Chúng ta nên phân loại các dịch vụ nhạy cảm và không nhạy cảm để áp dụng chế độ cấp phép khác nhau. Quy định các tiêu chuẩn số lượng rừ ràng và chi tiết để đánh giá về khả năng tài chính và kỹ thuật. Đối với dịch vụ giá trị gia tăng, nên sử dụng chế độ đăng ký thay cho chế độ cấp phép hiện nay.
Vấn đề đang được các nhà phân tích đặt ra là liệu Việt Nam có cấp quá nhiều giấy phép viễn thông hay không. Dựa vào kinh nghiệm trên thế giới các nhà phân tích cho rằng chỉ nên có hai hoặc ba giấy phép cung cấp dịch vụ đường dài là đủ cho truyền dẫn quốc gia kể cả cổng quốc tế, hai giấy phép cung cấp dịch vụ nội hạt cố định và ba giấy phép về dịch vụ di động.
Thị trường dịch vụ di động đang được nhắc nhiều đến với vấn đề tâm điểm đó cú 6 mạng di động được cấp phép tính đến thời điểm này đó là Mobile phone, Vinaphone, S-Fone, Vietel, Hanoi Telecom, VP Telecom. Theo nhận định của giới chuyên môn, với hơn 80 triệu dân thỡ số lượng mạng di động như vậy là hơi nhiều và thị trường thông tin di động của Việt Nam có khả năng sẽ đi theo xu hướng chung mà các nước trong khu vực đó từng trải qua như Hàn Quốc, Trung Quốc. Khi mở cửa thị trường thỡ Hàn Quốc cú rất nhiều mạng di động, nhưng sau thời gian cạnh tranh, sáp nhập và ổn định ở con số 3 mạng di động. Các nhà phân tích cho rằng, thị trường di động nên dừng lại ở con số 3, việc này vừa đủ cho việc cạnh tranh và các nhà khai thác có được quy mô khách hàng phù hợp.
137 trang |
Chia sẻ: haianh_nguyen | Lượt xem: 1490 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Ngành viễn thông Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thiệp quản lý nhà nước sau khi xây dựng thị trường cạnh tranh
Quản lý nhà nước cần được giữ ở mức tối thiểu, đặc biệt là trong những thị trường cạnh tranh. Trên thế giới, các số liệu và nhiều bằng chứng đã chỉ ra rằng các thị trường cạnh tranh tự do thường có khả năng đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng tốt hơn những thị trường bị nhà nước kiểm soát. Những ưu điểm của cổ phần hoá và mở cửa thị trường sẽ mất đi hoặc bị hạn chế nghiêm trọng nếu nhà nước vẫn duy trì các biện pháp quản lý nhà nước nặng nề. Phạm vi quản lý nhà nước cần phải phù hợp với tình trạng phát triển thị trường và đặc biệt là mức độ cạnh tranh. Khi cạnh tranh tăng lên, quản lý nhà nước sẽ giảm đi.
Tuy nhiên, các quốc gia cũng cần phải có sự can thiệp cương quyết của quản lý nhà nước trong những giai đoạn đầu mở cửa thị trường để đảm bảo cạnh tranh hiệu quả có cơ hội phát triển. Việc chính phủ sớm xoá bỏ các rào cản đối với cạnh tranh sẽ kích thích cạnh tranh và cho phép nới lỏng quản lý nhanh hơn. Trong khi các thị trường đang được mở cửa cho cạnh tranh, quản lý nhà nước cần tập trung vào những nhà khai thác chủ đạo, họ cần phải mở mạng để cho phép các nhà khai thác mới kết nối vào và tồn tại được.
Trên đây là những kinh nghiệm đúc kết trên thế giới và vấn đề là liệu có áp dụng được vào thị trường viễn thông Việt Nam. Hiện tại, ngành viễn thông Việt nam đang trong giai đoạn đầu mở cửa thị trường hội nhập kinh tế quốc tế. Trước đây, trong một thời gian rất dài thị trường viễn thông của ta tồn tại theo cơ chế độc quyền, đến nay chúng ta đã rất lỗ lực để phát triển thị trường cạnh tranh với việc ra đời của một loạt doanh nghiệp mới và trên thị trường vẫn tồn tại độc quyền nhà nước với vị trí của VNPT. Do đó, để các doanh nghiệp mới phát triển tạo ra thị trường ngày càng cạnh tranh hơn chúng ta cần phải có sự can thiệp mạnh của Bộ Bưu chính Viễn thông để đảm bảo cạnh tranh hiệu quả có cơ hội phát triển. Bộ cần phải can thiệp quản lý cương quyết trong việc triển khai các thoả thuận kết nối, chia sẻ các trang thiết bị thiết yếu của ngành. Theo một lô gic chung, các doanh nghiệp thống lĩnh thị trường sẽ không muốn chia sẻ miếng bánh thị trường cho các doanh nghiệp mới. Do đó, nếu Bộ không có can thiệp cương quyết yêu cầu VNPT triển khai thoả thuận kết nối với các doanh nghiệp mới thì các doanh nghiệp mới sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc tồn tại và cạnh tranh. Vụ việc xảy ra giữa VNPT và Vietel trong thời gian qua về vấn đề VNPT không cho Vietel kết nối dẫn đến việc mạng di động của Vietel bị nghẽn mạch trầm trọng cho thấy vai trò quan trọng của Bộ Bưu chính Viễn thông trong việc đưa ra những can thiệp cương quyết đối với nhà khai thác chủ đạo là VNPT.
Vấn đề quản lý giá cũng là một điểm cần phải có sự can thiệp của Bộ Bưu chính Viễn thông. Bộ cần phải can thiệp quản lý giá để các doanh nghiệp mới có thể dần đứng vững trên thị trường, khi thị trường đã tương đối cạnh tranh thì vấn đề quản lý giá không cần thiết nữa mà có thể để cho thị trường quyết định. Sự việc đầu tháng 7/2005, VNPT đưa ra yêu cầu xin giảm cước di động lại cho thấy đây là cú đánh mạnh của nhà độc quyền lớn vào các doanh nghiệp mới có mạng di động. Nếu chiêu thức này của VNPT được chấp thuận thì sẽ các mạng di động khác sẽ khó có thể tồn tại.
3.2.1.2 Thống nhất với các chuẩn mực quản lý khu vực và toàn cầu
Trong xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá ngày nay, một nhóm nhỏ các nhà sản xuất đang chịu trách nhiệm sản xuất một số lớn các thiết bị chuyển mạch, truyền dẫn, thiết bị đầu cuối, phần mềm và các thiết bị khác được sử dụng ở hầu hết các nước. Thậm chí những nơi có nền công nghệ và ứng dụng khác nhau, vẫn cùng một kiến trúc mạng cơ bản được thực hiện. Xu hướng hài hoà hoá công nghệ viễn thông ngày càng tăng.
Thị trường viễn thông đang ngày càng trở thành thị trường khu vực và toàn cầu. Để đạt được thành công trong kinh doanh, các nhà cung cấp dịch vụ viễn thông hàng đầu đã luôn phải gần gũi với khách hàng của mình, và hơn hết họ đã có tư duy một cách toàn cầu trong kinh doanh và chiến lược cạnh tranh. Quản lý nhà nước cũng cần phải có tư duy một cách toàn cầu.
Kinh nghiệm trên thế giới đã cho thấy, cơ quan quản lý ở quốc gia nào áp đặt những quy định nội bộ riêng, hoặc đưa ra những yêu cầu gây tốn kém cho các nhà khai thác của họ hơn ở các quốc gia khác có thể gây cản trở đối với những nhà khai thác tham gia trong thị trường viễn thông của nước họ. Tương tự, cơ quan quản lý nào bảo vệ các nhà khai thác quốc gia khỏi những nguyên tắc có tính chất chẩn mực chung được áp dụng ở nhiều quốc gia trên thế giới là họ đang làm một việc không có ý nghĩa. Những cơ quan quản lý viễn thông như vậy sẽ làm chậm cạnh tranh, chậm đổi mới dịch vụ và chậm sự phát triển kinh tế.
Một số chuẩn mực về quản lý nhà nước đang được nhiều quốc gia chấp thuận theo các Hiệp định thương mại và các Hiệp ước quốc tế khác. Ví dụ, đầu tiên là các nguyên tắc quản lý được nêu trong Văn bản dẫn chiếu về thể lệ của WTO. Văn bản dẫn chiếu là một phần trong nội dung cam kết của hầu hết 69 quốc gia ký kết Hiệp định Viễn thông cơ bản.
