Đề tài Ngành thép tại Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới

Ngành thép Việt Nam có quá trình hình thành và phát triển lâu dài và phát triển nhanh chóng trong những những năm gần đây. Ngành thép đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong nền kinh tế quốc dân và có tác động nhiều mặt tới các ngành kinh tế xã hội khác. Việc sản lượng thép tăng nhanh chóng trong những năm gần đây một mặt đã đóng góp tích cực cho nền kinh tế nhưng mặt khác đang gây ra những hậu quả là sự mất cân đối trong phát triển, gây tác động xấu tới toàn ngành trong tương lai. Từ những phân tích về thực trạng và sức cạnh tranh của ngành thép Việt Nam có thể thấy bức tranh ngành thép Việt Nam còn nhiều mảng tối. Quy mô, năng lực sản xuất nhỏ bé, cơ cấu sản phẩm mất cân đối nghiêm trọng, sản xuất chủ yếu thép dài dùng cho xây dựng, trình độ công nghệ và máy móc thiết bị lạc hậu, chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm cao, phân bố và tổ chức sản xuất bất hợp lý, chỉ phát triển sản xuất thép mà không chú trọng sản xuất phôi khiến cho ngành thép phụ thuộc quá nhiều vào sự biến động của thị trường thế giới.

doc99 trang | Chia sẻ: Kuang2 | Lượt xem: 1036 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Ngành thép tại Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ên doanh và vốn khác. + Huy động vốn đầu tư trong và ngoài nước thông qua liên doanh, liên kết và các hình thức BOT, BTO, BT. + Ưu tiên phát triển hình thức liên doanh đối với các dự án trong khâu thượng nguồn, thu hẹp dần diện tích liên doanh trong hạ nguồn không chấp nhận dự án 100% vốn nước ngoài trong sản xuất thép. + Nhà nước hỗ trợ ngành thép thông qua các nguồn vay tín dụng ưu đãi, ODA và ngân sách. 2. Các giải pháp để phát triển ngành thép 2.1.Cần có một định hướng đúng cho phát triển ngành thép Ngành thép là một ngành đòi hỏi vốn đầu tư lớn, là ngành chủ chốt trong lĩnh vực công nghiệp nặng. Theo các nguyên tắc lợi thế so sánh thì quan điểm là không nên đầu tư quá nhiều vào ngành thép. Tuy nhiên, do ngành thép có vai trò cực kỳ quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến rất nhiều ngành kinh tế khác cũng như quốc phòng an ninh nên ưu tiên phát triển ngành thép là một chủ trương đúng đắn nhưng cần cân nhắc kỹ những bước đi thích hợp phù hợp với tình hình kinh tế và hiệu quả đầu tư. Bài học đầu tư tràn lan cho các nhà máy đường đang còn nóng hổi tính thời sự và ảnh hưởng của nó chưa biết bao giờ mới giải quyết được. Ngoài ra nghiên cứu ngành thép không chưa đủ. Các ngành công nghiệp ưu tiên phải được lựa chọn dựa trên toàn cảnh nền kinh tế. Các ngành công nghiệp này phải cùng cạnh tranh với nhau trong điều kiện vốn đầu tư có hạn. Đầu tư lớn vào ngành thép có nghĩa là không còn ngân sách để đầu tư vào các ngành công nghiệp khác cũng có mức lợi nhuận tương đương hoặc cao hơn. Chính phủ cần có một cơ chế phân bổ hợp lý các nguồn lực tư nhân và Nhà nước cho các ngành công nghiệp này. Bên cạnh ngành thép, có một cách để tiến hành nghiên cứu cụ thể tất cả các ngành công nghiệp được đề cử là để cho các nhà ủng hộ từng ngành công nghiệp thảo luận về những cái được và mất của từng chiến lược đầu tư thay thế, còn Chính phủ đóng vai trò trọng tài. Nếu có được những cuộc hội thảo như vậy thì sẽ có lợi cho từng ngành công nghiệp để đưa ra những phân tích sâu hơn và định ra một kế hoạch thực tế hơn. Mặc dù Chính phủ đã phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển ngành thép đến năm 2010 nhưng những phân tích sâu hơn để đi đến một kết luận chính xác là cần thiết và cấp bách liên quan đến lượng vốn khổng lồ đem đầu tư. Trước mắt, do nước ta đang đầu tư lệch cho phát triển hạ nguồn khiến thị trường dễ bị xáo trộn nên công tác trọng tâm là phát triển có lựa chọn một số nhà máy luyện cán thép (hạ nguồn) có tính đến triển vọng phát triển các cơ sở thượng nguồn nhằm đáp ứng nhu cầu trước mắt, tạo ra giá trị gia tăng, tăng tích luỹ, tạo tiền đề cho sự phát triển ngành ở trình độ phát triển cao ở giai đoạn sau. Việc đầu tư phát triển phải được đánh giá đầy đủ đối với các dự án đầu tư trên cơ sở tính đúng, tính đủ các chi phí bao gồm cả các chi phí về giải quyết các vấn đề phát sinh và chi phí cơ hội nhằm đánh giá đúng hiệu quả các dự án đầu tư. 2.2.Nhóm các giải pháp vĩ mô 2.2.1. Lựa chọn chính sách đầu tư Đầu tư là một vấn đề có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển của ngành thép. Muốn thực hiện tốt và có hiệu quả vốn đầu tư, cần có những chính sách và giải pháp đúng đắn và kịp thời. Đầu tư là một quá trình hướng về tương lai, hay nói cách khác, đầu tư chỉ đem lại kết quả sau khi đã thực hiện xong hành động đầu tư. Nếu đầu tư sai lầm thì thường khó phát hiện sớm, và hậu quả của sai lầm ấy thường ảnh hưởng trong một thời gian dài, và phải mất nhiều năm mới khắc phục được (điểm hình là việc đầu tư xây dựng các nhà máy đường). Vì vậy, có một chính sách lâu dài để định hướng các hoạt động đầu tư là một vấn đề rất quan trọng. Quá trình đổi mới đầu tư vào ngành thép trong thời gian qua đã mang lại những chuyển biến mạnh mẽ, đồng thời, đây là một lĩnh vực cần có sự quan tâm đặc biệt của lãnh đạo các cấp. Hiện nay, chúng ta có điều kiện thực tế để bố trí một quy hoạch đầu tư dài hạn mới cho thời kỳ đến năm 2010 và lâu hơn nữa. Tình hình thế giới và trong nước đã có nhiều chuyển biến lớn, đòi hỏi phải có tầm nhìn xa để vạch ra một chính sách đầu tư thích ứng với quá trình chuyển đổi cơ chế hiện nay và mang tính dài hạn. Vì thế, chính sách đầu tư cần được nghiên cứu và xem xét dưới nhiều giác độ khác nhau. Về nguồn vốn: Có nguồn vốn trong nước, bao gồm vốn ngân sách, vốn các doanh nghiệp Nhà nước, vốn các doanh nghiệp tư nhân và vốn trong dân. Nguồn vốn nước ngoài, bao gồm vốn của các tổ chức chính thức của chính phủ và các tổ chức quốc tế, vốn của tư nhân nước ngoài, vốn của các tổ chức phi chính phủ và vốn của người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Về cơ cấu sử dụng vốn: Cần quy hoạch vốn theo hướng đầu tư phù hợp với chiến lược phát triển của ngành thép trong thời kỳ hội nhập, góp phần hình thành cơ cấu đủ sức cạnh tranh trên thị trường. Để thực hiện những yêu cầu nêu trên, cần phải có cơ chế và chính sách cụ thể về huy động vốn, về tổ chức quản lý vốn đầu tư và các chính sách có liên quan. a) Chính sách huy động vốn đầu tư trong nước. Đầu tư của các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp đều được bình đẳng trong kinh doanh, tái tạo vốn để đầu tư phát triển. Nhà nước cần tạo môi trường thể chế thông thoáng để cho các