Thành phần kinh tế tập thể là sự liên kết kinh tế tự nguyện của các chủ thể kinh tế với các hình thức đa dạng, linh hoạt phù hợp với nhu cầu, khả năng và lợi ích của các bên tham gia. Cơ sở hình thành: dựa trên hình thức sở hữu hỗn hợp
1.4.1 Vai trò của kinh tế tập thể
- phục vụ cho kinh tế hộ và kinh tế trang trại phát triển và thu hút được vốn, lao động cho quá trình sản xuất kinh doanh.
- tập trung được vốn nhà rỗi trong dân cư, giải quyết công ăn việc làm cho lao động tại địa phương.
31 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1137 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nghiên cứu các thành phần kinh tế ở Việt Nam và sự hình thành các tổng công ty và tập đoàn kinh tế Nhà nước ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hơn 10 năm, vẫn những con người ấy, cũng những điều kiện tự nhiên ấy, từ một đất nước thiếu ăn quanh năm, trông chờ chủ yếu vào sự viện trợ từ bên ngoài; hàng tiêu dùng khan hiếm, người lao động không có việc làm... đã trở thành một đất nước không những đủ ăn, mà còn có lương thực, thực phẩm dự trữ và đến nay xuất khẩu gạo đứng hàng thứ hai thế giới; nhu cầu tiêu dùng trong nước được thỏa mãn về nhiều mặt, kết cấu hạ tầng phát triển, nền kinh tế - xã hội sôi động, đất nước không ngừng phát triển. Chính nhờ đổi mới cơ chế, chính sách nhằm không ngừng phát triển các thành phần kinh tế, các tiềm năng của xã hội được khai thác, nội lực được phát huy, sức mạnh của bên ngoài được huy động.
Để đạt được những thành tựu như vậy ta càng thấy rõ vai trò vô cùng quan trọng của các thành phần kinh tế của Việt nam.
Trong thời kỳ đổi mới, Đảng và nhà nước Việt Nam chủ trương “Xây dựng nền kinh tế theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa”. Để thực hiện chủ trương này, Đảng và Nhà nước đã khẳng định: “... Phải tiếp tục duy trì và không ngừng nâng cao vai trò chủ đạo của doanh nghiệp Nhà nước trong nền kinh tế tất yếu dẫn đến việc đổi mới các doanh nghiệp Nhà nước ...”
Mục đích nghiên cứu:
Mục đích của bài viết là căn cứ để phân chia thành phần kinh tế ở Việt Nam và sự hình thành các tổng công ty và tập đoàn kinh tế Nhà nước. Từ đó tìm ra nguyên nhân của hạn chế và đề ra các giải pháp khắc phục.
- Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài:
Đối tượng nghiên cứu của bài viết là căn cứ phân chia thành phần kinh tế của Viẹt Nam, nêu sự hình thành các tổng công ty và tập đoàn kinh tế Nhà nước.
Bài viết tập trung xem xét các vấn đề liên quan đến kinh tế của Việt Nam và cách giải quyết của nó.
- Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu được dùng trong bài là: Phương pháp duy vật biện chứng, Phương pháp duy vật lịch sử, Phương pháp logic,
Bài viết sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu trong khoa học xã hội bao gồm phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, phương pháp thống kê, phương pháp so sánh, phương pháp phân tích và tổng hợp.
Chương 1: Các thành phần kinh tế của Việt Nam
Chương 2: Ý nghĩa của việc nghiên cứu nền kinh tế nhiều thành phần
Chương 3: Sự hình thành các tổng công ty, tập đoàn kinh tế của Việt Nam
Do thời gian nghiên cứu và kiến thức còn hạn chế nên không thể tránh được những thiếu sót. Vì vậy tôi rất mong nhận được sự đánh giá chân thành của các thầy cô.
Tôi hy vọng đề tài này có thể mang lại một phương pháp tiếp cận mới với vấn đề “Các thành phần kinh tế ở Việt Nam và sự hình thành các tổng công ty và tập đoàn kinh tế Nhà nước ở Việt Nam” và là một tài liệu tham khảo có ích. Tôi rất mong nhận được ý kiến đóng góp của Thầy giáo hướng dẫn khoa học TS. Trần Viẹt Tiến để đề tài hoàn thiện hơn.
CHƯƠNG 1
CÁC THÀNH PHẦN KINH TẾ CỦA VIỆT NAM
1. Khái niệm về thành phần kinh tế
1.1 Định nghĩa thành phần kinh tế
Thành phần kinh tế là khu vực kinh tế, kiểu quan hệ kinh tế dựa trên một hình thức sở hữu nhất định về tư liệu sản xuất. Các thành phần kinh tế không tồn tại biệt lập mà có liên hệ chặt chẽ với nhau tác động lẫn nhau tạo thành cơ chế kinh tế thống nhất bao gồm nhiều thành phần kinh tế.
1.2 Các thành phần kinh tế của Việt Nam
Theo Văn kiện đại hội IX, nền kinh tế Việt Nam có 5 thành phần kinh tế:
Kinh tế Nhà nước
Kinh tế tập thể
Kinh tế tư bản nhà nước
Kinh tế tư nhân
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
1.3 Thành phần kinh tế Nhà nước
Thành phần kinh tế Nhà nước là những đơn vị, tổ chức trực tiếp sản xuất kinh doanh hoặc phục vụ sản xuất, kinh doanh mà toàn bộ nguồn lực thuộc sở hữu Nhà nước hoặc phần vốn của Nhà nước chiếm tỷ lệ khống chế. Cơ sở hình thành: Dựa trên sở hữu công cộng mà nhà nước là chủ đại diện
1.3.1 Vai trò của kinh tế Nhà nước
Mở đường của kinh tế nhà nước
Lực lượng vật chất để nhà nước điều tiết và quản lý vĩ mô nền kinh tế
Là nguồn lực nuôi bộ máy nhà nước
1.3.2. Định hướng phát triển kinh tế nhà nước theo hướng phân loại và sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước
Xác định các doanh nghiệp công ích cần thiết, hoạt động không vì mục đích lợi nhuận là chính.
Những doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh thu lợi nhuận tập trung kiện toàn và nâng cao hiệu quả của các doanh nghiêp, doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp hoạt động tốt, có khả cạnh tranh.
Mạnh dạn nghiên cứu và ứng dụng các hình thức quản lý trong các doanh nghiệp Nhà nước.
Hoàn thiện hệ thống chính sách tuyển dụng, đãi ngộ, gắn trách nhiệm với quyền hạn và nghĩa vụ, sớm tiêu chuẩn các chức danh.
1.4 Thành phần kinh tế tập thể
Thành phần kinh tế tập thể là sự liên kết kinh tế tự nguyện của các chủ thể kinh tế với các hình thức đa dạng, linh hoạt phù hợp với nhu cầu, khả năng và lợi ích của các bên tham gia. Cơ sở hình thành: dựa trên hình thức sở hữu hỗn hợp
Vai trò của kinh tế tập thể
phục vụ cho kinh tế hộ và kinh tế trang trại phát triển và thu hút được vốn, lao động cho quá trình sản xuất kinh doanh.
tập trung được vốn nhà rỗi trong dân cư, giải quyết công ăn việc làm cho lao động tại địa phương.
1.4.2 Định hướng phát triển
Xây dựng và thực hiện có hiệu lực các chính sách kinh tế vĩ mô đối với kinh tế tập thể.
xây dựng cơ sở hạ tầng cho sản xuất và đời sống, chính sách thị trường xuất khẩu, chế biến, giá cả, tín dụng, đào tạo cán bộ.
khuyến khích làm giàu chính đáng đi đối với xoá đói giảm nghèo, từng bước công nghiệp hóa – hiện đại hóa (CNH- HĐH).