Như vậy, xu hướng quản lý nhà nước về viễn thông thống nhất với các chuẩn mực quản lý khu vực và toàn cầu đang được áp dụng. Do đó, Bộ Bưu chính Viễn thông nên thực hiện nguyên tắc quản lý về viễn thông thống nhất với các chuẩn mực quản lý khu vực và toàn cầu nhằm đưa ngành viễn thông của Việt Nam phát triển trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
3.2.1.3 Tạo cạnh tranh
Ngày nay các quốc đã nhận thức được một cách rộng rãi rằng lợi ích của cạnh tranh trong việc cung cấp các dịch vụ và thiết bị viễn thông vượt xa những nhược điểm của nó. Tại đa phần các quốc gia trên thế giới, thị trường viễn thông đã được mở cửa với các mức độ cạnh tranh khác nhau.
Sự can thiệp của quản lý nhà nước thông thường là cần thiết để đảm bảo việc thiết lập và duy trì cạnh tranh, tất nhiên không phải đối với mọi thành phần kinh tế đều là như vậy. Tuy nhiên, cơ cấu của ngành viễn thông và bản chất của mạng viễn thông cần có sự quản lý chặt chẽ. Sự can thiệp của quản lý nhà nước là cần thiết để đạt được một số mục tiêu liên quan tới việc đưa cạnh tranh vào thị trường như:
Cấp phép cho những doanh nghiệp cạnh tranh và các doanh nghiệp hiện có với những điều khoản tạo cơ sở chắc chắn và rõ ràng cho cả hai bên để thu hút đầu tư.
Đảm bảo kết nối các mạng, dịch vụ và giải quyết tranh chấp kết nối
Ngăn ngừa các nhà khai thác chủ đạo lạm dụng vị trí của họ để gặt những đối thủ cạnh tranh mới ra khỏi thị trường
Ngăn ngừa các doanh nghiệp lớn thu cước quá cao đối với các dịch vụ mà họ đang chi phối thị trường, và ngăn ngừa họ sử dụng biện pháp bao cấp chéo dịch vụ của họ trong thị trường cạnh tranh
Đảm bảo các mục tiêu phổ cập truy nhập đạt được trong một môi trường cạnh tranh
Nếu không có sự can thiệp của quản lý nhà nước để đạt được các mục tiêu trên, hầu như chắc chắn là cạnh tranh sẽ thất bại và không tạo ra được các lợi ích có thể đạt được trong thị trường có cạnh tranh nhiều hơn. Bộ Bưu chính Viễn thông cần phải quan tâm đến vấn đề này, có sự can thiệp cương quyết nhằm tạo ra một môi trường cạnh tranh về viễn thông ở Việt Nam.
3.2.2 Một số kiến nghị để hoàn thiện môi trường pháp lý về viễn thông của Việt Nam
3.2.2.1 Hoàn thiện khung pháp lý về viễn thông
Như đã phân tích ở chương 2, với Pháp lệnh Bưu chính Viễn thông và các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thực hiện Pháp lệnh Bưu chính Viễn thông, Nghị định về viễn thông đã cơ bản hoàn thiện hành lang pháp lý, tạo điều kiện cho việc triển khai thực hiện các cam kết quốc tế về viễn thông. Tuy nhiên, trong các văn bản quy phạm pháp luật đó còn những điểm bất cập như phân tích ở trên, chúng ta cần rà soát lại và điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp để tạo điều kiện cho việc triển khai thực hiện các cam kết quốc tế.
Hoàn thiện khung pháp lý về viễn thông thể hiện ở:
Mở rộng phạm vi điều chỉnh của văn bản pháp lý như về quỹ phổ cập, cân đối lợi ích và nghĩa vụ công ích, giá cước…
Nhanh chóng xây dựng và ban hành Luật về viễn thông và công nghệ thông tin để luật hoá các quy phạm điều chỉnh lĩnh vực này.
Mở rộng giới hạn pháp luật cho phép các doanh nghiệp viễn thông Việt Nam có thể tiếp nhận nhiều hơn nữa các nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Các kiến nghị cụ thể về hoàn thiện hệ thống pháp luật như sau:
a) Kiến nghị về các quy định pháp luật khác có liên quan:
Cần đề nghị với Bộ Kế hoạch Đầu tư ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định cụ thể về liên doanh trong viễn thông. Thẩm quyền cấp phép và về sự phối kết giữa hai Bộ về việc cấp phép đầu tư nước ngoài cho các dự án có liên quan đến lĩnh vực viễn thông và công nghệ thông tin.
Bộ Bưu chính Viễn thông cũng cần xem xét chủ động phối hợp với các Bộ, ngành liên quan xây dựng một văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của Bộ như quyền tác giả về phần mềm máy tính để trình Chính phủ ban hành.
Về tội phạm mạng CNTT trong Luật Hình sự cần được sửa đổi. Điều này nếu không xử lý kịp thời sẽ trở nên rất phức tạp khi Việt Nam chính thức hội nhập và sân chơi chung WTO.
b) Kiến nghị về lĩnh vực viễn thông
Ban hành văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn cụ thể các vấn đề có liên quan đến thủ tục cấp phép theo hướng minh bạch hoá và mẫu hoá toàn bộ thủ tục, hồ sơ giấy tờ có liên quan và thời gian xử lý hồ sơ. Ban hành các quy định về quản lý đối với tài nguyên viễn thông cũng như quy hoạch cụ thể về việc sử dụng các tài nguyên viễn thông làm cơ sở để cấp phép.
Ban hành các quy định có liên quan đến vấn đề kết nối như việc xác định giá thành kết nối, tiêu chuẩn kết nối, quyền và nghĩa vụ cụ thể của doanh nghiệp khi kết nối, công bố thoả thuận kết nối mẫu để làm cơ sở cho việc đàm phán kết nối cũng như xử lý tranh chấp (nếu có) giữa các doanh nghiệp. Xây dựng các quy định liên quan đến quyền di dây.
Về việc giám sát việc lắp đặt cáp viễn thông trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam cần ban hành văn bản quy phạm pháp luật liên tịch để phân công và phối hợp trách nhiệm giữa các cơ quan có liên quan: Bộ Quốc Phòng, Bộ Công An và Bộ Bưu chính Viễn thông.
Đối với việc cung cấp dịch vụ viễn thông công ích cần sớm xây dựng và ban hành phương án cung cấp phù hợp với tình hình kinh tế xã hội của đất nước.
Đối với các nội dung có liên quan đến tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm: cần sớm hoàn thiện các tiêu chuẩn cụ thể đối với thiết bị, mạng và dịch vụ viễn thông.
Phối hợp với Bộ Tài chính ban hành các quy định có liên quan đến việc xác định chi phí để xây dựng giá thành dịch vụ, sản phẩm.
Phối hợp với Bộ Thương mại xây dựng và ban hành các văn bản để đảm bảo cạnh tranh lành mạnh về viễn thông.
c) Kiến nghị về lĩnh vực công nghệ thông tin
Hiện nay, các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh trong lĩnh vực này còn đang rất yếu và thiếu do đó cần lên kế hoạch xây dựng văn bản quy phạm pháp luật kịp thời để cụ thể hoá các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước theo xu hướng khuyến khích phát triển sản xuất kinh doanh trong nước nhưng phải đảm bảo yêu cầu phù hợp với các cam kết quốc tế. Vì vậy, cần đẩy mạnh tiến độ xây dựng Luật Công nghệ thông tin để sớm trình Quốc hội; nghị định chứng thực điện tử,…
Phối hợp với Bộ kế hoạch Đầu tư trình Chính phủ ban hành văn bản quy phạm pháp luật để quản lý đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực công nghệ thông tin.
Phối hợp với các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan sớm lên doanh mục sản phẩm hàng hoá viễn thông và công nghệ thông tin theo hướng phù hợp với cách phân loại của WTO (Hiệp định về Công nghệ Thông tin ITA) để thuận tiện cho việc tham gia với các cơ quan nhà nước ban hành các chính sách thuế cũng như các quy định có liên quan đến việc sản xuất, nhập khẩu và phân phối các sản phẩm viễn thông và công nghệ thông tin phù hợp với các cam kết quốc tế.