doanh nghiệp đầu tư phát triển. Dần dần chấm dứt các khoản bao cấp dưới mọi hình thức như trợ giá, giảm thuế, cho vay với lãi suất ưu đãi theo hình thức sở hữu. Có thể nói, nếu được xử lý tốt thì nguồn vốn trong nhân dân và trong các doanh nghiệp sẽ là những nguồn vốn quan trọng góp phần đầu tư phát triển kinh tế đất nước. b) Chính sách huy động vốn nước ngoài. Trong quá trình xây dựng và phát triển ngành thép của đất nước, ngoài việc sử dụng nguồn vốn được khai thác từ trong nước, thì điều không kém phần quan trọng là Nhà nước cần có chính sách khai thác và huy động nguồn vốn của nước ngoài, từ các nguồn vốn chính thức của Chính phủ các nước đến các nguồn vốn của các tổ chức phi chính phủ. Trong số đó có các nguồn vốn chủ yếu sau đây: * Vốn viện trợ phát triển chính thức (ODA). Đây là nguồn vốn do các nước và các tổ chức tài chính quốc tế viện trợ không hoàn lại, hoặc cho vay ưu đãi (ưu đãi về lãi suất và thời hạn vay). Nguồn vốn này được tập trung vào ngân sách, và Nhà nước có thể sử dụng trực tiếp để đầu tư hoặc cho vay (nhưng phải bảo đảm hoàn trả). Cần có chính sách phân biệt với các nước và các tổ chức tài chính quốc tế để huy động nguồn vốn to lớn này. Muốn vậy, cần dựa trên cơ sở quy hoạch đầu tư, hình thành danh mục các dự án đầu tư và chương trình đầu tư ưu tiên gọi vốn của tổ chức ODA theo đúng thông lệ quốc tế. Có chính sách phân biệt đối với từng nước, từng tổ chức tài chính quốc tế để huy động các nguồn vốn thích ứng với chính sách của họ trong khuôn khổ đường lối, chính sách của Việt Nam. Có biện pháp và chính sách hữu hiệu để quản lý nợ nước ngoài, bảo đảm vay và trả phù hợp với khả năng của nền kinh tế. * Vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI). Đây là nguồn vốn khá lớn. Trong thời gian tới, nguồn vốn này lớn hơn nhiều so với nguồn vốn ODA. Trong điều kiện nước ta còn thiếu kinh nghiệm kinh doanh trên thị trường quố tế, chúng ta cần tăng cường huy động nguồn vốn FDI. Bởi vì, một mặt, cũng như nguồn vốn ODA, nguồn vốn FDI nói chung còn thực hiện quá trình chuyển giao công nghệ, đào tạo kỹ thuật, nghiệp vụ và tìm thị trường tiêu thụ hàng ổn định. Mặt khác, nguồn vốn FDI gắn với trách nhiệm bảo toàn và phát triển vốn của ngoài nước, đỡ được gánh nặng trả nợ, trong khi Việt Nam đang cần nhiều vốn đầu tư, rất dễ rơi vào tình trạng nợ nần. Nhà nước cần chấm dứt tình trạng bao cấp cho các doanh nghiệp vay vốn đầu tư như hiện nay. Các doanh nghiệp này phải tự lấy lãi để trả vốn và lãi. c) Chính sách sử dụng vốn. Vốn ngân sách. Vốn ngân sách từ nguồn tích luỹ trong nước và nguồn vốn bên ngoài, chủ yếu là nguồn vốn ODA. Vốn ngân sách cần được sử dụng hợp lý và có hiệu quả cao nhằm phục vụ sự phát triển của ngành thép. Vốn ngân sách còn được dùng để đầu tư phát triển các công trình thuộc sở hữu Nhà nước, các công trình công nghiệp thép có ý nghĩa quan trọng trong nền kinh tế mà các doanh nghiệp tư nhân không có điều kiện đầu tư. Xây dựng công trình mà doanh nghiệp Nhà nước cần quản lý để bảo đảm tạo ra môi trường kinh tế vĩ mô ổn định và thuận lợi cho kinh doanh của mọi công dân. Các công trình công nghiệp nặng then chốt sẽ góp phần tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá. Tất cả các công trình này cần được tính toán kỹ và phải được thực hiện với sự góp vốn chủ yếu hoặc toàn bộ từ ngân sách. Vốn ngân sách cũng cần được đầu tư vào các công trình thuộc kết cấu hạ tầng tạo điều kiện cho ngành thép phát triển. Ngoài ra, có thể sử dụng vốn ngân sách làm vốn tín dụng, cho vay, chủ yếu là lấy từ nguồn vốn ODA, để khuyến khích đầu tư vào các công trình có hiệu quả cao, nhanh chóng thu hồi vốn, và để trả nợ nước ngoài. Vốn đầu tư của nước ngoài. Vốn FDI đầu tư vào ngành thép Việt Nam đã có ý nghĩa rất quan trọng. Cần tăng cường kiểm tra tính hiệu quả kinh tế- xã hội và môi trường của các dự án đầu tư này. Trong tương lai, cần kiểm soát hiệu quả việc thực hiện các dự án đã được cấp giấy phép, đảm bảo hiệu quả trên thực tế phải đúng hiệu quả tính toán, và có những biện pháp điều chỉnh cần thiết nếu thấy các dự án đã được cấp giấy phép, nhưng hoạt động kém hiệu quả. Nhà nước cần có chính sách khuyến khích, với những điều kiện ưu đãi đối với đầu tư của tư nhân nước ngoài vào các lĩnh vực và vùng lãnh thổ mà chính sách Nhà nước đang đặt trọng tâm phát triển. Đẩy mạnh việc thực hiện cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước trong ngành thép. Nhà nước cần có chính sách khuyến khích sản xuất và tiết kiệm, tăng cường tỷ lệ tích luỹ để đầu tư phát triển kinh tế. Xây dựng quy hoạch đầu tư để định hướng cho các đầu tư đạt hiệu quả cao nhất. Các quy hoạch đầu tư này không có ý nghĩa của kế hoạch pháp lệnh, mà chỉ có tính chất định hướng, tạo điều kiện thuận lợi cho mọi đối tượng đầu tư, phù hợp với chính sách phát triển kinh tế- xã hội của đất nước trong từng thời kỳ. 2.2.2. Lựa chọn chính sách đầu tư Sự đầu tư của Nhà nước cho ngành thép cả trước mắt và lâu dài là cần thiết, song sự đầu tư này tập trung vào hướng chuyển dịch cơ cấu ngành thép để tăng tính cạnh tranh; Nhà nước tập trung vốn (hàng tỷ đô la Mỹ) cho các dự án lớn, công nghệ rất hiện đại (thời điểm sau năm 2010). Trong đề án quy hoạch phát triển ngành thép Việt Nam đến năm 2010 của Tổng công ty thép Việt Nam, để thực hiện các đề xuất của ngành thép thì tổng vốn nhu cầu vốn đầu tư giai đoạn 2001-2005 là 1.400 triệu USD. Đây là khối lượng vốn khổng lồ, khó có thể huy động được vì vốn Nhà nước không thể đảm bảo và ngành thép không hấp dẫn các nhà đầu tư trong và ngoài nước Theo tác giả PGS. TS Hoàng Đức Thân, căn cứ vào số liệu trong đề án quy hoạch phát triển ngành thép Việt Nam, đã tính toán và cho thấy các dự án đầu tư của ngành thép đã nêu là rất kém hiệu quả (xem bảng dưới) Bảng 10: Phân tích một số dự án đầu tư của ngành thép STT Tên dự án Công suất (1000T/năm) Tổng vốn ĐT (Tỷ VNĐ) Lãi trả hàng năm (Tỷ VNĐ) Lãi phải trả bình quân/tấn/năm Giai đoạn 2001- 2005 1 Đầu tư chiều sâu, cải tạo GTTN, CT thép MN, thép ĐN Phôi: 500 Cán: 700 750 22.5 18.750 2 Nhà máy thép Phú Mỹ Phôi: 500 Cán: 300 2.100 63 78.750 3 Mở rộng TISCO giai đoạn hai Phôi: 300 Cán: 250 2.250 67,5 90.000 4 Nhà máy cán tấm nóng (giai đoạn đầu nhà máy LH) 1.000 4.500 135 135.000 5 Nhà máy sắt xốp 1.200 5.250 157,5 131.000 Giai đoạn 2005- 2010 6 Cán tấm nóng 1.500 9.000 270 180.000 bán liên tục (NM thép liên hiệp GĐ 1) 7 Cán tấm nguội liên tục (NM thép LHGĐ1) 600 5.400 162 270.000 8 Bước 2 nhà máy thép liên hợp 2.500 15.000 450 180.000 Nguồn: Tạp chí Công nghiệp Việt Nam số 10/2002. Bảng được giả