Nghệ thuật thưởng trà thực sự là tài nguyên du lịch văn hóa đặc sắc của dân
tộc có nhiều tiềm năng phát triển du lịch. Bởi vậy, xác định du lịch là một ngành
kinh tế mũi nhọn, một vài năm gần đây ngành chè đã phối hợp với các ngành chức
năng khác tổ chức các lễ hội văn hóa trà với nhiều chương trình đặc sắc, hấp dẫn,
nhằm phát huy thế mạnh của cây trà cũng như nghệ thuật thưởng trà đến tất cả mọi
người cùng với việc thành lập nhiều câu lạc bộ trà, mở những quán trà Việt phục vụ
khách du lịch trong và ngoài nước. Tuy nhiên việc khai thác nghệ thuật thưởng trà
phục vụ cho hoạt động du lịch còn gặp rất nhiều vấn đề khó khăn, đòi hỏi ngành du
lịch cần có nhiều giải pháp thiết thực để khai thác có hiệu quả hơn nghệ thuật
thưởng trà, làm nền văn hóa “ẩm thủy” này mãi tỏa hương không bị quên lãng, mai
một theo thời gian.
61 trang |
Chia sẻ: linhlinh11 | Lượt xem: 894 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nghệ thuật thưởng trà Việt Nam và khả năng khai thác phát triển du lịch, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lạt, đồng thời cũng để
qủng bá và tôn vinh th-ơng hiệu trà Lâm Đồng, năm 2008 tỉnh Lâm Đồng đã tổ
chức lễ hội văn hóa trà Lâm Đồng với tên gọi “H-ơng sắc trà B’lao” từ ngày 4 đến
mồng 7/12 tại vựa chè lớn nhất n-ớc đó là thị xã Bảo Lộc. Lễ hội diễn ra với 7
Đề tài nghiên cứu khoa học
Trần Thị Nguyệt - VHL101 Tr-ờng ĐHDL Hải Phòng
35
ch-ơng trình chính: hoạt động diễu hành đ-ờng phố “Tưng bừng lễ hội”; hoạt động
triển lãm và xúc tiến th-ơng mại “B’lao - thương hiệu trà Việt”; đêm lễ khai mạc
“Hương sắc trà B’lao”; trình diễn thời trang tơ lụa Bảo Lộc “Duyên dáng xứ trà”;
đêm hội uống trà “Trà trong không gian và thời gian”; tọa đàm hội thảo về trà “Trà
- những điều cần biết” và đêm lễ tổng kết bế mạc. Bên cạnh đó còn có nhiều hoạt
động mở với chủ đề “Sắc màu lễ hội” tạo sân chơi cho du khách và nhân dân địa
ph-ơng các làng trà. Đây là dịp để ng-ời dân Lâm Đồng tự hào với đồi chè xanh
ngát quanh năm cùng h-ơng trà thơm tồn tại hơn 80 năm qua. Đồng thời cũng là cơ
hội để ng-ời dân xứ trà chuyển bức thông điệp của trà và văn hóa trà đến tất cả mọi
ng-ời.
Đêm khai mạc lễ hội “Hương sắc trà B’lao” được dàn dựng theo phong cách
kết hợp giữa nghi thức lễ với các loại hình nghệ thuật biểu diễn truyền thống và
đ-ơng đại thấm đẫm h-ơng sắc, hơi thở của con ng-ời vùng trà. Những hình ảnh
các cô gái xứ trà Bảo Lâm, Di Linh, Bảo Lộc tần tảo gùi chè đều đ-ợc tái hiện
một cách sinh động. Đặc biệt có tiết mục mở màn hòa nhạc dân tộc - tiếng vọng
Nam Tây Nguyên rất ấn t-ợng bởi những loại nhạc cụ truyền thống nh-: trống,
chiêng, đàn đá, đàn T’rưng và dàn nhạc dân tộc mang đậm màu sắc Tây Nguyên.
Ngoài ra, với 700 diễn viên hóa thân vào đồng chè, nhà máy và biểu t-ợng
búp chè, cùng các mô hình nông cụ sản xuất trà truyền thống nh- dẫn dắt mọi
ng-ời theo dòng thời gian tái hiện lại lịch sử phát triển của ngành trà Lâm Đồng.
Lễ hội còn có sự tham gia của hơn 56 doanh trà trong chương trình triển lãm “B’lao
thương hiệu trà Việt” cùng các làng trà diễu hành xe hoa, điểm xuyến vào đó là sự
xuất hiện của các làng trà với hình ảnh những đồi chè mênh mông, những danh trà
nổi tiếng ở Bảo Lộc nh- trà Sói, trà Lài, trà Ô long
Trong đêm lễ hội còn có các giọng ca của các ca sĩ và các vũ đoàn nổi tiếng
hòa cùng 200 diễn viên không chuyên đến từ làng trà Lộc Tiến hợp x-ớng bài ca
“Bảo Lộc quê hương tôi” vang dậy niềm tự hào của vùng đất xứ trà. Qua lễ hội văn
hóa trà Lâm Đồng lần này, cây trà đã có thêm điều kiện phát triển, quan trọng hơn
nó đã tiếp sức cho mỗi ng-ời dân Việt Nam thêm yêu cây trà đồng thời giúp cho
Đề tài nghiên cứu khoa học
Trần Thị Nguyệt - VHL101 Tr-ờng ĐHDL Hải Phòng
36
thương hiệu trà B’lao trở thành một trong những th-ơng hiệu trà Việt đ-ợc biết đến
nhiều nhất trên bản đồ trà thế giới.
2.4. Tiểu kết
Trà Việt chính là một trong những quốc hồn tinh túy, một trong những di sản
văn hóa đặc sắc vô giá của dân tộc Việt Nam. Mỗi ng-ời đều có thể tìm thấy ở đây
một nét hay trong vô vàn điều hay của văn hóa dân tộc, cũng có thể tìm thấy ở đây
một góc của tâm hồn mình mà đâu đó đã bị lãng quên trong nhịp sống công nghiệp
chốn thị thành. Không phải bỗng d-ng, mà tại Hà Nội hiện nay ngày càng có thêm
nhiều quán trà và quán trà nào cũng luôn đông khách. Điều đó cũng đủ thấy rằng
lòng ái mộ với văn hóa trà Việt đang ngày đ-ợc chú ý. Việc đi uống trà vào ngày
cuối tuần để thả hồn mình, để cùng ngồi và chia sẻ với bạn bè, ng-ời thân là một
trong những khoảng thời gian đáng qúy nhất và cũng là thú vui tao nhã nhất trong
cuộc sống bận rộn hôm nay.
Và cũng thật th- thái, khi đ-ợc thả hồn theo gió, theo mây trong không gian
bạt ngàn màu xanh của lễ hội văn hóa trà, để bỏ quên cái trần tục bận rộn, bộn bề
của cuộc sống. Văn hóa trà đang thực sự tỏa h-ơng không chỉ trong tiềm thức của
ng-ời dân đất Việt, mà nó còn lan tỏa sức hút kỳ diệu của mình trên khắp năm
châu. Và đó chính là một tiền đề, để những ng-ời làm du lịch có quyền nghĩ xa hơn
về một t-ơng lai sáng lạn hơn cho trà Việt - cho nghệ thuật “ẩm” Việt Nam.
Đề tài nghiên cứu khoa học
Trần Thị Nguyệt - VHL101 Tr-ờng ĐHDL Hải Phòng
37
Ch-ơng 3: một số giải pháp nâng cao khả năng khai thác
nghệ thuật trà Việt phục vụ phát triển du lịch
3.1. Một số thuận lợi và khó khăn trong việc khai thác nghệ thuật trà Việt
phục vụ phát triển du lịch
3.1.1. Thuận lợi
B-ớc chân lên mỗi vùng, miền của đất n-ớc là mỗi cảm nhận khác nhau
trong lòng của du khách. Chậm rãi, khoan thai, thong thả đi dạo trên những cánh
đồng chè, những đồi chè, tâm trạng mỗi ng-ời sẽ cảm thấy lâng lâng và nh- hít sâu
vào lồng ngực mình một thứ cảm giác đặc biệt khó nói đ-ợc thành lời. Từ miền Bắc
đến miền Nam, từ trung du lên đến vùng núi cao, bất cứ nơi đâu cũng có sự hiện
diện của cây trà. Uống trà đã thành một phần tất yếu trong đời sống của ng-ời Việt,
không thể thiếu đi đ-ợc.
Từ x-a đến nay, ăn hay uống là một nhu cầu cần thiết của cơ thể con ng-ời,
nhằm duy trì sự cân bằng trọng l-ợng, đảm bảo n-ớc cho sự phát triển của cơ thể.
Các nhà dinh d-ỡng học đã từng nói: ng-ời ta có thể nhịn ăn đ-ợc nhiều ngày
nh-ng nhịn uống 2 ngày sẽ nguy hiểm đến tính mạng. Khát thì mới uống, đó là lẽ
đ-ơng nhiên. Nh-ng đôi khi không khát mà ng-ời ta vẫn cần uống, uống để mang
lại sự sảng khoái cho cơ thể và cũng là để thẩm thấu cho trọn vẹn một trong những
thú vui được xếp vào hàng “tứ khoái” của con ng-ời - thú vui ẩm thực.
