Đề tài Ngành kiểm toán Việt Nam trong quá trình hội nhập với khu vực và thế giới

Qua các nội dung được trình bày trên đây, chúng ta có thể thấy rằng, quá trình hội nhập của kiểm toán Việt Nam là tất yếu. Kinh tế Việt Nam muốn hoà vào xu thế chung của thế giới cần phải có rất nhiều cố gắng để có thể vượt qua những trở ngại để tận dụng những thuận lợi , nắm bắt những thời cơ để tồn tại và phát triển. Đây cũng là một quá trình phức tạp, phải trải qua nhiều giai đoạn khác nhau mới có thể hoàn thành được. Chúng ta cần tiến hành từng bước theo kế hoạch đặt ra, không nên bỏ qua giai đoạn nào mới có thể đạt được kết quả như mong muốn. Để góp phần vào các giai đoạn trên, mỗi kế toán viên, mỗi người hoạt động trong từng lĩnh vực kiểm toán,kế toán và nagy cả những người còn ngồi trên ghế giảng đường đại học như các sinh viên chuyên ngành kế toán, kiểm toán chúng ta cũng cần phải tự trao đổi, nâng cao trình độ hiểu biết về nghĩa vụ ngành nghề, tìm hiểu những qui định mới, cập nhật thông tin hữu ích cho nghề nghiệp sau này cũng như luôn rèn luyện giữ gìn sức khoẻ để có thể thích nghi được với môi trường cạnh tranh khốc liệt bây giờ. Cuối cùng cho em gửi lời cảm ơn tới thầy PHAN TRUNG KIÊN đã giúp em hoàn thành tốt bài viết này. Nhưng do trình độ hiểu biết của em còn nhiều hạn chế nên bài viết có nhiều thiếu sót, em mong được sự chỉ bảo thêm của các thầy, các cô.

doc47 trang | Chia sẻ: linhlinh11 | Lượt xem: 813 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Ngành kiểm toán Việt Nam trong quá trình hội nhập với khu vực và thế giới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
vai trò của ngành kiểm toán trong vấn đề làm trong sạch môi trường kinh doanh tạo ra sự cạnh tranh công bằng trong các doanh nhgiệp. Với yêu cầu nữa đặt ra với ngành kiểm toán Việt Nam là phải phổ biến nghề nghiệp kiểm toán rộng rãi trong toàn xã hội. Ngành kiểm toán nói riêng cần có cái nhìn thật sự rõ ràng về các vấn đề đặt ra trên bước đường hội nhập . Từ đó các giải pháp vàcác bước phát triển hiệu quả nhằm đưa ngành kiểm toán Việt Nam hội nhập cùng với xu thế phát triển của kiểm toán thế giới nói riêng cũng như nền kinh tế thế giới nói chung. Phần II: Hoạt động kiểm toán ở Việt Nam hiện nay 1. Nền kinh tế Việt Nam và vấn đề kiểm tra, kiểm soát nói chung trong đó có hoạt động kiểm toán Khái quát về lịch sử hình thành và phát triển của ngành kiểm toán Việt Nam. * Lịch sử hình thành ở Việt Nam tuy ba loại hình kiểm toán:kiểm toán nhà nước, kiểm toán độc lập, kiểm toán nội bộ ra đời ở những thời điểm khác nhau nhưng đã đạt được những thành tựu đáng kể, bên cạnh đó cũng không thể tránh khỏi những hạn chế. - Kiểm toán độc lập: Kiểm toán độc lập ở nước ta ra đời từ 13/5/1991. Hơn một thập kỷ qua, KTĐL đã hình thành ,phát triển và trở thành một hệ thống phong phú với đầy đủ các hình thức sở hữu :tư nhân nhà nước liên doanh, cổ phần, 100% vốn đầu tư nước ngoài. Kiểm toán độc lập thực chất là một dịch vụ kinh doanh có tính kinh tế cạnh tranh. Trong cơ chế thị trường và sự phát triển mạnh mẽ của KTĐL, đặc biệt xu hướng hội nhập và tư do hoá hoạt động trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ kế toán và kiểm toán thì cần phải xem xét một số vấn đề về tổ chức công tác, tổ chức bộ máy và kiểm soát chất lượng của KTĐL. Kiểm toán độc lập chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực kiểm toán báo cáo tài chính. Ngoài ra theo yêu cầu của khách hàng, KTĐL còn có thể thực hiện các cuộc kiểm toán: kiểm toán tuân thủ hoặc tiến hành các dịch vụ tư vấn tài chính khác. KTĐL hoạt động theo chế độ của Luật doanh nghiệp nhà nước, luật Công ty và có mục tiêu căn bản là lợi nhuận. Song KTĐL cũng là một tác nhân quan trọng đảm bảo cho sự trong sạch của môi trường thông tin kinh tế trong điều kiện kinh tế thị trường. Mặc dù kiểm toán độc lập ở Việt Nam ngày càng tăng lên cả về số lượng và chất lượng nhưng vẫn còn những trở ngại cho sự phát triển vững mạnh của nó. Hiện nay chưa có một cơ chế kiểm soát chất lượng hoạt động của KTĐL một cách rõ ràng cụ thể, trong khi đó chất lượng kiểm toán độc lập lại chưa được khẳng định do đó lòng tin của công chúng đối với KTĐL chưa được nâng cao. Được thành lập sau một số công ty KTĐL đó là kiểm toán nhà nước, ra đời ngày 11/7/1994 theo Nghị định 70/CP với chức năng "xác nhận tính đúng đắn, hợp pháp của tài liệu, số liệu kế toán, báo cáo quyết toán của các cơn quan nhà nước, các đơn vị sự nghiệp, đơn vị kinh tế nhà nước và các đoàn thể quần chúng, các tổ chức xã hội sử dụng kinh phí do nhà nước cấp. - Kiểm toán nhà nước: ở nước ta, trong thời kì quản lý nền kinh tế theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung và kiểm toán nhà nước nói riêng chưa được quan tâm tới. Sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, công cuộc đổi mới đã được khởi động chuyển nền kinh tế quốc dân từ cơ chế kế hoạch hoá tập chung sang cơ chế thị trừng có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Nền kinh tế quốc dân nước ta trong những năm gần đây phát triển với tốc độ nhanh , với quy mô rộng lớn và đa dạng Trước tình hình đó, công tác điều hành nền kinh tế quốc dân của nhà nước càng đòi hỏi phải sử dụng một cách có hiệu quả hệ thống các công cụ quản lý , trong đó đặc biệt là công tác kế toán, kiểm toán. KTNN trở thành một trong những nhu cầu quản lý vĩ mô nền kinh tế quốc dân của Đảng và Nhà nước nhằm sử dụng tiết kiệm , có hiệu quả ngân sách nhà nước và tài sản quốc gia, chống tiêu cực, tham nhũng. Việc thành lập và phát triển cơ quan KTNN ở nước ta xuất phát từ chính yêu cầu đòi hỏi của công cuộc đổi mới và sự phát triển của nền kinh tế đất nước, cũng là nhằm thực hiện quá trình dân chủ hoá, góp phần vào việc tăng cường và hoàn thiện mội nhà nước pháp quyền, nhà nước của dân, do dân và vì dân. - Kiểm toán nội bộ: Bên cạnh cơ quan KTNN phát huy tác dụng mạnh mẽ trong quản lý của nhà nước còn có KTNB trong hệ thống kiểm soát nội bộ cũng phát huy nhiều tác dụng. Tháng 10/1997, trên cơ sở Luật ngân sách, Chính Phủ đã ban hành Nghị định59/CP và Bộ tài chính ra Quyết định số832/TC/QĐ/CĐban hành Quy chế kiểm toán nội bộ đã đánh dấu sự hình thành các văn bản pháp quy trong lĩnh vực này. Kiểm toán nội bộ và kiểm toán do các kiểm toán viên nội bộ của đơn vị tiến hành. Phạm vi kiểm toán nội bộ xoay quanh việc kiểm tra và đánh giá tính hiệu lực và tính hiệu quả của hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ. Như vậy KTNB là công cụ cần thiết của chủ doanh nghiệp để quản lý, kiểm soát và điều hành kiểm soát để hạn chế rủi ro, ngăn ngừa sai phạm các hoạt động trong