đối với ngành chế biến gỗ, mà nguyên nhân sâu xa là ở toàn bộ nền kinh tế chưa ra khỏi khủng hoảng ở những năm cuối 1990. Thị trường xuất khẩu gỗ chính thời kỳ này là Liên xô và các nước XHCN Đông Âu đang tan rã và sụp đổ, Việt Nam đang bị Mỹ và nhiều nước tư bản cấm vận kinh tế, cuộc khủng hoảng tài chính 1997 trong khu vực Châu Á. Chỉ 36 có doanh nghiệp quốc doanh được xuất khẩu gỗ, xuất khẩu theo hiệp định và trả nợ nên không có lợi nhuận, không tạo động lực cho người xuất khẩu, nguồn gỗ rừng tự nhiên khai thác trong nước hạn chế, phải có hạn ngạch gỗ chế biến xuất khẩu. Giai đoạn sau 1999, luật pháp và chính sách mới ban hành tuy không nhiều, chủ yếu là sửa đổi và bổ sung cho phù hợp với cơ chế kinh tế thị trường và tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Yếu tố chính đảm bảo cho sự phát triển cho các ngành đã mở ra: đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế, giữ vững ổn định chính trị, phá được thế bao vây cấm vận, quan hệ quốc tế được cải thiện và mở rộng. Quan trọng nhất, trước hết phải nói đến Luật Doanh nghiệp ban hành năm 1999. Luật này thực sự đã cởi trói cho khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, với những quy định: (i) Nhà nước công nhận sự tồn tại lâu dài và phát triển của các loại hình doanh nghiệp; bảo đảm sự bình đẳng trước pháp luật của các doanh nghiệp, thừa nhận tính sinh lợi hợp pháp của hoạt động sản xuất kinh doanh; (ii) Nhà nước công nhận và bảo hộ quyền sở hữu tài sản, vốn đầu tư và thu nhập, các quyền lợi và lợi ích hợp pháp khác của doanh nghiệp và chủ sở hữu doanh nghiệp; (iii) Tài sản và vốn đầu tư hợp pháp của doanh nghiệp và chủ sở hữu doanh nghiệp không bị quốc hữu hóa, không bị tịch thu bằng biện pháp hành chính. Thứ hai, Quyết định số 46/2001/QĐ-TTg, ngày 4/4/2001 của Thủ tướng Chính phủ về quản lý xuất nhập khẩu hàng hoá thời kỳ 2001-2005 và hướng dẫn thực hiện của Bộ NN&PTNT, đã cởi trói về hạn chế trong các thủ tục xuất nhập khẩu gỗ và sản phẩm gỗ. Thứ ba, chính sách thuế xuất khẩu sản phẩm gỗ bằng 0% (1998) và thuế nhập khẩu gỗ nguyên liệu cũng bằng 0% (1998). Tác động của các chính sách này trong điều kiện mới của nền kinh tế cả nước sau năm 2000 đã tạo cho ngành công nghiệp chế biến gỗ và xuất khẩu gỗ có sự phát triển đột phá, thể hiện ở các chỉ tiêu sau: - tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp chế biến lâm sản 3,41 lần trong giai đoạn 2000-2005, bình quân 68 %/năm, tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu giai đoạn 2001-2007 là 114,5 %/năm. Thứ tư là tác động của Hiệp định thương mại Việt Mỹ (BTA, 2005). Kim ngạch xuất khẩu sản phẩm gỗ năm 2005 tăng 41,7% so với năm 2004 chủ yếu do tăng vọt của kim ngạch xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ (557 triệu USD), bằng 38,3% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu và sau đó vẫn duy trì mức tăng trưởng 31,2% năm 2006. Nhờ có chính sách cởi mở đối với ngành công nhiệp CB Gỗ và sự năng động của doanh nhân, DN VN và