định vay vốn với mức trả lãi thấp nhất hiện nay là vay ưu đãi với lãi suất 3%/năm, thời hạn vay 12 năm. Qua bảng cho thấy, ngay cả với giả định được vay vốn ưu đãi 100% cho các dự án (điều này không thể có được trong thực tế) và với mức giá thép thành phẩm, phôi thép như hiện nay, thì khi tiến hành sản xuất hầu hết các nhà máy thép sẽ bị lỗ nặng. Khả năng trả lãi và hoàn vốn là rất khó khăn. Một số dự án mở rộng khu gang thép Thái Nguyên giai đoạn hai, nhà máy cán tấm nóng...là không hiệu quả. Đầu tư nhanh cho khu liên hợp luyện kim 4,5 triệu tấn/năm sẽ không thành hiện thực được. Rõ ràng chính sách đầu tư của Nhà nước cho ngành thép có vai trò rất quan trọng đối với ngành thép. Trong điều kiện kinh tế thị trường, đầu tư từ ngân sách Nhà nước và vốn ODA cần phải có sự đổi mới về quan điểm và nguyên tắc. Nếu không, chúng ta sẽ lại mắc lại sai lầm như khi đầu tư cho công nghiệp nặng thời kỳ trước đây. Về nguyên tắc, Nhà nước không chi từ ngân sách cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp Nhà nước, ngành thép, các doanh nghiệp tự bảo đảm vốn kinh doanh từ nguồn vay ngân hàng hoặc từ thị trường vốn; đầu tư của Nhà nước chỉ thực hiện ở những khâu then chốt của ngành thép và có điều kiện; chính sách Nhà nước khuyến khích mọi thành phần kinh tế trong nước và nước ngoài tham gia đầu tư phát triển ngành thép theo quy hoạch và kế hoạch của Nhà nước. Để phát triển ngành thép trong tương lai, Nhà nước chỉ hỗ trợ từ ngân sách, vốn ODA cho đào tạo chuyên gia, kỹ sư, lao động chuyên môn ngành thép và nghiên cứu khoa học trọng điểm phát triển ngành thép. Nhà nước đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng về giao thông vận tải, thông tin liên lạc, cảng biển...cho các khu khai thác nguyên liệu, khu công nghiệp luyện kim lớn. Đầu tư cho các dự án trọng điểm, điều tra tiềm năng khoáng sản cho ngành thép, phát triển nguồn nguyên liệu lớn của ngành. Ngành thép được vay vốn ưu đãi cho các dự án phát triển thượng nguồn, chính sách ưu đãi trong đầu tư phát triển sản phẩm xuât khẩu. Vấn đề quan trọng là đầu tư của Nhà nước nhằm tạo sự chuyển biến cơ bản cơ cấu ngành thép để tăng cường sức cạnh tranh. Đầu tư của Nhà nước cũng phải đảm bảo có hiệu quả kinh tế. Trong thời gian tới nên đầu tư chủ yếu theo chiều sâu; Đầu tư mở rộng hạn chế, chỉ đối với những dự án có công nghệ cao để đảm bảo sản xuất ra được các sản phẩm có sức cạnh tranh. Hướng đầu tư mới bao gồm cả đầu tư trong nước và liên doanh phải được nghiên cứu kỹ lưỡng chỉ nên tập trung vào lĩnh vực sản xuất thép đặc chủng với quy mô nhỏ và vừa, không đầu tư vào cán thép, sản xuất thép xây dựng vì hiện nay cung đã lớn hơn cầu. Bên cạnh đó cần cân nhắc kỹ tính hiệu quả, khả năng nhập khẩu phôi thép với sự cần thiết phải đầu tư với nguồn vốn phúc lợi vào những dự án về mỏ thép trong điều kiện Việt Nam còn hạn chế về vốn đầu tư. Tuy nhiên, nhập phôi về cán và mua một phần nguyên liệu từ nước ngoài vào có vẻ hiệu quả hơn và khả thi. Nhà nước đầu tư cho công tác nghiên cứu khoa học để phát triển ngành thép trong tương lai. Đây có thể coi là một chương trình của Nhà nước. Vấn đề nghiên cứu, đánh giá toàn diện về nguồn tài nguyên trong nước phục vụ cho ngành thép; tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ sản xuất thép trên thế giới; Nghiên cứu thực trạng ngành thép với quan điểm kinh tế quốc dân chứ không phải của Tổng công ty thép... trên cơ sở đó để quy hoạch và đầu tư cho ngành thép trong tương lai cần được triển khai sớm. Nhà nước có chính sách ưu tiên giá điện như một sự đầu tư cho ngành thép. Phát triển ngành thép trong tương lai phụ thuộc rất nhiều vào sự phát triển của Tổng công ty thép Việt Nam. Thực chất tổng công ty thép giảm thiểu được khó khăn về tài chính là do có Nhà nước bảo trợ. Điều này cần phải được cân nhắc lại. Nhà nước chỉ hỗ trợ những doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có hiệu quả của tổng công ty thép và giúp đỡ để giải quyết khía cạnh xã hội của doanh nghiệp bị phá sản. Nhà nước không thể "nuôi" Tổng công ty thép được. Tuy nhiên, hoạt động của VSC còn nhiều điểm yếu. Nhiều đơn vị trực thuộc VSC thua lỗ kéo dài. Chính sách hỗ trợ tài chính của nhà nước trong thời gian tới cũng nên phải hướng tới cho cả các doanh nghiệp, khu vực tư nhân nếu kinh doanh có hiệu quả theo định hướng của Nhà nước. Cần có chính sách ưu đãi về thuế cho các doanh nghiệp sản xuất thép xuất khẩu, sản xuất hàng thay thế nhập. 2.2.3. Các chính sách phi thuế quan Bên cạnh các biện pháp lịch trình giảm thuế, hỗ trợ tài chính, vấn đề loại bỏ các hạn chế số lượng nhập khẩu và các rào cản phi thuế quan là hết sức quan trọng để có thể tham gia vào khu vực mậu dịch tự do và tham gia APEC, WTO. * Phối hợp việc cắt giảm thuế với việc loại bỏ các rào cản phi quan thuế một cách linh hoạt và thích hợp để có thể duy trì bảo hộ được cho các ngành sản xuất trong những trường hợp cần thiết. - Đồng thời với việc xác định chính sách bảo hộ, cần gấp rút triển khai việc xây dựng và hoàn thiện một hệ thống các biện pháp phi quan thuế hữu hiệu, phù hợp và được thông lệ quốc tế cho phép. Thực hiện được vấn đề này sẽ tạo điều kiện bảo hộ hợp lý cho các nhà sản xuất thép trong nước khi chúng ta buộc phải cắt giảm hàng rào bảo hộ thuế quan. Hiện nay các biện pháp phi quan thuế của ta còn đơn giản, chủ yếu mới là các biện pháp về giấy phép, hạn ngạch mà thiếu những biện pháp về kỹ thuật, chất lượng với những quy định một cách hệ thống và chi tiết như các nước và nhất là chưa có định hướng theo chính sách bảo hộ sản xuất trong nước. Dưới đây xin đưa ra một số định hướng về hệ thống chính sách phi quan thuế của Việt Nam trong hệ hợp tác kinh tế thương mại với ASEAN và APEC. Trước tiên, việc xây dựng hệ thống chính sách phi quan thuế của Việt Nam khi tham gia hợp tác kinh tế với ASEAN và APEC phải đảm bảo được các mục tiêu sau: - Tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển thương mại của Việt Nam, tăng kim ngạch xuất nhập khẩu, góp phần vào tăng thu ngân sách: - Bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước, khuyến khích đổi mới khoa học kỹ thuật, tăng sức cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường quốc tế. - Góp phần tích cực cho việc hội nhập của Việt Nam vào nền thương mại thế giới, phục vụ chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước. Việc xây dựng hệ thống chính sách phi quan thuế đồng thời cũng phải quán triệt những nguyên tắc sau: - Những biện pháp phi quan thuế áp dụng phải phù hợp với những thông lệ quốc tế đã được cụ thể hoá ở WTO. - Phải phù