1.5 Thành phần kinh tế tư bản nhà nước
Thành phần kinh tế tư bản nhà nước là sản phẩm của sự can thiệp của nhà nước vào hoạt động của các tổ chức, đơn vị kinh tế tư bản trong và ngoài nước bao gồm tất cả các hình thức hợp tác liên doanh sản xuất kinh doanh giữa kinh tế nhà nước và kinh tế tư bản trong và ngoài nước nhằm sử dụng, khai thác, phát huy thế mạnh của mỗi bên tham gia, đặt dưới sự kiểm soát giúp đỡ của nhà nước. Cơ sở hình thành: dựa trên sở hữu hỗn hợp.
1.5.1 Vai trò của kinh tế tư bản nhà nước
có vai trò quan trọng trong việc huy động, sử dụng vốn kỹ thuật, công nghệ, kinh nghiệm tổ chức quản lý của các nhà tư bản.
1.5.2 Định hướng phát triển
Đa dạng hoá các hình thức liên kết liên doanh liên kết với các tổ chức và công ty tư bản nước ngoài.
Nâng dần tỷ lệ đầu tư của phía Việt Nam.
Áp dụng nhiều phương thức góp vốn kinh doanh dưới nhiều hình thức như công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn nhằm tạo thế và lực cho các doanh nghiệp trong nước phát triển, tăng sức cạnh tranh và hợp tác với bên ngoài.
Cải thiện môi trường đầu tư và nâng cao năng lực quản lý, sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư, bảo vệ quyền lợi người lao động.
1.6 Thành phần kinh tế tư nhân
Thành phần kinh tế tư nhân bao gồm:
Kinh tế cá thể là hình thức kinh tế dựa trên tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất và khả năng lao động của người lao động và các hộ gia đình.
Kinh tế tiểu chủ cũng dựa trên tư hữu nhỏ nhưng có thuê mướn lao động.
Kinh tế tư bản tư nhân dựa trên chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghia về tư liệu sản xuất và bóc lột sức lao động.
Cơ sở hình thành: dựa trên hình thức sở hữu tư nhân
1.6.1 Vai trò của kinh tế tư nhân
có vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế-xã hội, là nòng cốt của một nền kinh tế.
1.6.2 Định hướng phát triền Thành phần kinh tế tư nhân
khuyến khích tư nhân đầu tư vào sản xuất, bảo vệ quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp, xoá bỏ định kiến, mặc cảm và nhận thức lệch lạc về tư nhân.
Tăng cường công tác quản lý theo luật.
1.7 Thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
Thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là thành phần kinh tế mà vốn do các chủ thể kinh tế nước ngoài đầu tư.
Cơ sở hình thành: dựa trên hình thức sở hữu tư bản tư nhân(100% vốn nước ngoài) và hỗn hợp (liên doanh, liên kết với các doanh nghiệp trong nước).
1.7.1 Vai trò của kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
- Thu hút được vốn, công nghệ, kinh nghiệm và trình độ quản lý hiện đại.
- Tạo thêm công ăn, việc làm cho người lao động.
- Tăng trưởng và phát triển kinh tế.
1.7.2 Định hướng phát triển
Tạo điều kiện để thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển thuận lợi, hướng vào xuất khẩu, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, gắn với thu hút công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm.
1.8 Cơ sở tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần
Lý thuyết về quốc hữu hóa và hợp tác hóa
Sự phát triển không đồng đều giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Mối quan hệ giữa CSHT và KTTT
Toàn cầu hóa và tính tất yếu của nó.
2. Căn cứ để phân chia thành phần kinh tế của Việt Nam
Phải khẳng định trước hết nền kinh tế Việt Nam còn tồn tại nhiều thành phần kinh tế là một tất yếu khách quan. Điều này là do trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nền kinh tế còn tồn tại nhiều hình thức sở hữu. Vậy sở hữu là gì?
Con người sinh ra từ tự nhiên. Để tồn tại và phát triển con người phải dựa vào tự nhiên, chiếm hữu tự nhiên để thỏa mãn nhu cầu nhất định. Do vậy, chiếm hữu biểu hiện quan hệ giữa người với tự nhiên, là hành vi gắn liền với hoạt động lao động sản xuất. Chiếm hữu là phạm trù khách quan, tất yếu, vĩnh viễn, là điều kiện trước tiên của hoạt động lao động sản xuất. Chủ thể chiếm hữu là cá nhân, tập thể, xã hội. Đối tượng của sự chiếm hữu từ buổi ban đầu của loài người là những cái có sẵn trong tự nhiên, cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, các chủ thể không chỉ chiếm hữu tự nhiên mà cả xã hội, tư duy, thân thể, chiếm hữu những cái hữu hình và vô hình. Trong kinh tế, chiếm hữu không chỉ giới hạn bởi sự chiếm hữu đầu tiên (yếu tố và điều kiện của sản xuất tức sản xuất mà còn chiếm hữu qua phân phối, trao đổi và tiêu dùng).
Sở hữu là hữu là hình thức xã hội của chiếm hữu trong một hình thái kinh tế xã hội nhất định. Khái niệm chiếm hữu khái quát hơn khái niệm sở hữu. người chiếm hữu chưa chắc là người sở hữu; người sở hữu đương nhiên là người chiếm hữu.
Phạm trù sở hữu khi được thể chế hóa thành quyền sở hữu được thực hiện thông qua một cơ chế nhất định gọi là chế độ sở hữu. chế độ sở hữu xác định dưới dạng các quyền: sở hữu, sử dụng, quản lý, chi phối, định đoạt, thừa kế, chuyển nhượng.
Sở hữu được xem dưới góc độ pháp lý và kinh tế. Sở hữu về mặt pháp lý được xem là mối quan hệ giữa người với người về đối tượng sở hữu. thông thường về mặt pháp lý, sở hữu được ghi trong hiến pháp, nó khẳng định ai là chủ của đối tượng sở hữu. Sở hữu về mặt kinh tế biểu hiện thông qua thu nhập, thu nhập càng cao, sở hữu về mặt kinh tế càng được thực hiện. Sở hữu luôn hướng tới lợi ích kinh tế. Sở hữu đầy đủ là trong chế độ sở hữu phát triển, quyền sở hữu pháp lý và quyền sở hữu kinh tế thống nhất gắn chặt ở một chủ sở hữu.
Vậy sở hữu là quan hệ kinh tế giữa người với người trong sự chiếm hữu tự nhiên, là một phạm trù lịch sử, thay đổi cùng với sự thay đổi của các hình thái kinh tế - xã hội trong lịch sử. Sự biến đổi và phát triển của các hình thức sở hữu là quá trình lịch sử - tự nhiên.
Các hình thức sở hữu: hình thức đầu tiên là công hữu, sau đó do sự phát triển của lực lượng sản xuất, có sản phẩm dư thừa, có kẻ chiếm làm của riêng xuất hiện tư hữu. Đó là hai hình thức sở hữu cơ bản thể hiện ở mức độ, quy mô và phạm vi sở hữu khác nhau, phụ thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và lợi ích của chủ sở hữu chi phối. Chẳng hạn, công hữu thể hiện thông qua sở hữu nhà nước, sở hữu toàn dân. Sở hữu tư nhân thể hiện ở tư hữu lớn, tư hữu nhỏ. Ngoài ra còn có hình thức sở hữu hỗn hợp. nó phát sinh tất yếu do yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất cũng như quá trình xã hội hóa nói chung đòi hỏi đồng thời nhằm thỏa mãn nhu cầu, lợi ích ngày càng tăng và khắc phục sự bất lực, yếu kém của các chủ thể kinh tế trong quá trình sản xuất kinh doanh. Sở hữu hỗn hợp là một hình thức phái sinh từ hình thức sở hữu khác, hình thành thông qua hợp tác, liên doanh, liên kết tự nguyện, phát hành mua bán cổ phiếu. các hình thức sở hữu đều có ưu nhược điểm vốn có của nó.
