Hội nhập quốc tế là vấn đề cần thiết đối với các công ty thép Việt Nam bởi ngày nay xu hướng khu vực hoá và toàn cầu hoá nền kinh tế đang gia tăng mạnh mẽ. Quá trình quốc tế có tác động tích cực đối với sự phát triển của công ty. Việc hội nhập quốc tế sẽ tạo điều kiện hình thành các mối quan hệ kinh tế mở rộng hơn giữa ngành thép Việt Nam với ngành thép thế giới. Đó chính là cơ hội để ngành thép Việt Nam bắt kịp với ngành thép của thế giới, tìm ra những khách hàng mới và mở ra thế đứng vững vàng cho mình trên thị trường quốc tế.
103 trang |
Chia sẻ: baoanh98 | Lượt xem: 846 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Ngành thép Việt Nam trước thách thức hội nhập Afta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
máy cán hiện đại ngoài VSC
Bình quân của máy cán các nước ASEAN
Công suất cán
1.000 tấn
30-150
120-300
300-1.000
Tốc độ cán
Thép thanh
mét/giây
4,5-12
10-13,4
15-25
Thép dây
mét/giây
10-27
30-60
60-120
Lò nung phôi
Thanh/h
Nhỏ, tối đa 35
60-500
Tiêu hao cho 1 tấn thép cán
- Phôi thép
Kg/tấn
1091-1101
1035-1060
1035
- Dầu FO
lít/tấn
50-60
27-45
27-40
- Điện năng
KWh/tấn
90-126
75-144
75-100
Nguồn: Ngành thép Việt Nam trong bối cảnh hoà nhập AFTA,
Phạm Chí Cường - Hiệp hội thép Việt Nam
Tình trạng manh mún, rời rạc của việc phân bố và tổ chức sản xuất
Hầu hết các cơ sở sản xuất đều dựa trên những cơ sở vốn có từ trước mà không được nghiên cứu qui hoạch tổng thể theo yêu cầu của công nghệ ngành thép đó là các khâu phải được nối kết liên tục và thuận lợi về giao thông vận tải. Các sơ sở sản xuất của VSC cũng trải dài từ Bắc vào Nam trên cơ sở của các cơ sở cũ. Công ty gang thép Thái Nguyên được xây dựng gần mỏ sắt để có thể sử dụng nguồn tài nguyên trong nước. Nhưng năng lực sản xuất của công đoạn thượng nguồn là khá nhỏ nên công ty phải mua sắt phế liệu và phôi thép từ bên ngoài, vận chuyển nguyên liệu từ cảng Hải Phòng, sau đó vận chuyển thành phẩm xuống Hà Nội để tiêu thụ khiến giá thành sản xuất tăng cao. Còn hiện nay, các nhà máy cán thép liên doanh thì được phân bổ hợp lý trên cơ sở nguồn nguyên liệu và yếu tố đầu vào cho khâu cán và tiêu thụ thành phầm. Chẳng hạn ba liên doanh cán thép lớn nhất của Việt Nam đều đặt địa điểm sản xuất tại Bà Rịa-Vũng tàu và Hải Phòng đều gần nguồn nguyên liệu nhập khẩu và gần nguồn khí đốt nhưng nếu xét về lâu dài khi có nguồn nguyên liệu trong nước thì địa điểm này bộc lộ hạn chế.
Đối với khu vực công nghiệp thép địa phương và ngoài quốc doanh thì phân bổ hết sức tuỳ tiện. Việc phân bổ hết sức tuỳ tiện các cơ sở sản xuất ngành thép đã vi phạm nguyên tắc kỹ thuật tổng thể của sản xuất thép. Để nâng cao hiệu quả của ngành sản xuất thép, các cơ sở sản xuất thuộc các khâu khác nhau cần bố trí trên cùng một địa điểm, các khâu sản xuất phải kế tục liên tiếp để tạo ra sản phẩm cuối cùng. Sẽ là không hiệu quả và kém tính cạnh tranh nếu sản xuất thép tấm ở các cơ sở phía Bắc, làm nguội và cứng lại, vận chuyển hàng nghìn km tới các cơ sở cán nóng ở phía Nam.
Ngành thép được bảo hộ sản xuất khá nhiều
Xét về trước mắt, việc bảo hộ cho ngành thép là cần thiết để giúp cho ngành này đủ thời gian phát triển, nhằm cạnh tranh được với các sản phẩm ngoại nhập. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, từ trước năm 2003, các loại thép xây dựng thành phẩm phải chịu mức thuế suất rất cao như thép cuộn/thanh làm cốt bê tông, tôn mạ kẽm, thép góc dưới 140mm phải chịu thuế suất tới 40%, đã làm cho đầu tư trong nước bị thiên lệch. Nhìn chung, tất cả các sản phẩm cán đều có mức thuế quan vượt mức thuế quan trung bình và cần phải thực hiện lộ trình cắt giảm thuế quan theo CEPT trong những năm tới. Điều này sẽ đặt các doanh nghiệp sản xuất thép cán của Việt Nam trước một sức cạnh tranh gay gắt với các sản phẩm thép nhập khẩu của các doanh nghiệp từ các nước ASEAN sau năm 2006.
Trong khi đó, nguồn nguyên liệu cho cán thép là phôi thép lại được nhập khẩu tự do với thuế suất thấp 3-10%, vì vậy đã không khuyến khích được các doanh nghiệp chú trọng đầu tư vào khâu thượng nguồn kể cả các doanh nghiệp Nhà nước. Do vậy, đầu tư sản xuất thép ở Việt Nam mất cân đối nghiêm trọng giữa năng lực sản xuất phôi và cán thép. Khả năng sản xuất phôi trong nước rất yếu, chỉ đáp ứng khoảng 25% nhu cầu phôi vuông cỡ nhỏ. Trong khi đó, nhu cầu phôi thép cho các cơ sở cán thép của tất cả các khu vực đều tăng trong những năm gần đây đẫn đến sự mất cân đối nghiêm trọng trong bản thân ngành thép.
Sự mất cân đối trên đây trước hết là do đầu tư vào khâu sản xuất phôi đòi hỏi vốn lớn, thời gian đi vào sản xuất và hiệu suất thu hồi vốn thấp. Một lý do khác là giá trị gia tăng của khâu sản xuất phôi thấp, lợi nhuận thấp nên các doanh nghiệp sản xuất trong nước không đủ khả năng đầu tư còn các doanh nghiệp nước ngoài thì không muốn đầu tư. Thêm vào đó, mặt hàng phôi thép được khuyến khích nhập khẩu cho sản xuất thay thế nhập khẩu ở khâu cán nên không được bảo hộ vì vậy các nhà đầu tư, kể cả đầu tư trong nước không có lợi. Khác với khâu sản xuất phôi, sản phẩm cán trong những năm vừa qua nhu cầu tăng cao, chủ yếu là thép xây dựng nên khả năng tiêu thụ sản phẩm nhanh. Hơn nữa, đầu tư vào khâu cán không cần nguồn vốn lớn nên không chỉ các doanh nghiệp trung ương, các doanh nghiệp địa phương mà cả các công ty tư nhân đều có thể đầu tư. Thêm vào đó, các công ty nước ngoài cũng tìm thấy lợi thế trong khâu này nên đã đầu tư nhiều dưới hình thức liên doanh. Hàng rào bảo hộ thị trường nội địa cho các loại sắt, thép cán dùng trong xây dựng cũng rất cao (thuế suất 40%) đã làm cho các nhà đầu tư khai thác được “lợi ích” của chế độ bảo hộ. Tất cả những lý do trên đã làm sai lệch tình hình đầu tư sản xuất giữa hai khâu luyện và sản xuất phôi với khâu cán thép.
Vì vậy, bảo hộ là rất cần thiết nhưng chính điều này gây ra mặt trái của nó là làm tăng sức ì của các doanh nghiệp. Các nước ASEAN đã có nền công nghiệp phát triển bao gồm cả ngành thép, lại mở cửa thị trường sớm hơn Việt Nam. Do vậy, doanh nghiệp các nước ASEAN có nhiều điều kiện làm quen với môi trường cạnh tranh trong khu vực và toàn cầu. Vì vậy, họ rất nhiều thế mạnh không chỉ về khoa học công nghệ, mà còn ở trình độ quản lý và kinh doanh quốc tế
Các doanh nghiệp Việt Nam vừa được bảo hộ nhiều lại có doanh nghiệp làm ăn theo kiểu “ăn xổi ở thì” không có kế hoạch phương hướng cụ thể, trình độ quản lý còn yếu kém, thiếu am hiểu về thị trường nước ngoài và luật pháp quốc tế. Do đó, khi chuẩn bị phải cạnh tranh thực sự với các sản phẩm từ ASEAN nhiều doanh nghiệp sẽ chịu áp lực cạnh tranh rất nặng nề.
