Đề tài Nghiên cứu các thuật toán phân tích đối với các văn phạm phi ngữ cảnh và các mạng chuyển

Tuy nhiên, chương trình phân tách từ vựng hiện tại vẫn còn một số vấn đề khó khăn cần phải tiếp tục nghiên cứu giải quyết: Thứ nhất là vấn đề giải quyết nhập nhằng phân tách. Cần phải chọn một phương án đúng đắn trong số nhiều phương án. Các hướng tiếp cận khả thi cho vấn đề này có thể là: - Dùng phương pháp phân tích cú pháp. Tiến hành phân tích cú pháp của câu với những phương án tách từ vựng có thể, từ đó loại ra những phương án sai cú pháp. Muốn thực hiện được điều này thì ta cần một trình phân tích cú pháp tương đối tin cậy và đầy đủ.

doc63 trang | Chia sẻ: Kuang2 | Lượt xem: 1201 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nghiên cứu các thuật toán phân tích đối với các văn phạm phi ngữ cảnh và các mạng chuyển, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c một lớp các tính toán cho trước có kết thúc trong một thời gian hữu hạn hay không. Cụ thể là, bài toán đoán nhận một xâu không thuộc ngôn ngữ tương ứng với một ôtômát đã cho nói chung không thể quyết định được bởi các TM. Câu hỏi này, về nguyên tắc, là có thể trả lời được đối với các lớp ôtômát yếu hơn. 3.2. Các yếu tố cơ sở của mạng chuyển đệ quy Mạng chuyển đệ quy (recursive transition networks -- RTNs) được Wood đưa ra lần đầu tiên vào năm 1970, là một thiết bị nhận dạng các văn phạm phi ngữ cảnh. Xét văn phạm đơn giản sau 1. (a) S → NP (Aux) V (NP) PP* 1. (b) S → Aux NP V (NP) PP* 2. NP → (Det) (Quant) Adj* N* N PP* 3. PP → Prep NP Văn phạm này định nghĩa một ngôn ngữ phi ngữ cảnh trên bảng chữ cái {Aux, V, Det, Quant, Adj, N, Prep}. Ở đây có một mở rộng so với thông thường là các ngoặc tròn, chứa các phần tử tuỳ chọn, và dấu hoa thị dùng để chỉ ký hiệu đi kèm với nó có thể không có hoặc xuất hiện nhiều hơn một lần. Các vế phải của các quy tắc cũng có thể được xem như định nghĩa của các biểu thức của các ngôn ngữ chính quy, hay các biểu thức chính quy, tương ứng trên các bảng chữ cái {NP, Aux, V, PP} đối với quy tắc 1, {Det, Quant, Adj, N, PP} đối với quy tắc 2 và {Prep, PP} đối với quy tắc 3 -- do đó mỗi biểu thức có thể được diễn tả bằng một ôtômát hữu hạn trạng thái tương đương. Ví dụ, sơ đồ trạng thái của các ôtômát tương ứng với các quy tắc 1.(a) và 1.(b) là: trong đó ký hiệu JUMP chỉ các bước chuyển không có điều kiện không tiêu thụ ký hiệu. Nhìn vào biểu diễn này, ta thấy ngay rằng biểu diễn bước chuyển của các trạng thái cho phép ta ghép các vế phải của 1.(a) và 1.(b) thành một sơ đồ duy nhất, vì hai quy tắc là giống nhau kể từ ký hiệu V trở đi. Điều này sẽ làm việc mô tả các thông tin trong hai quy tắc ngắn gọn hơn so với hình thức viết lại. Ghép hai sơ đồ A1(a) và A1(b) ta sẽ được ba sơ đồ bước chuyển tương ứng với bốn quy tắc 1-3 như sau: Ở đây, ta gặp vấn đề với các cung chuyển NP trong A1 và A3 và PP trong A2. Để biểu diễn đúng theo máy hữu hạn trạng thái thì ta phải coi chúng như những ký hiệu