Sở hữu công cộng: bao gồm
Ưu điểm: tạo cơ sở cho mọi người bình đẳng trước tư liệu sản xuất; bố trí hợp lý tài nguyên trong phạm vi toàn xã hội.
Nhược điểm: tước bỏ sự tích lũy tài sản – cơ sở của sự phát triển sản xuất và tiến bộ xã hội mà chỉ tạo mục đích theo đuổi lợi ích tiêu dùng, tức là sở hữu công cộng không tạo điều kiện làm giàu cho con người.
Trong điều kiện thể chế, cơ chế và hệ thống luật pháp thiếu đồng bộ, cùng với sự đồng nhất sở hữu nhà nước với sở hữu toàn dân và coi ngang hàng với nhau, chỉ dừng ở hiến pháp, văn bản, thực tế là vô chủ thì không thể không dẫn đến hai thái cực đối lập nhau, phổ biến là sự tham nhũng tài sản, tiền vốn của xã hội của một bộ máy quan liêu, nhiều kẻ lợi dụng chức quyền, ô dù, thông qua biến hợp đồng thành thông đồng, lợi dụng nhà nước, quốc doanh để làm ăn phi pháp, thay ruột tư nhân trong cái vỏ quốc doanh và cực còn lại là việc xa lạ, cha chung không ai khóc của phía phần lớn người lao động mà ngộ nhận minh là chủ.
Sở hữu tư nhân:
Ưu điểm: phát huy tốt tiềm năng, thế mạnh về vốn, lao động, công nghệ, trình độ và kinh nghiệm quản lý, mối liên hệ với thị trường nghĩa là chủ thể kinh tế năng động và linh hoạt vì thế thúc đẩy sản xuất và các thành tựu xã hội phát triển nhanh chóng; tạo cơ may để làm giàu. Con người có được công cụ và phương tiện theo đuổi những dự kiến, phương án mà cho là hợp lý; động lực thúc đẩy con người hoạt động kinh tế, theo đuổi lợi ích kinh tế cá nhân, thực hiện tiết kiệm, hiệu quả.
Nhược điểm: tư hữu về tư liệu sản xuất nghĩa là cá nhân tùy ý sử dụng và định đoạt vì thế xã hội không thể chiếm hữu và phân phối trực tiếp tư liệu sản xuất vì mục đích chung, khó đảm bảo được các cân đối lớn trong nền kinh tế; biến quyền sở hữu tài sản thành quyền bóc lột lao động người khác; nguồn gốc bất bình đẳng và các tệ nạn xã hội khác phát sinh. Đặc biệt đối với tư hữu nhỏ chỉ phù hợp với trạng thái lực lượng sản xuất kém phát triển, vốn ít, dân trí thấp nên khó áp dụng khoa học công nghệ.
Việt Nam giành được chính quyền trước thực trạng một nền kinh tế lạc hậu thấp kém, chúng ta đã dùng sức mạnh chính trị và tư tưởng làm trái với yêu cầu của quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất bằng cách xóa bỏ ngay chế độ tư hữu thông qua chính sách cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh và tập thể hóa nông nghiệp, chuyển trực tiếp sang chế độ công hữu dưới hai hình thức sở hữu toàn dân và tập thể. Cần nhấn mạnh rằng nguồn gốc của sự nhận thức không đúng trên bắt nguồn từ chỗ hiểu không đúng tư tưởng của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin. Trong tác phẩm “những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản”, Mác và Ăngghen giải thích thêm “không phải là xóa bỏ sở hữu nói chung mà là xóa bỏ chế độ sở hữu tư sản”, tức là chế độ tư hữu trong những điều kiện tách người sản xuất khỏi tư liệu sản xuất, rằng chế độ tư hữu tư sản dùng sản phẩm của người lao động làm công cụ nô dịch, bóc lột chính bản thân họ”. C. Mác nói: “ phương pháp đặc thù để thực hành sự kết hợp ấy (tư liệu sản xuất và sức lao động) chính là cái dùng để phân biệt các thời kỳ kinh tế khác nhau mà kết cấu xã hội đã trải qua” và Mác cho rằng chế độ tư hữu chưa thể bị xóa bỏ chừng nào mà chưa có được lực lượng sản xuất phát triển đến mức độ phổ biến mà chế độ trở thành xiềng xích đối với chúng, nó chỉ có thể bị xóa bỏ trong điều kiện cá nhân được phát triển toàn diện.
Ở Việt Nam hiện nay có các hình thức sở hữu sau:
Sở hữu nhà nước là hình thức sở hữu mà nhà nước là đại diện cho nhân dân sở hữu những tài sản, tài nguyên, những tư liệu sản xuất chủ yếu và những của cải của đất nước. nhà nước là chủ sở hữu còn quyền sử dụng giao cho các tổ chức kinh tế và các cá nhân để phát triển kinh tế một cách hiệu quả nhất. Đó là sự tách biệt quyền sở hữu và quyền sử dụng, chủ sở hữu với chủ kinh doanh, làm cơ sở và tạo điều kiện để nhà nước thực hiện vai trò kinh tế của mình, còn doanh nghiệp nhà nước có được tính tự chủ của đơn vị sản xuất hàng hóa thực sự
Sở hữu tư nhân của người sản xuất nhỏ là sở hữu về tư liệu sản xuất của bản thân người lao động. Chủ thể của sở hữu này là nông dân, cá thể, thợ thủ công, tiểu thương. Họ vừa là chủ sở hữu đồng thời là người lao động. Nếu qui mô và phạm vi rộng hơn là tư hữu của tiểu chủ, chủ trang trại có thuê lao động. Thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ là đại biểu cho sở hữu tư nhân nhỏ.
Sở hữu tư nhân tư bản là hình thức sở hữu của các nhà tư bản (trong và ngoài nước) đầu tư vào các ngành, lĩnh vực sản xuất kinh doanh của nền kinh tế. thành phần này dựa trên cơ sở sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và bóc lột lao động làm thuê.
Sở hữu tư nhân có vị trí và vai trò rất quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Vấn đề cấp bách hiện nay ở nước ta là nhận thức đúng vị trí, vai trò của nó và quan trọng hơn phải thông qua luật pháp, thể chế, cơ chế, chính sách, môi trường để hình thành sở hữu tư nhân và các loại hình kinh tế của nó.
Sở hữu hỗn hợp là hình thức sở hữu mà các chủ thể tự nguyện tham gia đóng góp vốn để tiến hành sản xuất kinh doanh dịch vụ khi họ thấy có lợi. sở hữu hỗn hợp là hình thức tất yếu, phù hợp, linh hoạt và hiệu quả trong thời kỳ quá độ, nhằm khai thác tiềm năng của nền kinh tế cũng như của mọi doanh nghiệp, mọi công dân để phát triển lực lượng sản xuất, tăng trưởng và phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân. Hình thức tổ chức của sở hữu hỗn hợp rất đa dạng, linh hoạt như hợp doanh giữa nhà nước với tư nhân (trong và ngoài nước), đó là công ty liên doanh liên kết (đầu tư trực tiếp và gián tiếp), công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, các loại hình hợp tác xã Một chủ thể kinh tế (nhà nước, doanh nghiệp người lao động, các tổ chức kinh doanh khác) tùy khả năng và điều kiện của mình có thể tham gia nhiều hình thức góp vốn. sở hữu hỗn hợp chức đựng trong nó nhiều loại hình kinh tế (thành phần kinh tế). Sở hữu tập thể chỉ là một hình thức sở hữu phái sinh từ sở hữu hỗn hợp và các hình thức sở hữu khác
Sở hữu tập thể là phần lợi nhuận mà các thành viên thống nhất không chia đẻ lại nhằm tái sản xuất mở rộng và hình thành các loại quỹ tập thể. Trong sở hữu tập thể quyền sở hữu pháp lý vẫn thuộc về các thành viên, nhưng quyền chiếm hữu thực tế và quyền sử dụng lại mang tính tập thể. Sở hữu tập thể biểu hiện trong các hợp tác xã nông nghiệp, công nghiệp, ở cả các nhóm, tổ đội và các công ty cổ phần và cả trong các doanh nghiệp nhà nước, phần lợi nhuận của doanh nghiệp được hưởng để sử dụng làm các quỹ tập thể và đầu tư tái sản xuất mở rộng.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam còn tồn tại cơ cấu kinh tế nhiều thành phần. Đó là một tất yếu khách quan vì những lí do sau đây:
Thứ nhất, sự phát triển kinh tế ở mỗi quốc gia do đặc điểm lịch sử, điều kiện chủ quan và khách quan nên tất yếu có sự phát triển không đều về lực lượng sản xuất giữa các ngành, các vùng, các doanh nghiệp. chính sự phát triển không đều đó quyết định quan hệ sản xuất, trước hết là hình thức, quy mô và quan hệ sở hữu phù hợp với nó, nghĩa là tồn tại những quan hệ sản xuất không giống nhau. Đó là cơ sở hình thành các thành phần kinh tế khác nhau.