3.1.2.2 Rà soát và hoàn thiện văn bản quy phạm pháp luật do chính quyền địa phương ban hành trong lĩnh vực viễn thông và CNTT
Theo quy định của GATS khi thực hiện cam kết mỗi thành viên phải thực hiện những biện pháp hợp lý có thể để đảm bảo việc tuân thủ của chính quyền và cơ quan có thẩm quyền khu vực, địa phương và các cơ quan phi chính phủ trên lãnh thổ của mình.
Năm 2003, Chính phủ đã ban hành Nghị định 135/2003/NĐ-CP về kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật trong đó có quy định trách nhiệm của Bộ, ngành trung ương trong việc kiểm tra các văn bản quy phạm pháp luật do các Bộ, ngành khác ban hành có liên quan đến lĩnh vực quản lý của từng Bộ, ngành.
Do đó để phục vụ cho công tác hội nhập kinh tế quốc tế, Bộ cần sớm ban hành quy định về việc kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật ban hành trong lĩnh vực viễn thông và CNTT để hạn chế mức tối đa những tranh chấp khi Việt Nam chính thức hội nhập vào sân chơi chung WTO.
3.3 Các giải pháp và kiến nghị để đảm bảo cạnh tranh và nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành viễn thông Việt nam
3.3.1 Các giải pháp để thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh trong lĩnh vực viễn thông
3.3.1.1 Các giải pháp bảo đảm cạnh tranh
a) Cần bảo vệ thông tin quản lý, kinh doanh của nhà khai thác mới
Nhà khai thác chủ đạo có thể lấy các thông tin quản lý của nhà khai thác mới thông qua đàm phán về kết nối. Do đó, ở đây cần cần có vai trò của Bộ Bưu chính Viễn thông trong việc quy định các biện pháp để giữ bí mật các thông tin của nhà khai thác mới.
Các nhà khai thác chủ đạo đối với dịch vụ điện thoại nội hạt và các dịch vụ độc quyền khác có khả năng thu thập các thông tin có giá trị mang tính cạnh tranh từ phía đối thủ cạnh tranh có kết nối với họ. Nhà khai thác chủ đạo có thể sử dụng những thông tin đó để tiến hành tiếp cận khách hàng của đối thủ cạnh tranh, đưa ra các hình thức ưu đãi để thuyết phục khách hàng không sử dụng dịch vụ của đối thủ cạnh tranh. Để ngăn chặn việc lạm dụng thông tin cạnh tranh chúng ta nên thành lập một nhóm dịch vụ nhà khai thác thuộc nhà khai thác chủ đạo (VNPT). Nhóm này có chức năng độc lập nhận và xử lý tất cả các đề nghị đối với các dịch vụ kết nối. Nhóm này có nhiệm vụ phải bảo mật các thông tin này và Bộ Bưu chính Viễn thông cần phải quy định chế tài chặt chẽ xử lý mạnh khi họ để rò rỉ thông tin.
b) Có biện pháp chống bao cấp chéo
Hiện tại ở Việt nam, bù giá chéo đã và đang được sử dụng như là công cụ thực hiện phổ cập dịch vụ. Tuy nhiên, quan điểm của Đảng và Nhà nước là từng bước giảm và chấm dứt hoạt động bù giá chéo. Bộ Bưu chính Viễn thông cần phải thúc đẩy nhanh việc tách bưu chính ra khỏi viễn thông, các đơn vị của VNPT yêu cầu phải hạch toán độc lập. Vừa qua, Thủ tướng chính phủ vừa ký quyết định phê duyệt đề án thí điểm hình thành tập đoàn bưu chính viễn thông trên cơ sở sắp xếp lại VNPT. Tập đoàn Bưu chính viễn thông Việt nam sẽ hoạt động theo mô hình công ty mẹ – con. Đây là bước tiến cơ bản để thực hiện quan điểm chính sách giảm và chấm dứt bù giá chéo, hạch toán độc lập, tạo sự cạnh tranh lành mạnh trên thị trường viễn thông và đáp ứng yêu cầu của quá trình hội nhập KTQT.
Để có thể chấm dứt bù giá chéo, nhà nước cần phải quy định rõ và có chiến lược về giá cước kết nối dựa trên cơ sở giá thành và phần đóng góp vào việc cung cấp dịch vụ viễn thông công ích. Phần đóng góp này cần phải được tính toán cụ thể để làm sao cho hợp lý, thúc đẩy được cạnh tranh mà vẫn đảm bảo được mục tiêu phổ cập dịch vụ.
Chúng ta sớm xây dựng và hoàn thiện mô hình Quỹ dịch vụ viễn thông công ích. Nên chỉ định hoặc đấu thầu chọn một doanh nghiệp cung cấp dịch vụ viễn thông công ích trên cơ sở thẩm định dự án cung cấp dịch vụ viễn thông công ích của doanh nghiệp đó. Hiện tại, đã có quy định về nguồn đóng góp cho dịch vụ viễn thông công ích là từ nguồn đóng góp của các doanh nghiệp viễn thông và các nguồn tài chính khác. Tuy nhiên, Bộ Bưu chính Viễn thông cũng cần phải có các chế tài mạnh để buộc các doanh nghiệp thực hiện nghiêm chỉnh vấn đề này. Đến nay, việc thu đóng góp của các doanh nghiệp cho quĩ dịch vụ viễn thông công ích còn rất chậm chạp.
Chúng ta cũng cần phải đẩy nhanh việc thực hiện hạch toán độc lập của VNPT. Mục tiêu của việc hạch toán độc lập là để tách chi phí của nhà khai thác với các dịch vụ khác nhau mà họ cung cấp nhằm xác định giá thành cung cấp cho từng dịch vụ. Trên cơ sở đó, Bộ Bưu chính Viễn thông có thể tính được lượng mà VNPT phải đóng góp của từng nhóm dịch vụ cho quĩ dịch vụ viễn thông công ích, đồng thời cũng tính được dịch vụ nào hiện tại của VNPT sẽ được nhận đóp góp từ quĩ dịch vụ công ích.
c) Cần phải có hướng dẫn cụ thể đối với luật cạnh tranh áp dụng trong lĩnh vực viễn thông
Các quy định cụ thể để bảo vệ cạnh tranh lành mạnh và chống độc quyền theo Luật cạnh tranh cũng cần được hướng dẫn cụ thể để có thể thi hành trong lĩnh vực viễn thông như: giá sử dụng cơ sở hạ tầng mạng, bù giá chéo, từ chối cung cáp dịch vụ, ép sử dụng dịch vụ, lạm dụng các biện pháp kỹ thuật để khoá dịch vụ của các đối thủ cạnh tranh, gièm pha đối thủ...
3.3.1.2 Các kiến nghị về vấn đề kết nối
Mặc dù trong thời gian qua, vấn đề kết nối giữa VNPT và các doanh nghiệp mới ngày càng được cải thiện đáng kể. Tuy nhiên, để đảm bảo việc kết nối diễn ra thuận tiện, kịp thời, minh bạch, không phân biệt đối xử... như yêu cầu của WTO, chúng ta nên xem xét đến các nguyên tắc kết nối sau:
Những điều khoản về kết nối mạng viễn thông phải không phân biệt đối xử giữa các nhà khai thác và giữa những hoạt động của bản thân VNPT với các doanh nghiệp mới.
Việc kết nối nên được phép thực hiện ở bất kỳ điểm nào có khả thi về mặt kỹ thuật. VNPT có thể quy định nhà khai thác phải trả những chi phí phát sinh của việc kết nối mà không theo tiêu chuẩn.
Bộ Bưu chính Viễn thông nên xây dựng mước cước kết nối dựa trên cơ sở chi phí. Bộ cũng cần phải có văn bản quy định rõ sự không hiệu quả về chi phí của các nhà khai thác chủ đạo (như VNPT) không được chuyển sang cho nhà khai thác có kết nối gánh chịu.
Những hướng dẫn quản lý và thủ tục kết nối nên được đưa ra trước để tạo điều kiện cho những thương lượng kết nối giữa những nhà khai thác. Yêu cầu các nhà khai thác chủ đạo công bố những điều khoản và các thủ tục chuẩn cho việc kết nối. Các thủ tục và điều khoản này phải được sự đồng ý của Bộ Bưu chính Viễn thông.