Ng-ời ta có thể uống theo nhiều cách với nhiều loại đồ uống khác nhau. Và
trong vô vàn cách uống ấy của ng-ời Việt, phải kể đến cái thú uống trà - một thứ
n-ớc uống lâu đời, cho đến nay nó vẫn là một trong những tâm điểm nổi bật trong
văn hóa ẩm thực của dân tộc.
Theo một số nghiên cứu của phó tiễn sĩ Đỗ Ngọc Qũy và thành viên của hiệp
hội trà Việt Nam, trà Việt Nam gồm hai dòng chè t-ơi là trà bản địa và trà tàu
Trung Hoa. Nghệ thuật trà Việt có nhiều tiềm năng để khai thác phát triển loại hình
du lịch văn hóa. Nghệ thuật th-ởng trà Việt Nam không cầu kỳ, không kén khách,
không quá nhiều nghi thức phức tạp, phù hợp với nhiều đối t-ợng. Tại một số vùng
Đề tài nghiên cứu khoa học
Trần Thị Nguyệt - VHL101 Tr-ờng ĐHDL Hải Phòng
38
có khí hậu đặc tr-ng cho những loại trà rất độc đáo nh- loại trà cho vị cốm vòng ở
Tân C-ơng ( Thái Nguyên), trà cho màu mận chín ở Vân Đồn (Quảng Ninh)...
Tr-ớc đây, th-ởng trà chỉ đ-ợc xem là thú vui tao nhã dành riêng cho các
bậc tao nhân mặc khách, vừa nhâm nhi th-ởng trà vừa ngâm thơ, ngắm hoa th-ởng
nguyệt, luận bàn thế sự. Trong các gia đình uống trà xanh để giả khát, để bắt đầu
một ngày mới, trong những buổi làm đồng vất vả. Ngày nay, uống trà đã đ-ợc
nhiều đối t-ợng khác trong xã hội biết đến và nó trở nên phổ biến hơn, đ-ợc nâng
lên thành thuật ngữ “Việt Trà đạo”. Ngay giữa lòng thủ đô Hà Nội, đã có biết bao
nhiêu quán trà, hiên trà nổi tiếng đ-ợc thành lập, hội tụ đầy đủ những danh trà từ
trà Thái Nguyên, Lâm Đồng, Yên Bái, Hà Giang và d-ới bàn tay điêu luyện của
các bậc trà s- Việt Nam nh- cụ L- (chiếu trà L- trà quán); cụ Tr-ờng Xuân (chiếu
trà Tr-ờng Xuân), thú uống trà hay nghệ thuật uống trà vẫn đang tiếp nối các
mạch nguồn văn hóa truyền thống bất tận của ông cha từ trong lịch sử.
Yếu tố thuận lợi đầu tiên góp phần cho h-ơng trà Việt ngày càng phát triển
là khi đất n-ớc ta b-ớc vào thời hội nhập, đang tiến nhanh trên con đ-ờng hiện đại
hóa, thì sự tất bật của cuộc sống, không gian, thời gian làm việc căng thẳng của lối
sống công nghiệp càng ngày càng khiến cho con ng-ời ta luôn -ớc muốn một cảm
giác thanh thản và nhẹ nhàng, đ-ợc th- giãn để quên đi những giờ phút lao động
mệt nhọc, đ-ợc hàn huyên tâm sự với bạn bè, đ-ợc trải lòng mình, đ-ợc bình tâm
lắng nghe nhịp chảy của cuộc sống.
Vì thế những lúc thấy mệt mỏi, cơ thể yếu ớt, đầu óc nặng nề, ng-ời ta
th-ờng tìm đến ngồi trong một quán trà yên tĩnh, uống một tách trà mật ong tâm
sen để cảm thấy mình yên ổn hơn, đầu óc dịu dàng hơn. Hay cả khi tâm trí không
cảm thấy gì v-ớng bận, ng-ời ta vẫn có thể ngồi nhâm nhi một chén trà -ớp ngâu
dù chỉ để cảm nhận mùi h-ơng thơm ngọt, gợi nhớ những điều x-a cũ, để thấy cuộc
đời mình nhẹ tênh giống nh- một câu thơ của Pautopxki: “cuộc đời trôi qua tay nhẹ
nh- một vạt áo lụa”.
Ngày nay nhu cầu đi du lịch và th-ởng thức những cái mới lạ đang trở thành
một nhu cầu rất lớn đối với mỗi khách du lịch. Bởi vậy, mà ta sẽ chẳng thấy ngạc
nhiên khi những quán trà ở bất cứ nơi đâu, cho dù ở vỉa hè hay tại một nơi sang
Đề tài nghiên cứu khoa học
Trần Thị Nguyệt - VHL101 Tr-ờng ĐHDL Hải Phòng
39
trọng lúc nào cũng đông chật khách ra vào. H-ơng trà Việt thực sự đang lan tỏa
trong từng tâm hồn ng-ời Việt và nghệ thuật th-ởng trà không còn xa lạ với bất cứ
ai, thậm chí đối với cả thế hệ trẻ, nghệ thuật th-ởng trà cũng b-ớc đầu dành đ-ợc
sự ái mộ.
Yếu tố thuận lợi thứ hai, là một vài năm gần đây n-ớc ta đã tạo nhiều điều
kiện khai thác nghệ thuật trà Việt để phục vụ phát triển du lịch và quảng bá th-ơng
hiệu, bằng cách cho tổ chức các lễ hội trà hàng năm tại một số vùng chuyên canh
trồng trà nh- Thái Nguyên, Lâm Đồng. Vào những dịp lễ hội này, khách du lịch
trong n-ớc cũng nh- khách du lịch n-ớc ngoài đến rất đông, họ sẽ đ-ợc tiếp cận
với văn hóa trà Việt - một nền văn hóa trà mang đặc tr-ng riêng của Việt Nam
không cách thức, cầu kỳ nh- nền văn hóa trà Trung Hoa và Nhật Bản, đ-ơng nhiên
khi ra về họ sẽ mua cho mình những gói trà hảo hạng từ lễ hội làm quà biếu. Chính
điều đó đã góp phần cho loại hình du lịch văn hóa “ẩm” bước đầu có sự phát triển
mạnh mẽ.
Đặc biệt nghệ thuật th-ởng trà Việt còn đ-ợc giới thiệu một cách công phu,
bài bản trong những buổi sinh hoạt th-ờng nhật của các câu lạc bộ trà Việt, hiệp
hội chè Việt Nam, thu hút đ-ợc rất nhiều bạn trẻ cũng nh- khách du lịch n-ớc
ngoài yêu trà Việt tham gia. Hàng tháng tại câu lạc bộ trà Việt còn mở các lớp đào
tạo về trà nô sơ cấp, trung cấp chia thành nhiều khóa học trong năm. Tại đó, các trà
nô sẽ đ-ợc học cách pha trà và th-ởng trà của ng-ời Việt x-a, đây là cơ hội để giới
trẻ không quên lãng văn hóa trà Việt.
3.1.2. Khó khăn
N-ớc ta đứng thứ 6 trên thế giới về xuất khẩu trà, sau ấn Độ, Trung Quốc,
Inđonesia. Trong n-ớc đã thành lập đ-ợc các câu lạc bộ về trà và tổ chức tôn
vinh, quảng bá th-ơng hiệu trà Việt thông qua các lễ hội trà, b-ớc đầu có những
biện pháp khai thác loại hình nghệ thuật này phục vụ phát triển du lịch văn hóa, tuy
nhiên vẫn còn gặp vô vàn những khó khăn.
Tr-ớc tiên nghệ thuật th-ởng trà của n-ớc ta ch-a thể cạnh tranh với Trà đạo
của Nhật Bản và Trà kinh của Trung Quốc. Chất l-ợng trà ch-a cao bởi thiếu nhiều
thiết bị máy móc chế biến, lại ch-a tận dụng đ-ợc tối đa h-ơng vị tự nhiên. Các nhà
Đề tài nghiên cứu khoa học
Trần Thị Nguyệt - VHL101 Tr-ờng ĐHDL Hải Phòng
40
máy chế biến trà trong n-ớc nguồn vốn còn hạn hẹp, giống trà không đa dạng nh-
các n-ớc khác. Hơn thế do đặc thù về khí hậu, trà của Việt Nam nặng vị, ng-ời
Việt lại có thói quen uống trà mộc, thứ trà không -ớp tẩm trong khi đó ng-ời
ph-ơng Tây lại không có thói quen này, với họ trà phải kèm một h-ơng vị khác.
Các quán trà, hiên trà chất l-ợng cao trong n-ớc và những nghệ nhân am
hiểu thực sự về nghệ thuật th-ởng trà Việt ch-a có nhiều. Trong khi đó, ở một xã
hội hiện đại nh- ngày nay, nhu cầu th- giãn giải trí lại rất cao. Nơi cung ứng dịch
vụ đã ít, ng-ời hiểu biết về nghệ thuật th-ởng trà lại ít hơn, nên khách đến với văn
hóa trà Việt không đ-ợc giải thích, h-ớng dẫn một cách kĩ càng. Điều đó gây khó
khăn trong việc quảng bá sâu rộng cho khách du lịch biết và hiểu về giá trị đặc sắc
của nghệ thuật th-ởng trà Việt, đặc biệt đối với khách du lịch n-ớc ngoài vốn đã
gặp khó khăn tr-ớc sự bất đồng về ngôn ngữ và văn hóa.