kết, trong khi rõ ràng chúng là các ký hiệu không kết trong văn phạm ban đầu. Vậy nếu chúng không kết thì làm thế nào để đoán nhận được bởi các ôtômát hữu hạn trạng thái tương ứng? Cách giải thích hiển nhiên ở đây là ta cần có cách nhìn khác đối với những cung "không kết" này, ta coi ba ôtômát A1-A3 là một hệ. Bây giờ ta không đòi hỏi A1 phải đoán nhận ký hiệu NP, mà để nó tạm thời chuyển sang A2, và quay lại với thông tin NP đó có thể đoán nhận được tại vị trí vào hiện tại hay không. Tương tự, A2 phải chuyển trách nhiệm đoán nhận PP cho A3, đến lượt mình, A3 lại gọi A2 để đoán nhận NP. Rõ ràng là một FSA đơn thuần không thể đáp ứng được tiến trình đệ quy này, bởi nó không có cách nào để ghi nhớ đã xuất phát từ đâu và làm thế nào để quay lại đó sau khi kết thúc một quá trình trung gian. Tuy vậy, ta thấy rằng nếu ta dùng thêm một ngăn xếp để chuyển các FSA này thành một PDA thì thiết bị này hoàn toàn có khả năng quản lý mọi thao tác phụ gồm ghi nhớ và lấy lại các trạng thái. Khi điều khiển được chuyển sang một quá trình trung gian thì trạng thái hiện tại của máy được đẩy vào ngăn xếp, để khi kết thúc quá trình này máy sẽ quay lại đúng trạng thái đó. Trong thuật ngữ của RTN, việc chuyển điều khiển sang một trạng thái, giả sử NP, được gọi là PUSH NP. Khi ra khỏi trạng thái kết ta dùng một cung có nhãn POP để chỉ rằng khi quá trình kết thúc, máy quay lại trạng thái được lưu trong ngăn xếp. Ta cũng có thể sử dụng RTN để biểu diễn từ điển, thay vì dùng tập các quy tắc viết lại dạng Det → 'a' Det → 'the' Det → 'some' ta có thể sử dụng dạng chuyển như sau và gắn kết quả vào mạng văn phạm tương tự như A1-A3. Để tiện cho việc trình bày, ta có thể định nghĩa tập các hàm mà cung chuyển có thể gọi. Các hàm tìm kiếm trong từ điển hay sử dụng nhất là CAT, hàm này kiểm tra kiểu từ loại đã định nghĩa trước trong từ điển của từ hiện tại đang đọc vào. Các hàm khác được tóm lược trong bảng sau: Các hàm Ví dụ Cách dùng CAT noun đi qua được chỉ nếu từ loại của từ hiện tại có cùng tên WRD of đi qua được chỉ nếu từ hiện tại chính là từ này PUSH NP đẩy tới một mạng khác JUMP jump luôn có thể đi qua được POP pop chỉ việc đi qua được toàn bộ mạng chuyển Để kết thúc mục này, ta tóm tắt sự giống và khác nhau giữa mạng chuyển RTN và các ôtômát hữu hạn trạng thái FSA và ôtômát đẩy xuống PDA như sau: Giống nhau: ¾ RTN cũng như FSA và PDA đều có thể đoán nhận các câu sinh bởi các văn phạm cấu trúc câu. ¾ RTN tương đương với PDA về khả năng đoán nhận ngôn ngữ sinh bởi văn phạm phi ngữ cảnh (CFG) của Chomsky. ¾ Hoạt động của RTN cũng như FSA và PDA đều có thể được biểu diễn bằng các mạng chuyển. Khác nhau: ¾ Các cung và các đỉnh (trạng thái): Trong khi các trạng thái trong mạng chuyển của FSA có nhãn là các từ không kết thúc của văn phạm tương đương với ôtômat, các cung có nhãn là các từ cuối (cũng như vậy với PDA, trừ các cung rỗng và cung kết thúc pop), thì các cung của RTN có nhãn là các từ không kết thúc (trừ một số cung đặc biệt cũng có nhãn là từ cuối) của văn phạm tương đương, với các trạng thái được đánh dấu tuỳ ý. ¾ Các mạng con: Các mạng chuyển của FSA và PDA là các mạng đầy đủ, còn mạng chuyển của RTN thì được xử lý như là một tập các mạng con. Với mỗi ký hiệu có xuất hiện ở vế trái trong các qui tắc sinh của văn phạm tương đương được biểu diễn bằng một mạng con. ¾ RTN không đơn định, quá trình đoán nhận do vậy phải dùng phương pháp quay lui. ¾ Do đặc điểm của mô hình RTN là một tập các mạng chuyển con, việc đoán nhận câu trong RTN phải theo phương pháp xử lý từ trên xuống (xuất phát từ mạng con S – tức là mạng biểu diễn các quy tắc sinh có vế trái là tiên đề) và xử lý theo chiều sâu trước (phải đi qua từng mạng con trước khi chuyển sang cung tiếp theo). 3.3. Tính thủ tục của các RTN Phương pháp biểu diễn nêu trên có mức độ trừu tượng tương đương với một hệ các quy tắc viết lại của văn phạm phi ngữ cảnh, theo nghĩa mọi quy tắc của văn phạm phi ngữ cảnh đều có thể chuyển thành một RTN tương đương. Tuy nhiên, cách biểu diễn bằng RTN có một đặc điểm quan trọng mà trong các hệ quy tắc viết lại không có, đó là các tiến trình (process). Khi ta sử dụng một văn phạm để xây dựng thủ tục đoán nhận một ngôn ngữ, thì các quy tắc viết lại chỉ ra cần làm cái gì; còn ôtômát nằm trong RTN lại mô tả làm như thế nào. Để so sánh, giả sử ta dùng một hệ sản xuất để đoán nhận một ngôn ngữ phi ngữ cảnh và dùng một RTN để đoán nhận cũng ngôn ngữ đó. Khi thiết kế hệ sản xuất, ta tự do quyết định các câu hỏi như áp dụng quy tắc nào tiếp theo, phần dữ liệu nào sẽ xem xét tiếp theo, và thực hiện các thao tác "viết lại" trên dữ liệu đó như thế nào. Với RTN, quyền lựa chọn các quyết định tương tự như trên không thuộc về người thiết kế nữa, bởi vì chúng đã bị ẩn trong biểu diễn ngữ nghĩa của văn phạm. Hình thức biểu diễn bằng RTN thể hiện nhiều đặc tính của các ngôn ngữ lập trình thủ tục thường gặp, đặc biệt khi nó được dịch thành biểu diễn tuyến tính cho đầu vào của máy tính - lệnh nhảy goto có và không có điều kiện (các bước chuyển trạng thái), các nhãn lệnh (các tên trạng thái), và các lời gọi thủ tục (PUSH và POP). Các điều khiển thủ tục có một đặc điểm quan trọng không bị ẩn trong ký hiệu, đó là cách trình thông dịch thực hiện khi nó gặp một trạng thái có nhiều cung chuyển tiếp theo. Chế độ bình thường là lần lượt đi theo các cung chuyển, bắt đầu từ cung chuyển đầu tiên, thực hiện từ trên xuống và ưu tiên chiều sâu, đi theo các đường dẫn xa nhất có thể và chấp nhận đường đi đầu tiên đến được một trạng thái kết với một xâu vào rỗng và ngăn xếp rỗng. Ở đây có sự khác nhau cơ bản so với cách tiếp cận hệ sản xuất, với hệ sản xuất, dạng viết lại của các quy tắc tự nó không giả định trước bất kỳ một tiến trình nào. Người xây dựng mạng chuyển RTN cần suy nghĩ theo tiến trình nhận dạng từ trên xuống, từ trái sang phải. Như vậy, hình thức RTN cho phép ta dễ dàng theo dõi tiến trình phân tích. Các RTN mô tả tiến