Chúng ta nên ban hành thông tư hướng dẫn cụ thể hơn về kết nối: trách nhiệm của các bên, thời hạn và chế tài xử lý những hành vi vi phạm.
Những phần tử mạng phải được phân tách và tính cước riêng biệt. Các chi phí liên quan đến nghĩa vụ phổ cập dịch vụ cần được xác định riêng và không được đưa vào cước kết nối.
Ban hành các tiêu chuẩn kỹ thuật trong kết nối, thống nhất và phù hợp với thông lệ quốc tế.
Theo kinh nghiệm nhiều cơ quan quản lý viễn thông và chuyên gia kết nối đã tổng kết lại rằng nhìn chung là phi thực tế nếu yêu cầu những nhà khai thác thống trị thương lượng thoả thuận kết nối với các nhà khai thác mới mà thiếu sự hướng dẫn thích hợp của cơ quan quản lý. Định hướng về mặt quản lý và liên tục giám sát, hoà giải là thực sự cần thiết để các nhà khai thác thương lượng đạt được các thoả thuận kết nối hợp lý, kịp thời. Do đó vai trò của cơ quan quản lý trong việc này là rất quan trọng. Bộ Bưu chính Viễn thông nên đứng ra đóng vai trò trong việc đẩy mạnh sự kết thúc thành công của các cuộc thương lượng kết nối bằng các biện pháp như:
Thiết lập những bản hướng dẫn trước cho việc thương lượng
Quy định thời gian cho các giai đoạn khác nhau của các cuộc thương lượng.
Đưa ra những khuyến khích để hoàn thành thoả thuận kết nối
Chỉ định người trung gian hoà giải hoặc trọng tài.
3.3.1.3 Các kiến nghị về cấp phép dịch vụ
Chúng ta nên phân loại các dịch vụ nhạy cảm và không nhạy cảm để áp dụng chế độ cấp phép khác nhau. Quy định các tiêu chuẩn số lượng rõ ràng và chi tiết để đánh giá về khả năng tài chính và kỹ thuật. Đối với dịch vụ giá trị gia tăng, nên sử dụng chế độ đăng ký thay cho chế độ cấp phép hiện nay.
Vấn đề đang được các nhà phân tích đặt ra là liệu Việt Nam có cấp quá nhiều giấy phép viễn thông hay không. Dựa vào kinh nghiệm trên thế giới các nhà phân tích cho rằng chỉ nên có hai hoặc ba giấy phép cung cấp dịch vụ đường dài là đủ cho truyền dẫn quốc gia kể cả cổng quốc tế, hai giấy phép cung cấp dịch vụ nội hạt cố định và ba giấy phép về dịch vụ di động.
Thị trường dịch vụ di động đang được nhắc nhiều đến với vấn đề tâm điểm đã có 6 mạng di động được cấp phép tính đến thời điểm này đó là Mobile phone, Vinaphone, S-Fone, Vietel, Hanoi Telecom, VP Telecom. Theo nhận định của giới chuyên môn, với hơn 80 triệu dân thì số lượng mạng di động như vậy là hơi nhiều và thị trường thông tin di động của Việt Nam có khả năng sẽ đi theo xu hướng chung mà các nước trong khu vực đã từng trải qua như Hàn Quốc, Trung Quốc. Khi mở cửa thị trường thì Hàn Quốc có rất nhiều mạng di động, nhưng sau thời gian cạnh tranh, sáp nhập và ổn định ở con số 3 mạng di động. Các nhà phân tích cho rằng, thị trường di động nên dừng lại ở con số 3, việc này vừa đủ cho việc cạnh tranh và các nhà khai thác có được quy mô khách hàng phù hợp.
Bộ Bưu chính Viễn thông cũng cần trên cơ sở kinh nghiệm quốc tế, căn cứ các số liệu thống kê, khảo sát sức mua của thị trường Việt Nam và để không lãng phí tài sản chung của nhân dân, không thể cấp phép ồ ạt cho quá nhiều doanh nghiệp có cơ sở hạ tầng mạng, nhất là khi quá trình hội tụ của các loại dịch vụ Bưu chính – viễn thông – internet – phát thanh truyền hình đang diễn ra trên phạm vi rộng và đồng thời tránh lãng phí xây dựng mạng một cách chồng chéo.
3.3.2 Các giải pháp và kiến nghị để nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành viễn thông Việt Nam
3.3.2.1 Cần phải có chính sách cụ thể ưu đãi cho các doanh nghiệp mới
Hạn chế lớn đối với năng lực cạnh tranh của ngành viễn thông Việt Nam là cấu trúc hạn chế tranh tranh của ngành. Việt Nam cần phải có những chính sách thúc đẩy cạnh tranh hơn nữa. Bộ Bưu chính Viễn thông cũng cần đưa ra những chính sách cụ thể ưu đãi cho các doanh nghiệp mới để các doanh nghiệp mới tồn tại, phát triển và dần cạnh tranh với doanh nghiệp chủ đạo để đạt được mục tiêu: “Đến cuối năm 2005, trong thị trường các doanh nghiệp mới sẽ đóng góp vào 25 – 30% thị phần các dịch vụ viễn thông cơ bản, 35-40% thị phần các dịch vụ giá trị gia tăng. Năm 2010, các doanh nghiệp mới sẽ đóng góp vào 40 – 45% thị phần các dịch vụ viễn thông cơ bản” như đã đề ra trong Chiến lược phát triển bưu chính viễn thông Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020.
3.3.2.2 Tập trung xây dựng các công ty có tiềm lực lớn mạnh trong lĩnh vực viễn thông
Trong lộ trình tham gia hội nhập kinh tế quốc tế, các công ty nước ngoài sẽ được liên doanh với các công ty tại Việt Nam trong thời gian đầu với tỷ lệ góp vốn là 49%. Tuy nhiên, nếu vốn của các công ty Việt nam quá bé, thì một công ty nhỏ bất kỳ nào của nước ngoài cũng đủ góp vốn liên doanh với ta, việc này sẽ dẫn đến tình huống khó xử là: nếu Việt Nam tuân thủ cam kết đã ký thì sẽ không điều khiển được quá trình cạnh tranh phân tán lĩnh vực viễn thông này và sự mất ổn định là có thể xảy ra. Đã đến lúc, Nhà nước phải tập trung xây dựng một số lượng nhất định các công ty có tiềm lực lớn, đủ mạnh để cạnh tranh về vốn, công nghệ, nhân lực và thị trường thì mới thu hút được vốn đầu tư nước ngoài một cách hiệu quả và tự chủ.
3.3.2.3 Có biện pháp nâng cao năng suất lao động của ngành
Chúng ta cần phải có biện pháp để nâng cao năng suất lao động của lao động ngành viễn thông. Cần phải sắp xếp lại tổ chức, đào tạo và đào tạo lại lực lượng lao động của ngành, đồng thời cũng phải mạnh tay sa thải những lực lượng lao động dôi dư không cần thiết. Phải xây dựng chiến lược nhân sự tinh, chất lượng và hiệu quả.
3.3.2.4 Xây dựng có chế giá cước dịch vụ hợp lý
Chúng ta phải xây dựng và điều chỉnh giá cước dịch vụ với sự giám sát chặt chẽ của các cơ quan Nhà nước. Giá cước phải đáp ứng nhu cầu, đảm bảo quyền lợi hợp pháp và phù hợp với khả năng thanh toán của người tiêu dùng. Xây dựng giá cước trên cơ sở phải đảm bảo tích luỹ để kịp thời tài đầu tư mở rộng sản xuất và làm gia tăng đồng vốn của Nhà nước. Giá cước phải xây dựng để nó trở thành một đòn bẩy thúc đẩy cạnh tranh, vừa có tác dụng tạo điều kiện cho doanh nghiệp mới đẩy nhanh quá trình thâm nhập thị trường, tăng thị phần, cùng hợp tác, cạnh tranh với VNPT nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ, giảm giá dịch vụ chung cho toàn xã hội, đóng góp tích cực vào việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng.