công tác quản lý kinh tế, tài chính của doanh nghiệp, làm rõ chức năng đánh giá và xác nhận chất lượng của hoạt động, chất lượng thông tin kinh tế cho đối tượng là chủ doanh nhgiệp. Hoạt động kiểm toán nội bộ được tiến hành trước, trong và sau các hoạt động, các nghiệp vụ kinh tế phát sinh. Mặc dù KTNB đã phát huy tác dụng trong công tác quản lý, nhưng tính pháp lý không cao vì KTNB được tổ chức độc lập với bộ phận kế toán, nhưng KTNB là một bộ phận của đơn vị nên không thể hoàn toàn độc lập được, mặt khác các báo cáo kiểm toán được chủ doanh nghiệp tin tưởng nhưng ít có giá trị pháp lý. Kiểm soát nội bộ là một chức năng quản lý trong phạm vi đơn vị. Kiểm soát nội bộ là sự kiểm tra và giám sát mọi hoạt động trong tất cả các khâu của quá trình quản lý nhằm đảm bảo các hoạt động đúng luật phát và đạt được các kế hoạch mục tiêu đề ra với hiệu qủa kinh tế cao nhất và đảm bảo sự tin cậy của báo cáo tài chính. Một trong sự thành công của hệ thống kiểm soát nội bộ là nội dung của hoạt động kiểm soát và kiểm tra kế toán. Hoạt động kiểm soát là hoạt động để thực hiện những chính sách và thủ tục đảm bảo những hoạt động cần thiết sẽ được thiết lập và thực hiện nhằm đảm bảo được kế hoạch, mục tiêu đề ra của đơn vị. Kiểm tra kế toán là xem xét, đối sách dựa trên các chứng từ kế toán, số liệu ở sổ sách, báo biểu kế toán và các tài liệu hạch toán khác, qua đó xác định tính hợp pháp của các nghiệp vụ kinh tế phát sinh tính đúng đắn của việc tính toán, ghi chép, phản ánh tính hợp lý của các phương pháp kế toán được áp dụng. 2. Thực trạng của dịch vụ kiểm toán ở Việt Nam hiện nay 2.1. Tổ chức công tác kiểm toán Tổ chức công tác kiểm toán là một trong những vấn đề cơ bản bao hàm trong khái niệm tổ chức kiểm toán. Có thể dễ dàng đi đến thống nhất rằng một cuộc kiểm toán chỉ có thể thiện nếu đối tượng được xác định thống nhất giữa chủ thể và khách thể kiểm toán, trong đó chủ thể kiểm toán phải xác định rõ mục tiêu và phạm vi kiểm toán và kết hợp khéo léo các phương pháp các phương pháp kỹ thuật theo trình tự kiểm toán trong khuôn khổ những cơ sở pháp lý nhất định để thực hiện cuộc kiểm toán, thoả mãn nhu cầu khách thể kiểm toán và các bên quan tâm. Theo đó, tổ chức công tác kiểm toán là một vấn đề cơ bản, có ý nghĩa quyết định sự thành công và tính hiệu quả thực hiện một cuộc kiểm toán. Tổ chức công tác kiểm toán hướng tới việc tạo ra mối liên hệ khoa học và nghệ thuật các phương pháp kỹ thuật kiểm toán dùng để xác minh và bày tỏ ý kiến về đối tượng kiểm toán. Dù trình tự cơ bản của bản thân công tác kiểm toán khác nhau song trong mọi trường hợp, tổ chức kiểm toán đều phải được thực hiện theo một quy trình chung với 3 bước: Bước 1: Chuẩn bị kiểm toán bao gồm tất cả các công việc khác nhau nhằm tạo được cơ sở pháp lý, kế hoạch kiểm toán cụ thể và các điều kiện vật chất cho công tác kiểm toán. Bước 2 : Thực hành kiểm toán bao gồm tất cả các công việc thực hiện chức năng xác minh của kiểm toán để khẳng định được thực chất của đối tượng và khách thể kiểm toán cụ thể. Bước 3 : Kết thúc kiểm toán bao gồm các công việc được ra kết luận kiểm toán, lập báo cáo kiểm toán và giải quyết các công việc phát sinh sau khi lập báo cáo kiểm toán. * Đối với kiểm toán nhà nước: - Đối tượng kiểm toán: Bảng khai tài chính và kiểm toán tuân thủ. - Mục tiêu và phạm vi kiểm toán: Kiểm tra xác nhận tính đúng đắn, trung thực, hợp pháp của các số liệu , tài liệu kế toán, báo cáo tài chính, báo cáo quyết toán về thu, chi, sử dụng ngân sách nhà nước và việc thi hành pháp luật về kinh tế - tài chính, ngân sách, kế toán của nhà nước, thông qua công tác kiểm toán, nghiên cứu, đề xuất các kiến nghị và giải pháp góp phần giữ vững kỷ cương, pháp luật, ngăn ngừa các hành vi vi phạm, sử dụng kém hiệu quả, lãng phí công quỹ, vốn và tài sản của Nhà nước. - Chủ thể kiểm toán: Là kiểm toán viên nhà nước, công chức của Nhà nước. - Khách thể kiểm toán: Bao gồm các đơn vị, tổ chức thuộc sở hữu của nhà nước như: các dự án, công trình do ngân sách nhà nước đầu tư, các DNNN, các xí nghiệp công cộng thuộc sở hữu của nhà nước; các cơ quan quản lý của nhà nước và các đoàn thể xã hội, tài khoản cá nhân thuộc ngân sách nhà nước. - Phương pháp áp dụng trong kiểm toán và cơ sở pháp lý thực hiện kiểm toán: Đối với các đơn vị có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam, các công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần hoạt động theo Luật công ty, công tác kiểm toán được thực hiện hàng năm và báo cáo quyết toán hàng năm gửi cho các cơ quan quản lý nhà nước phải kèm theo báo cáo kiểm toán của tổ chức kiểm toán độc lập hoạt động hợp pháp ở Việt nam hoạc một tổ chức kiểm toán độc lập khác được Bộ Tài chính công nhận. Trường hợp đơn vị có vốn đầu tư nước ngoài muốn chỉ định một công ty kiểm toán nước ngoài chưa được phép hoạt động ở Việt nam thì phải tuân thủ các điều kiện: Đối với các xí nghiệp 100% vốn nước ngoài và các bên nước ngoài tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh phải thông báo cho Bộ Tài Chính biết công ty kiểm toán được chỉ định để Bộ tài chính xem xét, chấp nhận và phải chịu trách nhiệm nộp thay số thuế mà công ty kiểm toán nước ngoài phải nộp cho Nhà nước Việt nam theo luật định về hoạt động kiểm toán tại Việt nam. Đối với các xí nghiệp liên doanh: Công ty kiểm toán được chỉ định phải phối hợp với một công ty kiểm toán Việt nam cùng thực hiện kiểm toán. Kết quả kiểm toán chỉ có giá trị pháp lý khi hai bên cùng nhất trí. Trường hợp công ty kiểm toán Việt nam từ chối thì công ty kiểm toán nước ngoài được chỉ định sẽ kiểm toán cho xí nghiệp sau khi được Bộ Tài chính chấp nhận. Đối với các đối tượng kiểm toán khác, trong giai đoạn trước mắt, cuộc kiểm toán được tiến hành khi đơn vị kế toán có nhu cầu hoặc khi cơ quan quản lý chức năng của Nhà nước cơ quan chủ quản, cơ quan tài chính, cơ quan thuế yêu cầu và chỉ tiến hành trong phạm vi nội dung được yêu cầu ( quyết toán năm, quyết toán công trình XDCB hoàn thành, xác định giá trị vốn góp liên doanh,.... Mối quan hệ giữa chủ thể và khách thể ở đây là mối quan hệ tự nguyện và theo hợp đồng kiểm toán, kết quả kiểm toán do kiểm toán viên độc lập đưa ra cũng có giá trị pháp lý cao. * Đối với kiểm toán độc lập: - Đối tượng kiểm toán là: Bảng khai tài chính và kiểm toán nghiệp vụ. - Mục tiêu và phạm vi kiểm toán: Đưa ra lời kết luận về các báo cáo tài chính của doanh nghiệp, giúp các đơn vị kế toán phát hiện và chấn chỉnh kịp thời các gian lận và sai sót, phòng ngừa các sai phạm và các thiệt hại có thể xảy ra trong kinh doanh và sử dụng kinh phí. Đế hình thành