hợp với những quy định cụ thể của ASEAN; APEC. - Hệ thống phi quan thuế phải đủ sức mạnh để bảo vệ nền sản xuất non trẻ trong nước song cũng phải tạo đà và thúc giục các doanh nghiệp tự đổi mới, tăng sức cạnh tranh của hàng hoá trên trường quốc tế. - Tuy lấy mục tiêu tạo thuận lợi cho thương mại làm chính, nhưng phải có sự kết hợp chặt chẽ, khéo léo giữa hệ thống hàng rào thuế quan với hệ thống các biện pháp phi thuế, giữa tự do mậu dịch theo quy định của CEPT với việc bảo hộ sản xuất trong nước, lấy quyền lợi quốc gia là trên hết. - Hệ thống phi quan thuế phải đảm bảo nguyên tắc là luôn tạo được một lối thoát nhất định khi nền thương mại trong nước bị đe doạ trước sức cạnh tranh quốc tế; Để có cơ sở áp dụng các biện pháp phi quan thuế một cách hữu hiệu theo các mục tiêu và nguyên tắc nêu trên, đồng thời phù hợp với chính sách bảo hộ sản xuất trong nước, trước mắt cần phải xác định rõ danh mục những mặt hàng thép cần được ưu tiên bảo hộ và phân loại chúng theo các cấp độ bảo hộ khác nhau. Việc tính toán đưa ra danh mục hàng cần được ưu tiên bảo hộ phải dựa trên kết quả của những phân tích định tính và định lượng tình hình cung cầu trong nước, sức cạnh tranh của hàng hoá nội địa và các diễn biến của thị trường quốc tế. Có thể chia bảo hộ thành 3 cấp: (i) cấp một là các mặt hàng thuộc danh mục nhạy cảm, (ii) cấp hai là các mặt hàng thuộc cân đối lớn của nền kinh tế, (iii) cấp ba là các mặt hàng trong nước có thể tự sản xuất. Ngành thép thuộc cấp hai. Hệ thống chính sách phi quan thuế của Việt Nam trước mắt có thể xây dựng thành 4 loại lớn sau dựa trên cơ sở sắp xếp lại các biện pháp phi quan thuế cũ và xây dựng thêm một số biện pháp mới phù hợp với quy định của WTO: Loại 1: Những biện pháp phi quan thuế phổ thông trong khuôn khổ WTO:  - Giấy phép nhập khẩu tự động và giấy phép không tự động. - Quota: quy định theo WTO, bao gồm quota định lượng, quota kết hợp cả định lượng và thuế, quota kết hợp định lượng và giấy phép đặc biệt. - Quy tắc xuất xứ. - Thuế đối kháng. - Biện pháp chống bán phá giá. - Biện pháp phòng ngừa. Loại 2: Những biện pháp kỹ thuật: - Những quy chế về tiêu chuẩn kỹ thuật. - Những quy chế về chất lượng. - Vệ sinh kiểm định. - Bảo vệ môi sinh. Loại 3: Những biện pháp hành chính: bao gồm những quy chế xuất nhập khẩu khác của ta hiện nay như đầu mối xuất nhập khẩu, công ty quốc doanh, mà ta không thể sắp xếp chuyển vào loại 1 và 2 theo như quy định của WTO được. Loại 4: Những chính sách vĩ mô khác có tác động điều tiết gián tiếp xuất nhập khẩu: cơ chế tỷ giá hối đoái, thanh toán, lãi suất, tín dụng ngân hàng, chính sách đầu tư... Nếu thực hiện các quy định của CEPT về các biện pháp phi quan thuế mà lấy mốc hiện tại thì ta sẽ phải giảm các biện pháp phi thuế quan của Việt Nam sau khi chúng ta đã xây dựng hoàn chỉnh hệ thống các biện pháp phi thuế quan của mình. Công việc này cần được tiến hành hết sức khẩn trương vì đây là một khối lượng công việc rất lớn và cần sự phối hợp của nhiều Bộ, ngành liên quan. Sau khi hoàn chỉnh hệ thống chính sách phi thuế quan, chúng ta sẽ bắt đầu thực hiện quá trình loại bỏ các rào cản phi quan thuế. Quá trình này sẽ được tiến hành kết hợp chặt chẽ với quá trình cắt giảm thuế quan, dựa trên sự phân loại theo ba cấp độ bảo hộ như phân tích ở trên và có thể được thực hiện theo các bước như sau: - Bước 1: bắt đầu bằng việc giảm các biện pháp hành chính. - Bước 2: giảm các biện pháp phi thuế quan phổ thông. - Bước 3: tăng cường áp dụng các biện pháp kỹ thuật và các hình thức bảo hộ gián tiếp vô hình khác. Các hạn chế về số lượng nhập khẩu cần được loại bỏ nhanh chóng đối với các mặt hàng trong chương trình CEPT để hướng các ưu đãi từ các nước thành viên khác. Các hàng rào phi thuế quan khác sẽ được xoá bỏ dần trong quá trình hội nhập khu vực và quốc tế. Xây dựng bộ tiêu chuẩn chất lượng của ngành thép phù hợp với quy định quốc tế, công khai chính sách quản lý chất lượng để các đơn vị tham gia thực hiện. Chính sách phi quan thế cho từng mặt hàng cụ thể của ngành thép phải được cân nhắc để áp dụng phù hợp. 2.2.4. Phát triển thị trường nước ngoài 2.2.4.1. Hỗ trợ tiếp thị Ngành thép Việt Nam cần phát triển thị trường xuất khẩu một cách linh hoạt theo phương pháp giá cạnh tranh. Xây dựng một chương trình xúc tiến xuất khẩu thép, bao gồm tăng cường cơ hội tiếp cận thị trường nước ngoài cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, cải thiện tài trợ xuất khẩu. 2.2.4.2. Hỗ trợ cung cấp thông tin Nhà nước cần quản lý và điều tiết tốt hơn thị trường trong nước, chủ động mở rộng thị trường quốc tế ở tầm vĩ mô và tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp đưa sản phẩm của mình ra thị trường quốc tế. Nhà nước cần có cơ chế thông thoáng hơn, cung cấp thông tin về thị trường đầy đủ và cập nhật hơn để giúp các doanh nghiệp tiếp cận thị trường nước ngoài hiệu quả. Chính sách mở rộng thị trường cũng cần kèm theo những cơ chế hỗ trợ tài chính, ngân hàng và thanh toán quốc tế tin cậy, đảm bảo để các doanh nghiệp Việt Nam an tâm khi xuất khẩu hàng và từng bước tiến hành đầu tư ra nước ngoài. 2.2.5. Về xây dựng khu liên hợp gang thép Có lẽ bây giờ sẽ qúa sớm khi khẳng định có hay không xây dựng khu liên hợp gang thép ở Việt Nam. Điều khẳng định là không thể xây dựng khu liên hợp gang thép trong giai đoạn 2001- 2010. VSC đã đệ trình ba phương án đầu tư lên Chính phủ. Các phương án này có thể được phân chia một cách tương đối như sau: - Phương án xây dựng trung bình của VSC – dự án xây dựng theo hai bước, đưa lò cao đầu tiên vào sử dụng năm 2012. - Phương án xây dựng cao của VSC – dự án xây dựng một bước, đưa lò cao đầu tiên vào sử dụng năm 2010. - Phương án xây dựng thấp của VSC – dự án xây dựng theo hai bước tương đối chậm, không khởi công xây dựng khu liên hợp thép trước năm 2010. Theo các chuyên gia Nhật Bản thuộc JICA thì việc đầu tư vào ngành thép cần tiến hành từ từ theo hai bước. Có hai lý do để giải thích. Thứ nhất, để có thể giải quyết về tài chính thì đầu tư với quy mô vừa phải là an toàn hơn và là xu hướng tất yếu. Thứ hai, đầu tư dần dần cho phép VSC tích luỹ kinh nghiệm và nâng cao khả năng có thể thích ứng với công nghệ hiện đại trên quy mô lớn và hội nhập quốc tế trên cơ sở thử và sai (trial-and-error basis), để lựa chọn một phương án kỹ thuật phù hợp nhất từ những công nghệ sản xuất thép không ngừng đổi mới, có khả năng thích ứng hiệu quả với những thay đổi của thị trường thép thế giới. Nếu cam kết xây dựng khu liên hợp thép với các tiêu chuẩn chi tiết được thực hiện ngay, thì VSC sẽ không có đủ thời gian để làm quen và tiếp cận hoặc điều chỉnh linh hoạt. Để xây dựng khu liên hợp gang thép phải có những điều kiện khắt khe và đầy đủ luận cứ khoa học. Giai đoạn 2001- 2010 chỉ nghiên cứu tiền khả thi. Để đi tới những quyết định quan trọng phải sau năm 2006, khi đó sự tác động của hội nhập khu vực đã có và sự cân nhắc hiệu quả rõ hơn. Nhà máy liên hợp chỉ có thể được xây dựng khi nhu cầu thị trường đủ lớn (trên dưới 9 triệu tấn/năm) và các điều kiện về nguyên liệu, điện năng, nguồn nước, địa điểm đã được khẳng định rõ ràng. Do đó nên cân nhắc xây dựng khu liên hợp gang thép sau năm 2010. 