Nguồn lực về vốn, về con người còn nhiều hạn chế
Nguồn vốn đầu tư cho ngành thép đòi hỏi rất lớn. Trong thời gian qua, Việt Nam cũng đã thu hút được nguồn vốn trong và ngoài nước để đầu tư vào ngành này. Tuy vậy, kết quả đầu tư chưa được như mong đợi bởi các dự án đầu tư sản xuất thép tại Việt Nam chủ yếu là sản xuất thép cán, bởi thu hồi vốn nhanh và vốn đầu tư ban đầu nhỏ hơn đầu tư vào luyện thép. Các nhà đầu tư trong nước thì không đủ nguồn lực, còn các nhà đầu tư nước ngoài vẫn còn e ngại do các chính sách của Chính phủ chưa rõ ràng minh bạch, do vậy chưa muốn bỏ vốn vào ngành này. Hiện nay, Nhà nước đang muốn thu hút vốn vào thăm dò khai thác khoáng sản, luyện thép, tiến tới xây dựng nhà máy thép liên hợp thì càng cần phải chú trọng hơn về chính sách khuyến khích đầu tư, mà quan trọng nhất là phải tạo được lòng tin cho các nhà đầu tư.
Lao động của ngành thép Việt Nam đông về lượng và kém về chất. Đội ngũ chuyên gia lành nghề và công nhân có tay nghề cao ít. Đây là tình trạng chung của lao động Việt Nam. Theo chỉ số phát triển nguồn nhân lực (HDI) Việt Nam đứng thứ 116 trong khi đó Philippin đứng thứ 99, Indonesia 105; Thái Lan 54; Xingapo 53. Còn lực lượng lao động hiện tại của Tổng công ty Thép Việt Nam tham gia trực tiếp sản xuất có khoảng 17.000 người, trong đó trên Đại học 15 người, Đại học 2.200 người, trung học 2.800 người, công nhân kỹ thuật 12.000 người. Năng suất lao động (khoảng 400tấn/người) quá thấp so với thế giới (1.000~2.000tấn/người). Nguồn: Tình hình sản xuất kinh doanh của VSC
Lợi thế về giá lao động rẻ chỉ là lợi thế về chi phí sản xuất. Điều này chỉ có được đối với các sản phẩm có hàm lượng lao động và nguyên liệu cao. Các ngành khoa học kỹ thuật và yêu cầu công nghệ tiên tiến thì không cần lợi thế này.
Tóm lại, từ sự phân tích hiện trạng ngành công nghiệp thép Việt nam trên các mặt tình trạng kỹ thuật, phân bổ đầu tư và cơ cấu sản xuất sản phẩm cũng như biến động của thị trường thép Việt Nam và tác động của các công cụ bảo hộ, chúng ta có thể rút ra một số đánh giá sau:
Qui mô của ngành công nghiệp thép Việt nam còn nhỏ bé, trang thiết bị kỹ thuật của ngành rất lạc hậu, trừ một số liên doanh có thể đạt trình độ trung bình tiên tiến. Công nghệ sản xuất thiếu đồng bộ. Cơ cấu sản phẩm sản xuất bất hợp lý, chất lượng thấp.
Sự mất cân đối giữa khâu sản xuất phôi và khâu sản xuất thành phẩm rất nghiêm trọng, làm cho quá trình điều chỉnh cơ cấu phải rất dài và đầu tư vốn lớn.
Chi phí sản xuất cao do nhiều nguyên nhân làm cho giá sản phẩm cao, điều đó làm cho ngành thép Việt Nam mất khả năng cạnh tranh về giá.
Ngành thép Việt Nam cho đến nay phát triển không theo một qui hoạch tổng thể, manh mún, cần phải sắp xếp lại.
Nhìn chung, sức cạnh tranh của ngành thép Việt Nam thấp, hầu hết các doanh nghiệp đều đang hoạt động nhờ hàng rào bảo hộ. Các doanh nghiệp này sẽ gặp rất nhiều khó khăn khi chúng ta thực hiện CEPT/AFTA.
Các cơ hội và lợi ích đối với ngành thép khi tham gia AFTA
Tuy vậy, không có nghĩa là vấp phải những thách thức trên thì chúng ta sẽ không tham gia AFTA, mà ngược lại, chúng ta cũng có cơ hội và tham gia AFTA cũng đem lại cho Việt Nam nói chung và ngành thép nói riêng rất nhiều lợi ích.
Giúp ngành thép Việt Nam có chỗ đứng trong ngành công nghiệp thép trong khu vực
Sở dĩ có được điều này là khi mở cửa thị trường, các doanh nghiệp thép Việt Nam bắt buộc phải cạnh tranh với các nước ASEAN ngay trên thị trường nội địa. Do vậy, các doanh nghiệp phải ra sức đầu tư cho công nghệ, trang thiết bị, đào tạo nhân lực để theo kịp với tiến trình hội nhập kinh tế thể giới. Chính trong cuộc đua quyết liệt này, doanh nghiệp nào chủ động nắm chắc được thời cơ sẽ đứng vững. Còn các doanh nghiệp nào yếu kém sẽ bị loại bỏ. Do vậy đầu tư vào ngành này sẽ được cơ cấu lại hợp lý và hiệu quả hơn. Nhờ vậy, toàn ngành thép sẽ phát triển đi lên. Mặt khác, chúng ta cũng có thuận lợi lớn là sẽ thực hiện CEPT sau các nước ASEAN 5 là 3 năm, thời gian này đủ để cho ngành thép cải tổ lại cơ cấu, chủ động chuẩn bị bước vào giai đoạn hội nhập.Tuy trước mắt chưa thể cạnh tranh ngay được với các nước ASEAN vốn có ngành sản xuất thép lớn nhưng về lâu dài, ngành thép Việt Nam hoàn toàn có khả năng cạnh tranh với các nước đó.
Có điều kiện thuận lợi hơn để mở rộng thương mại
Tham gia vào AFTA, các nước ASEAN đều phải giảm thuế mà đến năm 2015 sẽ hoàn thành AFTA. Đến lúc đó ngành thép Việt Nam đã có bước chuẩn bị đầy đủ và có thuận lợi hơn khi muốn xuất khẩu sang các nước ASEAN khác như Lào và Campuchia.
Tăng cường khả năng thu hút vốn đầu tư, liên doanh và chuyển giao công nghệ tiên tiến và tiếp cận được phương pháp quản lý hiện đại
Khi tham gia vào AFTA, Việt Nam sẽ mở cửa thị trường hơn nữa do vậy sẽ kích thích đầu tư cả trong nước và đầu tư nước ngoài. Với việc cơ cấu lại ngành thép theo hướng hợp lý hơn theo đó sản xuất thép cán hạn chế bớt còn lại đầu tư cho sản xuất các sản phẩm dẹt. Đồng thời khi ASEAN trở thành một thị trường thống nhất, các rào cản về thuế quan không còn, các nhà đầu tư có thể nhanh chóng chuyển vốn sang Việt Nam để khai thác tài nguyên, luyện thép. Với chính sách mở cửa, các nhà đầu tư hoàn toàn có thể đầu tư vào Việt Nam sau đó xuất khẩu sang các nước khác. Nhờ dòng đầu tư nước ngoài, kéo theo đó, Việt Nam cũng sẽ được chuyển giao các công nghệ hiện đại hơn và học hỏi được các phương pháp quản lý hiện đại. Qua đó, quá trình sản xuất sẽ được hợp lý hoá từ khâu nguyên liệu đầu vào cho đến khi sản xuất thành phẩm và tiêu thụ trên thị trường.
Tuy vậy, các lợi ích trên chỉ có thể thấy được sau nhiều năm nữa, không thể vài năm tới là có được. Bởi vậy, để phát huy tốt các lợi thế đó đòi hỏi các doanh nghiệp và toàn ngành thép phải nỗ lực hơn nữa.