Thứ hai, một số thành phần kinh tế do xã hội cũ để lại: các thành phần kinh tế này vẫn có vai trò quan trọng để phát triển kinh tế, có lợi cho đất nước trong việc giải quyết việc làm, tăng sản phẩm, huy động nguồn vốn(như là thành phần kinh tế tư nhân: cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân). Vì thế, nhà nước bằng đường lối, chính sách, luật pháp, cơ chế, biện pháp khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển, góp phần tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội.
Thứ ba, một số thành phần kinh tế mới xuất hiện trong quá trình cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội như kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư bản nhà nước. các thành phần kinh tế cũ và mới tồn tại khách quan và có quan hệ với nhau, tạo thành cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Thứ tư, để phát triển và tăng trưởng kinh tế, củng cố và phát triển hệ thống chính trị, xã hội. nhà nước xây dựng hệ thống những cơ sở kinh tế mới cùng với kết quả của quá trình quốc hữu hóa, hình thành thành phần kinh tế nhà nước.
Thứ năm, trong điều kiện toàn cầu hóa kinh tế, thông qua hợp tác và đầu tư nước ngoài, nhà nước cùng với các nhà tư bản, các công ty nước ngoài cùng đầu tư hình thành kinh tế tư bản nhà nước.
CHƯƠNG 2
Ý NGHĨA CỦA VIỆC NGHIÊN CỨC NỀN KINH TẾ NHIỀN THÀNH PHẦN
2.1. Khái niệm
Nền kinh tế tồn tại nhiều thành phần, có nghĩa là tồn tại nhiều hình thức quan hệ sản xuẩt, phù hợp với thực trạng thấp kém và không đồng đều của lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay. Sự phù hợp này lại có tác dụng thúc đẩy tăng năng suất lao động, tăng trưởng kinh tế, tạo điều kiện nâng cao hiệu quả kinh tế trong các thành phần kinh tế và toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Nghiên cứu kĩ về nền kinh tế nhiều thành phần từ đó có biện pháp thúc đẩy phát triển kinh tế hàng hoá, góp phần thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng nhanh, cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân, các mặt của đời sống kinh tế xã hội.
Có các biện pháp phù hợp để khai thác và sử dụng có hiệu quả sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế trong nước như: vốn, lao động, tài nguyên, kinh nghiệm tổ chức quản lí
Tạo điều kiện thực hiện và mở rộng các hình thức kinh tế quá độ, trong đó có hình thức kinh tế tư bản nhà nước, là trạm trung gian đưa nước ta từ sản xuất nhỏ lạc hậu lên Chủ nghĩa xã hội và bỏ qua chế độ Tư bản chủ nghĩa.
Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần tạo tiền đề khắc phục tình trạng độc quyền, tạo ra quan hệ cạnh tranh, động lực quan trọng thúc đẩy cải tiến kĩ thuật, phát triển lực lượng sản xuất.
2.2 Sự cần thiết của nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta
Chính sách đối với phát triển các thành phần kinh tế là một bộ phận trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Từ chỗ không thừa nhận kinh tế tư nhân đến chỗ thừa nhận nó; từ chỗ thừa nhận kinh doanh nhỏ ở một số ngành nghề, đến chỗ không hạn chế về quy mô và lĩnh vực mà luật pháp không cấm. Từ chỗ cho làm, đến chỗ được làm, mỗi lần thay đổi tư duy như vậy là một lần nhận thức của Việt Nam được mở rộng, sâu thêm và kinh tế tư nhân cùng các thành phần kinh tế phát triển. Những biến đổi như vậy đã thúc đẩy các thành phần kinh tế đóng góp quan trọng vào tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm tạo cơ hội cho những chủ thể kinh tế, các doanh nhân mới năng động, sáng tạo, dám nghĩ dám làm, dám chịu trách nhiệm với mình và với đất nước.
Từ Đại hội VI đến nay, Đảng Việt Nam luôn luôn khẳng định thực hiện nhất quán nền kinh tế nhiều thành phần với ý nghĩa nêu trên và được coi như một giải pháp chiến lược góp phần giải phóng và khai thác mọi tiềm năng để phát triển lực lượng sản xuất. Nghị quyết Trung ương 6, khóaVI, chỉ rõ: "Trong điều kiện nước Việt Nam, các hình thức kinh tế tư nhân, cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân vẫn cần thiết lâu dài cho nền kinh tế và nằm trong cơ cấu nền kinh tế hàng hóa đi lên chủ nghĩa xã hội". Đại hội VIII của Đảng nêu 5 thành phần kinh tế: Kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế cá thể tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân. Đại hội IX của Đảng xác định, ở Việt Nam hiện nay, cần phát triển 6 thành phần kinh tế, tức là ngoài 5 thành phần kinh tế nêu trên, có thêm thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài và nhấn mạnh các thành phần kinh tế đó đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh, trong đó kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
2.3 Phát huy sức mạnh các thành phần kinh tế
Kinh tế nhà nước là thành phần kinh tế bao gồm các doanh nghiệp nhà nước, các tài nguyên quốc gia và các tài sản sở hữu nhà nước như hầm mỏ, đất đai, rừng, biển, ngân sách, các quỹ dự trữ ngân hàng nhà nước, hệ thống bảo hiểm, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, phần vốn nhà nước góp vào các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác...
Đại hội VIII của Đảng, chỉ rõ, vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước thể hiện ở "làm đòn bẩy mạnh tăng trưởng kinh tế và giải quyết những vấn đề xã hội, mở đường, hướng dẫn, hỗ trợ các thành phần kinh tế khác cùng phát triển, làm lực lượng vật chất để Nhà nước thực hiện chức năng điều tiết và quản lý vĩ mô, tạo nền tảng cho chế độ xã hội mới".
Đại hội IX của Đảng nhấn mạnh, kinh tế nhà nước là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế vĩ mô. Doanh nghiệp nhà nước giữ vị trí then chốt, đi đầu ứng dụng khoa học và công nghệ, nêu gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả và chấp hành pháp luật.
Sản xuất hàng hóa càng phát triển, sự cạnh tranh càng gay gắt thì những người lao động riêng rẽ, các hộ cá thể, các doanh nghiệp nhỏ và vừa càng có yêu cầu phải liên kết, hợp tác với nhau để tồn tại và phát triển. Vì thế, phát triển kinh tế hợp tác và hợp tác xã là con đường để giải quyết mâu thuẫn giữa sản xuất nhỏ manh mún với sản xuất hàng hóa lớn, đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường, mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế.