3.3.2.5 Giải pháp đối với các doanh nghiệp viễn thông
Để nâng cao năng lực cạnh tranh của mình, các doanh nghiệp viễn thông cần chú trọng đến các yếu tố sau đây:
Phát triển nguồn nhân lực trong doanh nghiệp, xây dựng được đội ngũ cán bộ kỹ thuật, quản lý có trình độ chuyên môn lành nghề, có khả năng tiếp cận, nắm vững, làm chủ được công nghệ thông tin hiện đại của thế giới. Có chính sách đào tạo và tái đào tạo đội ngũ cán bộ, cải tiến chế độ đãi ngộ để có thể thu hút được lao động có trình độ cao làm việc cho doanh nghiệp mình.
Không ngừng nâng cao chất lượng (bao gồm cả chất lượng về dịch vụ viễn thông và chất lượng phục vụ khách hàng), đa dạng hoá loại hình dịch vụ.
Có chính sách giá cước hợp lý để tạo lợi thế cạnh tranh. Trong những năm gần đây, giá cước của các dịch vụ viễn thông Việt Nam đã được điều chỉnh giảm xuống đáng kể và đang từng bước tiến dần tới mức giá cước trung bình và thấp trong khu vực. Trong thời gian tới, Bộ Bưu chính Viễn thông sẽ giao quyền tự chủ hơn cho các doanh nghiệp trong vấn đề giá cước. Các doanh nghiệp (trừ các doanh nghiệp có thị phần khống chế về loại hình dịch vụ) sẽ có quyền tự quyết định giá cước của các loại hình dịch vụ viễn thông như: điện thoại đường dài trong nước và điện thoại quốc tế sử dụng mạng viễn thông công cộng (PSTN); dịch vụ cho thuê kênh quốc tế, liên tỉnh, nội tỉnh và nội hạt; dịch vụ mạng điện thoại di động (trả trước, trả sau gồm cước hoà mạng, cước thuê bao, cước thông tin điện thoại); và dịch vụ kết nối Internet (IXP), dịch vụ truy nhập Internet (ISP). Lúc đó, giá cước thực sự sẽ là công cụ quan trọng của doanh nghiệp trong cạnh tranh.
3.4 Giải pháp và kiến nghị đối với vấn đề đầu tư
3.4.1 Cần phải tiến hành hoàn thiện, cụ thể hoá, hệ thống hoá các văn bản quy phạm pháp luật phục vụ quản lý hoạt động viễn thông và CNTT có đầu tư nước ngoài:
Sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông còn rất hạn chế vì vậy trước đây nhu cầu có các văn bản quản lý đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông không thật cấp thiết. Tuy nhiên, đứng trước việc hội nhập mạnh hơn với quốc tế, đặc biệt là việc sẽ gia nhập WTO trong thời gian tới, nhu cầu cần có các văn bản quản lý đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông là rất cấp thiết để chúng ta chuẩn bị một môi trường đảm bảo cho ngành trong quá trình hội nhập. Trong các văn bản áp dụng chung cũng như trong các văn bản chuyên ngành các quy định cụ thể về đầu tư chuyên ngành viễn thông là rất ít. Hiện nay, Việt Nam đang đứng trước sức ép rất lớn về mở cửa thị trường viễn thông trong quá trình đàm phán gia nhập WTO, hình thức và mức độ tham gia của nước ngoài mà ta buộc phải chấp nhận có thể cao hơn mức cam kết trong Hiệp định Thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ khá nhiều. Chúng ta buộc phải đẩy nhanh hơn khá nhiều lộ trình mở cửa thị trường dịch vụ viễn thông và như vậy ta cần có các biện pháp mới, cơ chế mới để bảo vệ lợi ích của ngành, của quốc gia.
Thực tiễn các nước phát triển cũng như các nước mới gia nhập WTO như Trung Quốc cho thấy nội luật, nếu được tính toán khéo có thể trở thành một công cụ bảo hộ hữu hiệu. Thực tiễn Trung Quốc, trong lĩnh vực viễn thông và CNTT việc gia nhập WTO có tác động đáng kể đến môi trường pháp lý. Từ giữa những năm 1990, trước khi gia nhập WTO, Trung Quốc đã bắt đầu quá trình rà soát khung khổ pháp lý và hợp lý hoá cơ cấu lĩnh vực viễn thông và CNTT để có thể phù hợp với các cam kết gia nhập WTO. Hơn 2300 văn bản quy phạm pháp luật đã được rà soát, một số được sửa đổi, bãi bỏ hiệu lực, các văn bản mới về đầu tư nước ngoài, sở hữu trí tuệ,… đã được ban hành. Cho dù Trung Quốc là một thị trường rất hấp dẫn về viễn thông và CNTT, mức cam kết về cơ bản tương đương Hiệp định Thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ, sau 4 năm gia nhập WTO, đầu tư nước ngoài vào viễn thông Trung Quốc hầu như vẫn chưa có gì.
Để hội nhập thành công, khai thác hết các cơ hội và giảm thiểu các khó khăn cũng như hạn chế các tác động tiêu cực, chúng ta cần chủ động và khẩn trương xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật thích hợp điều chỉnh các hoạt động viễn thông và CNTT, đặc biệt hoạt động viễn thông có yếu tố đầu tư nước ngoài. Đây là việc làm hết sức cấp thiết và quan trọng. Trong tình hình hiện nay, ngành viễn thông không thể thụ động chờ đợi việc sửa đổi bổ sung các văn bản quản lý dầu tư nước ngoài có tính áp dụng chung để đưa vào các biện pháp quản lý đặc thù cho lĩnh vực viễn thông, mà chúng ta phải chủ động xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật phục vụ quản lý hoạt động viễn thông và CNTT có đầu tư nước ngoài của ngành. Việc học tập kinh nghiệm của Trung Quốc trong vấn đề này là rất cần thiết.
3.4.2 Nhà nước nên xem xét đa dạng hoá các hình thức đầu tư khác như liên doanh, công ty cổ phần cố vốn nước ngoài
Vấn đề đặt ra là trong thời gian tới, chi phí vốn đầu tư các dự án viễn thông sẽ cao hơn, lợi nhuận mong đợi sẽ thấp hơn. Nếu chỉ áp dụng hình thức đầu tư nước ngoài BCC thì Việt Nam chỉ có thể thu hút được các nhà đầu tư kém chất lượng. Trong điều kiện của Việt Nam hiện nay có thể xem xét tới 2 phương án. Thứ nhất, các đối tác trong nước sẽ thành lập một công ty cổ phần theo luật doanh nghiệp, sau đó bán cổ phần cho đối tác nước ngoài. Hạn chế của hình thức này là nhà đầu tư nước ngoài chỉ có thể mua tối đa 30% cổ phần. Điều này có thể tạo ra rào cản cho các dự án viễn thông lớn, còn các dự án đang triển khai làm ăn có hiệu quả như Mobilephone thì vẫn có thể thu hút được đối tác nước ngoài. Công ty VMS đã được Chính phủ đồng ý cho thành lập thành công ty cổ phần và Comvik sẽ được mua cổ phần của công ty này. Phương án 2 là cho phép thành lập công ty liên doanh trong lĩnh vực viễn thông. Phương án này đang được các nhà đầu tư nước ngoài mong đợi trong đó có các đối tác phía nước ngoài của dự án S-Fone và dự án mạng CDMA của Hanoi Telecom. Bởi vì, theo hợp đồng BCC của hai đối tác tác này, khi nhà nước cho phép thành lập công ty liên doanh thì họ cũng sẽ xin phép chuyển dự án BCC thành công ty liên doanh. Tuy nhiên, vấn đề này sẽ hết sức phức tạp. Muốn vậy, Chính phủ phải sửa đổi Nghị định hướng dẫn thi hành luật đầu tư nước ngoài, phải có những quy định cụ thể về vấn đề này để áp dụng cho các dự án BCC hiện tại muốn chuyển đổi. Phương án chuyển đổi từ hình thức hợp đồng BCC sang hình thức liên doanh cho thấy rất khó khả thi.
3.4.3 Đối với chính sách quản lý ngành, cần sớm xây dựng các lĩnh vực và địa bàn khuyến khích đầu tư trong lĩnh vực viễn thông:
Khuyến khích hợp tác đầu tư FDI với các nhà khai thác mới tham gia thị trường trong các lĩnh vực công nghệ cao, các dịch vụ giá trị gia tăng trên mạng.
Khuyến khích đầu tư vào phát triển sản xuất, phát triển CNTT phần cứng và phần mềm.