Đánh giá khả năng cạnh tranh của ngành thép Việt Nam với các nước khác trong khu vực
Những khó khăn hiện tại của ngành thép đã khiến cho sức cạnh tranh của thép Việt Nam ngay trên thị trường nội địa càng yếu kém hơn. Theo lý thuyết, lợi thế cạnh tranh của một quốc gia được hình thành bởi sự tương tác của các yếu tố:
Các điều kiện sản xuất sẵn có (lao động, tài nguyên, vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên)
Các điều kiện của thị trường nội địa
Các ngành công nghiệp bổ trợ có liên quan
Chiến lược, cơ cấu các doanh nghiệp và sự cạnh tranh trong nội bộ quốc gia.
Các quyết sách và điều hành của chính phủ
Các nhân tố ngẫu nhiên.
Trong 6 nhân tố này thì 4 nhân tố đầu là quan trọng nhất. Phân tích điều kiện và thực tế ngành thép Việt Nam khi tham gia khu vực mậu dịch tự do AFTA và xa hơn là WTO thì lợi thế cạnh tranh gần như không có. Điều đó thể hiện ở những vấn đề sau.
Thứ nhất, về khoáng sản cho phát triển ngành thép ở nước ta có trữ lượng thấp so với các nước ASEAN. Ví dụ Việt Nam là 0,01; trong khi đó Thái Lan là 0,47; Philippin là 0,3; còn Indonesia là 1,54 Cơ sở chung cho việc tái cấu trúc chính sách đối với ngành thép của Việt Nam trong quá trình hội nhập - ĐH KTQD - JICA
Thứ hai, như đã trình bày ở trên lao động của ngành thép Việt Nam đông về lượng và kém về chất. Việc làm chủ các thiết bị công nghệ tiên tiến để nâng cao năng suất giảm chi phí trong sản xuất thép đòi hỏi trình độ của các công nhân, kỹ sư lại càng phải cao hơn nữa.
Thứ ba, điều kiện sản xuất vốn có về công nghệ của các nước ASEAN cao hơn hẳn Việt Nam, do đó khả năng cạnh tranh sẽ vượt Việt Nam. Hơn nữa các nước ASEAN và các nước Nam á khác chiến lược hướng về xuất khẩu sớm hơn Việt Nam và họ đã đạt tới một cơ cấu xuất khẩu hợp lý theo hướng tăng xuất khẩu các mặt hàng chế biến đã qua chế biến. Việt Nam xuất khẩu chủ yếu dưới dạng thô từ tài nguyên đến nông sản phẩm. Các ngành sử dụng sản phẩm của ngành thép của các nước ASEAN như Thái Lan, Xingapo, Indonesia, Philipin đã phát triển ở trình độ cao, có sản phẩm xuất khẩu vào nhiều nước phát triển. ở Việt Nam các ngành cơ khí chế tạo cho ngành thép phát triển rất chậm và yếu kém. Những ngành cơ khí phát triển như công nghiệp ô tô xe máy, cơ khí chính xác, đóng tàu chủ yếu là liên doanh hoặc 100% vốn nước ngoài, thực chất là của nước ngoài. Sẽ còn rất lâu Việt Nam mới được chuyển giao công nghệ hoàn chỉnh của các ngành cơ khí mạnh từ phía nước ngoài. Do đó khả năng thị trường nội địa cho công nghiệp thép (với các sản phẩm thép chất lượng cao và đặc biệt) là khó khăn cho ngành thép. Nguy cơ rõ ràng là ngành thép Việt Nam có thể mất thị trường ngay ở đất nước mình. Với thị trường nước ngoài ngành thép Việt Nam mới chỉ có khả năng thăm dò xuất khẩu sang một số thị trường có yêu cầu thấp về chất lượng sản phẩm như Lào, Campuchia, Iraq
Thứ tư, về chi phí sản xuất và giá thành ngành thép Việt Nam đều cao hơn các nước khác. Chi phí sản xuất cao, thậm chí giá thành sản xuất thép trong nước cao hơn giá CIF nhập khẩu thép tại cảng Hải Phòng đã làm giảm vị thế ngành thép ngay ở thị trường nội địa.
Tóm lại, tham gia CEPT/AFTA và hội nhập khu vực, quốc tế ngành thép có lợi thế cạnh tranh thấp kém nhất. Nhưng không phải cơ hội cho các doanh nghiệp sản xuất thép Việt Nam đã hết mà các sản phẩm Việt Nam vẫn có thể cạnh tranh được nếu tìm ra được các chính sách về thương mại, công nghiệp, đầu tư và thuế thích hợp trong từng thời điểm cụ thể bởi vì còn một yếu tố nữa không kém phần quan trọng trong các yếu tố hình thành nên lợi thế cạnh tranh đó là các quyết sách và điều hành của Chính phủ.
Hiện nay, các nước ASEAN có cơ cấu sản xuất gần giống nhau, tức là công suất sản xuất thép cán cao hơn công suất luyện thép Xem bảng 1
. Bởi vậy, các nước ASEAN cũng phải phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu phôi nhập khẩu từ các nước khác như Nga, ấn độ trừ Malaysia đã xuất khẩu được phôi nhưng chưa ổn định. Do vậy, giá cả các loại sản phẩm dài cũng phụ thuộc vào giá cả phôi thép thế giới. Giá thành các sản phẩm của các nước ASEAN thấp hơn Việt Nam chủ yếu là do họ có lợi thế theo quy mô. Do vậy nếu ngành thép Việt Nam mạnh dạn sắp xếp lại các nhà máy sản xuất thép và sáp nhập các nhà máy có công suất nhỏ thành nhà máy có công suất lớn thì cũng sẽ giảm được giá thành, đặc biệt là tận dụng các nhà máy đã khấu hao hết. Làm được như vậy, giá thành thép Việt Nam có thể giảm và cạnh tranh được với các sản phẩm đến từ các nước ASEAN khi thuế nhập khẩu được cắt giảm theo CEPT.
Chương Iii
Những giải pháp cho ngành thép khi tham gia AFta
Mục tiêu phát triển ngành thép trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế
Mục tiêu
- Bảo đảm ổn định thị trường trong nước. Giữ được thị trường ở mức 70- 80% sau khi thực hiện AFTA/CEPT. Đối với những sản phẩm truyền thống (sản phẩm tròn, dài) sản xuất đủ đáp ứng nhu cầu trong nước và bước đầu có xuất khẩu.
- Đầu tư theo chiều sâu cho các nhà máy thép hiện có theo hướng cải tạo giữ ổn định về công suất, năng suất chất lượng sản phẩm và đưa công nghệ mới, hiện đại vào sản xuất. Đầu tư mới hạn chế và phải nghiên cứu kỹ.
- Củng cố ngành thép Việt Nam với hạt nhân là tổng công ty thép. Sắp xếp lại hệ thống sản xuất kinh doanh thép để nâng cao khả năng cạnh tranh. Cho ngừng hoạt động các nhà máy sản xuất chất lượng kém, gây ô nhiễm môi trường và thua lỗ kéo dài.
- Giảm dần sự bảo hộ của nhà nước đối với ngành thép. Thực hiện chính sách mở cửa để nước ngoài có thể đầu tư cả khâu thượng nguồn và hạ nguồn. Bảo đảm sau năm 2006 ngành thép không còn bảo hộ của Nhà nước nữa và hình thành hệ thống sản xuất kinh doanh theo cơ chế thị trường
Dự báo cung cầu các sản phẩm thép trong những năm tới
Số liệu thống kê về tình hình ngành thép Việt Nam chưa thực sự đầy đủ và thiếu chuẩn xác và các ngành địa phương sử dụng thép ở Việt Nam chưa có dự kiến chiến lược, do đó dự báo nhu cầu thị trường thép ở Việt Nam là khó có thể chính xác. Qua những tư liệu tài liệu dự báo nhu cầu thị trường của tổng công ty thép Việt Nam (có sự giúp đỡ của Jica Nhật Bản), dự báo của VAI + BHP lập năm 1993; Dự báo của NKK (Nhật Bản) lập năm 1994; Dự báo của NIPPON STEEL lập năm 1994 thì nhu cầu và thị trường của thị trường thép Việt Nam có thể như bảng dưới đây . Đây là dự báo có cơ sở và phù hợp với thực tế Việt Nam.