Kinh tế hợp tác là hình thức kinh tế mang tính tập thể, xã hội hóa, là nhân tố quan trọng để xây dựng đất nước theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Nó giáo dục ý thức cộng đồng, tinh thần hợp tác hỗ trợ lẫn nhau giữa các thành viên xã hội, giữa các thành phần kinh tế để sản xuất, kinh doanh đúng pháp luật.
Với những ưu việt như vậy, Đại hội IX của Đảng xác định: Kinh tế tập thể phát triển với nhiều hình thức hợp tác xã đa dạng. Nhà nước phải giúp đỡ hợp tác xã đào tạo cán bộ, ứng dụng khoa học - công nghệ, nắm bắt thông tin, mở rộng thị trường... để cùng với kinh tế nhà nước ngày càng giữ vai trò nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
Trong chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Đại hội IX của Đảng coi kinh tế cá thể, tiểu chủ có vị trí quan trọng, lâu dài. Loại hình kinh tế này xuất hiện và phát huy tác dụng ở cả thành thị và nông thôn, cả trong nông nghiệp, tiểu, thủ công nghiệp, thương mại và dịch vụ. Sự phát triển kinh tế cá thể, tiểu chủ trong điều kiện nền kinh tế hàng hóa gắn với thị trường có vai trò quan trọng trước mắt cũng như lâu dài trong việc thúc đẩy sản xuất, kinh doanh phát triển.
Kinh tế tư bản tư nhân là thành phần kinh tế mà sản xuất, kinh doanh dựa trên cơ sở chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và bóc lột lao động làm thuê.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, ở Việt Nam, thành phần kinh tế này có vai trò quan trọng xét về phương diện phát triển lực lượng sản xuất, về phát triển nền sản xuất hàng hóa, về giải quyết các vấn đề xã hội. Đại hội VIII của Đảng khẳng định: "Kinh tế tư bản tư nhân có khả năng góp phần xây dựng đất nước. Khuyến khích kinh tế tư nhân đầu tư vào sản xuất, yên tâm làm ăn lâu dài; bảo hộ quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp, tạo điều kiện thuận lợi đi đôi với tăng cường quản lý, hướng dẫn làm ăn đúng pháp luật, có lợi cho quốc kế dân sinh". Đại hội IX của Đảng cũng khẳng định rõ hơn vai trò vị trí của kinh tế tư bản tư nhân Nghị quyết Trung ương 5, khóa IX, xác định: "Kinh tế tư nhân là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao năng lực của đất nước trong hội nhập kinh tế quốc tế".
Từ Đại hội IX Đảng Việt Nam khẳng định thêm thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, phản ánh đúng thực tế đang diễn ra trong nền kinh tế nước ta hiện nay.
Việc triển khai thực hiện các dự án có vốn đầu tư nước ngoài đã tạo ra một khối lượng đáng kể năng lực sản xuất, đã tiếp nhận được một số kỹ thuật, công nghệ tiên tiến trong một số ngành kinh tế như thông tin viễn thông, thăm dò dầu khí, sản xuất phụ tùng, lắp ráp xe máy, hóa chất, trồng trọt theo công nghệ tiên tiến, nuôi tôm nước lợ theo công nghệ mới, xây dựng khách sạn cao cấp, sản xuất một số mặt hàng tiêu dùng, thực phẩm có chất lượng cao... Đồng thời đã tiếp thu được một số phương pháp quản lý tiến bộ, một số kinh nghiệm về tổ chức sản xuất, kinh doanh.
Trong xu thế toàn cầu hóa, để chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, với chính sách kinh tế mở, Việt Nam đang tạo môi trường thuận lợi để thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Dòng vốn nước ngoài vào Việt Nam ngày một tăng, chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong cơ cấu GDP. Cho nên việc tạo điều kiện để kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển thuận lợi, hướng vào xuất khẩu, xây dựng kết cấu kinh tế - xã hội gắn với thu hút công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm là chủ trương đúng của Đảng, phù hợp với yêu cầu khách quan của quá trình phát triển nền kinh tế Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
2.4 Những vấn đề cần tháo gỡ để phát triển các thành phần kinh tế
Lý luận cũng như qua thực tiễn gần 18 năm đổi mới đã chứng minh sức sống và vai trò to lớn của các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Các thành phần kinh tế ấy không tồn tại biệt lập với nhau mà bổ sung lẫn nhau, hỗ trợ cho nhau, cạnh tranh với nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển.
Song để khắc phục những khó khăn, phát huy những thuận lợi, tiếp tục thúc đẩy phát triển các thành phần kinh tế, phát huy các nguồn lực xây dựng nền kinh tế quốc dân vững mạnh trước hết cần tập trung tháo gỡ những vướng mắc chính sau:
a - Nhận thức đúng về sự cần thiết tồn tại nhiều thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Viêt Nam. Phải thực sự giải phóng tư tưởng cho các chủ thể các thành phần kinh tế, tạo "sân chơi" bình đẳng, lành mạnh cho các thành phần kinh tế. Khắc phục tâm lý mặc cảm, kỳ thị, sợ chệch hướng xã hội chủ nghĩa, mất độc lập chủ quyền, đi theo hướng tư bản chủ nghĩa... Từ đó ngại ngùng, không dám cho các thành phần kinh tế phát triển với mọi năng lực của nó. Thực tế chúng ta có Đảng vững mạnh; có Nhà nước với hệ thống pháp luật và các cấp quản lý chặt chẽ; ý thức độc lập tự chủ của nhân dân rất cao nên không dễ gì chệch hướng con đường đi lên chủ nghĩa xã hội khiến ta phải băn khoăn, lo ngại không dám chấp nhận nó. Phải coi đây là hình thức quá độ cần thiết, tạo sức mạnh vật chất cho nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội.
b - Hoàn thiện hệ thống pháp luật để định hướng, điều chỉnh, quản lý kinh tế vĩ mô đối với các thành phần kinh tế bằng pháp luật; xây dựng hệ thống cơ chế, chính sách, thích hợp, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế bình đẳng, tự chủ, tự do phát triển lâu dài. Đổi mới nội dung, phương thức quản lý của Nhà nước sao cho đúng, hiệu quả, thực sự "chặt" mà không gò ép, cứng nhắc; "thoáng" mà không buông. Trong quan hệ kinh tế đối ngoại, chúng ta có cơ chế "thoáng" song vẫn giữ được độc lập tự chủ của đất nước để tăng tính hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài giúp ta phát triển nhanh, mạnh, vững chắc ở một số ngành, lĩnh vực, địa bàn trọng tâm trọng điểm như một số nước đã làm.
c - Thực hiện công khai, công bằng, dân chủ trong chính sách đầu tư, quản lý, thuế, tài chính v.v.. đối với các thành phần kinh tế. Xóa cơ chế "xin - cho"; ngăn chặn hữu hiệu xu hướng quay lại bao cấp trong một số ngành, lĩnh vực, thành phần kinh tế. Khắc phục mọi biểu hiện đặc quyền đặc lợi, ban phát, chạy chọt, tham nhũng, hối lộ v.v.. trong các khâu của quá trình vận hành nền kinh tế nhiều thành phần gắn với thị trường.
d - Chăm lo đào tạo, xây dựng đội ngũ cán bộ các loại cho các thành phần kinh tế. Tăng cường ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ hiện đại vào quá trình sản xuất kinh doanh của các thành phần kinh tế. Mở rộng thông tin và tăng khả năng lãnh đạo của Đảng và định hướng của Nhà nước đối với các thành phần kinh tế để bảo đảm sản xuất, kinh doanh đúng hướng đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước và quốc tế. Đảng và Nhà nước tạo điều kiện cho các chủ thể các thành phần kinh tế tiếp cận với thị trường khu vực và quốc tế, giúp cho việc chủ động hội nhập với nền kinh tế thế giới, tăng sức cạnh tranh, tiếp thu được những tiến bộ khoa học - công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiến bộ của thế giới.