3.3.4 Cần cam kết về xoá bỏ sự phân biệt đối xử về huy động vốn, thành lập và tổ chức quản lý doanh nghiệp đầu tư nước ngoài
Cần phải điều chỉnh một số qui định của luật đầu tư nước ngoài về hình thức góp vốn, huy động vốn, tỉ lệ góp vốn, chuyển nhượng vốn và nguyên tắc nhất trí trong doanh nghiệp liên doanh. Cần xem xét, mở rộng hình thức đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ theo một số hướng sau: mở rộng hình thức hơn so với chỉ có hình thức BCC hiện tại. Thực hiện cổ phần hóa các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ và cho phép các nhà đầu tư nước ngoài có thể nắm cổ phần trong các công ty trên theo một tỷ lệ hạn chế nhất định. Nghiên cứu và áp dụng các hình thức đầu tư FDI mới đối với viễn thông theo kinh nghiệm của các nước trên thế giới và trong khu vực.
3.5 Giải pháp và kiến nghị phát triển nguồn nhân lực CNTT&TT của Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
3.5.1 Tạo cơ sở pháp lý cho xã hội hoá đào tạo nguồn nhân lực CNTT&TT
Chúng ta phải tạo cơ sở pháp lý cho xã hội hoá đào tạo nguồn nhân lực CNTT&TT và đạo tạo nguồn nhân lực này bằng tiếng Anh. CNTT&TT là lĩnh vực luôn thay đổi và phát triển mới hàng ngày, nếu không có ngoại ngữ thì không thể đọc, cập nhật tin tức, cập nhật kiến thức về CNTT&TT, do đó đào tạo bằng tiếng Anh là hình thức có hiệu quả. Việt Nam nên cho phép thành lập các cơ sở đào tạo 100% vốn nước ngoài, thu hút và tạo điều kiện thuận lợi để các trường đại học quốc tế giảng dạy về CNTT&TT tại Việt Nam. Chúng ta nên có chính sách thu hút chuyên gia giỏi về CNTT&TT từ nước ngoài vào Việt nam thực hiện giảng dạy, đào tạo, khuyến khích các trường đại học của Việt Nam thực hiện giảng dạy, đào tạo về CNTT&TT bằng tiếng Anh, sử dụng giáo viên nước ngoài trong đào tạo.
3.5.2 Cần có sự chỉ đạo thống nhất về chương trình đào tạo nguồn nhân lực cho CNTT&TT trên quy mô toàn quốc
Bộ Giáo dục Đào tạo cần phối hợp với Bộ Khoa học Công nghệ chỉ đạo thống nhất chương trình đào tạo nguồn nhân lực cho CNTT&TT trên quy mô toàn quốc. Về nội dung, chương trình cần có sự chuẩn bị kỹ, với sự tham gia của các nhà khoa học công nghệ, các nhà doanh nghiệp và các nhà quản lý chủ chốt thuộc lĩnh vực CNTT và các lĩnh vực có liên quan. Muốn vậy, chúng ta phải chú trọng đầu tư cho việc ứng dụng CNTT&TT và phải tăng thời gian học các môn CNTT trong chương trình đào tạo chuyên gia các ngành công nghệ khác.
3.5.3 Hoàn thiện hệ thống đánh giá chất lượng đào tạo CNTT &TT, nâng cao chất lượng đào tạo
Cần phải hoàn thiện hệ thống đánh giá chất lượng đào tạo các cấp về CNTT&TT phù hợp với chuẩn mực quốc tế. Đánh giá lại toàn bộ các cơ sở đào tạo các cấp về CNTT&TT theo hệ thống đánh giá đã được chuẩn hoá, trên cơ sở đó phân loại và có giải pháp thích hợp (loại bỏ, nâng cấp, phát triển) cho từng cơ sở đào tạo. Chúng ta nên tổ chức việc cấp chứng chỉ chất lượng đào tạo về CNTT&TT của Việt Nam và quốc tế cho các cơ sở đào tạo về CNTT&TT.
Một trong các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo CNTT&TT là nâng cao các khoa CNTT trọng điểm theo ISO 9000-2000. Trong khi chờ đợi các Khoa này vươn lên tầm cao ấy, việc cần làm ngay là kiện toàn và nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ giảng dạy cho tương xứng với mặt bằng nền cử nhân, kỹ sư, thạc sĩ, tiến sĩ CNTT&TT (tiếng Anh) Đông Nam á, và một mặt bằng tương tự bằng tiếng Pháp đối với Cộng đồng Pháp ngữ.
Chúng ta cần phải đẩy mạnh đào tạo theo nhu cầu của thị trường. Vấn đề đặt ra là nếu nhà trường phối hợp tìm hiểu nhu cầu tại doanh nghiệp, rồi dạy bổ sung cho sinh viên sắp ra trường những chuyên đề công nghệ đang được thị trường yêu cầu thì lượng sinh viên ra trường tìm được việc làm cũng sẽ tăng hơn. Đào tạo theo nhu cầu xem ra sẽ góp phần mạnh mẽ giúp tăng doanh số phần mềm bởi lẽ để tạo ra phần mềm cần có người làm được việc chứ không phải những kỹ sư chỉ có kiến thức hàn lâm.
Nhiều ý kiến cho rằng, Việt Nam nên ngừng việc đào tạo đại trà loại nhân lực tầm tầm, đặc biệt là nhân lực CNTT&TT. Người được trả lương cao không đồng nghĩa với người lãnh đạo. Thực ra, các công ty đi thuê người cũng không muốn thuê nhiều người để trả lương cao mà họ chỉ cần thuê một người có năng lực thực hiện một số công việc nhất định của công ty. Quan trọng nhất vẫn là nền kinh tế. Kinh tế mạnh, chính sách hợp lý thì lời giải cho vấn đề nhân lực sẽ đến một cách tự nhiên.
Về đào tạo, chúng ta cần phải đảm bảo chất lượng và sự đồng bộ về cơ cấu của đội ngũ. Hiện nay, ngoài đào tạo cán bộ kỹ thuật, cần chú trọng vào các đối tượng sau:
Các chuyên gia chiến lược
Các chuyên gia trình độ cao chủ trì các dự án
Các CIO
Chúng ta cần phải có chính sách phát triển, nuôi dưỡng và sử dụng tối ưu nguồn nhân lực CNTT&TT có trình độ cao. Nhà nước nên thực hiện việc lựa chọn những người đã tốt nghiệp đại học đang làm việc trong lĩnh vực CNTT&TT có triển vọng phát triển, có đủ điều kiện về trình độ học vấn, giỏi ngoại ngữ đưa đi thực tập nghiên cứu, đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ ở nước ngoài về CNTT&TT, kinh tế, luật pháp quốc tế để trở thành các chuyên gia cao cấp và chuyên gia đầu ngành trong lĩnh vực CNTT&TT và quản lý CNTT&TT.
3.5.4 Có chính sách thu hút các chuyên gia là Việt Kiều về tham gia giảng dạy CNTT&TT
Một yếu tố nữa mà chúng ta cần phải quan tâm, đó là cộng đồng người Việt ở nước ngoài. Cộng đồng người Việt này là một yếu tố quan trọng giúp cho các doanh nghiệp CNTT&TT Việt Nam tiếp xúc với công nghệ và kinh nghiệm quản lý của nước ngoài trong việc phát triển CNTT&TT. Hiện tại, đang có khoảng 10.000 người Mỹ gốc Việt làm việc tại thung lũng công nghệ Siliconl. Trong số đó không ít người đã thành danh và có khả năng đầu tư vốn và trực tiếp về làm ăn ở Việt Nam. Số Việt kiều này tham gia vào đào tạo nhân lực sẽ rất thuận lợi cho người Việt Nam.
3.5.5 Cần coi trọng đào tạo nguồn nhân lực phục vụ hội nhập
Chúng ta cũng cần phải phát triển nguồn lực chuyên trách phục vụ hội nhập trong các lĩnh vực, ở các cấp của ngành viễn thông. Chương trình hành động của Chính phủ nhằm thực hiện Nghị quyết 07/NQ/TW của Bộ Chính trị về hội nhập kinh tế quốc tế đã nên rõ nhiệm vụ đào tạo nguồn nhân lực, cụ thể “đào tạo đội ngũ cán bộ, công chức, cán bộ quản lý, các luật sư am hiểu về luật pháp quốc tế và hội nhập quốc tế, đội ngũ cán bộ kỹ thuật vững vàng về chính trị, thông thạo nghiệp vụ và ngoại ngữ, công nhân lành nghề đáp ứng các yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá cũng như hội nhập kinh tế quốc tế. Hiện nay, đa số các đơn vị viễn thông đã có cán bộ theo dõi về hội nhập nói chung nhưng công tác đào tạo bồi dưỡng chưa thực hiện được nhiều. Do đó, công tác đào tạo phát triển nguồn nhân lực cho hội nhập cần được coi là trọng tâm phải làm để chuẩn bị cho việc Việt Nam gia nhập WTO.
3.5.6 Hoàn thiện về mặt tổ chức và quản lý trong lĩnh vực đào tạo CNTT&TT
Về mặt tổ chức và quản lý, CNTT&TT như một cái bàn 4 chân: cơ sở hạ tầng, công nghiệp, ứng dụng và nguồn nhân lực. Trong Bộ Bưu chính Viễn thông đã có 3 vụ quản lý 3 thành phần: Vụ Viễn thông quản lý cơ sở hạ tàng, Vụ Công nghiệp CNTT quản lý công nghiệp CNTT, Vụ Khoa học Công nghệ quản lý ứng dụng, thì vấn đề quản lý nhà nước về đào tạo nguồn nhân lực CNTT&TT nên thành lập một đơn vị cấp Cục có chức năng của Bộ Bưu chính Viễn thông quản lý. Như vậy, chúng ta sẽ tránh được tình trạng cái bàn khập khiễng với 3 chân, một chân còn lại không biết ở đâu.
3.5.7 Đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức của Bộ Bưu chính Viễn thông
Trước hết, chú trọng bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý về tư tưởng, quan điểm lập trường kiên định, đạo đức nghề nghiệp, kiến thức về pháp luật vì đây là đội ngũ then chốt có tính chất quyết định về hoạch định chính sách và làm luật.
Hai là, những yếu tố khách quan như sự đổi mới nhanh chóng của nền kinh tế nước ta trong tiến trình hội nhập và sự phát triển vượt bậc của công nghệ, vấn đề hội tụ công nghệ, sức ép của tiến trình toàn cầu hoá và tự do hoá ngày càng tăng trên thế giới cũng như những yếu kém, tồn tại chủ quan của ngành viễn thông và CNTT nước ta đã và đang đặt ra cho ngành những nhiệm vụ phức tạp về sự cần thiết phải đổi mới và từng bước hội nhập quốc tế để tiếp tục thể hiện được vai trò của một ngành kinh tế kỹ thuật, dịch vụ quan trọng. Hơn nữa, do tư duy và phong cách của đội ngũ cán bộ, công chức chịu ảnh hưởng quá lâu của môi trường độc quyền vẫn còn nặng, chưa cọ sát thực với cạnh tranh. Vì vậy, việc bồi dưỡng kiến thức về công nghệ, kinh tế, tư tưởng và lập trường để nâng cao sức cạnh tranh cho các bộ quản lý doanh nghiệp, đổi mới tư duy và trình độ quản lý vĩ mô cho cán bộ, công chức là một yếu tố cấp thiết đòi hỏi phải giải quyết ngay lập tức và không thể trì hoãn.
Ba là, Bộ Bưu chính Viễn thông cần phải chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ đầu đàn về khoa học công nghệ để chuẩn bị cho việc đáp ứng các yêu cầu mới và theo kịp tiến bộ khoa học kỹ thuật trên thế giới đặc biệt cần quan tâm tới khoa học quản lý, khoa học xây dựng luật và các chính sách vĩ mô.
Bốn là, Bộ cũng cần phải chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác hợp tác quốc tế để dần dần đưa người vào các tổ chức quốc tế, tăng cường vị thế của Việt Nam, của ngành trên chính trường thế giới và tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu hoá.
Năm là, bên cạnh việc đào tạo mọi mặt cho cán bộ, công chức của Bộ, với vai trò quản lý nhà nước của mình, Bộ Bưu chính Viễn thông còn cần phải xây dựng và ban hành đồng bộ hệ thống tiêu chuẩn chức danh công chức, viên chức ngạch bậc về viễn thông và CNTT để áp dụng cho toàn xã hội, đồng thời phải xây dựng các cơ chế, chính sách và chiến lược phát triển tổng thể nguồn nhân lực cho lĩnh vực này.
Có thể khẳng định rằng cán bộ, công chức là một nhân tố quan trọng để thực thi quyền lực nhà nước đối với lĩnh vực viễn thông và CNTT trong quá trình mở rộng hợp tác và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, chính vì vậy trong chiến lược phát triển tổng thể viễn thông và CNTT của Việt Nam, Bộ Bưu chính Viễn thông đã đặt nhiệm vụ bồi dưỡng, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực là nội dung quan trọng, cấp thiết hàng đầu.
Tóm lại, để có thể nâng cao được sức cạnh tranh của ngành viễn thông trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, chúng ta cần phải có các chính sách để phát triển, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực CNTT&TT. Vì nguồn nhân lực là một trong những nhân tố quan trọng quyết định quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của ngành có thành công hay không.
KẾT LUẬN
Hội nhập KTQT của ngành viễn thông Việt Nam trong thời gian qua đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Ngành viễn thông đã có tốc độ tăng trưởng vào loại nhanh nhất thế giới nhờ nhu cầu tăng cao của nền kinh tế đối với các dịch vụ này, sự hỗ trợ mạnh của Nhà nước và trên hết là chính sách và chiến lược đúng đắn của Chính phủ trong quá trình hội nhập. Chúng ta đã phá đi được tình trạng độc quyền một doanh nghiệp và tạo ra một môi trường cạnh tranh trong lĩnh vực viễn thông, mặc dù cạnh tranh bước đầu ở một số lĩnh vực dịch vụ vẫn còn hạn chế. Về cơ bản môi trường pháp lý là phù hợp với yêu cầu của hội nhập, mà đặc biệt là chuẩn bị cho việc gia nhập WTO trong thời gian tới, nhưng các quy định pháp lý này chưa đủ chi tiết để thực hiện, cần phải rà soát lại và cụ thể hóa hơn.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được thì ngành viễn thông Việt Nam vẫn còn những yếu kém. Mặc dù tốc độ tăng trưởng của ngành cao nhưng sự phát triển của ngành viễn thông Việt Nam vẫn còn ở mức kém trong số các nước trong khu vực. Tuy nhiên, sự phát triển ở mức thấp này lại là một hứa hẹn mang tính cạnh tranh cao của ngành đối với các nhà đầu tư. Đây là hai mặt của một vấn đề. Tiềm lực của các doanh nghiệp viễn thông của Việt Nam còn rất yếu, do đó việc mở cửa thị trường non trẻ của viễn thông Việt Nam khi tham gia hội nhập sâu hơn, các doanh nghiệp sẽ gặp không ít thử thách. Mặc dù mức độ tiêu dùng dịch vụ viễn thông đã tăng rất nhanh nhưng ngành viễn thông vẫn chiếm tỷ trọng nhỏ trong nền kinh tế. Một trong những hạn chế nữa của ngành trong quá trình hội nhập là năng suất lao động của ngành vẫn ở mức thấp hơn rất nhiều so với mức trung bình của khu vực. Cơ cấu nguồn nhân lực đang chuyển dịch theo hướng tăng cường cả số lượng và chất lượng, tuy nhiên chất lượng đào tạo nguồn nhân lực của Việt Nam vẫn còn thấp so với khu vực, chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế.
Để ngành viễn thông của Việt Nam hội nhập tốt hơn, tận dụng được các lợi ích từ quá trình hội nhập và hạn chế tối đa những xáo trộn hay thiệt hại khi tham gia hội nhập quốc tế, cần xem xét đến những vấn đề như sau:
Thứ nhất, Việt Nam cần phải xây dựng một môi trường thực sự cạnh tranh trong ngành viễn thông, trong đó các doanh nghiệp mới sẽ đóng góp vào 30% thị phần các dịch vụ viễn thông cơ bản.
Thứ hai, Nhà nước phải có chính sách xây dựng hai hoặc ba doanh nghiệp có tiềm lực mạnh, làm trụ cột cho ngành để khi các cam kết mở cửa thị trường theo WTO có hiệu lực, chúng ta đã có những doanh nghiệp có tiềm lực mạnh ngang tầm với những tập đoàn viễn thông lớn trên thế giới tham gia vào thị trường Việt Nam.