Bảng 24: Dự báo nhu cầu chủng loại thép đến năm 2010
Đơn vị tính: 1.000 tấn
Chủng loại thép
Năm
2003
2004
2005
2006
2007
2008
2009
2010
Thép dài
Thanh
1.406
1.617
1.855
2.052
2.239
2.416
2.560
2.671
Dây
811
878
945
1.045
1.140
1.231
1.304
1.361
Hình
487
585
700
774
845
912
966
1.008
Cộng
2.703
3.081
3.500
3.871
4.224
4.559
4.830
5.040
Thép dẹt
Tấm
286
347
420
483
549
617
709
801
HRC
571
725
910
1.068
1.213
1.388
1.559
1.725
CRC
883
921
945
1.088
1.281
1.439
1.559
1.663
Mạ
493
619
770
886
1.007
1.131
1.247
1.355
ống hàn
364
408
455
504
526
566
595
616
Cộng
2.597
3.020
3.500
4.029
4.576
5.141
5.670
6.160
Tổng
5.300
6.100
7.000
7.900
8.800
9.700
10.500
11.200
Nguồn: Tổng công ty thép Việt Nam
Dự báo khả năng cung cấp thép đến năm 2010
Căn cứ vào công suất các nhà máy hiện tại và kế hoạch phát triển trong tương lai để dự báo về khả năng cung cấp thép đến năm 2010 được liệt kê trong bảng 25
Bảng 25: Dự báo khả năng cung cấp chủng loại thép đến năm 2010
Đơn vị tính: 1.000 tấn
Chủng loại
Công suất
Năm
2003
2004
2005
2006
2007
2008
2009
2010
Thép dài
5.315
2.700
3.200
3.600
3.800
4.700
4.800
4.900
5.000
Tấm
350
-
-
210
280
310
350
350
350
Cuộn nóng
1.500
-
-
-
-
800
1.000
1.200
1.500
Cán nguội
400
-
40
280
320
360
400
400
400
Mạ
661
260
280
300
400
480
550
600
650
ống hàn
410
280
330
380
400
410
410
410
410
Nguồn: Tổng công ty thép Việt Nam
Qua các số liệu phân tích về khả năng cung và cầu các loại sản phẩm thép từ nay đến năm 2010, thì việc đầu tư các nhà máy cán thép xây dựng đã vượt quá nhu cầu từ nay đến năm 2010, còn lại các loại sản phẩm khác đều cung thấp hơn cầu.
Các giải pháp đã và đang áp dụng để hội nhập AFTA của ngành thép Việt Nam
Hiện nay, khi AFTA đang đến rất gần nhưng dường như các doanh nghiệp trong lĩnh vực sản xuất thép không có nhiều giải pháp để hội nhập mà cho rằng hội nhập là công việc của Chính phủ và của các bộ chủ quản. Do vậy, các doanh nghiệp trong ngành thép chưa đưa ra được một hành động cụ thể nào ngoài Tổng công ty thép Việt Nam.
Ngày 10/09/2001, Thủ tướng chính phủ đã phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển ngành thép đến năm 2010 theo đề nghị của Bộ công nghiệp và VSC. Nhưng cho đến nay chỉ mới hơn 2 năm, quy hoạch này thực sự đã không thực hiện được vai trò chỉ dẫn cho các địa phương, bộ ngành trong việc phát triển ngành thép trên cả nước. Trong quy hoạch cũng nhắc đến việc xây dựng nhà máy thép liên hợp 4,5 triệu tấn/năm vận hành vào năm 2010, có rất nhiều ý kiến trái ngược nhau về vấn đề này. Những ý kiến ủng hộ lập luận rằng Việt Nam cần phát triển ngành thép bởi đây là một ngành công nghiệp cơ bản của quá trình CNH-HĐH, bên cạnh đó Việt Nam giàu nguồn tài nguyên thiên nhiên cần thiết cho ngành thép như quặng sắt, than đá. Tuy nhiên, các ý kiến phản đối lại cho rằng có nhiều nước trên thế giới tiến hành công nghiệp hoá mà không cần có ngành thép với quy mô lớn, đối với nước đang phát triển như Việt Nam, khó có thể có lợi thế tương đối ở những ngành có tính tập trung vốn cao như ngành thép, do vậy nên tập trung vào những ngành có tính tập trung sức lao động. Ngoài ra, Việt Nam đã tham gia AFTA và chuẩn bị gia nhập WTO nên việc bảo hộ ngành thép sẽ gặp khó khăn và khó có thể thực hiện được.
Nhằm thực hiện Nghị quyết số 07-NQ/TW ngày 27/11/2001 của Bộ Chính trị về Hội nhập Kinh tế Quốc tế, Quyết định số 37/2002/QĐ-TTg ngày 13/3/2002 của TT Chính phủ; Chương trình hành động của Ngành Công nghiệp Việt Nam, Tổng công ty thép đã xây dựng chương trình hành động hội nhập kinh tế quốc tế với mục tiêu tổng thể là phát triển doanh nghiệp bền vững, có khả năng cạnh tranh quốc tế. Chương trình hành động gồm các nội dung chủ yếu như sau:
Thứ nhất, phối hợp với các bộ, ngành trong việc chuẩn bị những lĩnh vực có liên quan trong các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế. Nội dung này do phòng Kinh doanh XNK và phòng kỹ thuật chủ trì trong đó quan trọng nhất là phối hợp với Bộ công nghiệp, Bộ Tài chính rà soát danh mục các dòng thuế xuất nhập khẩu thép và lộ trình cắt giảm thuế quan CEPT/AFTA giai đoạn 2001-2006, xây dựng danh mục nhạy cảm, loại trừ tạm thời chuẩn bị cho việc thành lập FTA ASEAN – Trung Quốc và gia nhập WTO. Đồng thời, phối hợp với Cục địa chất khoáng sản và các cơ quan liên quan cung cấp thông tin về các loại khoáng sản trong ngành luyện kim để xây dựng trang web thông tin khoáng sản khu vực ASEAN.
Thứ hai, tuyên truyền phổ biến các nội dung của hội nhập theo đó Văn phòng Tổng công ty sẽ phổ biến các chủ trương, đường lối của Đảng, Chính phủ về hội nhập kinh tế quốc tế; Phổ biến các nội dung hội nhập kinh tế với ASEAN, hiệp định thương mại Việt Mỹ, các Hiệp định của WTO và các nội dung cam kết giữa Việt Nam với các chính phủ, các tổ chức khác, đặc biệt là các cam kết liên quan đến ngành công nghiệp và ngành công nghiệp thép Việt Nam.
Thứ ba, nghiên cứu đáng giá khả năng cạnh tranh của VSC trong môi trường hội nhập với mục tiêu đưa ra một cái nhìn tổng quan về ngành thép Việt Nam trong mối quan hệ với ngành thép các nước trong khu vực và thế giới, đánh giá điểm mạnh điểm yếu, cơ hội và thách thức đối với Tổng công ty từ đó đưa ra giải pháp cho Tổng công ty khi Việt Nam tham gia AFTA, ACFTA, WTO và thực hiện các cam kết với các tổ chức khác.
Thứ tư, chủ động tiếp cận và mở rộng thị trường chủ yếu là tiếp tục giữ vững thị trường trong nước trong giai đoạn từ nay đến năm 2005. Từ giai đoạn 2006-2015 Tổng công ty sẽ từng bước mở rộng thị trường xuất khẩu đặc biệt là các nước khác trong khu vực.
Thứ năm, nâng cao khả năng cạnh tranh của VSC, theo đó VSC cũng đã đưa ra một nhóm giải pháp bao gồm các giải pháp về đầu tư, khoa học công nghệ, phát triển nguồn nhân lực và tài chính. VSC cũng đã xây dựng lộ trình cho từng giải pháp và yêu cầu các phòng ban liên quan thực hiện.
Nhìn chung, chương trình hành động này lẽ ra phải được soạn thảo ngay từ khi Việt Nam chuẩn bị tham gia AFTA, nhưng do nhận thức về hội nhập kinh tế quốc tế cũng như cạnh tranh toàn cầu chưa đầy đủ nên hiện giờ Tổng công ty mới soạn thảo xong. Nội dung của chương trình này cũng đã bao quát được những vấn đề cấp thiết cần phải làm ngay đối với Tổng công ty thép nói riêng và toàn bộ ngành thép nói chung nhưng vẫn còn khá sơ sài và chưa cụ thể. Tuy nhiên, Tổng công ty thép đã rất nỗ lực cố gắng khi đề ra chương trình hành động này dù hơi muộn.