các ý kiến nhận xét về BCTC, kiểm toán viên phải có được những căn cứ vững chắn cũng như các thông tin cốt yếu trong công việc ghi chép kế toán và các nguồn dữ liệu đáng tin cậy khác đã được dùng làm cơ sở cho việc xây dựng các báo cáo tài chính. Kiểm toán viên đánh giá tính hợp lý, đáng tin cậy và đầy đủ của các thông tin trong các tài liệu ké toán chủ yếu và các nguồn số liệu khác. Để đạt được các mục tiêu kiểm toán, kiểm toán viên phải tiến hành: + So sánh BCTC với các ghi chép kế toán chủ yếu và các nguồn tài liệu khác để xem xét các nghiệp vụ, các sự kiện có được ghi chép, tập hợp đầy đủ, chính xác hay không. + Cân nhắc, xét đoán các nguyên tắc, các phương pháp mà doanh nghiệp đã áp dụng khi lập BCTC. Như vậy công việc kiểm toán phải được tổ chức một cách hợp lý và xuyên suốt mọi khía cạnh của doanh nghiệp cũng như phải phù hợp với BCTC được kiểm toán. - Chủ thể kiểm toán: Là các kiểm toán viên chuyên nghiệp. Cá tiêu chuẩn cần có đối với 1 kiểm toán viên chuyên nghiệp: Có trình độ nghiệp vụ, phải có chứng chỉ kế toán viên công chứng(CPA). Về phẩm chất đạo đức, phải là những người không có tièn án tiền sự. Về tính pháp lý: phải có giáy phép đăng ký hành nghề. Về mặt xã hội: kiểm toán viên phải độc lập với lợi ích kinh tế và không có quan hệ họ hàng với khách thể kiểm toán. - Khách thể kiểm toán độc lập: Chủ yếu là các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Ngoải ra còn có thể là các đơn vị hành chính sự nghiệp, các đoàn thể quần chúng, các tổ chức xã hội và tổ chức quốc tế, khi các tổ chức này có nhu cầu hay các cơ quan quản lý cấp trên, cơ quan thuế hay cơ quan tài chính nhà nước yêu cầu. * Kiểm toán nội bộ: - Đối tượng kiểm toán: kiểm toán nghiệp vụ và kiểm toán tuân thủ. - Mục tiêu và phạm vi kiểm toán: Kiểm tra xác nhận và tư vấn cho quá trình quản lý và điều hành các quan hệ kinh tế - tài chính trong doanh nghiệp. Giám sát một cách độc lập các hoạt động chức năng trong doanh nghiệp: +Xem xét các số liệu tài chính, các thủ tục thực hiện và đưa ra các nhận xét, đánh giá về chất lượng và độ tin cậy của các thông tin kinh tế - tài chính. + Trợ giúp cho hệ thống quản lý doanh nghiệp trong việc nâng cao hiệu lực hoạt động, đẩy mạnh và phát huy hệ thống kiểm soát nội bộ, thực hiện điều tra đặc biệt đáp ứng yêu cầu quản lý và bảo vệ tài sản doanh nghiệp. - Chủ thể kiểm toán: Là các kiểm toán viên nội bộ và thường là nhân viên của một tổ chức. Kiểm toán viên nội bộ là những kiểm toán viên không chuyên nghiệp, có thể được lấy từ các kiểm toán viên độc lập, các kế toán viên, các nhà quản lý, thậm chí là cả sinh viên mới ra trường. - Khách thể của kiểm toán nội bộ: Bao gồm các đơn vị, các chi nhánh, các bộ phận hay các chức năng trong một doanh nghiệp hoặc tổ chức. Mối quan hệ giữa chủ thể và khách thể kiểm toán là mối quan hệ bắt buộc. kết quả kiểm toán do kiểm toán viên nội bộ tiến hành có giá trị pháp lý không cao vì kết quả này phục vụ cho nhu cầu bên trong doanh nghiệp. 2.2. Tổ chức bộ máy kiểm toán Bộ máy kiểm toán gồm cả con người và phương tiện chứa đựng các yếu tố của kiểm toán để thực hiện chức năng kiêm toán. Tổ chức bộ máy kiểm toán với những mô hình tổ chức và cơ chế hoạt động linh hoạt nhằm thích ứng với đặc điểm cảu đối tượng và khách thể kiểm toán trong các cuộc kiểm toán và hướng tới việc thực hiện các chức năng kiểm toán. Các nguyên tắn cơ bản của tổ chức bộ máy kiểm toán: - Phải xây dựng đội ngũ kiểm toán viên đủ về số lượng và bảo đảm yêu cầu chất lượng phù hợp với từng bộ máy kiểm toán. Sự tồn tại cũng như chất lượng hoạt động của bộ máy kiểm toán được quyết định trước hết bởi số lượng và chất lượng đội ngũ kiểm toán viên. Đây cũng là nguyên lý chung cho việc tổ chức mọi hệ thống bộ máy. Hơn nữa, hoạt động kiểm toán lại có chức năng đặc biệt nên càng đòi hỏi cao với kiêm toán viên cả về chuyên môn lẫn phẩm hạnh đạo đức. Vì vậy, bất cứ ở đâu, cho dù khi mới xây dựng hay trong bước đường phát triển, các tổ chức kiểm toán đều coi trọng việc xây dựng đội ngũ kiểm toán viên. Mặt khác kiểm toán viên lại bao gồm nhiều loại hình với những bộ máy tổ chức cụ thể cũng có những đặc điểm khac nhau về nội dung và phương pháp kiểm toán cụ thể và từ đó cả về tổ chức kiểm toán. Việc xây dựng đội ngũ kiểm toán viên đòi hỏi những yêu cầu cụ thể rieng biệt thích ứng với từng loại hình, từng bộ máy kiểm toán. - Hệ thống bộ máy kiểm toán phải bao gồm các phân hệ chứa đựng các mối liên hệ trong - ngoài khác nhau phù hợp với nguyên tắc chung của lý thuyết tổ chức và phù hợp với quy luật của phép biện chứng về liên hệ. - Tổ chức bộ máy kiểm toán phải quán triệt nguyên tắc chung của mọi hệ thống tổ chức bộ máy: tập trung, dân chủ thích ứng với từng bộ phận kiểm toán. * Tổ chức bộ máy kiểm toán nhà nước: Bộ máy kiểm toán nhà nước là hệ thống tập hợp những viên chức nhà nước để thực hiện chức năng kiểm toán ngân sách và tài sản công. Như vậy, trong quan hệ với hệ thống bộ máy nhà nước, kiểm toán nhà nước là một phân hệ thực hiện chức năng kiểm toán. Xét trong hệ thông kiểm toán nói chung, kiểm toán nhà nước lại là phân hệ thực hiện chức năng này với một đối tượng cụ thể là tài sản nhà nước trong đó có ngân sách nhà nước. Trên thế giới có 2 mô hình kiểm toán nhà nước: Mô hình tổ chức độc lập: Cơ quan kiểm toán tối cao được tổ chức một cách độc lập với cơ quan lập pháp và hành pháp, được áp dụng phổ biến ở hầu hết các nước có nền kinh tế phát triển, có nhà nước pháp quyền được xây dựng có nề nếp... Mô hình tổ chức cơ quan kiểm toán nhà nước thuộc cơ cấu hành pháp. Mô hình này được thể hiện ở mỗi nước một nét khác biệt. ở Việt nam, kiểm toán nhà nước thuộc cơ cấu hành pháp. Việc tố chức cơ quan KTNN trực thuộc cơ quan hành pháp giúp chính phủ kiểm soát, điều hành nhanh nhạy quá trình thực hiện ngân sách và các hoạt động khác có liên quan đến việc vận hành nền tài chính quốc gia. Bộ máy kiểm toán nhà nước tổ chức theo nguyên tắc tập trung cao, chỉ huy và vận hành theo đơn tuyến, bao gồm cơ quan KTNN ở Trung ương và KTNN ở các khu vực. ở Trung ương có văn phòng tổng hợp, các vụ chức năng, các vụ kiểm toán chuyên ngành, các cơ quan sự nghiệp rực thuộc. ở khu vực trên từng địa bàn, lãnh thổ có KTNN khu vực, là cơ quan KTNN trung ương đóng trên địa bàn, phụ trách một số tỉnh thành phố. Sự phân chia trách nhiệm do tổng KTNN quyết định. Đứng đầu cơ quan KTNN là Tổng KTNN và đứng đầu các vụ kiểm toán chuyên ngành và các KTNN khu vực là các kiểm toán trưởng. Tuy ở thời điểm hiện tại, địa vị pháp lý của kiểm toán nhà nước còn chưa cao do KTNN chưa có vị trí trong luật gốc (Hiến pháp) và