2.3.Nhóm các giải pháp vi mô 2.3.1. Với Tổng công ty Thép Việt Nam VSC có vai trò đặc biệt quan trọng trong sự phát triển của ngành thép Việt Nam. Để VSC thực sự là nòng cốt của ngành thép, phải đổi mới từ tổ chức quản lý của Tổng công ty đến hoạt động kinh doanh của các đơn vị thành viên. Thực hiện qúa trình chuyển đổi hình thức sở hữu với một số doanh nghiệp Nhà nước thành viên Tổng công ty (trước hết là một số công ty trong khâu lưu thông), đồng thời phát triển liên kết với các công ty khác theo mô hình công ty mẹ – công ty con. Tiến hành việc sắp xếp lại bộ máy quản lý và bộ máy lãnh đạo, từng bước khắc phục những yếu kém. Thực hiện đầu tư của Tổng công ty theo chiều sâu, chủ yếu cho khâu thượng nguồn và sản xuất thép chất lượng cao. VSC phải sắp xếp lại việc lưu thông, phân phối thép vì bước vào nền kinh tế thị trường đòi hỏi mạng lưới lưu thông tương đối rộng song chất lượng đội ngũ cán bộ kinh doanh chưa theo kịp yêu cầu quản lý và thị trường mới - đặc biệt là những năm gần đây, chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần, số doanh nghiệp quốc doanh và ngoài quốc doanh tham gia tổ chức lưu thông thép lớn, sức cạnh tranh quyết liệt. Do đó, VSC cần sáp nhập những đơn vị yếu kém vào Tổng công ty để gắn sản xuất với lưu thông, tạo ra sức cạnh tranh và tiêu thụ hàng, tạo điều kiện tận dụng được cơ sở vật chất trước đây. Đồng thời VSC cần dần chuyển hướng sản xuất và gia công các mặt hàng sau cán đáp ứng nhu cầu trong nước. 2.3.2. Giải pháp về công nghệ Sản lượng thép ở một số mặt hàng cung đang vượt cầu. Tuy nhiên trình độ công nghệ của một số nhà máy rât lạc hậu, do đó phải đầu tư thêm các nhà máy mới có công nghệ hiện đại để dần dần thay thế các nhà máy cũ sản xuất các sản phẩm không có sức cạnh tranh. Công nghệ chiếm vị trí đặc biệt quan trọng trong ngành công nghiệp thép. Hơn nữa, trong điều kiện quốc tế hoá, lợi thế so sánh của quốc gia dựa trên cơ sở nguồn nhân lực rẻ đang giảm dần và ít có ý nghĩa trong ngành công nghiệp thép do đặc thù của ngành công nghiệp nặng này. Trong tiếp nhận công nghệ mới, cần thực hiện chiến lược “đi tắt đón đầu” để sớm có công nghệ tiên tiến, nhanh chóng hiện đại hóa ngành thép Việt Nam. Chính sách chuyển giao công nghệ hiện nay trong ngành thép chủ yếu là qua liên doanh. Trong chuyển giao công nghệ cần chú ý đầy đủ việc chuyển giao toàn bộ kỹ năng thực hành công nghệ. Tạm dừng các dây chuyền sản xuât nhỏ lạc hậu đầu tư từ những năm 1960-1970 do Trung Quốc tài trợ. Cải tạo lại những dây chuyền cũ nhưng giữ vị trí then chốt. Các doanh nghiệp phải bằng nỗ lực để hiện đại hoá với chi phí thấp nhất theo các hướng: - Nhập các thiết bị nguồn, học tập nguyên tắc thiết kế, có thể tự thiết kế lại, cải tiến cho phù hợp với điều kiện sản xuất và chế tạo của Việt Nam. Những chi tiết chúng ta chưa sản xuất được thì phải nhập của nước ngoài. - Cần nắm được trực tiếp thông tin về công nghệ để có thể chọn được công nghệ nguồn và tìm kiếm trợ giúp từ bên ngoài doanh nghiệp. - Cần coi việc hiện đại hoá là một quá trình tích tụ từ thấp đến cao, trong đó xác định mức công nghệ mà doanh nghiệp cần có để tạo ra các sản phẩm có ưu thế cạnh tranh tổng hợp. Từ đó, lựa chọn công nghệ hiện đại để hiện đại dần từng bước. - Trong từng thời kỳ phát triển, cần nghiên cứu, lập danh sách cụ thể về từng loại công nghệ: lạc hậu, trung bình, cao và siêu cao, kèm với các ưu đãi cho hai loại công nghệ cao và siêu cao, xoá bỏ công nghệ lạc hậu, không cho nước ngoài đầu tư vào loại công nghệ trung bình (trừ trường hợp đặc biệt phải có ý kiến của Chính phủ). - Khuyến khích và tạo điều kiện cho nhiều người đi du học; nâng cao trình độ; nghiên cứu; học nghề ở các nước tiên tiến và công nghiệp phát triển. 2.3.3. Công tác phát triển thị trường Những năm qua, công tác thị trường của các công ty thép đã được quan tâm, hiện nay thị trường của các công ty gồm (thị trường trong nước chia làm 3 khu vực miền Trung, Nam và Bắc; thị trường nước ngoài là Lào, Cămpuchia, Đài Loan, Hồng Kông). Tuy nhiên trong điều kiện hội nhập quốc tế, các công ty thép sẽ phải gặp nhiều cạnh tranh gay gắt từ phía các sản phẩm nhập khẩu, do vậy công tác thị trường của các công ty cần được đặc biệt chú trọng. Công tác phát triển thị trường của các công ty có thể đi theo những hướng sau: 2.3.3.1. Củng cố thị trường truyền thống Thị trường truyền thống của các công ty Thép Việt Nam là miền Bắc, Trung, Nam. Các công ty tiếp tục duy trì và chiếm lĩnh và vươn tới nắm thị trường, khai thác thị trường theo chiều sâu, nắm chắc dung lượng và cơ cấu thị trường, xu hướng biến động về nhu cầu vật liệu xây dựng, quan tâm chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Nhà nước và khu vực. Tiếp tục duy trì và mở rộng thị trường thông qua việc phối hợp ngành vật liệu xây dựng các tỉnh về cung ứng hàng hoá, gửi hàng tại đơn vị nhằm tăng khối lượng tiêu thụ sản phẩm đồng thời giới thiệu nhãn hàng hoá của công ty. Tạo uy tín, giữ quan hệ hợp tác lâu dài. Muốn vậy các công ty cần: + Nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ hàng truyền thống, công ty phải thường xuyên bảo đảm chất lượng hàng hoá mà mình bán và nâng cao chất lượng dịch vụ và phục vụ khách hàng. + Tạo điều kiện thuận lợi và ưu tiên về thanh toán cho khách hàng truyền thống, đối với những khách hàng này công ty có thể ưu tiên cho họ thanh toán trước hay cho họ trả chậm lại một số ngày nhất định. + Phát triển các loại sản phẩm mới và đa dạng hoá sản phẩm. + Có giá ưu đãi đối với những khách hàng thường xuyên mua hàng hoá của công ty với số lượng ổn định. 2.3.3.2. Mở rộng sang các thị trường mới có triển vọng Hiện nay do trình độ xã hội, trình độ khoa học kỹ thuật và đời sống kinh tế xã hội ngày càng phát triển và được nâng cao. Vì vậy nhu cầu về sắt thép đối với xã hội ngày càng lớn, ước tính đến năm 2010 nhu cầu sử dụng sắt thép của cả nước cần đến 7,5 triệu tấn/năm). Trong tám tháng đầu năm 2003, các công ty thép Việt Nam đã xuất khẩu sang Campuchia 31.715 tấn thép các loại. Nếu làm tốt hơn, sản phẩm thép Việt Nam có thể xuất khẩu được nhiều hơn nữa không chỉ ở thị trường Campuchia. Chính vì thế yêu cầu đối với công ty sản xuất kinh doanh thép phải đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh sao cho đáp ứng được yêu cầu của thị trường. Để chiến lĩnh được thị trường ở khắp đất nước và xuất khẩu cần có một hệ thống đồng bộ các biện pháp: như định hướng sản phẩm, chất lượng, số lượng sản xuất; đẩy mạnh hoạt động tiếp thị; tổ chức kênh bán hàng phù hợp, mở rộng mạng lưới các vùng tập trung dân cư để tạo điều kiện thuận lợi và đáp ứng kịp thời nhu cầu của người tiêu dùng; tổ chức tốt công tác bảo hành sản phẩm làm cho khách hàng cảm thấy an tâm khi mua sản phẩm. 2.3.3.3. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu thị trường. Nghiên cứu thị trường là công việc bắt buộc đối với các chủ thể kinh tế, là điều kiện tiên quyết trong việc chiếm lĩnh thị trường của doanh nghiệp. Muốn thành công trong hoạt động sản xuất và kinh doanh của mình thì điều trước hết doanh nghiệp phải hiểu đầy đủ và chính xác những yếu tố liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến nhu cầu, thị hiếu và sức mua của thị trường mới có thể giúp doanh nghiệp tìm được thị trường trọng điểm và xác định được những tiềm năng của thị trường, của doanh nghiệp chưa được khai thác triệt để. Trong những năm gần đây, với chủ trương đổi mới của Nhà nước và phát triển kinh tế, nhiều công ty kinh doanh kim khí Tổng công ty thép và các hộ tư nhân đã mở ra kinh doanh các mặt hàng kim khí, nhu cầu về xây dựng kiến thiết ngày càng tăng lên điều đó đòi hỏi các công ty phải nắm được nhu cầu thông qua công tác nghiên cứu thị trường. Các công ty phải có bộ phận chuyên sâu về thị trường, cần phải xây dựng đội ngũ cán bộ nghiên cứu thị trường có trình độ chuyên môn, có nghiệp vụ, có kiến thức về marketing, trên cơ sở đó lập ra kế hoạch sản xuất và kinh doanh cho hợp lý, để hiệu quả kinh doanh ngày càng nâng cao hơn. Bộ phận này sẽ giúp ban lãnh đạo đề ra và thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh một cách có hiệu quả hơn. Nguồn thông tin báo cáo phải đảm bảo các yêu cầu: nhanh, nhạy, kịp thời, chính xác vì trong tình hình sản xuất kinh doanh hiện nay việc nắm bắt và xử lý kịp thời các thông tin thì mới dự đoán được nhu cầu và diễn biến thị trường, để có quyết định chuẩn xác về sản xuất cái gì, sản xuất bao nhiêu và kinh doanh loại sản phẩm nào, xuất khẩu ra sao? Qua nghiên cứu thị trường công ty có biện pháp nâng cao chất lượng sản phẩm đưa ra giá cả phù hợp, thông tin cụ thể về dung lượng thị trường, về từng loại mặt hàng cụ thể, đối tượng phục vụ, không gian và thời gian đáp ứng. 2.3.4. Hoàn thiện mạng lưới bán hàng và hình thức bán hàng. 2.3.4.1. Hoàn thiện mạng lưới bán hàng. Việc hoàn thiện mạng lưới bán hàng rất quan trọng nên các công ty cần có một số biện pháp như: + Củng cố hệ thống mạng lưới bán hàng hiện có: công ty cần nâng cấp các cửa hàng, các điểm bán hàng nhằm thu hút sự chú ý của khách hàng, tăng số lượng khách hàng, tăng cơ hội bán hàng. Công ty cần xây dựng phương án đầu tư vốn cho các cửa hàng trọng điểm. + Cần xem xét đánh giá lại hiệu quả hoạt động của các cửa hàng, trạm, tạo điều kiện tập trung vốn, nguồn hàng cho các cửa hàng hoạt động tốt, có chính sách hỗ trợ cho các cửa hàng thua lỗ trong trường hợp cần thiết có thể giải tán cửa hàng thua lỗ thường xuyên. + Xây dựng các điểm bán hàng mới: Các công ty cần mở thêm các điểm bán hàng ở nhiều khu vực trong cả nước và nước ngoài, Công ty cần xây dựng các điểm bán hàng tại các tỉnh dưới hình thức bảo trợ kinh doanh cho các công ty khác của tỉnh đó phối hợp với các công ty thép giới thiệu trưng bày hàng hoá của mình. + Tăng cường quyền hạn cho các cửa hàng: Thời gian qua các cửa hàng đã khẳng định được vị trí của mình trên thị trường, đã giúp công ty hoàn thành tốt nhiệm vụ sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, để phát huy hết năng lực của các cửa hàng, các công ty thép Việt Nam cần mở rộng quyền hạn với loại hình kinh doanh phù hợp trên thị trường. 2.3.4.2. Hoàn thiện các hình thức bán hàng. Trong những năm qua, các hình thức bán hàng mà các công ty áp dụng rất phong phú song cơ cấu còn có chỗ chưa hợp lý. Trong thời gian tới, các công ty cần thay đổi cơ cấu cho phù hợp với hoạt động kinh doanh. Tiếp tục đẩy mạnh hình thức bán buôn để đẩy nhanh tổng doanh số bán ra và tạo mối quan hệ chặt chẽ với khách hàng của mình. Trong bán buôn cần tăng cường hình thức bán giao thẳng không qua kho vì hình thức này đảm bảo tiết kiệm nhiều chi phí, thu được lợi nhuận cao và đẩy mạnh vòng quay của vốn kinh doanh. Muốn tăng cường hình thức này không phải dễ vì nhu cầu bất thường khá lớn và có thể thoả mãn bằng nhiều cách khác nhau. Phát triển hình thức bán hàng đại lý nhất là đại lý cho nước ngoài để tăng thu và tạo thêm công ăn việc làm cho cán bộ công nhân viên. Bán đại lý cho nước ngoài lấy hoa hồng là ngoại tệ phục vụ cho hoạt động nhập khẩu của công ty. Tăng cường bán đại lý còn có lợi ở chỗ hàng hoá bán được dưới hình thức chỉ mất chi phí về bảo quản xếp dỡ. Khi bán được hàng, công ty mới tiến hành kiểm tra tiền nên không mất vốn cho việc mua hàng hoá. Bán hàng qua đại lý ở các tỉnh cũng cần được chú trọng trong đó nên áp dụng chính sách ưu tiên (cho phép đại lý thanh toán từng phần) để có điều kiện mở rộng từng phần thị trường mới. Mặt khác bên cạnh chú trọng việc bán buôn các công ty cần đẩy mạnh hơn nữa hình thức bán hàng trực tiếp. Thực hiện đa dạng hoá các hình thức bán hàng để phục vụ tốt nhu cầu của mọi khách hàng áp dụng và phát triển các hình thức bán hàng để thích nghi và phát triển với điều kiện kinh doanh mới. Sử dụng công cụ marketing nhằm thúc đẩy hoạt động bán hàng. Công ty cần duy trì và phát triển quan hệ bán hàng với các đơn vị mua thường xuyên với khối lượng lớn. Công ty ký kết các hợp đồng tiêu thụ với bộ phận khách hàng này để đảm bảo hàng hoá tiêu thụ được ổn định đồng thời tạo dựng và nâng cao uy tín đối với khách hàng. Các hợp đồng kinh tế là cách thức nhằm đạt được mục tiêu an toàn trong kinh doanh do đó cần đẩy mạnh việc giao dịch và ký kết hợp đồng tiêu thụ sản phẩm. Đối với thị trường mới các công ty phải có những chiến lược thâm nhập thích hợp, bởi đây chính là những nơi có thể mở rộng các quan hệ của công ty với bạn hàng mới. Do vậy công ty cần phải nỗ lực trong việc tìm tòi và phân tích những thông tin về các biến cố trên thị trường nhằm tìm ra các cơ hội kinh doanh phù hợp với tiềm năng của công ty để từ đó tiến hành đầu tư kinh doanh các mặt hàng mà thị trường đòi hỏi, tăng số lượng các đối tác ký kết hợp đồng mua hàng của Tổng công ty thúc đẩy kinh doanh ổn định và phát triển. 