Giải pháp cho ngành thép Việt Nam khi tham gia AFTA
Một số kiến nghị đối với các chính sách của Nhà nước
Chính sách bảo hộ cho ngành thép
Chính sách bảo hộ cho ngành thép từ những năm trước không hợp lý đã dẫn đến tình trạng mất cân đối trong năng lực sản xuất thép. Từ năm 1996, chính phủ đã cấm nhập khẩu thép ống nguyên liệu và thép sợi nguyên liệu. Trong trường hợp đặc biệt nhập khẩu cho dự án thì phải chịu thuế nhập khẩu từ 30-40%. Trong khi thuế nhập khẩu phôi thép là 3-5%. Đến năm 2000, các công ty trong nước mới được tự do nhập khẩu thép. Trong thời gian dài, các loại thép bị cấm nhập khẩu đã dẫn đến giá cả tăng vọt, theo đó năng lực sản xuất thép cũng gia tăng nhanh chóng và dẫn đến dư thừa. Những nhà máy có năng suất thấp không có khả năng phát triển nhưng vẫn tồn tại được nhờ chính sách hạn chế nhập khẩu của chính phủ.
Thời hạn giảm thuế theo lịch trình AFTA đang đến gần và để gia nhập WTO, Việt Nam đang phân loại các nhóm ngành hàng để thực hiện giảm thuế. Căn cứ trên thực trạng sản xuất khả năng cạnh tranh hiện nay của ngành thép trong nước và thực tế thực hiện CEPT của các nước ASEAN, lịch trình giảm thuế của Việt Nam cho các sản phẩm sắt thép được dự kiến với các bước giảm chậm nhất, đặc biệt là đối với các sản phẩm nằm trong danh mục loại trừ tạm thời.
Các biện pháp bảo hộ cao với ngành thép đang thực hiện cần phải giảm nhanh chóng. Ngành thép Việt Nam không thể sống được bằng bảo hộ khi muốn tham gia vào các sân chơi trong khu vực và trên thế giới mà trước mắt là AFTA.
Do vậy, Nhà nước nên tăng cường các biện pháp quản lý theo tiêu chuẩn chất lượng; thực thi kiểm tra kiểm soát chặt chẽ thị trường để chống hàng kém chất lượng. Khuyến khích cạnh tranh trong nội bộ ngành thép để thủ tiêu tính trì trệ. Mặc dù đang được bảo hộ cao và tinh giảm thuế chậm, song các định hướng đầu tư và biện pháp chuyển dịch cơ cấu ngành thép cần được triển khai sớm nhất, tránh tình trạng bị động cho đến tận thời điểm giảm thuế. Vấn đề bảo hộ của nhà nước đối với ngành thép theo không nên kéo dài quá năm 2006.
Chính sách thương mại và công nghiệp
Đối với sản phẩm thép dài, từ năm 2001, Nhà nước đã hạn chế các công ty tham gia vào thị trường thép cán để điều chỉnh cung cầu và đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng nhằm loại bỏ những sản phẩm ngoài quy cách. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn chưa quyết định được rõ là sẽ theo đuổi chính sách ưu tiên tự do hoá hay bảo hộ đối với các sản phẩm thép. Điều này sẽ làm cho các nhà đầu tư lúng túng không biết nên đầu tư vào lĩnh vực nào. Do đó, Nhà nước cần sớm quyết định chính sách của mình để định hướng cho sản xuất.
Theo nghiên cứu của các chuyên gia của tổ chức JICA thì chính sách đối với ngành thép của Chính phủ có xảy ra theo 3 phương án như sau: Trong khuôn khổ khoá luận, tôi không thể trình bày hết các mô hình mà JICA đã lượng hoá được đối với từng phương án. Nếu cần thêm thông tin, xin đọc “Chính sách công nghiệp và thương mại của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập”, NXB Thống kê, năm 2003.
Phương án 1: Ưu tiên tự do hoá. Thời hạn của AFTA được tuân thủ, đánh thuế quan không phân biệt đối xử.
Phương án 2: Bổ sung một phần trong thời hạn AFTA. Sau năm 2006 vẫn tiếp tục duy trì có thời hạn mức thuế quan trên 5%. Phương án này áp dụng cho tất cả các mặt hàng nhập khẩu.
Phương án 3: Vừa bảo hộ tạm thời, vừa thực hiện tự do hoá trên cơ sở phân chia rõ các nước thành viên AFTA và các nước khác, theo đó thuế suất tự do hoá sẽ áp dụng đối với hàng hoá nhập khẩu từ các nước ASEAN, còn các trường hợp khác áp dụng thuế quan bảo hộ tạm thời.
Để thực thi một trong ba phương án trên, Nhà nước trước hết cần phải đánh giá đúng tầm quan trọng của ngành thép trong chiến lược CNH – HĐH. Phải điều chỉnh mức độ bảo hộ đối với ngành thép tuỳ thuộc vào tỷ lệ tương đối với lợi ích của các ngành công nghiệp xuất khẩu và ngành công nghiệp thay thế nhập khẩu khác. Tiếp đó, Việt Nam cũng cần phải cân nhắc xem có khả năng kéo dài thời hạn thực hiện CEPT hay không, và việc đó có mang lại lợi ích kinh tế hay không. Điều này rất khó khăn và có thể bị coi là rút lui vào bảo hộ cho ngành. Tuy nhiên, thực hiện CEPT đối với ngành thép các nước ASEAN không phải là chuyện dễ dàng. Gần đây, ở Thái Lan và Malaysia cũng đã tăng thuế đánh vào hàng nhập khẩu. Hơn nữa, Mỹ cũng tăng cường bảo hộ mậu dịch nên có thể dự đoán là các nước khác sẽ có khuynh hướng xuất khẩu sang châu á. Nếu có thể, Việt Nam cần thương lượng với các nước ASEAN về CEPT, theo đó khả năng thực hiện và hiệu quả của phương án 2 và 3 cũng có nhiều thay đổi.
Chính sách đầu tư
Sự đầu tư của Nhà nước cho ngành thép cả trước mắt và lâu dài là cần thiết, song sự đầu tư này tập trung vào hướng chuyển dịch cơ cấu ngành thép để tăng tính cạnh tranh; Nhà nước tập trung vốn (hàng tỷ đô la Mỹ) cho các dự án lớn, công nghệ rất hiện đại (thời điểm sau năm 2010). Hướng đầu tư mới bao gồm cả đầu tư trong nước và liên doanh phải được nghiên cứu kỹ lưỡng chỉ nên tập trung vào lĩnh vực sản xuất thép đặc chủng với quy mô nhỏ và vừa, không đầu tư vào cán thép, sản xuất thép xây dựng vì hiện nay cung đã lớn hơn cầu. Bên cạnh đó cần cân nhắc kỹ tính hiệu quả, khả năng nhập khẩu phôi thép với sự cần thiết phải đầu tư với nguồn vốn phúc lợi vào những dự án về mỏ thép trong điều kiện Việt Nam còn hạn chế về vốn đầu tư.
Nhà nước nên sớm đầu tư cho công tác nghiên cứu khoa học để phát triển ngành thép trong tương lai. Đây có thể coi là một chương trình của Nhà nước. Vấn đề nghiên cứu, đánh giá toàn diện về nguồn tài nguyên trong nước phục vụ cho ngành thép; tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ sản xuất thép trên thế giới; Nghiên cứu thực trạng ngành thép với quan điểm kinh tế quốc dân chứ không phải của tổng công ty thép trên cơ sở đó để quy hoạch và đầu tư cho ngành thép trong tương lai cần được triển khai sớm.
Trong những năm qua Nhà nước đã hỗ trợ rất lớn cho tổng công ty thép Việt Nam. Năm 1999 nguồn vốn kinh doanh của tổng công ty thép Việt Nam cuối kỳ là 1.410.393 triệu đồng thì trong đó có 1.040.068 triệu đồng do ngân sách nhà nước cấp. Thực chất tổng công ty thép giảm thiểu được khó khăn về tài chính là do có nhà nước bảo trợ. Điều này cần phải được cân nhắc lại. Nhà nước chỉ hỗ trợ những doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có hiệu quả của tổng công ty thép và giúp đỡ để giải quyết khía cạnh xã hội của doanh nghiệp bị phá sản. Nhà nước không thể "nuôi" tổng công ty thép được. Chính sách hỗ trợ tài chính của nhà nước trong thời gian tới còn cho cả các doanh nghiệp, khu vực tư nhân nếu kinh doanh có hiệu quả theo định hướng của nhà nước. Có chính sách ưu đãi về thuế cho các doanh nghiệp sản xuất thép xuất khẩu, sản xuất hàng thay thế nhập.