Công tác quảng bá trà Việt đến khách du lịch còn hạn hẹp, khái niệm về văn
hóa trà Việt còn rất mơ hồ. Ch-a có những cuốn sổ tay địa chỉ quán trà Việt trong
hành trang của khách, họ đến quán trà có thể là do sự ngẫu nhiên nhiều hơn là tìm
về một địa chỉ quán trà quen thuộc. Dấu ấn về nghệ thuật th-ởng trà Việt trong
hành trình du lịch của khách n-ớc ngoài vẫn ch-a sâu đậm, vì thế sự thu hút khách
du lịch từ loại hình du lịch văn hóa trà còn hạn chế.
Thứ hai là do đặc tính của ng-ời Việt Nam cần cù chăm chỉ “tham công tiếc
việc” mà th-ởng trà là một thú vui không phải ai cũng theo đ-ợc, do đó họ khó
lòng ngồi nhâm nhi một chén trà với những nghệ thuật pha chế cầu kỳ, chờ trà
ngấm rồi uống theo đúng trình tự của một nghệ thuật. Trên thị tr-ờng hiện nay lại
có những hãng trà từ n-ớc ngoài du nhập vào n-ớc ta nh- hãng trà Lipton, hãng trà
Dilmah với nhiều h-ơng vị nh- dâu, chanh, táo, đào hoặc là trà túi lọc hoặc là trà
bột uống liền vừa nhanh chóng, tiện lợi, màu sắc và h-ơng vị đa dạng, dễ uống vừa
cuốn hút ng-ời uống với phong cách mới mẻ, độc đáo. Trong sự t-ơng quan đó, trà
Việt dần dần bị mai một trong tâm trí của mỗi ng-ời.
Nền kinh tế n-ớc ta còn hạn hẹp, nhà n-ớc ch-a có nhiều chính sách nâng
cao chất l-ợng cây trà. Các ngành chức năng có liên quan đến du lịch ch-a nắm bắt
hết giá trị cũng nh- tiềm năng phát triển du lịch từ nền văn hóa trà hay nghệ thuật
Đề tài nghiên cứu khoa học
Trần Thị Nguyệt - VHL101 Tr-ờng ĐHDL Hải Phòng
41
th-ởng trà đặc sắc này. Vì thế khái niệm khai thác nghệ thuật th-ởng trà phục vụ
phát triển du lịch còn quá mới mẻ và gặp nhiều bất cập, những năm gần đây có
triển khai ứng dụng song ch-a đi vào khai thác một cách triệt để. Đó là những khó
khăn cần phải khắc phục sớm nếu muốn đ-a nghệ thuật trà Việt trở thành một
nguồn tài nguyên du lịch nhân văn thực sự độc đáo và hấp dẫn đối với du khách
trong và ngoài n-ớc.
3.2. Giải pháp khai thác phát triển du lịch đối với nghệ thuật trà Việt
Trong thời đại ngày nay, khi kinh tế ngày càng phát triển và các quốc gia
trên thế giới ngày càng xích lại gần nhau thì vấn đề văn hóa dân tộc đang ngày một
trở thành trung tâm của sự chú ý. Văn hóa Việt Nam với bề dày truyền thống lịch
sử từ ngàn x-a vẫn mang trong mình những nét đẹp bản sắc dân tộc. Xã hội mỗi
ngày một tiến bộ, loài ng-ời sống văn minh lịch sự vì thế mà việc ăn, ở, đi lại đều
đ-ợc đề cao và chú trọng nhiều hơn. Và vấn đề uống gắn bó với tất cả mọi ng-ời
t-ởng đã quá quen thuộc nh-ng vẫn ẩn chứa nhiều điều mới lạ, t-ởng là đơn giản
nh-ng lại rất phong phú, cầu kỳ, phát triển khi đặt nó trong thú đi du lịch - uống là
phải có nghệ thuật.
Uống trà là một nghệ thuật có tính văn hóa và xã hội ở Việt Nam. Thời gian
uống trà cũng là một thái độ tĩnh tâm và tu luyện giúp cho cuộc sống thêm th- giãn
và quên bớt phiền não, bon chen, cho nên x-a nay nó đã trở thành “nghi thức tôn
giáo” gần nh- khắp thế giới.
Phong cách th-ởng trà đ-ợm hồn dân tộc trầm mặc, ý nhị, phóng khoáng và
độc đáo đã tạo nên điểm nhấn cho trà Việt. Quanh chén trà là mọi cung bậc của
cuộc sống, là lễ nghĩa với đời.
Đây là một nguồn tài nguyên có nhiều tiềm năng phát triển du lịch. Nh-ng
tiếc rằng, trong thời đại ngày nay nghệ thuật th-ởng trà đã bị mai một rất nhiều,
không mấy ai còn l-u tâm về một nền “văn hóa tỏa h-ơng” của dân tộc mình.
Chính vì thế việc phát huy, giữ gìn bản sắc văn hóa trà Việt là một vấn đề cần thiết.
Thông qua việc tìm hiểu, đánh giá thực trạng của nghệ thuật th-ởng trà Việt, ng-ời
viết đã mạnh dạn đề xuất một số giải pháp với hy vọng, góp một phần nhỏ vào việc
Đề tài nghiên cứu khoa học
Trần Thị Nguyệt - VHL101 Tr-ờng ĐHDL Hải Phòng
42
đ-a nghệ thuật trà Việt vào khai thác, phát triển du lịch văn hóa “ẩm” một cách có
hiệu quả.
3.2.1. Khai thác hợp lý giá trị của cây trà Việt
Chè ở Việt Nam đ-ợc trồng chủ yếu trên đất đồi núi ở nhiều tỉnh trung du và
miền núi phía Bắc; miền Trung là Hà Tĩnh; Nam Trung Bộ là Gia Lai với Lâm
Đồng d-ới hai hình thức chủ yếu là nông tr-ờng và hộ gia đình. Hiện nay, diện tích
trồng chè của Việt Nam đạt 70.000 ha và đạt sản l-ợng chè búp khô khoảng 45.000
tấn/năm. Hàng năm, Việt Nam xuất khẩu chè sang khoảng 30 n-ớc với sản phẩm
chủ yếu là chè đen, trong đó, thị tr-ờng Trung Đông chiếm đến 40- 50% tổng kim
ngạch xuất khẩu.
Việt Nam có nhiều điều kiện thiên nhiên và đất đai thuận lợi để phát triển
cây trà, có thể nhập nhiều loại trà nh- trà Ôlong, trà Tân C-ơng, trà Khuôn Gà, La
Bằng từ các n-ớc về trồng. Nh-ng có lẽ, do đ-ợc trời phú cho một tài nguyên đất
đai màu mỡ mà những loại trà này khi đ-ợc đem về n-ớc ta trồng đều cho những
h-ơng vị đặc tr-ng từ lâu đã trở thành th-ơng hiệu khó quên của những thực khách
sành uống trà trong và ngoài n-ớc.
Tuy nhiên, những giống trà cổ thụ nổi tiếng chỉ có ở Việt Nam nh- trà Suối
Giàng ở Yên Bái; trà Shan Tuyết ở Hà Giang, trà Tuyết Shan ở Tủa Chùa - Điện
Biên, trà Chờ Lồng thuộc huyện mộc Châu (Sơn La) đều là những giống trà có chất
l-ợng cao song tên tuổi của nó vẫn còn mờ nhạt trên thị tr-ờng.
Trà Shan là loại tài nguyên thực vật quí có vị đắng, chát, uống vào thì thấy
tỉnh táo và khoan khoái hẳn lên. Đây là một trong bốn biến chủng trà phổ biến ở
n-ớc ta có đặc điểm nổi bật là cây gỗ lớn, lá có diện tích lớn, răng c-a sâu, búp trà
lớn, tôm trà có lông trắng nh- tuyết cho năng suất búp cao, chất l-ợng tốt. Trà Shan
đ-ợc phân bố trên vùng núi cao trên 600 m, hàm l-ợng axit amin cao 30 - 35
mg/100g, caffein đơn giản cũng cao hơn, trà xanh thu hoạch bốn lứa/năm không
dùng phân hóa học, thuốc trừ sâu; khi dùng sản phẩm từ loại trà này có nhiều chất
dinh d-ỡng rất tốt cho sức khỏe. Đây là một giống trà tốt nh-ng từ lâu giá trị của
nó vẫn ch-a đ-ợc khai thác một cách triệt để.
Đề tài nghiên cứu khoa học
Trần Thị Nguyệt - VHL101 Tr-ờng ĐHDL Hải Phòng
43
Gần đây do nhận biết đ-ợc tính chất độc đáo và tiềm năng của cây trà Shan
vùng núi cao, n-ớc ta đã và đang cho quy hoạch cụ thể lại các vùng trà Shan. Dựa
trên yêu cầu về kinh tế xã hội, n-ớc ta đã quy hoạch các vùng trà Shan núi cao theo
vùng, kèm theo các điều kiện về cơ sở hạ tầng, giao thông điện, tiến tới đa dạng
hóa sản phẩm chế biến từ trà Shan núi cao. Ngoài những sản phẩm truyền thống
nh- trà xanh, trà vàng Hà Giang, trà xanh Suối Giàng, hiện còn có thêm sản phẩm
mới nh- trà đen chất l-ợng cao đóng gói túi lọc, trà xanh chất l-ợng cao, trà h-ơng
hoa...; đặc biệt chú ý phát huy thế mạnh của trà an toàn, trà hữu cơ, đẩy mạnh tiếp
thị trên thị tr-ờng trong và ngoài n-ớc.