đ - Coi trọng bảo vệ môi trường trong sản xuất, kinh doanh của các thành phần kinh tế nhằm bảo đảm phát triển ổn định, bền vững. Kiên quyết phát hiện, ngăn chặn kịp thời những vi phạm làm ô nhiễm môi trường gây tổn thất cho sản xuất, kinh doanh và gây tác hại ảnh hưởng đến sức khỏe con người.
e - Thực hiện nghiêm việc xử phạt những chủ thể kinh tế, các đơn vị kinh tế sản xuất, kinh doanh hàng kém phẩm chất, làm hàng giả, gian lận trong sản xuất, kinh doanh để tạo nên nền kinh tế lành mạnh, bền vững, khắc phục những biểu hiện sai trái, tiêu cực của các thành phần kinh tế có thể xảy ra gây nên những biến động về kinh tế - xã hội của đất nước.
CHƯƠNG 3
SỰ HÌNH THÀNH CÁC TỔNG CÔNG TY VÀ TẬP ĐOÀN KINH TẾ
Khái niệm tập đoàn:
Khái niệm về tập đoàn kinh tế của Nhật Bản: “Tập đoàn kinh tế đó là một tập thể các doanh nghiệp hỗ trợ nhau để duy trì được khả năng độc lập, đồng thời nắm giữ các cổ phần của nhau, thiết lập được mối quan hệ mật thiết trên các phương diện hùn vốn, huy động nguồn nhân lực, cung ứng nguyên vật liệu, mức tiêu thụ sản phẩm”.
Khái niệm về tập đoàn kinh tế của Trung Quốc: “Tập đoàn doanh nghiệp Trung Quốc là một tổ chức liên minh giữa hai hay nhiều doanh nghiệp có đủ tư cách pháp nhân, xây dựng trên cơ sở công hữu xã hội chủ nghĩa phù hợp với sự nghiệp xã hội hoá, lấy chế độ công ty hiện đại làm đặc trưng thể hiện chủ yếu”.
Một số nhà kinh tế Việt Nam cho rằng: “Tập đoàn kinh tế của Việt Nam là một tổ hợp các doanh nghiệp liên kết với nhau trong hoạt động kinh doanh trên nguyên tắc liên kết kinh tế, bao gồm: “Công ty mẹ và các “Công ty con”, “Công ty cháu”. Công ty mẹ sở hữu vốn của các công ty con, công ty cháu, chi phối các công ty con, công ty cháu về mặt tài chính và các chiến lược phát triển, hay cụ thể hơn: “Tập đoàn là một tập hợp các doanh nghiệp có tư cách pháp nhân, hoạt động theo luật doanh nghiệp (Hay luật doanh nghiệp Nhà nước sửa đổi), kinh doanh trong phạm vi một ngành hay đa ngành. Bản thân tập đoàn không có tư cách pháp nhân.
Cơ cấu của tập đoàn bao gồm Công ty mẹ và các công ty thành viên. Các công ty thành viên trong tập đoàn là các thực thể kinh tế độc lập, hợp tác trên nguyên tắc mọi thành viên đều bình đẳng trước pháp luật. Công ty mẹ là công ty có cổ phần hay vốn cổ phần chiếm đa số (cổ phần chi phối) ở các công ty thành viên và vì vậy có quyền chi phối hoạt động kinh doanh của các công ty thành viên thông qua việc phê duyệt điều lệ hoạt động và cử nhân sự của công ty vào bộ máy quản lý và điều hành ở các đơn vị thành viên. Các thành viên trong tập đoàn được phân công hoạt động sản xuất kinh doanh theo chuyên ngành, theo sản phẩm hàng hoá mà họ làm ra, hay theo khu vực hoạt động sản xuất kinh doanh không cạnh tranh nội bộ”.
Vai trò của tập đoàn kinh tế thuộc chủ sở hữu là Nhà nước, nói theo ngôn ngữ dung dị là tập đoàn kinh tế quốc doanh, đang là vấn đề thu hút sự chú ý đặc biệt của tất cả những ai đang quan tâm đến tình hình kinh tế đất nước hiện nay, nhất là trên hai phương diện:
(a)sự đóng góp của nó đối với sự phát triển nền kinh tế nước ta,
(b)vai trò và ảnh hưởng của nó trong tình hình lạm phát hiện nay.
Mô hình Tập đoàn kinh tế thuộc sở hữu nhà nước xuất hiện lần đầu tiên vào khoảng đầu thế kỷ thứ 19 (khoảng từ 1830) tại một số nước châu Âu (chủ yếu là Tây Âu) trong giai đoạn công nghiệp hóa phát triển bùng nổ ban đầu.
3.2 Những đặc điểm cơ bản của Tập đoàn kinh tế
Có qui mô rất lớn về vốn, lao động, doanh thu và phạm vi hoạt động
Hoạt động kinh doanh đa ngành, đa lĩnh vực
Có sự liên kết bằng quan hệ về tài sản và quan hệ hiệp tác giữa các doanh nghiệp thành viên trong Tập đoàn kinh tế
Cơ cấu tổ chức đa dạng
Đa sở hữu
Về quản lý điều hành Tập đoàn kinh tế
3.3 Vai trò của tập đoàn kinh tế
Làm tăng sức mạnh kinh tế và khả năng của cả tập đoàn cũng như của từng thành viên.
Tập trung và điều hoà vốn.
Là giải pháp hữu hiệu, tích cực đẩy nhanh việc nghiên cứu triển khai, ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ mới vào sản xuất kinh doanh của các công ty thành viên.
Với tư cách là các công ty đa quốc gia sẽ trợ giúp các nước công nghiệp hoá sau thực hiện chiến lược chuyển giao công nghệ nước ngoài một cách có hiệu quả nhất.
3.4 Nhiệm vụ chủ yếu của tập đoàn kinh tế
Thông qua mô hình tổ chức và sự lãnh đạo của mình để tạo ra lợi nhuận cao và ổn định cho các doanh nghiệp thành viên hoạt động độc lập.
Xây dựng chiến lược phát triển chung của toàn tập đoàn.
Giúp đỡ xây dựng và phê duyệt chiến lược phát triển của doanh nghiệp thành viên.
Tổ chức thực hiện chiến lược của các doanh nghiệp thành viên thông qua các điều lệ, quy định sử dụng các nguồn dự trữ tài chính hoặc bổ nhiệm lãnh đạo doanh nghiệp thành viên.
Phát triển mô hình doanh nghiệp thành viên lành mạnh cũng như tạo ra và phát huy các khả năng hợp tác của từng thành viên để tăng cường khả năng cạnh tranh.
Sử dụng tổng hợp có hiệu quả các nguồn lực trong tập đoàn; xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược đầu tư.
Quan điểm và định hướng của Chính phủ cho việc hình thành Tập đoàn kinh tế
Hội nghị Trung ương 3 khóa IX: “Hình thành một số tập đoàn kinh doanh mạnh trên cơ sở các tổng công ty nhà nước, có sự tham gia của các thành phần kinh tế, kinh doanh đa ngành, trong đó có ngành kinh doanh chính, chuyên môn hóa cao và giữ vai trò chi phối lớn trong nền kinh tế quốc dân, có quy mô rất lớn về vốn, hoạt động cả trong và ngoài nước, có trình độ công nghệ cao và quản lý hiện đại, có sự gắn kết trực tiếp, chặt chẽ giữa khoa học công nghệ, đào tạo, nghiên cứu triển khai với sản xuất kinh doanh. Thí điểm hình thành tập đoàn kinh tế trong một số lĩnh vực có điều kiện, có thế mạnh, có khả năng phát triển để cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả như: Dầu khí, Viễn thông, Điện lực, Xây dựng...”