trình, còn CFG thì không. Do mỗi chương trình máy tính là một sự mô tả tiến trình nên các RTN rất có giá trị khi được dùng để viết chương trình phân tích. Trên thực tế cũng có nhiều trình phân tích được điều khiển bởi các quy tắc của văn phạm. Sự khác nhau lớn nhất của hai hình thức này là vào thời điểm chạy chương trình, trình phân tích RTN "biết được" tại mỗi bước đã có sẵn những lựa chọn nào, còn các trình phân tích dựa trên văn phạm phi ngữ cảnh phải tìm trong dãy các quy tắc những quy tắc nào là có thể áp dụng được. 3.4. Phân tích từ trên xuống cho mạng chuyển đệ quy Trạng thái phân tích tại một thời điểm nào đó được biểu diễn như sau: ¾ Vị trí hiện tại. Lưu lại phần nào của câu đã được phân tích rồi ¾ Nút hiện tại. Nút ta đang dừng lại để phân tích ¾ Ðiểm quay lại (trở về). Ta đang nằm trong một mạng (B) bởi lời gọi từ một nút nào đó của mạng (A). Khi đó điểm trở về là nút của mạng A, để khi quay ra ta lại tiếp tục quá trình phân tích. Trước hết, ta xét thuật toán đơn giản tìm kiếm trên một mạng chuyển đệ quy. Giả sử rằng nếu ta có thể đi qua một cung nào đó thì cung đó sẽ là đúng đắn trong phân tích cuối cùng; và giả sử ta chỉ xét các cung cat, push, và pop. Sau đó ta sẽ sửa đổi thuật toán này để tìm tất cả các đường đi bằng kỹ thuật quay lui. Giả sử ta đang đứng ở một nút trung gian nào đó và biết 3 thông tin đã qua. Ta thử đi theo một cung để ra khỏi nút hiện tại. Có các trường hợp sau xảy ra ¾ Nếu cung này là cung cat và từ kế tiếp trong câu thuộc vào lớp từ loại đó, thì - cập nhật lại vị trí hiện tại là từ kế tiếp; - cập nhật lại nút hiện tại là đích của cung này; ¾ Nếu cung này là cung push đẩy tới một mạng N thì - đưa đích của cung này vào danh sách các điểm trở về; - cập nhật lại nút hiện tại là nút bắt đầu của mạng N; ¾ Nếu cung này là cung pop và danh sách các điểm trở về chưa rỗng thì cập nhật nút hiện tại là điểm đầu tiên trong danh sách này; ¾ Nếu cung này là cung pop, danh sách các điểm trở về là rỗng và không còn từ nào cả thì việc phân tích là thành công; Ðể minh hoạ, ta xét văn phạm sau (Hình 13), Hình 13. Mạng chuyển đệ quy làm ví dụ trong phân tích từ trên xuống cùng với bộ từ vựng ART the, a NUMBER one PRONOUN one ADJ wild, green NOUN dogs, man, saw, green VERB cried, saw, broke, faded, man Khi đó, câu  1 The 2 wild 3 dogs 4 cried 5 sẽ được phân tích như trên Bảng 3. Bước Nốt hiện tại Vị trí hiện tại Ðiểm trả về Cung được đi 1. S 1 nil S/1 2. NP 1 {S1} NP/1 3. NP1 2 {S1} NP1/1 4. NP1 3 {S1} NP1/2 5. NP2 4 {S1} NP2/1 6. S1 4 nil S1/1 7. S2 5 nil N2/1 Bảng 3. Quá trình phân tích từ trên xuống Câu The green faded sẽ không thể phân tích tích được bằng văn phạm này, bởi đầu tiên trình phân tích coi green là một tính từ, cho nên sau đó nó không tìm được một danh từ. Xét câu 1 One 2 saw 3 the 4 man 5, Ban đầu, trình phân tích thử phân tích câu với cụm danh từ one saw, nhưng sau đó thất bại khi tìm một động từ tiếp theo, nó quay lại và tìm ra cách phân tích thành