Trà Chờ Lồng thuộc huyện Mộc Châu (Sơn La) cũng là những cây trà cho
giá trị cao nhất. Cây trà cổ thụ Chờ Lồng đ-ợc trồng trên cao nguyên Mộc Châu từ
cách đây 200 năm, là “mẹ đẻ” của 50% diện tích trà cao nguyên Mộc Châu. Trà cổ
thụ Chờ Lồng hiện có chủ yếu ở Chờ Lồng và một phần của xã Tân Lập, huyện
Mộc Châu, với diện tích -ớc đạt trên 200 ha. Đây là loại trà có tỷ lệ đ-ờng, caffein
nhiều hơn và tỷ lệ chất chát (tananh) ít hơn so với các loại trà trồng ở các nơi khác,
cho sản l-ợng cao, khả năng chống hạn, chống rét và phòng trừ sâu bệnh tốt nên trở
thành vùng nguyên liệu quan trọng cho ngành sản xuất trà Mộc Châu. Hiện nay sản
l-ợng từ cây trà Chờ Lồng đ-ợc thu hoạch đạt trên 300 tấn/ năm, chủ yếu sản xuất
thành sản phẩm trà xanh dùng cho xuất khẩu, thị tr-ờng tiêu thụ chủ yếu là các
n-ớc Nam á và Nhật Bản.
Tuy nhiên việc khai thác giá trị của giống trà này vẫn ch-a xứng với tiềm
năng vốn có của nó. Ng-ời trồng trà cũng nh- những nhà kinh doanh sản xuất trà
trong n-ớc còn nhận thức một cách rất “hời hợt” về giá trị tiềm ẩn từ loại trà này,
ch-a có định h-ớng đầu t- để phát triển cây trà theo quy hoạch, hiện đại hóa để
tăng tỷ lệ các sản phẩm trà tinh chế có chất l-ợng cao và đa dạng hóa sản phẩm.
Cây trà cổ thụ Chờ Lồng đang đứng tr-ớc nguy cơ bị xóa sổ do tình trạng quản lý
không tốt từ các ngành chức năng, nhiều cây đã bị đốn trộm và trở thành mục tiêu
săn lùng của các đối t-ợng thu mua cây cảnh.
Qua đó, có thể thấy rằng n-ớc ta đang dần đánh mất đi một nguồn tài
nguyên trà có giá trị mà bao đời nay cha ông ta cố gắng gìn giữ và bảo tồn, dẫn đến
Đề tài nghiên cứu khoa học
Trần Thị Nguyệt - VHL101 Tr-ờng ĐHDL Hải Phòng
44
th-ơng hiệu trà Việt bị mờ nhạt so với th-ơng hiệu trà Trung Hoa và Nhật Bản.
Đứng tr-ớc hiện trạng đó, ngành chè Việt Nam cần có những biện pháp khai thác
một cách hợp lý nhất giá trị của cây trà, nên tiến hành quy hoạch, định h-ớng nhân
giống và phát triển trồng với diện tích rộng những giống trà cổ thụ quý hiếm song
song với những giống trà khác; đồng thời tăng c-ờng quảng bá với khách du lịch về
những giá trị của giống trà này bằng cách tung ra thị tr-ờng những sản phẩm trà đa
dạng và độc đáo.
3.2.2. Xây dựng các ch-ơng trình du lịch th-ởng thức và tìm hiểu về nghệ thuật
trà Việt Nam
Uống trà từ lâu đã gắn bó mật thiết với nền văn minh Đại Việt và trở thành
một nét đẹp văn hóa đặc tr-ng của ng-ời Việt. Tục uống trà và văn hóa trà Việt
cũng biến thiên theo thời gian. Ngay đầu thập kỷ 70 “trà chén” đã trở thành một tập
quán uống mới ở Hà Nội và các đô thị lớn ở miền Bắc. Sau năm 1975 du nhập thêm
tập quán uống trà đá ở miền Nam. Và dân nghiền trà Việt Nam cũng bắt đầu tiếp
nhận kiểu uống trà đặc của các cán bộ miền Nam tập kết ra Bắc, trong số các loại
trà đặc sản nổi tiếng của miền Bắc đ-a vào phải kể đến trà móc câu - Thái Nguyên.
M-ời năm trở lại đây cùng với tác phong công nghiệp và chính sách mở cửa,
cho phép ng-ời dân đ-ợc tiếp xúc với môi tr-ờng bên ngoài, với các nền văn hóa
khác nhau trên thế giới, đồng thời có điều kiện học hỏi kỹ thuật sản xuất tiên tiến
cũng nh- nhiều tri thức bổ ích khác. N-ớc ta đã du nhập rất nhiều loại trà từ Trung
Hoa, Anh với nhiều cách uống mới, phổ biến trong công chức, giới trẻ nh- các
loại trà túi lọc uống ngay, thêm đ-ờng sữa và chanh lát mỏng. Nh-ng bên cạnh
những loại n-ớc uống hội nhập ấy, những kiểu uống trà truyền thống độc ẩm, đối
ẩm, quần ẩm vẫn còn vẹn nguyên với người Việt. Câu thành ngữ “rượu ngâm nga,
trà liền tay” vẫn giữ được giá trị kinh điển của nó. Dù nắng mưa, dù buồn, dù vui,
lúc hiếu, lúc hỷ, ngày t- tháng tết, dù uống r-ợu, uống bia và nhất là những lúc tiệc
tùng vẫn không thể thiếu đi một tách trà. Chính vì thế mà ta cần phải xây dựng các
ch-ơng trình du lịch th-ởng thức và tìm hiểu về nghệ thuật trà đạo Việt Nam để
h-ơng trà Việt mãi tr-ờng tồn, lan tỏa, bắt rễ tạo thành một trào l-u du lịch trong
xã hội.
Đề tài nghiên cứu khoa học
Trần Thị Nguyệt - VHL101 Tr-ờng ĐHDL Hải Phòng
45
Hiện nay, tại Hà Nội đã có rất nhiều những quán trà với những danh trà nổi
tiếng từ mọi miền của đất n-ớc, hơn thế Hà Nội lại là thủ đô, là nơi hội nhập, kết
tinh và lan tỏa văn hóa. Hàng năm khách du lịch trong và ngoài n-ớc đến Hà Nội
du lịch tham quan, chiêm bái cảnh quan, các khu di tích lịch sử rất đông. Đây là
một điều kiện thuận lợi để khách du lịch tiếp cận với nền văn hóa trà Việt. Ta có
thể đ-a địa chỉ một số quán trà nổi tiếng vào ch-ơng trình city tour của khách, sau
mỗi chuyến đi tham quan, ngao du hòa mình vào nhịp sống chốn thành thị đầy mệt
mỏi, du khách sẽ trở về những quán trà này để th- giãn nghỉ ngơi. ở đó du khách
sẽ đ-ợc sống thật với lòng mình, đ-ợc hàn huyên chia sẻ với nhau những khoảnh
khắc tuyệt vời nhất của chuyến đi. Với không gian ấm cúng, yên tĩnh cùng việc
nhấp một chén trà, màu n-ớc vàng sóng sánh hòa quyện cùng h-ơng trà dịu dịu,
lắng nghe những bản nhạc du d-ơng nhẹ nhẹ, tâm trí của mỗi ng-ời sẽ đ-ợc th-
giãn, lắng đọng, tăng lên bội phần phấn khởi. Trên nền cảnh đó, những trà s- xuất
hiện một cách đúng lúc, đúng chỗ gợi mở và giới thiệu một cách tỷ mỷ về nghệ
thuật th-ởng thức trà sao cho ngon, cho đẹp sẽ để lại cho du khách nhiều ấn t-ợng
khó quên.
Xa hơn nữa, vào tận miền Nam ta có thể xây dựng ch-ơng trình du lịch thăm
và th-ởng thức mùi vị đặc tr-ng của nhiều loại trái cây kết hợp uống trà theo phong
cách miệt v-ờn, bằng những “bình tích” lớn có tráng men và vẽ hoa văn đ-ợc đặt
trọn bên trong một cái vỏ dừa khô, để giữ cho trà nóng lâu, cho đến tận Tân An,
vào trong ruộng miệt của Đồng Tháp để uống trà với con cá khô bống trứng ngào
đ-ờng - một cách uống rất đặc biệt. Tất cả đã thêu dệt nên một bức tranh phong
phú cho nghệ thuật th-ởng trà Việt Nam.