Thứ ba, Chính phủ mà đại diện là Bộ Bưu chính Viễn thông cần phải xây dựng một môi trường đảm bảo cạnh tranh trong lĩnh vực viễn thông. Về các biện pháp bảo đảm cạnh tranh thì cần ban hành quy chế cụ thể về hành vi cạnh tranh, thành lập Hiệp hội viễn thông cũng như hiệp hội của các ngành khác, hạn chế tối đa và đi đến xóa bỏ sớm hình thức bao cấp chéo. Mô hình Tập đoàn Bưu chính Viễn thông (VNPT) đã được thành lập, chúng ta cần phải đẩy nhanh việc hạch toán độc lập giữa các đơn vị thành viên của Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam. Về kết nối, nên thành lập một công ty riêng không trực thuộc VNPT như hiện nay để quản lý hạ tầng mạng viễn thông quốc gia. Có như vậy, vấn đề về kết nối mới được giải quyết.
Thư tư, trong thời điểm hiện nay, Nhà nước mà đại diện là Bộ Bưu chính Viễn thông vẫn cần phải quản lý về giá cước. Bộ Bưu chính Viễn thông cần lập một tổ công tác đặc biệt để khảo sát, tính toán, cân đối và định giá lại các loại cước phí trên nguyên tắc giá cả phản ánh chi phí nhưng vẫn đảm bảo nhà nước, doanh nghiệp và người tiêu dùng cùng có lợi. Trên cơ sở đó xây dựng một lộ trình (tăng, giảm) cước cho phù hợp để làm sao các doanh nghiệp mới tồn tại, phát triển và đủ mạnh để có thể cạnh tranh khi thị trường thực sự tự do hóa theo các cam kết gia nhập WTO, người tiêu dùng cũng được lợi đó là mặt bằng giá cước trung bình của các dịch vụ giảm đi và chất lượng dịch vụ tốt hơn.
Cuối cùng, đã đến lúc các doanh nghiệp viễn thông của Việt Nam phải chuẩn bị cho mình một nguồn lực đủ mạnh để khi thị trường mở cửa cho các doanh nghiệp viễn thông nước ngoài vào theo các cam kết gia nhập WTO thì chúng ta không bị xáo trộn mạnh. Nguồn lực ở đây bao gồm tiềm lực về kinh tế, kiến thức về hội nhập, kinh nghiệm quản lý, tiềm lực về công nghệ, nguồn lực về con người...
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt:
Đinh Văn Ân. Việt Nam tích cực chuẩn bị gia nhập WTO trong một số lĩnh vực dịch vụ. Nxb Văn hoá - Thông tin, Hà Nội, 2004.
TS. Đỗ Đức Bình, TS. Nguyễn Thường Lạng. Giáo trình Kinh tế Quốc tế, Nxb Lao động Xã hội, Hà Nội, 2002.
PGS. TS. Nguyễn Như Bình. Những vấn đề cơ bản về thể chế hội nhập kinh tế quốc tế. Nxb Tư Pháp, Hà Nội, 2004.
PGS.TS. Nguyễn Như Bình. Giáo trình Kinh tế học Quốc tế. Viện đại học Mở, Hà Nội, 2005.
Bộ Bưu chính Viễn thông. Sổ tay quản lý viễn thông. Nxb Bưu Điện, Hà Nội, 2003.
Bộ Bưu chính Viễn thông. Pháp lệnh Bưu chính Viễn thông. Nxb Bưu điện, Hà Nội, 2003.
Bộ Bưu chính Viễn thông. Báo cáo tổng kết năm 2003, 2004
Bộ Bưu chính Viễn thông. Chiến lược phát triển Công nghệ Thông tin và Truyền thông Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020. Hà Nội, 2004.
Bộ Bưu chính Viễn thông và UNDP. Tài liệu tại ”Diễn đàn Quốc gia mở đường cho chiến lược công nghệ thông tin và truyền thông Việt Nam”. Hà Nội, 12/2003.
Tổng cục Bưu Điện. Tổng quan hiện trạng viễn thông Việt Nam. Nxb Bưu Điện, Hà Nội, 2002.
Tổng cục Bưu Điện. Quản lý viễn thông trong môi trường cạnh tranh. Nxb Bưu Điện, Hà Nội, 2002.
Uỷ ban Quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế. Các văn kiện cơ bản của Tổ chức Thương mại Thế giới. Nxb Thanh Niên, Hà Nội, 2003.
Tạp chí Bưu chính Viễn thông T3/2005, 2/2005, 1/2005, 12/2004, 2/2004, 1/2004, 12/2003, 11/2003, 9/2003, 8/2003, 7/2003, 6/2003, 3/2003.
Bộ Bưu chính Viễn thông: website
Bộ Kế hoạch Đầu tư: website
Bộ Thương mại: website
Tạp chí Bưu chính Viễn thông: website
Viện Chiến lược Bưu chính, Viễn thông và CNTT: website
Tiếng Anh:
Braga. C.A.P. Liberalizing Telecommunications and the Role of the WTO, Public Policy for the Private Sector Note 120. July 1997. Washington, DC: The World Bank Group.
OECD. Price Caps for Telecommunications Policies and Experiences in Information Coputer Communications Policy, Paris, 1995.
ITU. World Telecom Development Report 1998. Universal Access, Geneva, 1998.
ITU. Trends in Telecommunicaton Reform, Convergence and Regulation. Geneva, 1999.
ITU: website
PHỤ LỤC 1:
Hệ thống các văn bản pháp luật của Nhà nước hiện đang điều chỉnh việc quản lý các hoạt động liên quan đến lĩnh vực viễn thông và Internet
Nghị định số 55/2001/NĐ-CP ngày 23/8/2001 về quản lý, cung cấp và sử dụng dịch vụ Internet.
Quyết định số 158/2001/QĐ-TTg ngày 18/10/2001 phê duyệt chiến lược phát triển Bưu chính – Viễn thông Việt nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020.
Quyết định số 33/2002/QĐ-TTg ngày 8/2/2002 phê duyệt kế hoạch phát triển Internet Việt Nam giai đoạn 2001 – 2005.
Quyết định số 35/2002/QĐ-TTg ngày 12/3/2002 về chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Hiệp định Thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ.
Quyết định số 95/2002/QĐ-TTg ngày 17/7/2002 phê duyệt kế hoạch tổng thể về ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin ở Việt Nam đến năm 2005.
Pháp lệnh Bưu chính Viễn thông số 43/2002/PL-UBTVQH10 đã được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khoá X thông qua ngày 25/02/2002, có hiệu lực từ ngày 01/10/2002.
Nghị định số 90/2002/NĐ-CP ngày 11/11/2002 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Bưu chính Viễn thông.
Quyết định số 176/2002/QĐ-TTg ngày 3/12/2002 về việc thành lập Ban chỉ đạo Chương trình hành động triển khai chỉ thị số 58-CT/TW của Bộ Chính trị về đẩy mạnh ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin trong sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá giai đoạn 2001 – 2005.
Quyết định số 217/2003/QĐ-TTg ngày 27/10/2003 về quản lý giá cước dịch vụ bưu chính, viễn thông.
Nghị định số 24/2004/NĐ-CP ngày 14/1/2004 quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh Bưu chính Viễn thông về tần số vô tuyến điện.
Nghị định số 101/2004/NĐ-CP ngày 25/02/2004 về việc thành lập Sở Bưu chính Viễn thông thuộc Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Quyết định số 235/QĐ-TTg ngày 2/3/2004 phê duyệt dự án tổng thể “ứng dụng và phát triển phần mềm nguồn mở ở Việt Nam giai đoạn 2004 – 2008”
Quyết định số 58/2004QĐ-TTg ngày 23/03/2004 về việc phê duyệt đề án thí điểm hình thành Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam.
Nghị định số 142/2004/NĐ-CP ngày 8/7/2004 về việc quy định xử phạt vi phạm hành chính về bưu chính, viễn thông và tần số vô tuyến điện.
Quyết định số 191/2004/QĐ-TTg về việc thành lập, tổ chức và hoạt động của Quỹ dịch vụ viễn thông công ích Việt Nam.
Nghị định 160/2004/NĐ-CP ngày 03/09/2004 quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh Bưu chính Viễn thông về viễn thông.
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- R0002.doc