công với cụm danh từ là one. Quá trình phân tích như trên Bảng 4. Bước Trạng thái hiện tại Ði theo cung Các trạng thái được lưu lại 1. (S,1,nil) S/1 nil 2. (NP,1,{S1}) NP/2 (và NP/3 để lưu) nil 3. (NP1,2,{S1}) NP1/2 {NP2,2, {S1}} 4. (NP2,3,{S1}) NP2/1 {NP2,2, {S1}} 5. (S1,3,{nil}) không thể đi theo cung nào cả {NP2, 2, {S1}} 6. (NP2,2,{S1}) NP2/1 nil 7. (S1,2,nil) S1/1 nil 8. (S2,3,nil) S2/2 nil 9. (NP,3,{S2}) NP/1 nil 10. (NP1,4,{S2}) NP1/2 nil 11. (NP2,5,{S2}) NP2/1 nil 12. (S2,5,nil) S2/1 nil 13. phân tích thành công nil Bảng 4. Phân tích từ trên xuống kết hợp quay lui cho mạng chuyển đệ quy Trong bước 2, có hai cung ra khỏi nút NP có thể chấp nhận one. Cung NP/2 coi one là một số (number) và sinh ra nút kế tiếp; đồng thời one cũng là một đại từ (pronoun), nên trình phân tích lưu lại khả năng đi qua cung NP/3 để đến nút NP2, như thế trình phân tích lưu trạng thái (NP2,2,{S1}). Tại bước 6, nó dùng lại trạng thái này, bởi nhận thấy rằng không có cung nào đi ra khỏi S1 chấp nhận từ the. Với những ví dụ phức tạp hơn, sẽ có cả một danh sách các điểm được lưu. Tuỳ theo danh sách này được tổ chức theo thứ tự ra sao, trình phân tích sẽ sinh ra những thứ tự phân tích khác nhau. Chương 4. Xây dựng văn phạm tiếng Việt 4.1. Xây dựng tập từ loại tiếng Việt Ngữ pháp tiếng Việt hết sức phức tạp. Việc xây dựng một bộ văn phạm hoàn chỉnh cho tiếng Việt là rất khó khăn. Ngay cả về vấn đề từ loại của tiếng Việt hiện nay vẫn còn chưa hoàn toàn thống nhất. Sau khi tham khảo nhiều tài liệu chuyên ngành cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt, nhóm nghiên cứu đã quyết định sử dụng trước mắt cách phân loại từ tiếng Việt theo cuốn Ngữ Pháp tiếng Việt (nhà xuất bản KHXH, 1983) và đề nghị bộ nhãn chi tiết như danh sách dưới đây: 1. Danh từ (N) a. Danh từ riêng Np b. Danh từ đơn thể Nc c. Danh từ tổng thể Ng d. Danh từ loại thể Nt e. Danh từ đơn vị Nu f. Danh từ trừu tượng Na g. Danh từ số lượng Nn h. Danh từ vị trí Nl 2. Động từ (V) a. Động từ ngoại động Vt b. Động từ nội động Vit c. Động từ cảm nghĩ Vim d. Động từ phương hướng Vo e. Động từ tồn tại Vs f. Động từ biến hoá Vb g. Động từ ý chí Vv h. Động từ tiếp thụ Va i. Động từ so sánh Vc j. Động từ “là” Vla 3. Tính từ (A) a. Tính từ hàm chất Aa b. Tính từ hàm lượng Am 4. Đại từ (P) a. Đại từ xưng hô Pp b. Đại từ không gian, thời gian Pd c. Đại từ số lượng Pn d. Đại từ hoạt động, tính chất Pa e. Đại từ nghi vấn Pi Khoá luận tốt nghiệp 5. Phụ từ (J) 6. Kết từ (C) a. Kết từ chính phụ Cm b. Kết từ liên hợp Cc 7. Trợ từ M 8. Cảm từ I a. Phụ từ thời gian Jt b. Phụ từ mức độ Jd c. Phụ từ so sánh Jr d. Phụ từ khẳng định, phủ địnhJa e. Phụ từ mệnh lệnh Ji 4.2. Xây dựng văn phạm tiếng Việt Mục tiêu của ta là xây dựng được một văn phạm vừa đủ để giải quyết bài toán phân tích. Nếu văn phạm quá rộng thì vừa không cần thiết vừa làm phức tạp thêm vấn đề. Nhưng nếu văn phạm quá hẹp thì không thể bao quát được hết cấu trúc của các câu cần phân tích, do