Hay tại một số vùng chuyên canh trồng trà nh- ở Thái Nguyên, Đà Lạt, Blao
- Lâm Đồng ta có thể cho xây dựng một số ch-ơng trình du lịch thuần tuý tìm
hiểu về cách pha và th-ởng trà. Qua đó sẽ chuyển tải một cách trung thực, thuyết
phục những giá trị đặc sắc của nghệ thuật uống trà Việt nhằm tạo nên sức hấp dẫn
đối với du khách nh- các tour du lịch sinh thái về thăm những khu chế biến và sản
xuất trà. Trong ch-ơng trình du lịch, du khách sẽ tự mình tìm hiểu một cách cặn kẽ
từng công đoạn từ thu hái, hoàn thành một sản phẩm trà đến cách pha, th-ởng thức
Đề tài nghiên cứu khoa học
Trần Thị Nguyệt - VHL101 Tr-ờng ĐHDL Hải Phòng
46
một chén trà Việt theo đúng nghĩa. Đặc biệt, du khách sẽ đ-ợc tận h-ởng h-ơng vị
của những loại trà hảo hạng bậc nhất trong vùng do chính tay các nghệ nhân pha
mời, giữa một không gian khoáng đạt, trong lành để lĩnh hội một cách trọn vẹn
nhất h-ơng vị thiên nhiên kết tụ trong từng chén trà. Gần đây n-ớc ta có tổ chức
các lễ hội trà với quy mô lớn, ta cũng có thể tận dụng điều kiện thuận lợi này xây
dựng những tour du lịch văn hóa về với lễ hội trà.
3.2.3. Kết hợp khai thác nghệ thuật trà Việt với các loại hình du lịch khác
3.2.3.1. Kết hợp với du lịch Thiền
Nh- ta đ-ợc biết du lịch Thiền (Zen tourism) là một loại hình du lịch có thể
giúp con ng-ời, đặc biệt là những khách du lịch hay cảm thấy căng thẳng trong
cuộc sống và công việc hoặc những khách du lịch có tâm trạng mệt mỏi muốn tìm
những trạng thái tĩnh lặng để th- giãn, để đ-ợc sống với cuộc sống thực tại của bản
thân mình và quên đi cái tôi của quá khứ, cái tôi trong cộng đồng và cái tôi của
t-ơng lai nhằm tìm ra những chân lý và triết lý của cuộc đời.
Lật lại lịch sử, hình thức uống trà Trung Hoa - cái nôi xa x-a nhất của thú
uống trà, chính là đ-ợc khởi nguồn từ hình thức Thiền trà. Các trà s- th-ờng uống
trà để lấy lại sự tỉnh táo, xua đi cuộc đời trần tục nhiều hệ lụy, xóa tan cảm giác
tĩnh mịch chốn thiền môn. D-ới lăng kính của Thiền, thú uống trà đã đ-ợc nâng lên
trở thành một đạo giáo nghệ thuật, một nghi lễ căn cứ vào sự tôn thờ vẻ đẹp thô sơ
của cuộc sống thường nhật: “Nó gây cho các tín đồ nguồn cảm hứng về sự thanh
khiết, sự nhịp nhàng, sự huyền bí của lòng từ ái t-ơng thân, sự cảm thông chủ nghĩa
lãng mạn của trật tự xã hội - nó chỉ là sự sùng bái “chưa viên mãn” bởi nó là một cố
gắng để làm tròn cái có thể đ-ợc trong cái không thể đ-ợc - tức là sự đời” [2, 9].
Không có ở nơi nào trên thế giới mà nỗi buồn và sự mộc mạc lại đ-ợc coi
nh- là một chuẩn mực của cái đẹp và cũng không có ở nơi đâu ng-ời ta cử hành
một nghi thức trà đạo với cả một sự sùng kính thiêng liêng nh- đang đ-ợc hành
h-ơng về đất Phật nh- ở Nhật Bản. Triết lý của trà hay triết lý của Thiền không đơn
thuần là sự thẩm mỹ giản dị nh- ý nghĩa thông th-ờng của nó mà ẩn chứa trong đó
một sự sâu sắc thâm trầm, nó giúp ta đ-ợc giãi bày cùng phụ họa với luân lý và tôn
giáo, cái ý niệm toàn diện của ta về con ng-ời về vạn vật. Uống trà vào buổi sáng
Đề tài nghiên cứu khoa học
Trần Thị Nguyệt - VHL101 Tr-ờng ĐHDL Hải Phòng
47
sớm tinh mơ, trong một thế giới thuần khiết, vô song ta d-ờng nh- cảm thấy có một
mùi vị “niết bàn” trong chung trà nhỏ bé mà ta cầm bằng những ngón tay tục lụy.
Phòng trà là nơi du khoái giữa sa mạc của kiếp nhân sinh, là nơi ng-ời ta có thể vất
bỏ đi những lo toan, bộn bề của đời sống th-ờng nhật để dành chỗ cho sự tôn thờ
cái thanh sạch của tâm hồn, cái tinh tế của nghệ thuật. Cây trà và nghệ thuật uống
trà đã đ-ợc khai thác rất thành công nh- thế cùng với du lịch Thiền ở Nhật Bản và
Trung Hoa.
Hiện nay, ở Việt Nam đã có sự xuất hiện của một số hình thức du lịch Thiền
sơ khai trong các ch-ơng trình du lịch, góp phần làm phong phú hơn cho loại hình
du lịch trên đất n-ớc. Vì thế ta có thể kết hợp uống trà với việc tham quan những
thiền viện nổi tiếng trong n-ớc nh- thiền viện Trúc Lâm ở Đà Lạt - Lâm Đồng, một
thiền viện lớn nhất cả n-ớc, tọa lạc trên một vùng đồi nơi có điểm du lịch hấp dẫn
nhất cả n-ớc, có hệ thống cáp treo dài nhất Việt Nam 2300 m. Đến thăm thiền viện
Trúc Lâm ngoài việc đ-ợc chiêm ng-ỡng một ngôi thiền viện ẩn mình trong s-ơng
khói, du khách còn đ-ợc th-ởng thức những danh trà nổi tiếng tại Lâm Đồng nh-
trà Cầu Đất, trà Blao
Hay ngoài miền Bắc có thể kết hợp với hai thiền viện có cảnh quan thiên
nhiên hùng vĩ, khoáng đạt mang trong mình những giá trị lịch sử và tâm linh vô
cùng sâu sắc đó là chốn tổ của Phật giáo Việt Nam - thiền viện Trúc Lâm Tây
Thiên và cái nôi của Thiền Tông Việt Nam - thiền viện Trúc Lâm Yên Tử. Hai
thiền viện này đã kết tinh trong mình những giá trị văn hóa hằng xuyên mà cha ông
ta để lại qua hàng ngàn năm lịch sử. Th-ờng trong mỗi thiền viện bao giờ cũng có
một không gian dành riêng cho cây cỏ gọi là v-ờn thiền - hội tụ rất nhiều những
hoa thơm cỏ lạ, từ những cây cổ thụ l-u niên cho tới những loài hoa quý, những
loài thảo d-ợc.... Th-ởng trà trong không gian của v-ờn thiền để đ-ợc giao hòa với
thiên nhiên, trời đất chính là một cách để thẩm thấu tốt nhất ý nghĩa của của kiếp
nhân sinh, cũng là một cách để hiểu biết trọn vẹn về một nét tinh hoa trong văn hóa
dân tộc - nghệ thuật trà Việt và nghệ thuật Thiền.
Với những điều kiện trên, cũng giống nh- Trung Hoa và Nhật Bản, ở n-ớc ta
hoàn toàn có thể phát triển nghệ thuật th-ởng trà thông qua loại hình du lịch Thiền.
Đề tài nghiên cứu khoa học
Trần Thị Nguyệt - VHL101 Tr-ờng ĐHDL Hải Phòng
48
Bởi n-ớc ta nằm trong không gian văn hóa á Đông, hơn nữa từ lâu n-ớc ta cũng có
lịch sử Trà đạo cho riêng mình, nó chỉ giản đơn nh-ng lại thật tinh tế đến không
ngờ. Chỉ một bộ bàn ghế nhỏ, một bộ ấm chén với vài ba thực khách, đ-ợc xếp đặt
trong một không gian có hoa, lá, cỏ, cây - nh- thế đã làm nên nghi thức uống trà
của ng-ời Việt.
Những ng-ời sành trà nói rằng cái ngon của trà Trung Hoa do đ-ợc ngắm
nhìn thì mãn nhãn bởi kỹ thuật điêu luyện của ng-ời pha chế mang lại, còn cái
ngon của trà Nhật Bản là do không khí th-ởng thức thành kính, trang nghiêm. Đối
với trà Việt Nam cái ngon nằm ngay trong chính vị trà, tách trà và tâm hồn của
ng-ời uống. Khi bắt đầu nhấp chén trà trên môi, ng-ời ta thấy có vị chát chúa, uống
đến cổ họng rồi mới thấy vị ngọt lan tỏa, khi uống xong là một cảm giác sảng
khoái lâng lâng. Những cảm xúc và tâm trạng ấy cũng giống nh- ng-ời ta nếm trải
những vị chua ngọt ở đời. Và nh- thế chén trà nhỏ bé chứa đựng trong mình một
triết lý nhân sinh vô cùng sâu sắc.
Tuy nhiên để chén trà Việt đến đ-ợc với du khách, để tâm hồn Việt Nam
đ-ợc cảm nhận một cách tinh tế, ng-ời viết thiết nghĩ không có nơi đâu thích hợp
hơn là ngồi th-ởng thức những chén trà trong một khu v-ờn thiền. Hay nói một
cách khác là th-ởng thức trà cùng với du lịch Thiền, đắm mình trong không gian
của thiền viện là một cách tốt nhất để gột rửa sạch bụi bặm của tâm hồn và hòa
mình vào nền văn hóa “ẩm thuỷ” hàng đầu của dân tộc - văn hóa trà Việt.