Đối với các doanh nghiệp ngành thép
Giải pháp về cơ cấu tổ chức
Trong công tác tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh, ngành thép cần tập trung chú ý vào những hoạt động chủ yếu sau:
Tổ chức và sắp xếp lại hoạt động của các đơn vị trong ngành. Những đơn vị sản xuất hiện đang hoạt động không hiệu quả và ít có triển vọng cần phải mạnh dạn chuyển đổi sản xuất nhằm tập trung vốn đầu tư phát triển cho các cơ sở khác.
Tiến hành cổ phần hoá các doanh nghiệp, không nên hạn chế tỷ lệ quốc doanh hay tư nhân, không hạn chế vốn trong hay ngoài nước mà cần đảm bảo mục tiêu hiệu quả, hợp lý đáp ứng yêu cầu CHN-HĐH đất nước
Khuyến khích pháp triển các hình thức liên kết kinh tế, trên cơ sở đó có thể hình thành các tập toàn kinh tế lớn, hoạt động có hiệu quả và có sức cạnh tranh cao.
Cải cách công tác quản lý toàn ngành. Hiện nay, VSC được Nhà nước giao nhiệm vụ quản lý ngành thì cần phải công tác quản lý xuyên suốt nhằm củng cố quan hệ giữa các đơn vị trong ngành thành một khối thống nhất, chặt chẽ hỗ trợ nhau cùng pháp triển. Nhưng không can thiệp quá sâu vào các đơn vị thành viên mà cần để các công ty, các nhà máy tự chủ trong kinh doanh.
Giải pháp về vốn
Để có thể đầu tư đổi mới công nghệ, mở rộng quy mô sản xuất, thực hiện công tác xúc tiến thị trường, đào tạo nhân lực ..., doanh nghiệp cần phải có vốn. Trong khi đó, hầu hết các doanh nghiệp ở Việt Nam nói chung, đặc biệt là ngành thép vì quy mô vốn lớn, hiện nay đều vấp phải khó khăn rất lớn trong việc huy động và sử dụng vốn. Vì vậy các giải pháp về vốn là những giải pháp quan trọng hàng đầu mà doanh nghiệp cần phải quan tâm để nâng cao năng lực cạnh tranh của mình trong quá trình hội nhập.
Về biện pháp huy động vốn, cần đa dạng hóa các nguồn thu hút vốn đầu tư, từ cả nguồn trong nước cũng như ngoài nước, dưới hình thức trực tiếp và gián tiếp, ví dụ như : Vốn tự có của doanh nghiệp, vốn từ thực hiện cổ phần hóa kết hợp với đóng góp của người lao động, vốn đầu tư ưu đãi của nhà nước, vốn vay trả chậm từ khác hàng (bằng tiền hoặc sản phẩm), vốn vay thương mại từ các ngân hàng hoặc tổ chức tài chính theo dự án hoặc dưới dạng khung tín dụng ký sẵn, vốn ngân sách, vốn ODA hoặc vay lãi suất mềm từ chính phủ các nước dành cho Việt Nam, vốn đầu tư nước ngoài dưới hình thức liên doanh hoặc 100% vốn nước ngoài
Đối với nguồn vốn trong nước, nhìn chung, vốn tự có của doanh nghiệp và vốn cấp từ ngân sách Nhà nước là rất hạn chế. Vì vậy, các doanh nghiệp cần chủ động tìm kiếm các nguồn vốn khác thông qua việc thực hiện cổ phần hóa, kêu gọi góp vốn của người lao động, liên doanh liên kết với các đơn vị sản xuất kinh doanh khác. Muốn thực hiện thành công những biện pháp này, doanh nghiệp cần đề ra được những ưu tiên, ưu đãi thỏa đáng và hấp dẫn đối với các chủ sở hữu vốn, có phương án bảo toàn và sử dụng vốn hợp lý, thu hút được các chủ đầu tư.
Trong ngành thép đòi hỏi sự tập trung vốn cao, chúng ta nên kêu gọi vốn đầu tư nước ngoài. Và thực tế đã chứng minh tại các liên doanh của VSC với đối tác nước ngoài và liên doanh với các đơn vị trực thuộc VSC đều hoạt động hiệu quả, thiết bị được đầu tư đồng bộ hơn, phương pháp quản lý hiệu quả. Do vậy, vốn nước ngoài là một nguồn quan trong giúp pháp triển ngành thép trong nước, không chỉ thu hút vốn mà còn tiếp thu được công nghệ tiên tiến của họ. Tuy nhiên, các doanh nghiệp phải tiến hành kiểm tra kỹ tài chính và và độ tin cậy của đối tác, tránh trường hợp bị phía nước ngoài lợi dụng để lừa gạt về tài chính hoặc đưa các công nghệ đã lạc hậu vào tận dụng khai thác tại Việt Nam.
Khi đã có vốn trong tay thì phải có biện pháp sử dụng vốn hợp lý và có hiệu quả. Điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải có kế hoạch đầu tư vốn có trọng điểm, có chiều sâu, tuân thủ chặt chẽ các nguyên tắc tài chính, gắn việc đầu tư vốn với công tác đào tạo nguồn nhân lực, tránh tình trạng như một số doanh nghiệp các ngành khác trong thời gian vừa qua, chỉ lo vay vốn đầu tư các thiết bị hiện đại đắt tiền nhưng không đủ trình độ hoặc thiếu trách nhiệm nên quản lý không tốt, dẫn đến sản xuất thua lỗ, không đủ khả năng thu hồi vốn để thanh toán công nợ.
Giải pháp về khoa học công nghệ
Trình độ công nghệ lạc hậu, trang thiết bị không đồng bộ là một trong những khó khăn lớn nhất của các doanh nghiệp thép Việt Nam, vì thế yêu cầu đổi mới công nghệ cần đựơc đặt lên hàng đầu.
Trước mắt, các doanh nghiệp cần tạo mối liên kết chặt chẽ với các viện nghiên cứu, các trường đại học để tìm ra các giải pháp kinh tế có hiệu quả, thành lập và hỗ trợ hoạt động của các trung tâm công nghệ. Khi đầu tư nên thu hút công nghệ hiện đại của các nước phát triển ngay từ đầu, tránh tình trạng manh mún và tản mạn, nhập về các công nghệ đã quá lạc hậu để rồi sau một thời gian lại phải nâng cấp hay thay thế công nghệ mới.
Còn khi đổi mới, nâng cao công nghệ cần tiến hành đồng bộ ở tất cả các khâu cung cấp nguyên liệu, vận chuyển, sản xuất. Đồng thời, đổi mới công nghệ cần phải chú trọng hạ tầng cơ sở và các thiết bị phụ trợ, đào tạo con người để nghiên cứu và tiếp nhận công nghệ chuyển giao, đổi mới và tinh giảm cơ cấu hiện hành, có như vậy thì giải pháp đổi mới công nghệ mới phát huy được toàn bộ hiệu quả của nó.
Giải pháp về công tác quản lý, đào tạo và pháp triển nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực là yếu tố quyết định đến kết quả thực hiện chiến lược phát triển sản xuất thép của Việt Nam đặc biệt trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, trình độ người lao động càng ảnh hưởng lớn đến lợi thế cạnh tranh của cả một quốc gia. Do đó, bên cạnh việc chú ý tới công tác tổ chức hoạt động sản xuất, ngành thép cần phải tập trung hơn nữa cho công tác quản lý và đào tạo nguồn nhân lực
Trước hết, các doanh nghiệp cần có kế hoạch bồi dưỡng, quy hoạch đội ngũ công nhân, kỹ sư lành nghề, sử dụng thành thạo các trang thiết bị sản xuất, xây dựng chế độ đãi ngộ thoả đáng cho lực lượng lao động, khuyến khích họ gắn bó với sản xuất, với hoạt động của nhà máy. Ngành thép cần mạnh dạn từng bước thực hiện cổ phần hoá để tăng quyền làm chủ và trách nhiệm của người lao động, đặc biệt cần lưu ý đến chế độ đãi ngộ với lực lượng chuyên gia khoa học trong ngành, có chính sách khuyến khích họ phát huy hết khả năng của mình nhằm giải quyết những vấn đề cấp bách đặt ra cho ngành.