đó không đủ mạnh để giải quyết bài toán. Khi xây dựng câu tiếng Việt, ta triển khai xây dựng theo từng bước từ → ngữ → câu. Ngữ pháp truyền thống chia ra các loại ngữ sau đây: Tên ngữ Nhãn Đặc trưng Danh ngữ (noun phrase) NP Danh từ làm trung tâm Động ngữ (verb phrase) VP Động từ làm trung tâm Tính ngữ (adjectival phrase) AP Tính từ làm trung tâm Giới ngữ (prepositional phrase) PP Giới từ làm trung tâm Nói chung, mỗi ngữ đều có ba bộ phận: phần phụ trước đứng trước thành tố chính, phần trung tâm chứa thành tố chính và phần phụ sau đứng sau thành tố chính. Thành tố chính của ngữ giữ vai trò quan trọng về mặt ngữ pháp đối với ngữ, cần thiết về mặt tổ chức của ngữ, sự có mặt của nó là bắt buộc, không thể lược bỏ. Thành tố chính đại diện cho toàn bộ ngữ trong mối liên hệ với các yếu tố khác nằm ngoài ngữ, chi phối các thành tố khác và quyết định chức vụ ngữ pháp của tất cả các thành tố phụ có liên quan. Xét về vị trí, thành tố phụ của ngữ đứng trước hay sau phần trung tâm. Trong cùng một loại ngữ, những từ có khả năng khi thì làm thành tố phụ sau, khi thì làm thành tố phụ trước không nhiều. Xét về từ loại, thành tố phụ có thể thuộc lớp từ hư hoặc thuộc lớp từ thực. Trong tiếng Việt, tồn tại những lớp từ hư chuyên làm thành tố phụ trong từng loại ngữ nhất định. Chúng được dùng để nhận biết từ loại của từ làm thành tố chính. Ví dụ: • hãy | đừng | chớ + động từ • rất | hơi | khí + tính từ • tính từ + lắm | quá • hãy | đừng | chớ | rất | hơi | khí + động từ ý chí - tâm trạng Thành tố phụ trước thường là những từ riêng lẻ, ta ít gặp những cụm từ chính phụ hay chủ vị tại vị trí trước trung tâm. Về mặt từ loại thì đó thường là những phụ từ chuyên dụng, có thể thống kê thành từng nhóm nhỏ có cùng kiểu ý nghĩa khái quát và chuyên đi kèm với những từ loại nhất định. Thành tố phụ sau rất đa dạng và phức tạp về cấu tạo, về từ loại và về nghĩa. Tại vị trí này có thể là từ rời hoặc các loại cụm từ. Khái quát về từ loại, có thể chia các thành tố phụ sau ra thành 2 lớp lớn là lớp các từ có tính chất từ hư và lớp gồm các thực từ. Trong phạm vi khoá luận này, để hạn chế tính phức tạp của các cấu trúc ngữ nói riêng và cấu trúc câu nói chung, em chỉ xem xét thành tố phụ sau về mặt từ loại và dưới dạng từ rời. Thành tố chính rất quan trọng về mặt tổ chức ngữ pháp của ngữ. Nhưng về ý nghĩa thì trong phần lớn các trường hợp, thành tố phụ là yếu tố mang trọng lượng nghĩa lớn nhất. Trong lời nói, nhiều khi chỉ cần dùng một mình thành tố phụ đã đủ đưa ra thông tin. Ví dụ: - Anh đã đọc quyển sách này chưa? - Đã. Bây giờ em xin trình bày sơ lược về các danh ngữ, động ngữ và tính ngữ, tập trung vào mặt cấu tạo của chúng nhằm mục đích xây dựng các quy tắc sinh cho văn phạm tiếng Việt. 4.2.1. Danh ngữ Danh ngữ gồm ba phần: phần trung tâm, phần phụ trước và phần phụ sau. Phần trung tâm là một danh từ hoặc một danh từ chỉ loại cùng với một danh từ chỉ sự vật hay một động từ, tính từ chỉ hoạt động, trạng thái, tính