3.2.3.2. Kết hợp với du lịch văn hóa
Du lịch văn hóa là một loại hình du lịch mà ở đó con ng-ời đ-ợc h-ởng thụ
những sản phẩm văn hóa của một quốc gia, một vùng hoặc của một dân tộc. Dọc
theo chiều dài của đất n-ớc có biết bao nhiêu tài nguyên du lịch văn hóa nổi tiếng
đ-ợc khai thác trở thành những điểm đến thân thuộc của khách du lịch bốn ph-ơng.
Ngày nay khi đời sống của con ng-ời đ-ợc nâng lên, nhu cầu về mọi mặt của
đời sống cũng từ đó tăng theo, nhu cầu đ-ợc giao l-u tìm hiểu, hiểu biết lẫn nhau
giữa các quốc gia, dân tộc ngày càng phát triển. Đặc biệt trong xu thế quốc tế hóa
toàn cầu, con ng-ời lại càng có xu h-ớng tìm về nguồn cội, vì một lẽ văn hóa là
Đề tài nghiên cứu khoa học
Trần Thị Nguyệt - VHL101 Tr-ờng ĐHDL Hải Phòng
49
tinh hoa, là nét riêng biệt, là sự đặc sắc để mỗi xã hội đem ra cống hiến với thế giới
trong quá trình giao l-u hội nhập.
Hàng ngày thông qua hoạt động du lịch, con ng-ời gần nh- lĩnh hội một
cách đầy đủ và trọn vẹn những giá trị văn hóa tinh túy của đất n-ớc. Nh-ng điều đó
chỉ là những hoạt động đ-ợc lặp đi lặp lại không có gì là mới mẻ. Nếu có sự thay
đổi chẳng qua cũng chỉ khác đôi chút mà thôi. Và để làm mới cho những hoạt động
du lịch ấy, cũng nh- góp phần tôn vinh cho nền văn hóa đất Việt, ta có thể khai
thác nghệ thuật uống trà Việt song song với du lịch văn hóa hiện thời. Đó quả thật
là một điều rất hữu ích.
X-a nay nghệ thuật th-ởng trà vẫn luôn bị bó hẹp trong khuôn khổ của
những quán trà. Trong nhịp chảy hối hả của cuộc sống ng-ời ta l-ớt qua nó một
cách mau lẹ bởi ng-ời ta chỉ quen đi du lịch để ngắm cảnh, để mua sắm, vui chơi.
Vậy tại sao chúng ta không cùng nhau vun đắp cho nghệ thuật trà Việt đ-ợc phát
triển hơn nữa, bằng cách mở rộng phạm vi uống trà ra ngoài xã hội, thông qua các
lễ hội văn hóa đ-ợc tổ chức tại những khu di tích lịch sử, đền, chùa, miếu mạo
nổi tiếng trong n-ớc. Tại các địa điểm này ta sẽ đ-a nghi thức uống trà vào một
phần của lễ hội, khách có thể vừa tham quan các di tích, vừa th-ởng trà thậm chí có
thể tham gia các hội thi pha trà, luận thơ ca về trà... có kèm theo giải th-ởng là
những sản phẩm trà hay những bộ ấm, chén pha trà. Hoặc trong các tour du lịch
văn hóa, ngoài nh-ng điểm đến quen thuộc chúng ta hoàn toàn có thể đ-a thêm vào
ch-ơng trình một vài điểm đến mới - đó là những quán trà đã thành danh. Tại đây
du khách không chỉ có cơ hội th-ởng trà, mà còn đ-ợc nghe chủ quán giới thiệu về
nghệ thuật trà Việt, đ-ợc xem viết th- pháp, đ-ợc nghe kể chuyện về các trà s-,
đ-ợc ngắm các giống trà khác nhau và đ-ợc mua trà hay các sản phẩm liên quan
đến thú uống trà về làm quà cho ng-ời thân.... Song để làm đ-ợc điều này cần có
sự kết hợp và lên ch-ơng trình chặt chẽ giữa các công ty du lịch và các quán trà
danh tiếng đó.
Ngoài ra ta có thể kết hợp khai thác nghệ thuật uống trà trong những sự kiện
văn hóa lớn của đất n-ớc nh- lễ kỷ niệm nghìn năm Thăng Long, ngày giỗ tổ Hùng
V-ơng, ngày quốc khánh mồng 2 - 9, Tết nguyên đán. Đây là những ngày lễ
Đề tài nghiên cứu khoa học
Trần Thị Nguyệt - VHL101 Tr-ờng ĐHDL Hải Phòng
50
trọng đại của đất n-ớc, khách thập ph-ơng cũng nh- khách n-ớc ngoài hội tụ về rất
đông. Văn hóa Việt Nam sẽ đ-ợc chuyển tải một cách mạnh mẽ đến khách du lịch.
Hoà cùng không khí t-ng bừng, hào hùng ấy, văn hóa trà Việt đ-ợc các nghệ nhân
tái hiện thông qua nghệ thuật pha trà điêu luyện, những chiếu trà với nhiều cách
th-ởng thức trà khác nhau sẽ là điểm nhấn quan trọng đối với du khách. Từ đó nghệ
thuật trà Việt sẽ đ-ợc nhiều ng-ời biết đến và có một điều chắc chắn là nếu ai đã
một lần đ-ợc nhấp một chén trà Việt nhất định sẽ thầm mong ít nhất có một lần
đ-ợc thử lại, bởi trà Việt đơn sơ, giản dị mà chứa chan tình cảm nh- chính con
ng-ời Việt.
3.2.3.3. Kết hợp với du lịch ẩm thực
Món ăn thức uống của mỗi dân tộc thực sự là một sáng tạo văn hóa độc đáo
của dân tộc đó. ăn uống phản ánh trình độ văn hóa, văn minh của dân tộc, trình độ
phát triển sản xuất, trình độ kỹ thuật của xã hội. Món ăn chứa đựng tiềm tàng sự
sinh động và đa dạng về đặc điểm văn hóa, phong tục tập quán, ý thức tín ng-ỡng
của từng tầng lớp xã hội, từng vùng miền dân c- khác nhau. Với cách nhìn này, ẩm
thực của dân tộc chính là "lăng kính đa chiều" phản ánh nhiều quá trình, nhiều hiện
t-ợng xã hội của con ng-ời trải qua thời gian đã đ-ợc nâng lên thành bậc nghệ
thuật - nghệ thuật ẩm thực. Vì thế đã có một nhà hiền triết nói rằng: muốn tìm hiểu
một nền văn hóa, cách tốt nhất là bắt đầu bằng những món ăn thức uống của nền
văn hóa đó.
Đất n-ớc ta lại có nền văn hóa ẩm thực phong phú và đa dạng, xuyên suốt
chiều dài của đất n-ớc đã có biết bao nhiêu món ăn ngon trở thành một phần không
thể thiếu trong những ch-ơng trình du lịch, khiến cho khách du lịch tò mò và tìm
mọi cách để th-ởng thức. Vì thế du lịch ẩm thực từ lâu đã đ-ợc rất nhiều ng-ời -a
chuộng. Nh-ng ng-ời ta th-ờng biết đến các món ăn, hơn là món uống. Rất ít
ng-ời biết rằng bên cạnh những món ăn ngon ấy còn có một nền “ẩm thủy” hàng
đầu của dân tộc đang âm thầm tỏa h-ơng.
X-a nay ng-ời ta đâu thể ăn mà không uống, đó là hai yếu tố quan trọng để
con ng-ời sống và tồn tại. Nếu nh- trong du lịch ẩm thực du khách đ-ợc tận h-ởng
những sơn hào hải vị, những miếng ngon, quả lạ và uống những loại n-ớc uống giải
Đề tài nghiên cứu khoa học
Trần Thị Nguyệt - VHL101 Tr-ờng ĐHDL Hải Phòng
51
khát trên thị tr-ờng có sẵn, thì song song với thú vui này ta sẽ đ-a trà vào cuộc
hành trình, nâng cao tầm quan trọng của nó lên nh- một điều tất yếu không thể
thiếu đối với mỗi ng-ời. Sau mỗi bữa ăn, ta sẽ cho du khách uống những loại trà có
h-ơng vị đặc tr-ng của dân tộc nh- trà Cúc, trà Sen, trà Nhài hay những loại trà
xanh hoà tan, trà túi lọc, trà bổ d-ỡng hoặc bổ xung những danh trà kèm vào trong
thực đơn ăn, uống của du khách.
Theo nhiều nghiên cứu, uống trà rất có lợi nếu đ-ợc pha chế và bảo quản
đúng cách. Trà làm h-ng phấn tinh thần, thông minh lanh lợi và tăng trí nhớ, làm
hết mệt mỏi, duy trì công năng bình th-ờng của hệ thống tim mạch và huyết quản,
hệ thống tiêu hóa. Trong trà có những chất chống lão hóa làm h-ng phấn thần kinh
trung -ơng và tăng c-ờng sức khoẻ, năng lực vận động. Đặc biệt trong trà có chất
nhu toan làm tiêu diệt vi khuẩn vi trùng, uống trà có thể ngăn ngừa đ-ợc bức xạ,
phòng đ-ợc cảm mạo và hạ thân nhiệt. Một số loại trà còn có tác dụng làm giảm
mập khiến thân hình thon thả và làm da mặt đẹp hơn. Với những công dụng này, trà
rất thích hợp để khai thác kết hợp với du lịch ẩm thực. Nó vừa đem lại cho du
khách cảm giác yên tâm về sức khỏe lại vừa không tốn kém về mặt kinh tế mà vẫn
lĩnh hội đ-ợc trọn vẹn những giá trị đích thực của chuyến đi.