Bên cạnh đó cần có cơ chế cho cán bộ khoa học và công nghệ tăng thu nhập thông qua việc được trực tiếp ký hợp đồng tham gia nghiên cứu – triển khai theo các chương trình nghiên cứu của Nhà nước. Ngoài ra cũng cần tăng cường hợp tác quốc tế để tranh thủ sự giúp đỡ của các tổ chức quốc tế, các công ty nước ngoài, thu hút các chuyên gia giỏi nước ngoài giúp đỡ ta trong lĩnh vực phát triển khoa học công nghệ của ngành. Cần thiết triển khai việc gửi các cán bộ trẻ có năng lực đi đào tạo thêm tại những nước có nền công nghiệp luyện kim phát triển, khai thác mọi cơ hội để hợp tác nghiên cứu với các cơ quan nghiên cứu triển khai của nước ngoài nhằm tận dụng kinh phí và nâng cao được trình độ chuyên môn của các cán bộ nghiên cứu trong ngành.
Giải pháp về công tác phát triển thị trường
Những năm qua, công tác thị trường của các công ty thép đã được quan tâm, hiện nay thị trường của các công ty gồm (thị trường trong nước chia làm 3 khu vực miền Trung, Nam và Bắc; thị trường nước ngoài là Lào, Campuchia, Đài Loan, Hồng Kông). Tuy nhiên trong điều kiện hội nhập quốc tế, các công ty thép sẽ phải gặp nhiều cạnh tranh gay gắt từ phía các sản phẩm nhập khẩu, do vậy công tác thị trường của các công ty cần được đặc biệt chú trọng. Công tác phát triển thị trường của các công ty có thể đi theo những hướng sau:
Củng cố thị trường truyền thống
Thị trường truyền thống của các công ty thép Việt Nam là miền Bắc, Trung, Nam. Các công ty tiếp tục duy trì và chiếm lĩnh và vươn tới nắm thị trường, khai thác thị trường theo chiều sâu, nắm chắc dung lượng và cơ cấu thị trường, xu hướng biến động về nhu cầu vật liệu xây dựng, quan tâm chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Nhà nước và khu vực.
Tiếp tục duy trì và mở rộng thị trường thông qua việc phối hợp ngành vật liệu xây dựng các tỉnh về cung ứng hàng hoá, gửi hàng tại đơn vị nhằm tăng khối lượng tiêu thụ sản phẩm đồng thời giới thiệu nhãn hàng hoá của công ty, tạo uy tín, giữ quan hệ hợp tác lâu dài.
Mở rộng sang các thị trường mới có triển vọng
Hiện nay do trình độ xã hội, trình độ khoa học kỹ thuật và đời sống kinh tế xã hội ngày càng phát triển và được nâng cao. Vì vậy nhu cầu về sắt thép đối với xã hội ngày càng lớn, ước tính đến năm 2010 nhu cầu sử dụng sắt thép của cả nước cần đến 11,2 triệu tấn/năm). Chính vì thế yêu cầu đối với công ty sản xuất kinh doanh thép phải đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh sao cho đáp ứng được yêu cầu của thị trường.
Để chiến lĩnh được thị trường ở khắp đất nước và xuất khẩu cần có một hệ thống đồng bộ các biện pháp: như định hướng sản phẩm, chất lượng, số lượng sản xuất; đẩy mạnh hoạt động tiếp thị; tổ chức kênh bán hàng phù hợp, mở rộng mạng lưới các vùng tập trung dân cư để tạo điều kiện thuận lợi và đáp ứng kịp thời nhu cầu của người tiêu dùng; tổ chức tốt công tác bảo hành sản phẩm làm cho khách hàng cảm thấy an tâm khi mua sản phẩm của công ty. Đây là những biện pháp rất có ý nghĩa trong khi thâm nhập các thị trường của Tổng công ty.
Đẩy mạnh công tác nghiên cứu thị trường.
Nghiên cứu thị trường là công việc bắt buộc đối với các chủ thể kinh tế, là điều kiện tiên quyết trong việc chiếm lĩnh thị trường của doanh nghiệp. Muốn thành công trong hoạt động sản xuất và kinh doanh của mình thì điều trước hết doanh nghiệp phải hiểu đầy đủ và chính xác những yếu tố liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến nhu cầu, thị hiếu và sức mua của thị trường mới có thể giúp doanh nghiệp tìm được thị trường trọng điểm và xác định được những tiềm năng của thị trường, của doanh nghiệp chưa được khai thác triệt để.
Trong những năm gần đây, với chủ trương đổi mới của Nhà nước và phát triển kinh tế, nhiều công ty kinh doanh kim khí Tổng công ty thép và các hộ tư nhân đã mở ra kinh doanh các mặt hàng kim khí, nhu cầu về xây dựng kiến thiết ngày càng tăng lên điều đó đòi hỏi các công ty phải nắm được nhu cầu thông qua công tác nghiên cứu thị trường.
Các công ty phải có bộ phận chuyên sâu về thị trường, cần phải xây dựng đội ngũ cán bộ nghiên cứu thị trường có trình độ chuyên môn, có nghiệp vụ, có kiến thức về marketing, trên cơ sở đó lập ra kế hoạch sản xuất và kinh doanh cho hợp lý, để hiệu quả kinh doanh ngày càng nâng cao hơn. Bộ phận này sẽ giúp ban lãnh đạo đề ra và thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh một cách có hiệu quả hơn. Nguồn thông tin báo cáo phải đảm bảo các yêu cầu: nhanh, nhạy, kịp thời, chính xác vì trong tình hình sản xuất kinh doanh hiện nay việc nắm bắt và xử lý kịp thời các thông tin thì mới dự đoán được nhu cầu và diễn biến thị trường, để có quyết định chuẩn xác về sản xuất cái gì, sản xuất bao nhiêu và kinh doanh loại sản phẩm nào, xuất khẩu ra sao?
Việc nghiên cứu thị trường bao gồm: quan sát, phân tích, dự báo, những biến động của thị trường, những thay đổi làm ảnh hưởng đến thị trường của công ty.
Qua nghiên cứu thị trường công ty có biện pháp nâng cao chất lượng sản phẩm đưa ra giá cả phù hợp, thông tin cụ thể về dung lượng thị trường, về từng loại mặt hàng cụ thể, đối tượng phục vụ, không gian và thời gian đáp ứng.
Hoàn thiện mạng lưới bán hàng và hình thức bán hàng
Hoàn thiện mạng lưới bán hàng.
Hệ thống phân phối thép hiện tại chưa đáp ứng được yêu cầu sản xuất và tiêu thụ, chưa làm tốt nhiệm vụ chuyển sản phẩm đến nơi có nhu cầu để điều tiết thị trường. Do vậy, việc hoàn thiện mạng lưới bán hàng là rất quan trọng,các công ty cần có một số biện pháp như:
Củng cố hệ thống mạng lưới bán hàng hiện có: công ty cần nâng cấp các cửa hàng, các điểm bán hàng nhằm thu hút sự chú ý của khách hàng, tăng số lượng khách hàng, tăng cơ hội bán hàng. Công ty cần xây dựng phương án đầu tư vốn cho các cửa hàng trọng điểm.
Cần xem xét đánh giá lại hiệu quả hoạt động của các cửa hàng, trạm, tạo điều kiện tập trung vốn, nguồn hàng cho các cửa hàng hoạt động tốt, có chính sách hỗ trợ cho các cửa hàng thua lỗ trong trường hợp cần thiết có thể giải tán cửa hàng thua lỗ thường xuyên.
Xây dựng các điểm bán hàng mới: Các công ty cần mở thêm các điểm bán hàng ở nhiều khu vực trong cả nước và nước ngoài, Công ty cần xây dựng các điểm bán hàng tại các tỉnh dưới hình thức bảo trợ kinh doanh cho các công ty khác của tỉnh đó phối hợp với các công ty thép giới thiệu trưng bày hàng hoá của mình.
Tăng cường quyền hạn cho các cửa hàng: Thời gian qua các cửa hàng đã khẳng định được vị trí của mình trên thị trường, đã giúp công ty hoàn thành tốt nhiệm vụ sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, để phát huy hết năng lực của các cửa hàng, các công ty thép Việt Nam cần mở rộng quyền hạn với loại hình kinh doanh phù hợp trên thị trường.
Hoàn thiện các hình thức bán hàng.