2.3.5. Áp dụng chính sách giá linh hoạt Trong giai đoạn hiện nay, khi tình trạng dư thừa cung thép, việc áp dụng giá linh hoạt là điều kiện sống còn để các công ty thép thu hút được khách hàng, qua đó tăng được doanh số bán. Dựa trên giá thành và căn cứ vào tình hình cung cầu, giá cả thị trường, khả năng của đối thủ cạnh tranh, các công ty phải thường xuyên điều chỉnh giá bán để khuyến khích khách hàng mua sản phẩm của mình. Đảm bảo cho công ty thu được nhiều lợi nhuận. Giá cả là một nhân tố của sự cạnh tranh. Nó có vai trò cực kỳ quan trọng đối với các công ty thép trong việc kinh doanh. Vì vậy việc xác định giá cả hết sức quan trọng. Các công ty phải có chính sách cụ thể đối với từng mặt hàng, nắm bắt nhanh chóng thay đổi giá cả thị trường để thay đổi cho phù hợp. Ngoài ra, các công ty phải có chính sách giá cả với từng khu vực nhằm đảm bảo sức cạnh tranh của công ty và thu được lợi nhuận cao nhất. Về các hình thức thanh toán cần tạo điều kiện giúp đỡ khách hàng, tạo khả năng thanh toán như cho thanh toán chậm trả. Khi bán chấp nhận mọi hình thức thanh toán như thanh toán bằng tiền mặt, bằng séc 2.3.6. Tổ chức tốt các hoạt động xúc tiến trong kinh doanh Tổ chức tốt các hoạt động dịch vụ trong kinh doanh đối với các công ty để thu hút khách hàng. - Dịch vụ vận chuyển: Đặc điểm của sản phẩm ngành thép là dài và cồng kềnh, vì vậy quá trình vận chuyển rất khó khăn và vất vả. Để phục vụ tốt đối với khách hàng mua sản phẩm của ngành thì các công ty thép nên tổ chức các dịch vụ phục vụ vận chuyển hàng hoá đến tận tay người tiêu dùng. Nếu khách hàng gần địa điểm kinh doanh có thể miễn phí vận chuyển, còn nếu khách hàng xa địa điểm kinh doanh có thể tính cước vận chuyển tuy nhiên phải phù hợp và giữ vững uy tín trên thị trường. Đối với khách hàng nước ngoài thì phải có sự thoả thuận hợp lý về hình thức vận chuyển cũng như các quy định về quá trình giao hàng. - Tổ chức các hình thức quảng cáo: Quảng cáo là một công cụ để xúc tiến bán hàng, quảng cáo ảnh hưởng rất lớn đối với người tiêu dùng. Quảng cáo giúp người tiêu dùng nâng cao nhận thức về sản phẩm, cải thiện hình ảnh vốn có của sản phẩm. Sản phẩm ngành thép ngày càng có nhu cầu lớn, vì vậy vấn đề quảng cáo là rất quan trọng. Để cạnh tranh với sản phẩm của nước ngoài thì không những các công ty phải tổ chức tốt các hoạt động quảng cáo trong nước về sản phẩm của mình mà còn phải tổ chức quảng cáo ở thị trường quốc tế. Các công ty có thể tổ chức quảng cáo quốc tế qua hai xu hướng đó là: tiêu chuẩn hoá và khu vực hoá. Quảng cáo nên đề ra các giải pháp để chống lại các đối thủ cạnh tranh thâm nhập thị trường bằng các sản phẩm tương tự. - Hội chợ, khuyến mại: Các công ty thép nên cho các sản phẩm của mình tham gia vào các hội chợ và tổ chức khuyến mại đối với sản phẩm của mình để kích thích nhu cầu của khách hàng mua sản phẩm của mình nhiều hơn. - Xúc tiến bán hàng: Công ty có thể xúc tiến bán hàng qua ba hình thức sau: xúc tiến bán hàng để giới thiệu sản phẩm mới của công ty, xúc tiến bán hàng để tăng sự tiêu dùng sản phẩm và xúc tiến bán hàng để thu hút trực tiếp khách hàng ở các cơ sở bán lẻ. 2.3.7. Đẩy mạnh công tác hội nhập quốc tế Hội nhập quốc tế là vấn đề cần thiết đối với các công ty thép Việt Nam bởi ngày nay xu hướng khu vực hoá và toàn cầu hoá nền kinh tế đang gia tăng mạnh mẽ. Quá trình quốc tế có tác động tích cực đối với sự phát triển của công ty. Việc hội nhập quốc tế sẽ tạo điều kiện hình thành các mối quan hệ kinh tế mở rộng hơn giữa ngành thép Việt Nam với ngành thép thế giới. Đó chính là cơ hội để ngành thép Việt Nam bắt kịp với ngành thép của thế giới, tìm ra những khách hàng mới và mở ra thế đứng vững vàng cho mình trên thị trường quốc tế. Cùng với cơ hội đang mở ra, quá trình hội nhập quốc tế của các công ty thép Việt Nam còn gặp không ít khó khăn, trở ngại do xuất phát điểm của ngành thép còn quá thấp so với các nước phát triển trong khu vực; nền kinh tế nước ta còn chậm phát triển và gặp nhiều khó khăn, đang đứng trước nhiều nguy cơ thử thách mới trong quá trình hội nhập quốc tế; nhiều nguồn lực còn chưa đủ điều kiện để khai thác, khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế còn thấp. Vì vậy muốn hội nhập quốc tế tổng công ty phải tổ chức công tác hội nhập. Cụ thể là: - Ngành thép phải tăng cường khả năng cạnh tranh để đối phó với thép nhập khẩu khi thuế nhập khẩu giảm xuống 5% và hàng rào phi thuế quan bị bãi bỏ. - Các nhà máy mới phải đạt trình độ quốc tế về năng suất chất lượng và các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật để độc chiếm thị trường trong nước và có khả năng xuất khẩu có lãi. - Kiên quyết dẹp bỏ hoặc chuyển hướng sản xuất các cơ sở kém hiệu quả không đủ sức cạnh tranh hoặc có nguy cơ lạc hậu. - Mở rộng hợp tác sản xuất thép với các nước ASEAN. - Các doanh nghiệp phải chủ động tìm thị trường xuất khẩu, lưu ý các thị trường dễ thâm nhập như: Campuchia, Lào, Irắc...thông qua việc đặt văn phòng đại diện tại nước sở tại, phát triển hệ thống kênh phân phối, đặc biệt lưu ý đến các dự án lớn lại nước ngoài mà doanh nghiệp có thể trúng thầu. KẾT LUẬN Ngành thép Việt Nam có quá trình hình thành và phát triển lâu dài và phát triển nhanh chóng trong những những năm gần đây. Ngành thép đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong nền kinh tế quốc dân và có tác động nhiều mặt tới các ngành kinh tế xã hội khác. Việc sản lượng thép tăng nhanh chóng trong những năm gần đây một mặt đã đóng góp tích cực cho nền kinh tế nhưng mặt khác đang gây ra những hậu quả là sự mất cân đối trong phát triển, gây tác động xấu tới toàn ngành trong tương lai. Từ những phân tích về thực trạng và sức cạnh tranh của ngành thép Việt Nam có thể thấy bức tranh ngành thép Việt Nam còn nhiều mảng tối. Quy mô, năng lực sản xuất nhỏ bé, cơ cấu sản phẩm mất cân đối nghiêm trọng, sản xuất chủ yếu thép dài dùng cho xây dựng, trình độ công nghệ và máy móc thiết bị lạc hậu, chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm cao, phân bố và tổ chức sản xuất bất hợp lý, chỉ phát triển sản xuất thép mà không chú trọng sản xuất phôi khiến cho ngành thép phụ thuộc quá nhiều vào sự biến động của thị trường thế giới. Trong tương lai, nếu không chú trọng phát triển hạ nguồn thì sức cạnh tranh sẽ không ổn định và rất dễ mất thị phần ngay cả trên sân nhà. Sức cạnh tranh của ngành thép Việt