chưa có luật hay pháp lệnh về kiểm toán nhà nước. Điều này gây trở ngại không nhỏ cho tổ chức và hoạt động của cơ quan kiểm toán nhà nước hiện nay: một mặt, tổ chức bộ máy của KTNN không đảm đương được hết chức năng kiểm tra nền tài chính công, mặt khác lại có sự chồng chéo, trùng lắp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thanh tra ,kiểm tra các đơn vị kinh tế cơ sở. * Tổ chức bộ máy KTĐL: Bộ máy KTĐL là tổ chức của các kiểm toán viên chuyên nghiệp, kinh doanh dịch vụ kiểm toán và các dịch vụ khác có liên quan. Là tổ chức kinh doanh, một đơn vị KTĐL phải thực hiện những nghĩa vụ và có quyền lợi như các tổ chức kinh doanh khác. Hơn nữa, kinh doanh dịch vụ kiểm toán là kinh doanh 1 nghề chuyên sâu nên phải có kiểm toán viên đủ điều kiện hành nghề. Bộ máy KTĐL có 2 mô hình cơ bản là văn phòng kiểm toán tư và công ty kiểm toán. ở Việt nam hiện nay đã có khá nhiều công ty kiểm toán được thành lập như: Công ty kiểm toán Việt nam (VACO) Công ty tư vấn và kiểm toán (A&C) Công ty kiểm toán Hà nội (CPA Hà nội) .... Hiện tại chúng ta chưa cho thành lập văn phòng kiểm toán tư. Các công ty kiểm toán của chúng ta còn ít, quy mô nhỏ. Để đáp ứng đầy đủ yêu cầu đổi mới và hội nhập với khu vực và thế giới, KTĐL của ta phải phấn đấu phát triển và củng cố về nhiều mặt cả số lượng và cơ cấu tổ chức, số lượng nhân viên kể cả về quy mô, cơ cấu, chất lượng dịch vụ. * Tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ: Có 2 mô hình cơ bản là: Hội đồng hay bộ phận kiểm toán nọi bộ và giám định viên kế toán. ở Việt nam theo quy chế quản lý tài chính và hạch toán kinh doanh đối với DNNN, ban hành kèm theo Nghị định 59/CP ngày 03/10/1996 của Chính phủ (được sửa đổi, bổ sung 1 số điều tại Nghị định 27/CP/99), báo cáo tài chính hàng năm của doanh nghiệp nhà nước phải được kiểm tra, xác nhận của kiểm toán độc lập hoặc kiểm toán nội bộ. Như vậy quy định đã bước đầu tạo hành lang pháp lý cho việc tổ chức và hoạt động của kiểm toán nội bộ. Theo các quy định hiện hành: “ Phòng kiểm toán nội bộ của tổng công ty phải được tổ chức, độc lập với các phòng ban chức năng lkhác của tổng công ty và chịu sự chỉ đạo của lãnh đạo trực tiếp của tổng giám đốc. Ngoài ra, tiết 3 Điều 1 của Thông tư 171-1998/TC-BTC quy định: “ Tuỳ thuộc vào quy mô sản xuất kinh doanh, địa bàn hoạt động tập trung hay phân tán, điều kiện cụ thể và trình độ năng lực của đội ngũ kế toán... doanh nghiệp có thể lựa chọn hình thức tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ cho phù hợp và có hiệu quả thiết thực. Việc tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ không bắt buộc đối với các doanh nghiệp.”. Tóm lại, ở Việt nam hiện nay, vấn đề kiểm toán nội bộ còn khá mới mẻ nên cần quan tâm trước hết đến việc xây dựng đội ngũ kiểm toán viên nội bộ, đặc biệt trong quá trình đổi mới quản lý DNNN và cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước. Ngay cả ở các đơn vị quốc doanh cũng phải tách biệt chắc năng kiểm toán ra khỏi chức năng tổ chức công việc tài chính, kế toán của kế toán trưởng. 2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến kiểm toán Qua nghiên cứu đặc điểm nền kinh té hội nhập mở ra cho chúng ta những thời cơ lớn nhưng cũng đồng nghĩa với việc chúng ta phải đối mặt với những rủi ro thách thức tiềm năng. Từ đó nó đặt ra yêu cầu cấp bách đòi hỏi chúng ta phải nhận diện được nhưng thuận lợi và khó khăn đó với mục đích là điều chỉnh kịp thời để thích nghi trong môi trường mới này. * Thuận lợi Chỉ sau 10 năm du nhập vào Việt Nam, số lượng và qui mô của các công ty kiểm toán đã tăng đáng kể và ngày càng được mở rộng hơn. Theo một số tài liệu gần đây thì Việt Nam đã có 34 công ty thuộc đủ các thành phần kinh tế, gồm 7 công ty nhà nước, 20 công ty TNHH, 5 công ty 100%vốn nước ngoài và 1 công ty liên doanh giưa Việt Nam với nước ngoài, 1 công ty cổ phần với 58 chi nhánh văn phòng và 2127 nhân viên chuyên nghiệp và kiểm toán viên. Trong số 34 công ty kiểm toán có 3 công ty kiểm toán Việt Nam được các công ty kiểm toán quốc tế lớn công nhận là thành viên gồm VACO, công ty TNHH THUY CHUNG và công ty AFC. Với sự tham gia của các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, thị trường kế toán và kiểm toán từ năm 1997 trở lại đây đã đạt được mức tăng trưởng khá cao, đặc biệt 1998 tăng 61.53%, năm 1999 tăng 19.48%. Sự lớn mạnh về số lượng và quy mô các công ty kiểm toán cho thấy một sức sống tiềm tàng, còn nhiều thế mạnh mà chung ta chưa khai thác đựơc. Hình ảnh của các công ty kiểm toán được hình thành và ngày càng được củng cố,nó đã có vị trí trong xã hội nói chung cũng như hoạt động sản xuất kinh doanh nói riêng. Sự lớn mạnh này dần đáp ứng được những yêu cầu của thị trường. Cùng với sự mở rộng về số lượng và quy mô đội ngũ kiểm toán viên cũng không ngừng lớn mạnh về chất lượng, đội ngũ kiểm toán viên được nâng cao cả về trình độ chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp. Hầu hết các công ty đều xác nhận là đào tạo và phát triển nhân viên là mục tiêu chiến lược và đã có chương trình, nội dung đào tạo theo chuyên ngành và theo các cấp bậc của nhân viên. Bên cạnh đó cùng với sự phát triển số lượng công ty và quy mô từng công ty, các dịch vụ do công ty kế toán, kiểm toán cung cấp không ngừng đa dạng hoá theo hướng mở rộng từng loại dịch vụ chi tiết trong dịch vụ kiểm toán (như kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán hoạt động, kiểm toán tuân thủ ), dịch vụ tin học, dịch vụ thẩm định, định giá tài sản, dịch vụ tuyển dụng nhân viên, đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ, cung cấp thông tin. Như vậy kiểm toán Việt Nam đã có chỗ đứng vững chắc, vị trí quan trọng trong xã hội, là công cụ đắc lực tạo niềm tin cho người quan tâm và sử dụng các thông tin tài chính.Vị trí đó sẽ đảm bảo cho kiểm toán Việt Nam đứng vững trong quá trình hội nhập hiện nay. Tuy vậy trên thực tế sự phát triển của hoạt dộng dịch vụ, kiểm toán hiện nay vẫn còn nhiều bất cập, gây trở ngại không ít đối với quá trình hội nhập quốc tế và khu vực. * Khó khăn Trình độ, năng lực,kinh nghiện hành nghề và năng lực quản lý của nhiều công ty kiểm toán còn hạn chế chưa đủ sức cạnh tranh với các công ty nước ngoài. Bên cạnh đó, sự cạnh tranh trên thị trường chưa thực sự có hiệu quả do còn duy trì quy định hạn chế phạm vi hoạt động của doanh nghiệp kiểm toán nước ngoài tại Việt Nam. Các công ty kiểm toán Việt Nam vẫn còn được bảo hộ quá nhiều do vậy đã không chủ động chất lượng dịch vụ cung cấp. Chất lượng dịch vụ đặc biệt là chất lượng kiểm toán, tư vấn chưa thoả mãn các đối tượng sử dụng thông