Trong những năm qua, các hình thức bán hàng mà các công ty áp dụng rất phong phú song cơ cấu còn có chỗ chưa hợp lý. Trong thời gian tới, các công ty cần thay đổi cơ cấu cho phù hợp với hoạt động kinh doanh. Tiếp tục đẩy mạnh hình thức bán buôn để đẩy nhanh tổng doanh số bán ra và tạo mối quan hệ chặt chẽ với khách hàng của mình. Trong bán buôn cần tăng cường hình thức bán giao thẳng không qua kho vì hình thức này đảm bảo tiết kiệm nhiều chi phí, thu được lợi nhuận cao và đẩy mạnh vòng quay của vốn kinh doanh. Muốn tăng cường hình thức này không phải dễ vì các nhu cầu bất thường khá lớn và hộ có thể thoả mãn bằng nhiều cách khác nhau.
Thực hiện đa dạng hoá các hình thức bán hàng để phục vụ tốt nhu cầu của mọi khách hàng áp dụng và phát triển các hình thức bán hàng để thích nghi và phát triển với điều kiện kinh doanh mới. Sử dụng công cụ marketing nhằm thúc đẩy hoạt động bán hàng.
Công ty cần duy trì và phát triển quan hệ bán hàng với các đơn vị mua thường xuyên với khối lượng lớn. Công ty ký kết các hợp đồng tiêu thụ với bộ phận khách hàng này để đảm bảo hàng hoá tiêu thụ được ổn định đồng thời tạo dựng và nâng cao uy tín đối với khách hàng. Các hợp đồng kinh tế là cách thức nhằm đạt được mục tiêu an toàn trong kinh doanh do đó cần đẩy mạnh việc giao dịch và ký kết hợp đồng tiêu thụ sản phẩm.
Đối với thị trường mới các công ty phải có những chiến lược thâm nhập thích hợp, bởi đây chính là những nơi có thể mở rộng các quan hệ của công ty với bạn hàng mới. Do vậy công ty cần phải nỗ lực trong việc tìm tòi và phân tích những thông tin về các biến cố trên thị trường nhằm tìm ra các cơ hội kinh doanh phù hợp với tiềm năng của công ty để từ đó tiến hành đầu tư kinh doanh các mặt hàng mà thị trường đòi hỏi, tăng số lượng các đối tác ký kết hợp đồng mua hàng của Tổng công ty thúc đẩy kinh doanh ổn định và phát triển.
áp dụng chính sách giá linh hoạt
Trong giai đoạn hiện nay, khi tình trạng dư thừa cung thép, việc áp dụng giá linh hoạt là điều kiện sống còn để các công ty thép thu hút được khách hàng, qua đó tăng được doanh số bán.
Dựa trên giá thành và căn cứ vào tình hình cung cầu, giá cả thị trường, khả năng của đối thủ cạnh tranh, các công ty phải thường xuyên điều chỉnh giá bán để khuyến khích khách hàng mua sản phẩm của mình. Đảm bảo cho công ty thu được nhiều lợi nhuận. Giá cả là một nhân tố của sự cạnh tranh. Nó có vai trò cực kỳ quan trọng đối với các công ty thép trong việc kinh doanh. Vì vậy việc xác định giá cả hết sức quan trọng. Các công ty phải có chính sách cụ thể đối với từng mặt hàng, nắm bắt nhanh chóng thay đổi giá cả thị trường để thay đổi cho phù hợp. Ngoài ra, các công ty phải có chính sách giá cả với từng khu vực nhằm đảm bảo sức cạnh tranh của công ty và thu được lợi nhuận cao nhất.
Về các hình thức thanh toán cần tạo điều kiện giúp đỡ khách hàng, tạo khả năng thanh toán như cho thanh toán chậm trả. Khi bán chấp nhận mọi hình thức thanh toán như thanh toán bằng tiền mặt, bằng séc
Tổ chức tốt các hoạt động dịch vụ trong kinh doanh
Tổ chức tốt các hoạt động dịch vụ trong kinh doanh đối với các công ty để thu hút khách hàng.
- Dịch vụ vận chuyển: Đặc điểm của sản phẩm ngành thép là dài và cồng kềnh, vì vậy quá trình vận chuyển rất khó khăn và vất vả. Để phục vụ tốt đối với khách hàng mua sản phẩm của ngành thì các công ty thép nên tổ chức các dịch vụ phục vụ vận chuyển hàng hoá đến tận tay người tiêu dùng. Nếu khách hàng gần địa điểm kinh doanh có thể miễn phí vận chuyển, còn nếu khách hàng xa địa điểm kinh doanh có thể tính cước vận chuyển tuy nhiên phải phù hợp và giữ vững uy tín trên thị trường. Đối với khách hàng nước ngoài thì phải có sự thoả thuận hợp lý về hình thức vận chuyển cũng như các quy định về quá trình giao hàng.
- Tổ chức các hình thức quảng cáo: Quảng cáo là một công cụ để xúc tiến bán hàng, quảng cáo ảnh hưởng rất lớn đối với người tiêu dùng. Quảng cáo giúp người tiêu dùng nâng cao nhận thức về sản phẩm, cải thiện hình ảnh vốn có của sản phẩm. Sản phẩm ngành thép ngày càng có nhu cầu lớn, vì vậy vấn đề quảng cáo là rất quan trọng. Để cạnh tranh với sản phẩm của nước ngoài thì không những các công ty phải tổ chức tốt các dịch vụ quảng cáo trong nước về sản phẩm của mình mà còn phải tổ chức quảng cáo ở thị trường quốc tế. Các công ty có thể tổ chức quảng cáo quốc tế qua hai xu hướng đó là: tiêu chuẩn hoá và khu vực hoá. Quảng cáo nên đề ra các giải pháp để chống lại các đối thủ cạnh tranh thâm nhập thị trường bằng các sản phẩm tương tự.
- Hội chợ, khuyến mại: Các công ty thép nên cho các sản phẩm của mình tham gia vào các hội chợ và tổ chức khuyến mại đối với sản phẩm của mình để kích thích nhu cầu của khách hàng mua sản phẩm của mình nhiều hơn.
- Xúc tiến bán hàng: Công ty có thể xúc tiến bán hàng qua ba hình thức sau: xúc tiến bán hàng để giới thiệu sản phẩm mới của công ty, xúc tiến bán hàng để tăng sự tiêu dùng sản phẩm và xúc tiến bán hàng để thu hút trực tiếp khách hàng ở các cơ sở bán lẻ.
Đẩy mạnh công tác hội nhập quốc tế
Hội nhập quốc tế là vấn đề cần thiết đối với các công ty thép Việt Nam bởi ngày nay xu hướng khu vực hoá và toàn cầu hoá nền kinh tế đang gia tăng mạnh mẽ. Quá trình quốc tế có tác động tích cực đối với sự phát triển của công ty. Việc hội nhập quốc tế sẽ tạo điều kiện hình thành các mối quan hệ kinh tế mở rộng hơn giữa ngành thép Việt Nam với ngành thép thế giới. Đó chính là cơ hội để ngành thép Việt Nam bắt kịp với ngành thép của thế giới, tìm ra những khách hàng mới và mở ra thế đứng vững vàng cho mình trên thị trường quốc tế.
Cùng với cơ hội đang mở ra, quá trình hội nhập quốc tế của các công ty thép Việt Nam còn gặp không ít khó khăn, trở ngại do xuất phát điểm của ngành thép còn quá thấp so với các nước phát triển trong khu vực; nền kinh tế nước ta còn chậm phát triển và gặp nhiều khó khăn, đang đứng trước nhiều nguy cơ thử thách mới trong quá trình hội nhập quốc tế; nhiều nguồn lực còn chưa đủ điều kiện để khai thác, khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế còn thấp. Vì vậy muốn hội nhập quốc tế tổng công ty phải tổ chức công tác hội nhập. Cụ thể là:
Ngành thép phải tăng cường khả năng cạnh tranh để đối phó với thép nhập khẩu khi thuế nhập khẩu giảm xuống 5% và hàng rào phi thuế quan bị bãi bỏ.
Các nhà máy mới phải đạt trình độ quốc tế về năng suất chất lượng và các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật để độc chiếm thị trường trong nước và có khả năng xuất khẩu có lãi.
Kiên quyết dẹp bỏ hoặc chuyển hướng sản xuất các cơ sở kém hiệu quả không đủ sức cạnh tranh hoặc có nguy cơ lạc hậu.
Mở rộng hợp tác sản xuất thép với các nước ASEAN.