Nam nói chung là yếu, chỉ trừ sản phẩm thép xây dựng tại một số nhà máy mới đầu tư. Chính sách thuế và bảo hộ còn chưa hợp lý, nhiều doanh nghiệp đang sống nhờ chính sách bảo hộ do đó cần phải được điều chỉnh cho phù hợp với lộ trình gia nhập các tổ chức khu vực và quốc tế. Chính sách đầu tư còn nhiều bất cập chưa tính đến sự phát triển tổng thể, còn tình trạng đầu tư tràn lan không theo quy hoạch. Mặc dù Nhà nước đã phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển ngành thép đến năm 2010 nhưng việc thực hiện lại có nhiều lệch lạc. Điều này có lỗi ở cả các cơ quan chủ quản và các doanh nghiệp vì lợi ích trước mắt mà bỏ qua lợi ích lâu dài. Rõ ràng nên phát triển ngành thép trở thành một ngành kinh tế mạnh nhưng mức độ phát triển như thế nào? Vốn đầu tư bao nhiêu? còn đợi câu trả lời từ các cơ quan chức năng. Bây giờ dù là muộn nhưng vẫn còn kịp để điều chỉnh lại việc thực hiện đầu tư, nghiên cứu tổng thể ngành thép từ đó có chính sách hợp lý từ Trung Ương, địa phương và các doanh nghiệp giúp ngành thép Việt Nam có thể đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế xã hội và quốc phòng an ninh cũng như cạnh tranh có hiệu quả trong một quá trình hội nhập kinh tế thế giới. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Cơ sở chung cho việc tái cấu trúc chính sách đối với ngành công nghiệp thép Việt Nam trong quá trình hội nhập. Tác giả: PGS. TS. Hoàng Đức Thân; Th. S. Trần Văn Hoè; CN. Phạm Thế Anh. 2. The current Vietnamese steel industry and its challenge - Nozomu Kawabate (Tohoku Univ.) 3. Evaluating alternative scenarios for steel industy promotion: Qualification of Profitability and Risks - Kenichi Ohno (GRIPS) 4. Overall strategy for the development of the steel industy up to 2010 - Do Huu Hao (MOI) 5. Tạp chí Tri thức và Công nghệ số 153 (2003), 143 (2002) 6. Tạp chí Kinh tế và Phát triển số 73 (7/2003) 7. Báo tuổi trẻ tháng 9/2003 8. Tạp chí Công nghiệp số 10,12/2002; 6/2003 9. Tạp chí Nhịp sống công nghiệp 3/2003 10. Thời báo kinh tế Sài Gòn nhiều số 11. Các bài viết các vấn đề về thép trên các trang Web: 12. Quy hoạch phát triển ngành thép đến năm 2010. 13. Các trang Web: 13.1 http: www.thepvietnam.com.vn 13.2 http: www.vnn.vn 13.3 http: www.laodong.com 13.4 http: www.nhandan.org.vn 13.5 http: www.vnexpress.net 13.6 http: www.hanoimoi.com.vn 13.7 http: www.vir.com.vn 13.8 http: www.techcombank.com 13.9 http: www.vietnam-tourism.com 13.10 http: www.hanoitv.org.vn 13.11 http: www.dddn.com 13.12 http: www.vninvest.com 13.13 http: www.mofa.gov.vn 13.14 http: www.deigor.vn 13.15 http: www.news.ttvnol.com 13.16 http: www.vietstock.com.vn 13.17 http: www.vib.com.vn 13.18 http: www.business.vnn.vn 13.19 http: www.qulityvn.com 13.20 http: www.203.162.130.50/SCN 13.21 http: www.saigonnet.vn 13.22 http: www.cantho1206.net 13.23 http: www .sgtt.com.vn MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU Chương 1: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN NGÀNH CÔNG NGHIỆP THÉP VIỆT NAM 1. Lịch sử hình thành và phát triển của ngành thép Việt Nam .......... 2. Tình hình sản xuất của ngành thép Việt Nam ................................. 2.1. Ngành thép còn ở điểm xuất phát thấp............................................ 2.2. Quy mô, năng lực sản xuất, cơ cấu sản phẩm ................................. 2.3. Trình độ công nghệ và máy móc thiết bị ......................................... 2.4. Chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm ......................................... 2.5. Phân bố và tổ chức sản xuất............................................................ 2.6. Đầu tư sản xuất phôi và cán thép .................................................... 3. Đặc điểm về tổ chức sản xuất của ngành thép Việt Nam ................ 3.1. Cơ cấu cung cầu .............................................................................. 3.2. Sản xuất thép bởi ba khối doanh nghiệp ......................................... 3.3. Lưu thông, phân phối thép............................................................... Chương 2: NGÀNH THÉP VIỆT NAM ĐỨNG TRƯỚC THÁCH THỨC HỘI NHẬP KINH TẾ KHU VỰC VÀ THẾ GIỚI 1. Thực trạng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thép Việt Nam hiện nay....................................................................................... 1.1. Các yếu tố tác động đến khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp công nghiệp.......................................................................... 1.2. Sức cạnh tranh của các doanh nghiệp thép Việt Nam hiện nay ...... 2. Các nhân tố ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của ngành thép Việt Nam ...................................................................................................... 2.1. Nhóm các nhân tố thuộc về chính sách ........................................... 2.1.1. Chính sách thuế và bảo hộ đối với ngành thép................................ 2.1.2. Chính sách đầu tư liên quan đến ngành thép ................................... 2.1.2.1. Vay vốn đầu tư phát triển ........................................................... 2.1.2.2. Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài .................................... 2.2. Yếu tố thị trường nước ngoài........................................................... 3. Các vấn đề đặt ra đối với ngành thép trong quá trình hội nhập ... 3.1. Nên có hay không một ngành công nghiệp thép đủ mạnh?............. 3.2. Những thách thức trước nhu cầu hội nhập...................................... Chương 3: NHỮNG GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGÀNH THÉP TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ THẾ GIỚI VÀ KHU VỰC 1. Quan điểm và mục tiêu phát triển..................................................... 1.1. Quan điểm cho lựa chọn giải pháp ................................................. 1.2. Dự báo nhu cầu ............................................................................... 1.3. Chiến lược phát triển đến 2010 ....................................................... 2. Các giải pháp để phát triển ngành thép ........................................... 2.1. Cần có định hướng đúng cho phát triển ngành thép ....................... 2.2. Nhóm các giải pháp vi mô ............................................................... 2.3. Nhóm các giải pháp vĩ mô ............................................................... KẾT LUẬN TÀI LIỆU THAM KHẢO

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc8067.doc
Tài liệu liên quan