Quan điểm hình thành và phát triển các tập đoàn kinh tế ở Việt Nam
Việc hình thành và phát triển các tập đoàn kinh tế ở Việt Nam phải gắn liền và phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đổi mới cơ chế quản lý nền kinh tế quốc dân.
- Trong điều kiện Việt Nam hiện nay, hình thành và phát triển các tập đoàn kinh tế cần xuất phát từ nhu cầu nội tại của bản thân các doanh nghiệp, bằng con đường kinh tế, chứ không nên gò ép bằng biện pháp hành chính. Nhà nước chỉ đóng vai trò hỗ trợ, xúc tiến mà không nên là người quyết định thành lập tập đoàn, dù là tập đoàn được hình thành từ các DNNN. Xuất phát từ đặc tính cơ bản của tập đoàn kinh tế là sự liên kết kinh tế, nên, việc thành lập các tập đoàn kinh tế trước hết phải tuân thủ nguyên tắc tự nguyện.
- Đa sở hữu là giải pháp hữu hiệu để đẩy mạnh tích tụ và tập trung vốn, nâng cao hiệu quả hoạt động SX-KD của tập đoàn. Đa sở hữu tạo nên sự đan xen sở hữu, phân tán rủi ro trong đầu tư, nâng cao trách nhiệm quản lý và sử dụng vốn, tạo ra hiệu quả sản xuất kinh doanh cao hơn.
- Việc thành lập tập đoàn kinh tế phải nhằm đạt được hiệu quả kinh tế – xã hội cao hơn, nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp, phát huy được những ưu điểm và khắc phục mặt hạn chế của các tổng công ty nhà nước.
- Hình thành và phát triển tập đoàn kinh tế phải được tiến hành dần từng bước có chọn lọc, không ồ ạt và phù hợp với tiến trình đổi mới chung của nền kinh tế. Phương hướng chung là xây dựng các tổng công ty nhà nước đủ mạnh để làm nòng cốt trong những tập đoàn kinh tế lớn, có năng lực cạnh tranh trên thị trường trong nước và quỗc tế như Dầu khí, Điện, Than, Hàng không, Đường sắt, Viễn thông, Hoá chất, Luyện kim...
- Tập đoàn kinh tế cần được hoàn toàn tự chủ trong sản xuất kinh doanh, xác định chiến lược, quy hoạch phát triển cũng như các biện pháp thực hiện nhằm đạt được kế hoạch đề ra phù hợp với chiến lược và kế hoạch phát triển của nền kinh tế quốc dân. Nhà nước không can thiệp vào hoạt động sản xuất kinh doanh của tập đoàn.
Với điều kiện kinh tế – xã hội của Việt Nam hiện nay, để sớm hình thành các tập đoàn kinh tế, cần lấy tổng công ty nhà nước làm nòng cốt, trên cơ sở đó thu hút rộng rãi thêm sự tham gia của các thành phần kinh tế trong nước và các nhà đầu tư nước ngoài, mở rộng ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh trên cơ sở ngành chuyên môn chính của tổng công ty. Trong giai đoạn hiên nay, giải pháp này có tính khả thi cao, bởi vì:
- Kinh tế tư nhân thời gian qua tuy đã phát triển khá nhanh, nhưng về cơ cấu vẫn chưa tập trung vào những ngành kinh tế mũi nhọn, chưa tập trung được những nguồn lực lớn; tiềm lực chưa đủ mạnh và còn phân tán, mức độ tích tụ, tập trung chưa cao. Bên cạnh đó, trình độ liên kết kinh doanh yếu (cả về kỹ năng cũng như về tập quán). Do đó, nếu để các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế này tự hình thành tập đoàn một cách tự nhiên thì sẽ rất chậm. Hiện nay, đã có một số tập đoàn tư nhân ra đời như: Hoà phát, LS , Tân Hoàng Minh. nhưng sự phát triển của các tập đoàn này cũng chưa đủ sức tạo thành những bước đột phá cho nền kinh tế.
- Nhiều tổng công ty nhà nước hiện nắm giữ các nguồn lực lớn của đất nước (tài nguyên, nhân lực, vật lực, thị trường); bước đầu tập trung được số lượng lớn vốn, lao động chuyên môn, công nghệ, theo ngành kinh tế - kỹ thuật; nhiều tổng công ty đã thực hiện phân công, hiệp tác hoá, chuyên môn hoá ở mức độ nhất định; tạo ra những điều kiện và nhu cầu khá cơ bản về liên kết kinh tế giữa các thành viên.
Tuy nhiên, bên cạnh giải pháp lấy tổng công ty nhà nước làm nòng cốt, về lâu dài, Nhà nước cần chú trọng để có chính sách phù hợp, tạo điều kiện cho các tập đoàn tư nhân ra đời và phát triển nhanh hơn; đồng thời, khuyến khích đầu tư đan xen giữa các doanh nghiệp nhà nước, tổng công ty nhà nước, tập đoàn kinh tế nhà nước, các nhà đầu tư nước ngoài với nhau để tạo ra một thế mạnh chung, chia sẻ rủi ro, tận dụng tối đa những tiềm năng, lợi thế của các doanh nghiệp trong nước trong việc nâng cao khả năng cạnh tranh và hiệu quả sản xuất kinh doanh
3.7 Sự hình thành các Tổng công ty và tập đoàn kinh tế ở Việt Nam
Mô hình thử nghiệm đầu tiên là tổng công ty nhà nước mà chúng ta thường quen gọi là các “tổng công ty 90, 91”. Sở dĩ có tên gọi như vậy vì mô hình này xuất phát từ Quyết định số 90-TTg và Quyết định số 91-TTg ngày 7-4-1994 của Thủ tướng Chính phủ. Theo đó, các doanh nghiệp nhà nước và xí nghiệp liên hiệp được sáp nhập “gom” lại thành các tổng công ty theo những hình thức như cùng ngành nghề (ví dụ, Tổng công ty Nông nghiệp gồm các doanh nghiệp của ngành nông nghiệp...); liên kết dọc (khác ngành nghề nhưng có mối liên kết trong chu trình sản xuất kinh doanh, ví dụ như khai thác - sản xuất - lưu thông than trong Tổng công ty Than) hoặc liên kết hỗn hợp (nhiều ngành nghề khác nhau, ví dụ như Tổng công ty Thương mại Sài Gòn).
Đến năm 1995, mô hình và cơ chế hoạt động của tổng công ty chính thức được đưa vào Luật Doanh nghiệp nhà nước.
Mục tiêu của mô hình tổng công ty nhà nước là nhằm xóa bỏ dần cơ chế chủ quản hành chính, tách hẳn quản lý sản xuất kinh doanh ra khỏi quản lý nhà nước, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nhà nước liên kết, tập hợp lại với nhau trong “ngôi nhà” tổng công ty để trở thành những “quả đấm thép” của nền kinh tế. Một cách cụ thể, nếu như trước đây các cơ quan nhà nước như UBND các cấp, các sở, các bộ, ban ngành (cơ quan chủ quản) trực tiếp quản lý các doanh nghiệp nhà nước thì giờ đây chức năng ấy được chuyển giao cho các tổng công ty.
Theo công bố trên báo chí, Việt Nam hiện nay có 8 tập đoàn kinh tế quốc doanh(thuộc sở hữu Nhà nước). Cũng theo công bố trên báo chí, cả nước có 18 tổng công ty 91 và 73 tổng công ty 90 mang dáng dấp các tập đoàn kinh tế quốc doanh hoặc công ty mẹ-công ty con, (không rõ bao nhiểu tổng công ty 91 và bao nhiêu tổng công ty 90 đã trở thành hoặc đã được đưa vào nhóm 8 tập đoàn kinh tế quốc doanh vừa kể trên). Toàn bộ các đơn vị kinh tế này chiếm khoảng 54% về vốn, 62% doanh thu và 73% tiền nộp ngân sách trong tổng số 5.970 doanh nghiệp nhà nước hiện nay (khu vực kinh tế quốc doanh).