3.2.4. Tăng c-ờng quảng bá về nghệ thuật trà Việt
Uống trà là một phong tục lâu đời của ng-ời Việt, trở thành một nét đẹp
truyền thống trong văn hóa ẩm thực. Đây là một bản sắc dân tộc thật đáng tự hào,
để mỗi ng-ời trong chúng ta gìn giữ và phát huy. Song d-ờng nh- nghệ thuật uống
trà rất ít đ-ợc du khách biết đến. Đây là một thực trạng đáng buồn đòi hỏi sự quan
tâm của nhà n-ớc và các ngành chức năng đặc biệt là ngành du lịch.
Cuộc sống ngày nay là một cuộc sống văn minh, con ng-ời sống và làm việc
với những thiết bị máy móc hiện đại, mọi tin tức trong ngày đều đ-ợc cập nhập một
cách nhanh nhất, mạng Iternet chính là ph-ơng tiện truyền tải và truyền bá thông
tin hiệu quả nhất. Vì thế ngành du lịch phải đẩy mạnh hơn nữa những chiến l-ợc
quảng bá nghệ thuật uống trà trên các ph-ơng tiện thông tin đại chúng. Song để giá
trị đích thực của nghệ thuật th-ởng trà Việt đến đ-ợc với mọi ng-ời ở khắp nơi trên
thế giới, cần thiết kế những ch-ơng trình hấp dẫn, những trang Web sinh động
Đề tài nghiên cứu khoa học
Trần Thị Nguyệt - VHL101 Tr-ờng ĐHDL Hải Phòng
52
h-ớng dẫn cách pha và th-ởng thức trà Việt để mọi ng-ời hiểu hơn về nền văn hóa
“ẩm thủy” hàng đầu của ng-ời Việt. Có nh- vậy việc tuyên truyền rộng rãi những
giá trị đặc sắc của nghệ thuật trà Việt mới đ-ợc thực hiện thành công.
Bên cạnh đó việc thiết kế các tờ rơi, tập gấp với địa chỉ của những quán trà
Việt nổi tiếng trong n-ớc cũng là một điều rất cần thiết, khi khách n-ớc ngoài đến
Việt Nam sẽ có cơ hội tiếp cận và th-ởng thức h-ơng trà đất Việt, đồng thời biên
soạn các công trình nghiên cứu về nghệ thuật trà Việt có quy mô và giá trị thành
nhiều cuốn sách bày bán phổ biến trên thị tr-ờng.
Tập hợp các nghệ nhân trà trong cả n-ớc thành lập nhiều câu lạc bộ về trà
Việt, th-ờng xuyên có các hoạt động giao l-u, trao đổi kinh nghiệm về nghệ thuật
pha và th-ởng trà, đặc biệt chú trọng mở các lớp đào tạo trà nô cho thế hệ trẻ mở
rộng phạm vi đến các tr-ờng học, nhà hàng, khách sạn cũng là một cách quan
trọng để vừa giữ gìn phát huy nghệ thuật th-ởng trà của dân tộc vừa quảng bá một
cách hiệu quả ra bên ngoài xã hội. Đồng thời, để nâng cao khả năng khai thác phục
vụ du lịch, thiết nghĩ nên triển khai hình thức quán trà để phục vụ đông đảo những
ng-ời thích và yêu trà. Bên cạnh đó, các công ty du lịch hoàn toàn có thể kết hợp
với các vùng trồng trà chuyên canh, thiết kế các tour du lịch sinh thái th-ởng ngoạn
đồi trà. Tại các quán trà hoặc các điểm du lịch này, nên xây dựng thêm các khu
tr-ng bày, bán hàng về sản phẩm trà, dụng cụ pha trà nh- ấm, chén, trà cụ. Mô
hình vừa th-ởng trà vừa sản xuất kinh doanh phục vụ khách du lịch nh- vậy hiện
đang rất phát triển ở Trung Quốc, đặc biệt ở Bắc Kinh, Vân Nam hay Tứ Xuyên.
Cũng nằm trong chính sách quảng bá, nhà n-ớc và các ban ngành đoàn thể, nên
đầu t- tổ chức th-ờng niên các lễ hội văn hóa trà hay kết hợp nghệ thuật th-ởng trà
Việt với các loại hình du lịch khác. Cuối cùng, cần đa dạng hóa hình thức đóng gói
sản phẩm trà, tạo lô gô mang tên trà Việt để gây sự chú ý. Đó cũng là một cung
cách tiếp thị trực tiếp đến khách du lịch.
3.3. Tiểu kết
Trải qua những b-ớc thăng trầm của lịch sử dân tộc, cây chè vẫn gắn bó
mật thiết với con ng-ời Việt Nam. Nghệ thuật th-ởng trà đã trở thành giá trị tinh
thần vô cùng quý giá của dân tộc, nó mang trong mình những đặc tr-ng rất riêng.
Đề tài nghiên cứu khoa học
Trần Thị Nguyệt - VHL101 Tr-ờng ĐHDL Hải Phòng
53
Nh-ng trong xã hội hiện đại ngày nay con ng-ời gần nh- thờ ơ với chính nó, giá trị
đích thực của cây trà không đ-ợc khai thác một cách hợp lý. Hình ảnh về một nền
văn hóa trà Việt thật nhạt nhòa tr-ớc nền văn hóa trà của Trung Hoa và Nhật Bản.
Ng-ời Việt đang dần đánh mất đi nét đẹp văn hóa “ẩm thủy” của mình.
Việc bảo tồn và l-u giữ phát triển nghệ thuật trà Việt phục vụ du khách, phát
triển du lịch sẽ đem lại rất nhiều lợi ích nh- đóng góp vào sự phát triển kinh tế xã
hội của cả n-ớc, thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển. Đặc biệt trong xu thế
hiện nay, du lịch văn hóa đ-ợc coi là nguồn tài nguyên du lịch hấp dẫn thì vấn đề
ấy càng trở nên cần thiết hơn bao giờ hết.
Đề tài nghiên cứu khoa học
Trần Thị Nguyệt - VHL101 Tr-ờng ĐHDL Hải Phòng
54
Kết luận
Việt Nam là một trong những cái nôi trồng trà cổ nhất thế giới, một trong
những quê h-ơng đầu tiên của cây trà. Ng-ời dân Việt Nam từ ngàn đời nay đã biết
đến cây trà, biết làm ra sản phẩm trà và biết uống trà. Trải qua những biến thiên
của thời gian, th-ởng trà đã trở thành một thứ nghệ thuật, mang trong mình sự kết
tinh của trời đất, triết lý sống của ng-ời Việt và nó giữ vị trí quan trọng trong văn
hóa ẩm thực. Thật khác với văn hóa trà của Trung Hoa và Nhật Bản nghệ thuật
th-ởng trà Việt không cầu kỳ, kiểu cách, rất đơn giản và mộc mạc nh-ng lại để lại
d- âm và ấn t-ợng sâu sắc cho ng-ời uống đến không ngờ.
Nghệ thuật th-ởng trà thực sự là tài nguyên du lịch văn hóa đặc sắc của dân
tộc có nhiều tiềm năng phát triển du lịch. Bởi vậy, xác định du lịch là một ngành
kinh tế mũi nhọn, một vài năm gần đây ngành chè đã phối hợp với các ngành chức
năng khác tổ chức các lễ hội văn hóa trà với nhiều ch-ơng trình đặc sắc, hấp dẫn,
nhằm phát huy thế mạnh của cây trà cũng nh- nghệ thuật th-ởng trà đến tất cả mọi
ng-ời cùng với việc thành lập nhiều câu lạc bộ trà, mở những quán trà Việt phục vụ
khách du lịch trong và ngoài n-ớc. Tuy nhiên việc khai thác nghệ thuật th-ởng trà
phục vụ cho hoạt động du lịch còn gặp rất nhiều vấn đề khó khăn, đòi hỏi ngành du
lịch cần có nhiều giải pháp thiết thực để khai thác có hiệu quả hơn nghệ thuật
th-ởng trà, làm nền văn hóa “ẩm thủy” này mãi tỏa h-ơng không bị quên lãng, mai
một theo thời gian.
Do năng lực và trình độ của bản thân còn nhiều hạn chế, vấn đề nghiên cứu
nghệ thuật th-ởng trà dù chỉ là một khía cạnh trong khai thác phát triển du lịch đất
n-ớc, song ng-ời viết hy vọng, với đề tài này sẽ đóng góp một cái nhìn t-ơng đối
hệ thống và đầy đủ về việc nhận thức giá trị cũng nh- tiềm năng phát triển du lịch
văn hóa từ nghệ thuật th-ởng trà Việt, để từ đó nghệ thuật th-ởng trà Việt sẽ có
b-ớc tiến cao hơn trong sự nghiệp phát triển du lịch của mình, sánh ngang với nghệ
thuật th-ởng trà của hai đất n-ớc Trung Hoa và Nhật Bản.