tin kế toán tài chính. Nhận thức của xã hội về kiểm toán chưa hoàn toàn đúng mực và đầy đủ. Thậm là chí đến bây giờ, vẫn còn nhiều người quan niệm rằng:kiểm toán là thanh tra tài chính hay chỉ đơn thuần là chuyên gia kế toán. Điều đó cho thấy có một bộ phận không nhỏ công chúng và cả doanh nhân có một cái nhìn đơn điệu, giản đơn vè kiẻm toán. Chính cách nhìn ấy làm cho nhu cầu kiểm toán trên thị trường bị hạn chế rất nhiều. Khuôn khổ pháp lý điều chỉnh họat động kiểm toán còn thiếu và chưa đồng bộ. Nhiều quy định còn không thống nhất, chưa phù hợp với thông lệ và chuẩn mực quốc tế. Như môi trường pháp lý của ngành KTĐL là tổng hợp các quy phạm pháp luật hiện nay đều ở các văn bản dưới luật . Như văn bản có tính pháp lý cao nhất là Nghị định 07/CP ngày 29/1/1994. Còn lại chủ yếu là các quy định, thông tư của Bộ tài chính. Tìm hiểu nội dung các quy định về hoạt động KTĐL có một số vấn đề cần phải xem xét, sửa đổi một cách phù hợp hơn: Quy định số lượng kiểm toán viên tối thiểu trong một công ty kiểm toán, hiện nay có 3 văn bản đều nquy định về nội dung này, đó là : Điểm 30: "người được uỷ quyền ký báo cáo kiểm toán có thể là phó giám đốc công ty, giám đốc công ty, giám đốc hoặc phó giám đốc chi nhánh và phải là người có giấy phếp hành nghề kiểm toán ở Việt Nam và phải được giám đốc công ty uỷ quyền bằng văn bản". Điều này có nghĩa là để báo cáo kiểm toán có hiệu lực thì công ty kiểm toán phải có ít nhất 2 người có giấy phép hành nghề kiểm toán, chứng chỉ kiểm toán viên nhà nước cấp trở lên. Quy chế về kiểm toán độc lập trong nền kinh tế quốc dân ban hành kèm theo Nghị định 70./CP ngày 29/1/1994 của Chính Phủ trongchương III về tổ chức kiểm toán. Tại điều 17, điểm 2 tổ chức KTĐL muốn được thành lập phải có dủ các điều kiện: "có ít nhất 5 người trở lên được cấp chứng chỉ kiểm toán viên. Người đứng đầu tổ chức kiểm toán phải là kiểm toán viên". Trong văn bản này thì quy định công ty kiểm toán phải có ít nhất 5 kiểm toán viên trở lên. Nghị định số 03/2000/NĐ-CP ngày 3 tháng 2 năm 2000 của Chính Phủ hướng dẫn thi hành một số điều của Luật doanh nghiệp quy định tại Điều 6: Ngành nghề kinh doanh phải có chứng chỉ hành nghề ". Luật doanh nghiệp quy định tối thiểu chỉ cần có một kiểm toán viên là có thể thành lập công ty kiểm toán. Thực tế số lượng kiểm toán viên chuyên nghiệp ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng kiểm toán. Hai Nghị định và một chuẩn mực kiểm toán cùng quy định liên quan đến mộy nội dung, cùng song song tồn tại và phát huy hiệu lực kể từ ngày ký nhưng không có sự thống nhất. Quy định về chế độ kế toán, kiểm toán đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng còn nhiều bất cập. Trong các doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài và ngay trong các công ty liên doanh với nước ngoài hầu hết tồn tại 2 chế độ kế toán : Một chế độ kế toán của nước ngoài, một chế độ kế toán Việt Nam. Do đó nó gây ra khó khăn cho các công ty nước ngoài hoạt động ở Việt Nam. Thực trạng này kéo dài sẽ ảnh hưởng không tốt tới chủ chương thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, gây ra sự bất bình đẳng trong thị trường kiểm toán độc lập của nước ta, tạo ra những quan điểm khó thống nhất khi lập báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính của cùng một doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Sự phát triển về số lượng và trình độ tỏ chức kinh doanh của các công ty kiểm toán chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế: Số lượng các công ty KTĐL tăng nhanh, vượt quá nhu cầu, nảy sinh tình trạng cạnh tranh không lành mạnh giữa các công ty kiểm toán, chất lượng kiểm toán giảm. Sự khác biệt về quy mô, phạm vi hoạt động, lĩnh vực hoạt động của các doanh nghiệp KTĐL, đặc biệt là chất lượng kiẻm toán của các công ty TNHH mới thành lập sau khi Luật doanh nghiệp ra đời, với các công ty kiểm toán nhà nước, công ty kiểm toán nước ngoài có sự cách biệt lớn. Bên cạnh đó thì địa vị pháp lý của cơ quan KTNN chưa ngamg tầm với nhiệm vụ được giao. Chúng ta chưa có một văn bản quy phạm pháp luật tầm cỡ Luật hoặc pháp lệnh làm căn cứ thực thi nhiệm vụ có hiệu lực cao. Về cơ cấu tổ chức, hệ thống KTNN được chia thành: Kiểm toán trung ương và kiểm toán khu vực (phía Bắc, miền Trung, phía Nam và Tây Nam Bộ). Việc này đã làm nảy sinh tình trạng chồng chéo và không rõ ràng về thẩm quyền, chức năng, nhiệm vụ giữa kiểm toán trung ương và kiểm toán khu vực, giữa Vụ kiểm toán nhà nước và các đơn vịn khác trong cơ quan kiểm toán nhà nước Trình độ của đội ngũ kiểm toán viên cũng còn một số vướng mắc: Đội ngũ kiểm toán viên còn thiếu về số lượng và hạn chế về chuyên môn, nghiệp vụ, một số kiểm toán viên còn biểu hiện yếu kém về phẩm chất đạo đức; quyền hạn của kiểm toán viên được quy định trong pháp luật chưa phù hợp với yêu cầu thực tiễn đặt raBên cạnh đó chúng ta chưa có chính sách đãi ngộ thoả đáng đối với kiểm toán viên, chưa đầu tư đúng mức cho công tác đào tạo, mua sắm trang thiết bị và phương tiện làm việc nhằm phục vụ tốt cho hoạt động kiểm toán. 3. Thời cơ và thách thức đối với ngành kiểm toán Việt Nam trong quá trình hội nhập với khu vực và thế giới * Thời cơ Trước hết hội nhập kinh tế sẽ góp phần hoàn thiện môi trường thể chế, chính sách trong nước. Tham gia hội nhập và chấp nhận các "luật lệ " của một sân chơi chung sẽ là nền tảng, căn cứ cho quá trình xây dựng các cơ chế, chính sách cho Việt Nam. Bên cạnh đó, sự có mặt của các công ty kiểm toán nước ngoài ở Việt Nam sẽ tạo ra nhiều việc làm cho các kiểm toán viên Việt Nam, tăng cường chất lượng dịch vụ và chuyển giao công nghệ. Nó cho các kiểm toán viên và công ty kiểm toán của nước ta cơ hội được học hỏi kinh nghiệm làm việc của các đồng nghiệp nước ngoài, được trực tiếp cạnh tranh với họ ở thị trường trong nước và ngoài nước. Ngược lại các công ty kiểm toán, kế toán cũng đóng vai trò quan trọng trong việc mở rộng quan hệ đối ngoại, trợ giúp, tư vấn cho người nước ngoài và tổ chức quốc tế hiểu biết vè luật pháp, chính sách tài chính, kế toán của Việt Nam và người Việt Nam hiểu rõ các thông lệ chuẩn mực quốc tế. Tác động qua lại này sẽ tạo điều kện cho các kiểm toán viên Việt Nam nhanh chóng năm bắt được khuynh hướng kiểm toán hiện nay mà còn tăng cường cả mặt chất lượng của cuộc kiểm toán. Đó cũng là nhân tố là rút ngắn tiến trình mở cửa hội nhập kinh tế của Việt Nam. Mặt khác, thông qua hội nhập các công ty kiểm toán trong nước có cơ hội tìm ra cách thức phù hợp nâng cao trình độ chuyên môn nghịêp vụ, tiếp thu các tiến bộ khoa học kỹ thuật, đa dạng hoá các loại hình dịch