chất, cả hai cùng gộp lại để chỉ một sự vật. Ví dụ: cái nhà, cây tre, con mèo, người thợ, niềm vui, cuộc họp, vẻ đẹp... Trong danh ngữ không có phần phụ trước, bất kỳ một loại danh từ nào cũng đều có thể làm thành tố chính mà không kèm thêm điều kiện nào (trừ về ý nghĩa). Trong danh ngữ có phần phụ trước, danh từ làm thành tố chính đòi hỏi những điều kiện khá chặt chẽ. Ví dụ, có những lớp con danh từ chỉ có thể đứng ở phần trung tâm sau một danh từ loại thể. Phần phụ trước có 3 vị trí khác nhau, sắp xếp theo một trật tự nhất định, chuyên dùng để chỉ mặt số lượng của sự vật nêu ở trung tâm. Có hai vị trí có trật tự ổn định, thường dùng để chỉ mặt chất lượng của sự vật nêu ở trung tâm. Ví dụ: tất cả những cái con mèo đen ấy -3 -2 -1 0 1 2 Vị trí chỉ xuất (-1) nằm sát trung tâm, thường gặp là từ cái, từ chỉ xuất bao giờ cũng là một danh từ loại thể. Vị trí từ chỉ số lượng (-2) được chia làm các hạng sau: • số từ xác định (số đếm) một, hai,... • số từ phỏng định: vài, ba... • từ hàm ý phân phối mỗi, từng, mọi... • quán từ những, các, một... • từ mấy Vị trí chỉ tổng lượng (-3), thường gặp những từ tất cả, hết thảy, tất thảy, tất cả, cả... Phần phụ sau của cụm danh từ có hai vị trí. Phần trung tâm Vị trí 1 Vị trí 2 con mèo đen của nhà bạn Nam tôi mới xin hôm qua ấy Vị trí 1 nêu đặc trưng miêu tả, về mặt từ loại ta nhận thấy có nhiều kiểu từ loại khác nhau danh từ phòng tạp chí động từ phòng đọc tính từ phòng hẹp số từ phòng mười bốn đại từ phòng chúng tôi Vị trí từ chỉ định 2 là yếu tố đánh dấu đường biên giới sau cùng của danh ngữ. Các từ chỉ định thường gặp là: này, kia, nọ, ấy, đấy, đó. Tóm lại, ta có cấu tạo đầy đủ của danh ngữ như sau: Phụ tố tổng thể Phụ tố số lượng Phụ tố loại thể, đơn vị Chính tố ở trung tâm Phụ tố hạn định Phụ tố chỉ định Det1 (Determiner) Det2 Det3 N AP/VP/NP/PP DP (demonstrative pronoun) Tất cả ba cái bàn gỗ ấy Những cô bán hàng này Tư tưởng tiến bộ đó Toàn thể đồng bào cả nước Trong khuôn khổ khoá luận ta chỉ xét trường hợp đơn giản với các qui tắc sinh danh ngữ như sau 1) NP → N 2) NP → Det1 Det2 Det3 N DP 3) Det1 → Ng (Danh từ tổng thể) 4) Det2 → Nn (Danh từ số lượng) 5) Det3 → Nt | Nu (Danh từ loại thể/danh từ đơn vị) 6) DP → Pd (Đại từ không gian/thời gian) 4.2.2. Động ngữ Về mặt cấu tạo, động ngữ cũng có ba thành phần: phần trung tâm, phần phụ trước và phần phụ sau. Phần trung tâm có thể là một động từ (ví dụ, đang viết thư, đã mắc bệnh), một ngữ khứ hồi (ví dụ, vừa đi Nam Định về hôm qua) hoặc một thành ngữ (ví dụ, cứ chỉ tay năm ngón hoài). Trong phạm vi khoá luận này, em chỉ xét phần trung tâm là một động từ, bởi vì kiểu thành tố chính là một động từ là kiểu có tính chất tiêu biểu, có tác dụng nhiều nhất đối với việc xác định tính chất động từ cho một từ cũng như đối với việc phân định các tiểu loại trong từ loại động từ. Khi xem xét kiểu thành tố chính là một động từ, ta cần phân biệt hai loại động từ độc lập và không độc lập. Trong điều kiện sử dụng