Đề tài nghiên cứu khoa học
Trần Thị Nguyệt - VHL101 Tr-ờng ĐHDL Hải Phòng
55
Danh mục tài liệu tham khảo
I. Sách:
1. Toan ánh, Nếp cũ, NXB Trẻ, 2005.
2. Okakura Kakuzo, Chén trà Nhật Bản, NXBTP Hồ Chí Minh, 1989.
3. Nguyễn Tuân, Vang bóng một thời, NXB Văn Học, 2003.
4. Trần Ngọc Thêm, Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, NXBTP Hồ Chí
Minh, 2006.
5. Trần Quốc V-ợng, Văn hóa Việt Nam tìm tòi và suy ngẫm, NXB Văn
Học, 2003.
6. Lục Vũ, Trà Kinh, NXB Văn học, 2008.
II. Báo, tạp chí:
7. ẩm thực văn hóa nghệ thuật, số 3.
8. Du lịch Việt Nam, NXB Bộ văn hóa thể thao và du lịch, số1, 2009.
9. Báo tuổi trẻ.
10. Báo Tài hoa trẻ.
11. Báo dân trí.
III. Website:
12. http//www.raovat.vn
13. http//www.diendandulich.com
14. http//www.trangon.com
15. http//www.traviet.org
16. http//www.vanhoaphuongdong.com
Đề tài nghiên cứu khoa học
Trần Thị Nguyệt - VHL101 Tr-ờng ĐHDL Hải Phòng
56
Phần phụ lục
I. Một số ch-ơng trình du lịch tìm hiểu về nghệ thuật trà Việt
1. Ch-ơng trình du lịch: (áp dụng cho đoàn 20 ng-ời với giá trọn gói 584.000 VNĐ/ khách, ch-a
có thuế VAT.)
Hải D-ơng - Hà Nội
(2 ngày 1 đêm bằng ph-ơng tiện ô tô )
Ngày 1: Hải D-ơng - Hà Nội
- Sáng: Xe đón quý khách tại điểm hẹn đi thăm di tích lịch sử Côn Sơn- Kiếp Bạc, ăn sáng tại
thành phố Hải D-ơng.
- Tr-a: Quý khách ăn tr-a và nghỉ ngơi tại Kiếp Bạc.
- Chiều: Xe đ-a quý khách khởi hành đi Hà Nội, nghỉ đêm và ăn tối tại khách sạn Hà Nội.
Tối: Uống trà, giao l-u gặp gỡ với các nghệ nhân trong câu lạc bộ trà Việt kết hợp với nghe ca
nhạc dân tộc tại nhà văn hóa Thanh Niên.
Ngày 2: Hà Nội - Hải D-ơng
- Sáng: ăn sáng tại khách sạn, khởi hành đi thăm Nhà hát lớn, viếng lăng Chủ tịch Hồ Chí
Minh.
- Tr-a: Quý khách ăn tr-a tự do, quý khách có thể nghỉ ngơi th- giãn tại một số quán trà nổi tiếng
để cảm nhận sự phong phú của ẩm thực Hà Nội.
- Chiều: Trở về khách sạn trả phòng, xe tiếp tục đ-a quý khách đi thăm Hồ Hoàn Kiếm, thăm
Phố cổ Hà Nội và mua sắm. Sau đó trở về Hải D-ơng kết thúc ch-ơng trình.
Ghi chú: giá trên bao gồm:
- Phí vận chuyển: 3000.000 VNĐ 2 ngày xe ôtô đời mới, máy lạnh.
- Phí l-u trú: 150.000 một ng-ời/đêm (khách sạn/ phòng đôi).
- Phí ăn uống:
+ Bữa chính 50.000 VNĐ/ng-ời.
+ Bữa phụ 20.000 VNĐ/ng-ời.
- Các chi phí khác:
+ H-ớng dẫn viên: 200.000 VNĐ/ngày.
+ Giao l-u: 2000.000 VNĐ.
+ Bảo hiểm: 2000 VNĐ ng-ời/ngày.
+ Vé tham quan: 20.000 VNĐ/ng-ời.
Đề tài nghiên cứu khoa học
Trần Thị Nguyệt - VHL101 Tr-ờng ĐHDL Hải Phòng
57
2. Ch-ơng trình du lịch về xứ trà: (áp dụng cho đoàn 20 ng-ời, vận chuyển bằng ph-ơng
tiện ôtô với giá trọn gói 1.036.000 VNĐ/khách, ch-a có thuế VAT.)
Hà Nội - Thái Nguyên
(3 ngày 2 đêm, đi theo quốc lộ 3 và đ-ờng Đán - Núi Cốc)
Ngày 1: Hà Nội - Thành phố Thái Nguyên
- Sáng: Xe đón quý khách tại điểm hẹn đi Thái Nguyên đến hồ Núi Cốc nhận phòng và ăn tr-a
tại hồ Núi Cốc
- Chiều: Quý khách đi tàu thăm và l-u trú tại hồ Núi Cốc.
Ngày 2: Hồ Núi Cốc - Vùng chè Tân C-ơng
- Sáng: Quý khách ăn sáng, trả phòng ở hồ Núi Cốc, lên xe đi thăm và tìm hiểu quy trình chế
biến, hái tỉa, sao tẩm đặc sản trà Tân C-ơng tại xóm Hồng Thái 1, Hồng Thái 2, Gò Pháo, Đội
Cấn.
- Tr-a: Quý khách ăn tr-a, nghỉ ngơi tại xã Tân C-ơng. Tự do chụp ảnh, thăm thú những đồi chè
hình bát úp xanh mơn mởn tại Tân C-ơng.
- Chiều: Đến thăm vùng đất tổ của vùng chè tân C-ơng, chiêm ng-ỡng bãi chè cổ tại xóm Lam
Sơn d-ới chân núi Guộc. Th-ởng trà và học làm nghệ nhân sao tẩm trà.
- Tối: Quý khách ăn tự do, giao l-u đốt lửa trại với ng-ời dân xứ trà, th-ởng thức những loại trà
nổi tiếng Thái Nguyên và nghe các nghệ nhân kể chuyện về nguồn gốc cây trà.
Ngày 3: Vùng chè Tân C-ơng - Hà Nội.
- Sáng: Quý khách ăn sáng, tự do mua sắm ở Tân C-ơng, sau đó lên xe về thành phố Thái
Nguyên.
- Tr-a: Ăn tr-a tại thành phố Thái Nguyên.
- Chiều: Thăm bảo tàng Văn Hóa các Dân Tộc Việt Nam, nghe thuyết minh, chụp ảnh l-u
niệm và về Hà Nội kết thúc ch-ơng trình.
Ghi chú: giá trên bao gồm:
- Phí vận chuyển:
+ Phí ô tô: 4.500.000 VNĐ/ 3 ngày.
+ Phí tàu thăm hồ Núi Cốc: 500.000 VNĐ
- Phí l-u trú: 300.000 một ng-ời/đêm (khách sạn/ phòng đôi).
- Phí ăn uống:
+ Bữa chính 50.000 VNĐ/ng-ời.
+ Bữa phụ 20.000 VNĐ/ng-ời.
Đề tài nghiên cứu khoa học
Trần Thị Nguyệt - VHL101 Tr-ờng ĐHDL Hải Phòng
58
- Các chi phí khác:
+ H-ớng dẫn viên: 200.000 VNĐ/ngày.
+ Giao l-u: 2000.000 VNĐ.
+ Bảo hiểm: 2000 VNĐ ng-ời/ngày.
+ Vé tham quan: hồ Núi Cốc là 30.000 VNĐ/ng-ời; bảo tàng Văn Hóa các Dân Tộc Việt
Nam là 10.000 VNĐ/ng-ời.
II. Một số hình ảnh minh họa về trà Việt
Cây trà Việt Nam Th-ơng hiệu trà Việt
1. Các sản phẩm trà đặc tr-ng của Việt Nam:
Trà hoa B-ởi Trà Nhài
Đề tài nghiên cứu khoa học
Trần Thị Nguyệt - VHL101 Tr-ờng ĐHDL Hải Phòng
59
Trà Sen Trà hoa Cúc
2. Quán trà Việt:
Một góc Hiên trà Tr-ờng Xuân Một góc L- trà Quán
Trà việt quán Vô Th-ờng TịchCốc
3. Các loại ấm pha trà:
Đề tài nghiên cứu khoa học
Trần Thị Nguyệt - VHL101 Tr-ờng ĐHDL Hải Phòng
60
ấm độc ẩm ấm song ẩm
ấm quần ẩm ấm song ẩm
4. Lễ hội văn hóa trà:
Lễ hội trà Đà Lạt 2006 Hình ảnh trong lễ hội trà Đà Lạt
Lễ hội trà Lâm Đồng lần 2 - 2008 Cảnh lễ hội Trà Việt 2008
5. Một số hoạt động bảo tồn và phát triển nghệ thuật trà Việt:
Đề tài nghiên cứu khoa học
Trần Thị Nguyệt - VHL101 Tr-ờng ĐHDL Hải Phòng
61
Hoạt động văn hóa trà Việt 2008
Lễ nhận bằng tốt nghiệp lớp trà nô Bài kiểm tra cuối kì của các trà nô
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 12.NCKH_TranThiNguyet_VHL101.pdf