vụ để nâng cao khả năng cạnh tranh của mình. Lợi thế này phụ thuộc nhièu vào khả năng tự vươn lên của các doanh nghiệp Việt Nam trong tiến trình hội nhập và mở cửa dể có thể tồn tại được và phát triển. Bên cạnh đó là việc đẩy mạnh hoạt động liên doanh, liên kết giữa các công ty kế toán - kiểm toán trong và ngoài nước , trong việc đấu thầu cung cấp dịch vụ kế toán, kiểm toán cho các dự án quốc tế lớn. Nước ta là nước đi sau về tiến bộ khoa học - kỹ thuật cũng như kinh tế trong đó có cả hoạt động của dịch vụ kế toán-kiểm toán. Đồng thời với những thời cơ đó, quá trình mở cửa thị trường kế toán -kiểm toán đã và sẽ đặt ra nhiều thách thức to lớn đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này. * Thách thức Quá trình hội nhập, đặt ra yêu cầu công nhận 'lẫn nhau ". Công nhận lẫn nhau về giấy phép hành nghề và trình độ chuyên gia kiểm toán là một trong những nguyên tắc cơ bản của GATS liên quan đến nghề kế toán -kiểm toán. Điều đó sẽ gây ra tình trạng chảy máu chất xám .Trong điều kiện kinh tế nước ta đang trên dà di lên nhưng so với một số nước phát triển trong khu vực và thế giới, thì kinh tế nước ta vẫn còn ở mức thấp, do đó sẽ xảy ra hiện tượng này. Nó tạo cơ hội được làm việc ở nước ngoài và có thu nhập cao, thậm chí '' chảy máu chất xám '' còn diễn ra ngay trong nước khi các công ty 100%vốn nước ngoài với chính sách tiền lương hấp dẫn có thể thu hút phần lớn các chuyên gia giỏi của Việt Nam. Song song với điều này là sự xâm nhập của các kiểm toán viên nước ngoài không đủ trình độ vào làm việc cho các công ty kiểm toán Viêt Nam. Nêu không có cơ chế kiểm tra sát hạch kiểm toán viên nước ngoài phù hợp và nếu không thiết lập một cách hữu hiệu thích hợp với mạng lưới an toàn thì không có gì đảm bảo rằng các kiểm toán viên nước ngoài hành nghề ở Việt Nam có đủ trình độ và kinh nghiệm cần thiết. Nghiêm trọng hơn là các kiểm toán viên nước ngoài sử dụng các giấp phép hành nghề và chứng chỉ, bằng cấp giả mạo. Điều này sẽ rất nguy hiểm vì nền kinh tế sẽ được cung cấp các dịch vụ kế toán, kiểm toán không đảm bảo về chất lượng. Một nền kinh tế muốn phát triển nhanh chóng, bền vững và an toàn, cần phải cung cấp các dịch vụ kế toán, kiểm toán hoàn hảo có chất lượng cao, bởi các chuyên gia có trình độ, chuyên môn, kinh nghiệm và đạo đức nghề nghiệp. Ngành dịch vụ nói chung và dịch vụ kế toán- kiểm toán ở Việt Nam nói riêng có xuất phát điểm thấp và trình độ phát triển còn thấp, công nghê, tổ chúc, trình độ chuyên môn và quản lý còn non yếu so với nhiều nước trong khu vục và trên thế giới. Với trình độ phát triển hiên nay, nếu không tự đổi mới, nâng cao chất lượng dịch vụ và khả năng cạnh tranh, các công ty kế toán, kiểm toánViệt Nam sẽ phải đối đầu với khả năng mất thị phần và bị loại khỏi cuộc chơi trong tiến trình hội nhập. Nguy cơ "chuyển giao phi pháp": Trong thời bình nhưng không hết những âm mưu phá hoại của kẻ địch trên lĩnh vực kinh tế đối với nước ta. Trong tình hình hiện nay khi các công ty kiểm toán là các doanh nghiệp nhà nước đều có lãi, mà các công ty 100% vốn nước ngoài và công ty liên doanh về kế toán - kiểm toán ở nước ta đều thua lỗ. Khi các công ty liên doanh kế toán, kiểm toán thua lỗ kéo dài, buộc phía Việt Nam phải góp thêm vốn nếu muốn tiếp tục hoạy động hoặc phải bán lại cổ phần thành công ty 100% vốn nước ngoài. Một xu hướng đang xảy ra là cho phép các công ty kiểm toán trong nước tham gia với tư cách là thành viên trong các công ty kiểm toán đa quốc gia, kể cả tập đoàn kiểm toán lớn nhất thế giới hiện nay(Price water house coopers, KPMG, Ernst& young) Các công ty thực hiện chính sách đào tạo, tuyển dụng và được hỗ trợ kỹ thuật kiểm toán và tư vấn theo yêu cầu của công ty mẹ. Đổi lại các công ty đa quốc gia (công ty mẹ) được hưởng kết quả từ hoạt động trợ giúp dưới hình thức phi hội viên của công ty thành viên. Hình thức này cũng đã xảy ra ơ Việt Nam khi công ty kiểm toán và cơ chế thành hành thành viên của Dellotte Touche Tohmasu. Loại hình liên kết này sẽ chiếm ưu thế trong tương lai và có thể lầm trầm trọng hơn tình thế bất lợi trong cạnh tranh của công ty kiểm toán trong nước và sự lệ thuộc công ty kiểm toán nước ngoài. Các công ty xuyên quốc gia sẽ chiếm phần lớn khách hàng trên thị trường. Ngoài ra còn thách thức về sự hài hoà các chuẩn mực kế toán và kiểm toán . Khi chung ta xác định xu hướng hội nhập thì đó là một đòi hỏi khách quan. Nhưng sự hài hoà này không chỉ đơn thuần về mặt về mặt kỹ thuật chuẩn mực mà nó còn liên quan đến vấn đề thể chế, cơ chế quản lý và yêu cầu quản lý đặc thù của Việt Nam. Nếu chỉ quan tâm thuần tuý kỹ thuật trong trong quá trình xác định chuẩn mực kế toán, kiểm toán sẽ dẫn đến nguy cơ bị đồng hoá với các chuẩn mực quốc tế, không thích hợp với đạc thù quản lý và không đáp ứng yêu cầu quản lý của Vệt Nam. Ngược lại, nếu khônh chú ý đến tính hài hoà này sẽ gây cản trở lớn đến quá trình hội nhập vào kế toán và kiểm toán quốc tế . Trình độ ngoại ngữ (tiếng Anh) và tin học đối với đội ngũ kiểm toán viên trong thời đại công nghệ điện tử hiện đại như hiện nay đòi kiểm toán viên phải sử dụng thành thạo các nghiệp vụ thao tác trên máy vi tính, đồng thời trình độ ngoài ngữ cũng phài phát triển cao, tạo khả năng "xuất khẩu" kiểm toán viên ra nước ngoài. Nhưng hầu như lĩnh vực này đối vời kiểm toán viên Việt Nam còn chưa cao như các nước trong khu vực. phần III: Định hướng và giải pháp phát triển ngành kiểm toán ở Việt Nam để đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế 1. Định hướng cơ bản đẩy mạnh phát triển dịch vụ kế toán, kiểm toán trong thời gian tới Dù chưa chính thức đi vào cam kết tự do hoá thương mại dịch vụ đối với WTO, APEC nhưng chính phủ đã thông qua lịch trình hội nhập với mục tiêu đến năm 2020 Việt Nam sẽ hội nhập hoàn toàn với quốc tế trong lĩnh vực kế toán kiểm toán, bao gồm 3 giai đoạn sau: Giai đoạn 1( 2000 - 2005): giai đoạn chuẩn bị những tiền đề cần thiết cho hội nhập: giai đoạn củng cố cãc yếu tố môi trường pháp lý và điều kiện cơ sở hạ tầng cần thiết khác để phát triển các nghành dịch vụ kế toán, kiểm toán theo hướnh hội nhập, đồng thời vẫn phải đảm bảo phù hợp với bối cảnh kinh tế trong nước. tại giai đoạn này chúng ta cho phép các công ty kế toán, kiểm toán tiếp tục đầu tư, hoạt động tại Việt Nam khuyến khích các công ty, các tổ chức nước ngoài hợp tác liên doanh với các công ty, tổ chúc Việt Nam nhằm chuyển giao kỹ thuật, khuyến khích các công ty trong nước phát triển. Giai đoạn 2 ( 2006 - 2010): giai đoạn củng cố hội nhập: đây là thời kỳ tiếp tục kiện toàn hơn nữa hệ thống pháp lý điều chỉnh hoạt