DN có vốn đầu tư nước ngoài, ngành công nghiệp chế biến gỗ xuất khẩu của VN đã phát triển nhanh chóng, đưa xuất khẩu gỗ của VN vượt Indonexia, Thái Lan để trở thành nước thứ 2 về xuất khẩu đồ gỗ lớn nhất trong khu vực Đông Nam Á, cạnh tranh ngang ngửa với Malaixia. - Biểu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đã xây dựng các mức thuế xuất cụ thể, có phân biệt đối với các sản phẩm xuất khẩu được làm từ nguyên liệu gỗ có xuất xứ khác nhau. Sản phẩm gỗ xuất khẩu có xuất xứ gỗ rừng tự nhiên chịu thuế xuất cao hơn sản phẩm từ gỗ rừng trồng: 37 gỗ rừng tự nhiên thuế xuất trung bình 5-10%, gỗ rừng trồng 0%. Thuế xuất thuế nhập khẩu gỗ nguyên liệu bằng 0%. - Chính sách tín dụng hỗ trợ xuất khẩu thông qua Quỹ hỗ trợ phát triển, thưởng xuất khẩu cũng là động lực thúc đẩy xuất khẩu các sản phẩm gỗ Biểu 20. Tăng trưởng ngành công nghiệp chế biến gỗ Chỉ tiêu Thời kỳ 2000-2005 (lần) Tăng trưởng bình quân/năm (%) Số doanh nghiệp 5,69 114,0 Giá trị sản xuất công nghiệp 3,41 68,0 Giá trị kim ngạch xuất khẩu 7,12 142,0 Giá trị gỗ nguyên liệu nhập khẩu 1,05 21,0 - Sau năm 2000, tăng trưởng về công nghiệp chế biến gỗ chủ yếu dựa vào doanh nghiệp dân doanh và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Đánh giá chung đến nay, luật pháp chính sách đối với ngành công nghiệp chế biến gỗ là phù hợp, đã tạo điều kiện cho ngành chế biến gỗ trở thành ngành kinh tế mũi nhọn trong phát triển lâm nghiệp, đóng góp phần quan trọng vào tăng trưởng GDP lâm nghiệp. (Những hạn chế sẽ được phân tích đầy đủ trong mục thách thức). Vấn đề tồn tại hiện nay là năng lực thực thi chính sách của bộ máy quản lý nhà nước còn nhiều bất cập, cải cách hành chính chậm, doanh nghiệp phải chịu nhiều chi phí ngoài luật để có thuận lợi trong sản xuất kinh doanh. Hộp số 2. Phân tích về tác động của chính sách lâm nghiệp của đề tài: "Đánh giá tác động của một số chính sách lâm nghiệp chủ yếu trong gia đoạn vừa qua - Đề xuất một số chính sách tạo động lực phát triển lâm nghiệp bền vững giai đoạn 2006-2010" "Đề tài đã phỏng vấn 47 giám đốc các doanh nghiệp chế kinh doanh lâm sản thuộc các thành phần kinh tế khác nhau. Cho thấy: - Chính sách cho phép nhập khẩu nguyên liệu, cấm xuất khẩu gỗ tròn, đẩy mạnh xuất khẩu gỗ tinh chế và thi hành nghiêm chỉnh Luật Đầu tư đã có tác dụng thúc đẩy công nghiệp chế biến gỗ thay đổi về cơ cấu sản phẩm, thiết bị… - Công nghiệp chế biến gỗ đã có 3 chuyển biến quan trọng: (i) Đầu tư tư nhân vào chế biến gỗ ngày càng cao dần; (ii) Công nghệ chế biến gỗ đã có tiến bộ hơn trước rất nhiều; (iii) Cơ cấu sản phẩm đã chuyển dần theo hướng sản phẩm tinh chế (phần lớn các doanh nghiệp sản xuất theo đơn đặt hàng để giao cho các doanh nghiệp khác xuất khẩu- không xuất khẩu trực tiếp) - Chính sách nhập khẩu nguyên liệu có tác dụng thúc đẩy phát triển công nghiệp chế biến gỗ và nâng cao kim ngạch xuất khẩu"

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf90209 Bao cao 1 cong nghiep che bien go thach thuc va co hoi1.pdf