Các số liệu thống kê cho biết khu vực kinh tế quốc doanh (5970 doanh nghiệp nhà nước nói trên) chiếm từ 53% đến 67% vốn kinh doanh của tất cả các doanh nghiệp cả nước; có tài sản cố định cao hơn tài sản cố định của các doanh nghiệp tư nhân trong và ngoài nước nhưng không được thể hiện trong các số liệu thống kê về vốn. Hàng chục năm nay các doanh nghiệp nhà nước có tỷ lệ đóng góp vào GDP ước khoảng 37-39%; tạo công ăn việc làm cho khoảng 4,4% tổng số lao động, những năm gần đây không tạo ra không đáng kể việc làm mới; chỉ đóng góp từ 25% đến 34% sản lượng công nghiệp; các doanh nghiệp nhà nước hầu như tham gia không đáng kể vào các khu vực nông, lâm, ngư nghiệp. Khu vực các doanh nghiệp nhà nước có nhập siêu thường xuyên và lớn nhất trong hàng chục năm nay.
Việt Nam có 8 tập đoàn kinh tế nhà nước gồm: Bưu chính - Viễn thông (VNPT), Than - Khoáng sản (Vinacomin), Dầu khí (PetroVietnam), Điện lực (EVN), Công nghiệp Tàu thủy (Vinashin), Dệt May (Vinatex), Cao su (VRG) và Tài chính - Bảo hiểm (Bảo Việt).
Ngoài ra, cả nước còn có 96 tổng công ty và công ty Nhà nước có quy mô lớn, tổ chức hoạt động theo hình thức công ty mẹ con.
3.8 Một số vấn đề về hình thành Tập đoàn kinh tế ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
Sự cần thiết và tất yếu hình thành Tập đoàn kinh tế ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Việt Nam đang đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, chủ động hội nhập ngày càng sâu rộng vào kinh tế quốc tế. Do đó, yêu cầu phát triển kinh tế thời kỳ tới không chỉ là nâng cao tốc độ tăng trưởng, mở rộng kinh tế đối ngoại mà còn cần chủ động tạo ra và phát huy những lợi thế so sánh để đi tắt, đón đầu tạo ra những bước đột phá về kinh tế, tránh khỏi nguy cơ tụt hậu so với các nước trong khu vực và quốc tế. Thực tiễn khách quan này đặt ra yêu cầu cần sớm hình thành những Tập đoàn kinh tế mạnh trong một số lĩnh vực mũi nhọn của nền kinh tế với những lý do sau:
Xu hướng mở của, hội nhập, hợp tác trong phạm vi toàn cầu đã là một yêu cầu tất yếu khách quan đối với nước ta trong việc tổ chức, sắp xếp lại các doanh nghiệp nhỏ bé, phân tán và manh mún thành những doanh nghiệp lớn để đủ khả năng đối tác cũng như cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào Việt Nam. Xu hướng phát triển khoa học công nghệ cũng như việc áp dụng các thành tựu khoa học công nghệ mới và đào tạo nhân lực có trình độ cao cũng đòi hỏi chỉ có những doanh nghiệp qui mô đủ lớn, tiềm năng đủ mạnh hoạt động trong nước và quốc tế mới có thể phát triển được.
- Đảng và Nhà nước chủ trương xây dựng một nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam mà một trong những đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường là phải chấp nhận cạnh tranh. Tính chất cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong mọi thành phần kinh tế tất yếu dẫn đến quá trình tích tụ và tập trung. Việc tích tụ và tập trung vốn vào sản xuất giữa các doanh nghiệp tất yếu dẫn đến hình thành các doanh nghiệp lớn. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế và bối cảnh quốc tế các doanh nghiệp lớn không chỉ ra đời mà còn phát triển mạnh về qui mô và hình thức tổ chức thành những tập đoàn kinh tế hoạt động trong nhiều ngành, nhiều lĩnh vực trong nước và xuyên quốc gia.
- Để tăng cường vị trí của DNNN trong việc bảo đảm vai trò chủ đạo, dẫn dắt các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác hoạt động theo định hướng XHCN, Nhà nước cần có các DNNN mạnh, hoạt động trong một số lĩnh vực ngành nghề quan trọng có mối liên kết với nhau chặt chẽ về lợi ích kinh tế, công nghệ, từ những yêu cầu đó đòi hỏi phải hình thành các tập đoàn kinh tế hoạt động có hiệu quả và làm nòng cốt trong nền kinh tế xã hội nước Việt Nam.
3.9 Phương hướng sắp xếp, đổi mới Doanh nghiệp Nhà nước
Quá trình hình thành
Vai trò, chức năng
Cách thức tổ chức
Phương hướng hoạt động
Mâu thuẫn
KẾT LUẬN
Cơ cấu các thành phần kinh tế ngày càng được chuyển dịch theo hướng phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, trong đó kinh tế tư nhân được phát triển không hạn chế về quy mô và địa bàn hoạt động trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm. Từ những định hướng đó, khung pháp lý ngày càng được đổi mới, tạo thuận lợi cho việc chuyển dần từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp, sang nền kinh tế thị trường, nhằm giải phóng sức sản xuất, huy động và sử dụng các nguồn lực có hiệu quả, tạo đà cho tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Vì thế chủ trương hình thành các tập đoàn kinh tế của Đảng và Nhà nước Việt Nam, đặc biệt là việc tập đoàn hoá các tổng công ty Nhà nước là một hướng đi đúng đắn phù hợp với quy luật phát triển của nền kinh tế thị trường, phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn nền kinh tế Việt Nam và với sức ép cạnh tranh trong công cuộc toàn cầu hoá kinh tế hiện nay. Từ những mô hình tập đoàn kinh tế của thế giới và những mô hình tập đoàn kinh tế non trẻ của nước Việt Nam, có thể rút ra kết luận về việc xây dựng, phát triển mô hình tập đoàn kinh tế ở Việt Nam theo hướng: hình thành các tập đoàn kinh tế trên một số ngành, lĩnh vực có đủ điều kiện và cần thiết như: dầu khí, điện, bưu chính viễn thông, cơ khí chế tạo, xây dựng, kinh doanh lương thực, hoá chất - dược phẩm, hàng không... theo mô hình tổ chức “công ty mẹ - công ty con” và có mối liên hệ mật thiết với hệ thống quản lý kinh tế của Nhà nước Việt Nam hiện nay.
Để thực hiện thành công việc xây dựng và phát triển các tập đoàn kinh tế, phát huy được sức mạnh, vai trò của chúng đối với nền kinh tế nước Việt Nam, Nhà nước cần ban hành những văn bản pháp luật tạo cơ sở pháp lý cho mô hình tập đoàn kinh tế tồn tại và phát triển, đồng thời tạo hành lang hoạt động hiệu quả và có những hướng dẫn cụ thể cho các doanh nghiệp để sự ra đời của các tập đoàn kinh tế thực sự có vai trò trong công cuộc xây dựng nền kinh tế Việt Nam phát triển, nhanh chóng thực hiện được mục tiêu Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình kinh tế chính trị, NXB Đại học Kinh tế quốc dân.
PGS.TSKH Vũ Huy Từ (chủ biên): Mô hình tập đoàn kinh tế trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa, NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005.
Luật Doanh nghiệp năm 2005.
Luật Đầu tư năm 2005.
Webside Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam:
6. Webside Tổng công ty Dầu khí Việt Nam
7. www.viet-studies.info
8. Theo Trần Quang Nhiếp, Tạp chí Cộng sản số 21, tháng 11/2004
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 7419.doc