động kế toán, kiểm toán. Với các tiền đề đã được xây dựng ở giai đoạn trên, tới giai đoạn này, chúng ta sẽ chủ động tham gia vào tiến trình hội nhập. Các dịch vụ kế toán dịch vụ kế toán, kiểm toán của việt nam sẽ được cung cấp ra nước ngoài, các cá nhân và các công ty của việt nam có thể tham gia điều hành và nắm giữ các công ty kế toán, kiểm toán, đồng thời cho phép các công ty kế toán, kiểm toán, mới đầu tư vào. Giai đoạn 3 (2011-2020): Giai đoạn hội nhập năng động: Việt Nam sẽ hội nhập hoàn toàn với quốc tế trong lĩnh vực kế toán, kiểm toán. Như vậy trong thời gian tới cần phải: tăng cường cả về số lượng và chất lượng hoạt động dịch vụ kế toán, kiểm toán trên cơ sở tuân thủ pháp luật của nhà nước, phù hợp với thông lệ, chuẩn mực quốc tế về kế toán, kiểm toán được thừa nhận đồng thời phù hợp với chuẩn mực kế toán Việt Nam. Nâng cao sức mạnh cạnh tranh của các tổ chức, cá nhân làm dịch vụ kế toán kiểm toán, đảm bảo sự phát triển của dịch vụ này thực sự trở thành công cụ đắc lực giúp cho nhà nước điều hành và quản lý, sử dụng tốt các nguồn lực để phát triển, từng bước mở cửa và hội nhập thị trường dịch vụ kế toán, kiểm toán quốc tế và khu vực. 2. Giải pháp Xuất phát từ định hướng trên, các giải pháp cụ thể để phát triển dịch vụ kế toán, kiểm toán trong thời gian tới gồm : 2.1. Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về kế toán, kiểm toán. Môi trường pháp lý cho hoạt động dịch vụ kiểm toán ở Việt Nam vừa phải bảo đảm phù hợp với đặc điểm phát triển kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, vừa bảo đảm tôn trọng các nguyên tắc hội nhập quốc tế, các chuẩn mực và thông lệ quốc tế về kế toán và kiểm toán. Do đó, những việc quan trọng cần làm trước mắt là tiếp tục hoàn thiện các văn bản pháp lý đã ban hành, rà soát lại tất cả các văn bản hướng dẫn nào không còn phù hợp phải loại bỏ, bổ sung những điểm mới, những qui định mới phù hợp. Văn bản pháp lý cao nhât là luật kế toán được ban hành và có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2004. Luật này gồm các qui định về các vấn đề liên quan đến công tác kế toán, làm cơ sở cho việc cung cấp dịch vụ kế toán của doanh nghiệp. Tại điều 56 - thuê làm kế toán thuê làm kế toán trưởng qui định "Đơn vị kế toán được ký hợp đồng với doanh nghiệp dịch vụ kế toán hoặc cá nhân có kinh doanh dịch vụ kế toán để thuê làm kế toán hoặc kế toán trưởng theo qui định của pháp luật (Điểm 1, điều 56). Để luật kế toán thực sự đi vào cuộc sống cần phải nhanh chóng có các qui định chi tiết và hướng dẫn thi hành luật. Các chuẩn mực kế toán, kiểm toán Việt Nam đã được công bố cần phải kịp thời có các thông tư hướng dẫn cụ thể, đảm bảo tính khả thi đối với các doanh nghiệp, các cơ quan, đơn vị hành chính sự nghiệp và các tổ chức kinh tế. Đồng thời với việc tiếp tục xây dựng và ban hành các chuẩn mực kế toán và kiểm toán còn lại, cần nhanh chóng nghiên cứu để xây dựng và ban hành các chuẩn mực kế toán công nhằm áp dụng cho các đơn vị hành chính sự nghiệp thu hưởng ngân sách Nhà Nước. Việc xây dựng và ban hành hệ thống chuẩn mực kế toán, kiểm toán, ngoài việc đảm bảo tính "hoà nhập " quốc tế còn phải chú trọng đến tính "đặc thù" của nền kinh tế Việt Nam và nhất thiết phải tính đến xu hướng đổi mới cơ chế, chính sách tài chính trong thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Bên cạnh đó, nhanh chóng bổ sung, sửa đổi cơ chế quản lý hoạt động nghề nghiệp của các cá nhân, tổ chức hành nghề kiểm toán phù hợp với các qui định của Luật kế toán và nghị định về kiểm toán độc lập và kiểm toán bắt buộc. Thiết lập hệ thống giám sát dịch vụ kiểm toán, đảm bảo các dịnh vụ được cung cấp có chất lượng, có độ tin cậy an toàn và đặc biệt đảm bảo một sân chơi bình đẳng cho các hoạt động trên cơ sở cạnh tranh lành mạnh vì quyền lợi của người được cung cấp dịch vụ và đơn vị được kiểm toán. Hệ thống giám sát hữu hiệu là căn cứ quan trọng tạo dựng lòng tin và tạo ra sự nhận thức của khách hàng và của những người sử dụng thông tin. Cần có cơ chế công nhận và ràng buộc trách nhiện pháp lý đối với những kết quả kiểm toán. 2.2. Đổi mới chương trình nội dung đào tạo và bồi dưỡng chuyên môn về kế toán, kiểm toán nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ cung cấp Trước hết đổi mới các trường đại học và học viện, trung học chuyên nghiệp thuộc khối kinh tế, với đào tạo căn bản, bước đầu làm nền tảng cho việc tạo lập nghề kế toán, kiểm toán cung cấp nguồn nhân lực chuyên môn cho các công ty kiểm toán. Cần phải đổi mới một cách căn bản nội dung, chương trình hướng gắn kết quả giữa lý luận và thực tiễn. Kết cấu các khối kiến thức cơ sở cơ bản, cơ sở ngành và chuyên ngành phải phù hợp với yêu cầu nâng cao chất lượng đầo tạo nói chung và đào tạo nghề kiểm toán nói riêng; kiến thức chuyên ngành kiểm toán cũng như đạo đức nghề nghiệp đối với sinh viên ngay từ khi còn ngồi ghế nhà trường phải được tăng cường về khả năng thích ứng với thực tiễn. Đối với các công ty kiểm toán hàng năm phải có kế hoạch bồi dưỡng, cập nhật kiến thức cho đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp. Đối các hội nghề nghiệp và các cơ quan chức năng của Nhà Nước cần có sự phân định trách nhiệm rõ ràng trong công tác quản lý và hướng dẫn chuyên môn cũng như xây dựng các chính sách, chế độ và các tiêu chuẩn tuyển dụng, thi tuyển, cấp chứng chỉ hành nghề. Hàng năm phải có sự đánh giá chất lượng nhân viên kiểm toán làm nghề dịch vụ bởi một hội đồng đánh giá chất lượng nghề nghiệp. 2.3.Mở rộng phạm vi, qui mô thị trường kiểm toán Trong những năm tới, kiểm toán Việt Nam cần mở rộng hơn nữa các danh mục dịch vụ, đa dạng hoá dịch vụ và phương thức cung cấp dịch vụ theo hướng hoàn thiện các loại hình dịch vụ đang tiến hành trong đó có chú trọng dịch vụ kiểm toán báo cáo tài chính, đồng thời nghiên cứu phát triển các loại hình dịch vụ mới. Đây cũng là một biện pháp để tạo ra môi trường cạnh tranh cho dịch vụ kiểm toán phát triển có chất lượng cao. Mặt khác, phải tăng cường sự hiểu biết của khách hàng về kiểm toán để cung ứng nhu cầu của người sử dụng thông tin trên báo cáo tài chính. Về cơ cấu doanh thu từ loại hình dịch vụ sẽ chuyển đổi theo hướng giảm dần tỷ trọng doanh thu, từ dịch vụ kiểm toán và tăng cường doanh thu từ các dịch vụ tư vấn thuế, tư vấn quản lý, tài chính, kế toán. Đây cũng là xu hướng phát triển dịch vụ chung của các hãng kiểm toán trên thế giới. Số lượng, qui mô các tổ chức dịch vụ kiểm toán cũng cần được mở rộng bằng cách huy động tiềm lực của mọi thành phần kinh tế tham gia hoạt động kinh doanh dịch vụ kiểm toán bao gồm công ty liên doanh, công ty 100% vốn đầu tư nước ngoài, công ty trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp Nhà Nước, công ty hợp doanh Việc đa dạng hoá các hình thức doanh nghiệp kiểm toán là một hướng đi đúng trong việc phát triển thị trường kiểm toán. Việc cho phép có nhiều doanh nghiệp kiểm toán trên thị trường sẽ góp phần tăng thu cho ngân sách Nhà Nước, đáp ứng tốt hơn các nhu cầu ngày càng tăng của các doanh nghiệp, tổ chứcvà cá nhân trong nước về dịch vụ kiểm toán. Để đảm bảo cho các doanh nghiệp có thể huy động vốn để cải tiến công nghệ, phát triển kinh doanh, thì cần phải có chuyển đổi hình thức sở hữu một số công ty kiểm toán là doanh nghiệp Nhà Nước thành công ty cổ phần phải tăng cường, mở rộng hoạt động liên doanh, liên kết giữa các công ty kiểm toán trong và ngoài nước trong việc đầu tư cung cấp dịch vụ kiểm toán cho các dự án quốc tế lớn. Tuy nhiên, ở Việt Nam, việc duy trì, tiếp tục củng cố và phát triển loại hình công ty kiểm toán là doanh nghiệp Việt Nam vẫn rất cần thiết vì trên thực tế, các công ty này đều hoạt động có hiệu quả và chưa có doanh nghiệp nào bị thua lỗ, đồng thời chiếm thị phần khá cao với tốc độ tăng trưởng khá, được xã hội thừa nhận và ngày càng có tín nhiệm. Ngoài ra, kinh tế thị trường Việt Nam phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà Nước trong đó các doanh nghiệp Nhà Nước đóng vai trò chủ đạo và then chốt. Hơn nữa, trên thực tế vốn Nhà Nước đầu tư cho các doanh nghiệp Nhà Nước là không nhiều nhưng đều đem lại hiệu quả cao. Do đó, để phục vụ khách hàng là doanh nghiệp Nhà Nước tất yếu phải phát triển loại hình công ty kiểm toán là doanh nghiệp Nhà Nước. Mặt khác, cần khuyến khích các công ty kiểm toán trong nước tham gia với tư cách thành viên trong các công ty kiểm toán đa quốc gia nhất là các tập đoàn kiểm toán lớn trên thế giới như The Big Five Theo hình thức này, các công ty thành viên thực hiện chính sách đào tạo, tuyển dụng và được hỗ trợ kĩ thuật kiểm toán và tư vấn theo yêu cầu của các công ty kiểm toán "mẹ". 2.4. Nâng cao năng lực và vai trò hoạt động của các tổ chức nghề nghiệp Để tạo dựng và phát triển hệ thống dịch vụ kiểm toán trong tiến trình hội nhập kinh tế, cần nâng cao địa vị pháp lý và chức năng của các tổ chức nghề nghiệp kế toán, kiểm toán, khẩn trương luật hoá của các tổ chức nghề nghiệp như: hội kế toán Việt Nam; câu lạc bộ kế toán trưởngThành lập một bộ phận riêng về kiểm toán trong hội kiểm toán Việt Nam. Việc thành lập hội kiểm toán sẽ thúc đẩy cạnh tranh trên cơ sở vận hành cơ chế tự điều tiết của hội và sẽ giảm bớt phấn nào sự can thiệp hành chính không cần thiết đối với các vấn đề thuần tuý chuyên môn của các công ty kiểm toán. Với tư cách là một tổ chức đại diện cho kiểm toán viên, phân viện kiểm toán viên sẽ là cầu nối hiệu quả của các công ty kiểm toán, cơ quan quản lý Nhà Nước với các đối tượng kiểm toán và khách hàng cũng như góp phần hoàn thiện qui trình và quản lý chất lượng hoạt động. Từ đó tạo ra thị trường cạnh tranh lành mạnh giữa các hội viên. Các tổ chức nghề nghiệp như hội kế toán, hội đồng kế toán quốc gia về kế toán cần phát huy hơn nữa vai trò của mình, có những bước đi hợp lý trong tiến trình đổi mới công tác kế toán, kiểm toán và các chế độ khuyến khích các chuyên gia giỏi tập trung nghiên cứu và tiến tới có thể thay thế một phần chức năng quản lý Nhà Nước trong lĩnh vực kế toán - kiểm toán. Nhà Nước cũng cần thực hiện việc chuyển giao cho các tổ chức này một số chức năng quản lý mà lâu nay Nhà Nước đẩm nhiệm như: hướng dẫn chuẩn mực, nghĩa vụ, quản lý đội ngũ hành nghề, quản lý kiểm soát đạo đức nghề nghiệp, tổ chức đào tạo, huấn luyện, tổ chức thi tuyển và cấp chứng chỉ hành nghề và chính những tổ chức này sẽ là cầu nối, điểm tựa để nghề kiểm toán, kế toán ởViệt Nam vươn ra hội nhập với thế giới. Các tổ chức nghề nghiệp cần phải tự kiểm tra mình, thường xuyên nâng cao chất lượng, hiệu lực của tổ chức. Có như vậy, các tổ chức nghề nghiệp mới làm được những gì mà nền kinh tế thị trường đòi hỏi và những gì mà Nhà Nước giao cho. 2.5. Một số giải pháp khác Đi từ xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị công nghệ thông tin tiền đề hiện đại, tạo điều kiện đẩy nhanh tiến độ tin học hoá công tác kiểm toán- kế toán. - Ban hành quy định về giải quyết các tranh chấp liên quan đến chất lượng kiểm toán. - Xây dựng và phát triển mạnh thị trường tài chính, các trung gian tài chính và các công cụ tài chính của một nền kinh tế thị trường mở. - Xây dựng và phát triển hệ thống thông tin tài chính luôn luôn cập nhập đáp ứng yêu cầu nâng cao năng lực cho kế toán viên. Những yêu cầu giải pháp này sẽ góp phần tạo ra môi trường thuận lợi và là chỗ dựa để hoạt động kiểm toán phát triển. kết luận Qua các nội dung được trình bày trên đây, chúng ta có thể thấy rằng, quá trình hội nhập của kiểm toán Việt Nam là tất yếu. Kinh tế Việt Nam muốn hoà vào xu thế chung của thế giới cần phải có rất nhiều cố gắng để có thể vượt qua những trở ngại để tận dụng những thuận lợi , nắm bắt những thời cơ để tồn tại và phát triển. Đây cũng là một quá trình phức tạp, phải trải qua nhiều giai đoạn khác nhau mới có thể hoàn thành được. Chúng ta cần tiến hành từng bước theo kế hoạch đặt ra, không nên bỏ qua giai đoạn nào mới có thể đạt được kết quả như mong muốn. Để góp phần vào các giai đoạn trên, mỗi kế toán viên, mỗi người hoạt động trong từng lĩnh vực kiểm toán,kế toán và nagy cả những người còn ngồi trên ghế giảng đường đại học như các sinh viên chuyên ngành kế toán, kiểm toán chúng ta cũng cần phải tự trao đổi, nâng cao trình độ hiểu biết về nghĩa vụ ngành nghề, tìm hiểu những qui định mới, cập nhật thông tin hữu ích cho nghề nghiệp sau này cũng như luôn rèn luyện giữ gìn sức khoẻ để có thể thích nghi được với môi trường cạnh tranh khốc liệt bây giờ. Cuối cùng cho em gửi lời cảm ơn tới thầy phan trung kiên đã giúp em hoàn thành tốt bài viết này. Nhưng do trình độ hiểu biết của em còn nhiều hạn chế nên bài viết có nhiều thiếu sót, em mong được sự chỉ bảo thêm của các thầy, các cô. Em xin chân thành cảm ơn! Danh mục tài liệu tham khảo Tạp chí kiểm toán số 1/2002; số 2/2001; số 3/2002; số 6/2002; số 4/2003; số 1/2004 Tạp chí tài chính số 9/2002; số 8/2002; Số 1+2/2002; Số 8/2000; số 9/2000 Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX - NXB Chính trị Quốc gia Tạp chí kinh tế phát triển số 112/2001 Tạp chí kế toán số 12/1998; số 3/2001 Giáo trình lý thuyết kiểm toán - ĐHKTQD Giáo trình kiểm toán tài chính - ĐHKTQD Kiểm toán căn bản

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLVV159.doc
Tài liệu liên quan