bình thường, động từ độc lập có thể tự thân làm thành tố chính, còn động từ không độc lập đòi hỏi phải có một từ khác đi sau để bổ sung ý nghĩa. Động từ không độc lập được chia làm các nhóm: • động từ tình thái, ví dụ, cần, nên, phải, có thể, không thể, định, toan, dám, chịu, mong, muốn, chúc, bị, được, mắc, phải... • động từ tiếp diễn, chấm dứt, ví dụ, bắt đầu, tiếp tục, hết, thôi... Các động từ độc lập điển hình là các động từ chỉ hoạt động vật lý, hoặc trạng thái tâm lý như: đọc, thực hiện, lấy, đi, lo, kính nể, vui... Thực tiễn sử dụng ngôn ngữ cho thấy tại phần phụ trước của động ngữ có thể gặp hai lớp từ khác nhau rõ rệt: • Những từ mang nhiều ý nghĩa ngữ pháp, chuyên đi kèm động từ (hoặc tính từ), có thể gọi chung là những phụ từ. • Một số từ rõ nghĩa từ vựng, những thực từ. Số lượng phụ từ làm thành tố phụ trước trong động ngữ chỉ khoảng vài chục từ, chia làm các nhóm con • chỉ sự tiếp diễn, tương tự của hoạt động, trạng thái, như đều, cũng vẫn, cứ, còn... • chỉ quan hệ thời gian của hoạt động, trạng thái như từng, đã, vừa, mới, đang, sẽ... • chỉ tần số (số lần) khái quát của sự xuất hiện hoạt động trạng thái, như thường, hay, năng, ít, hiếm... • chỉ mức độ của trạng thái như rất, hơi, khí, quá... • nêu lên ý khẳng định hay phủ định như có, không, chưa, chẳng... • nêu ý sai khiến, khuyên nhủ như hãy, đừng, chớ... Tại phần phụ trước cụm động từ, ta gặp hai kiểu thực từ thành tố phụ sau đây: 1. Những từ tượng thanh tượng hình và một số tính từ có tác dụng miêu tả hành động, trạng thái nêu ở động từ - thành tố chính. Ví dụ, ào ào chảy, lác đác rơi, khẽ kêu, căn bản hoàn thành, tích cực làm việc... 2. Kiến trúc gồm một kết từ với một danh từ chỉ điểm xuất phát. Kiến trúc này thường đứng trước các động từ chỉ hướng (ra, vào, lên, xuống), các kết từ thường gặp là từ, ở, dưới, trên, trong, ngoài... Ví dụ, từ quê ra, ở Bắc vô, dưới Hải Phòng lên... Cũng giống như trong tổ chức của danh ngữ, phần phụ sau của động ngữ phức tạp hơn về nhiều phương diện so với phần phụ trước. Chỉ xét riêng về phương diện từ loại, thành tố phụ sau của động ngữ có thể là những yếu tố thuộc mọi từ loại có thể có, chẳng hạn danh từ đọc sách động từ ăn đứng tính từ đi nhanh số từ chia ba đại từ hỏi ai chỉ định từ lại đây phụ từ hiểu rồi Ở động ngữ, phụ từ làm thành tố phụ sau có thể được chia thành những nhóm nhỏ với những ý nghĩa ngữ pháp riêng, như sau: • Nhóm từ chỉ ý kết thúc, gồm rồi, đã... • Nhóm từ chỉ ý cầu khiến (mời mọc, mệnh lệnh, rủ rê) gồm đi, nào, thôi... • Nhóm từ chỉ kết quả gồm 3 từ được, mất, phải... • Chỉ sự tự lực thì dùng từ lấy. Ví dụ, làm lấy • Nhóm từ chỉ sự cùng chung, gồm có với, cùng. Ví dụ, cho nó chơi với. • Từ nhau chỉ sự qua lại, tương hỗ. Ví dụ. Yêu nhau xin nhớ lời nhau. • Nhóm từ chỉ hướng như ra, vào, tới, lui, qua, lại... • Nhóm từ chỉ mức độ, như lắm, quá. • Nhóm từ chỉ cách thức diễn ra trong thời gian của hoạt động, trạng thái, gồm ngay, liền, tức khắc, tức thì, dần, dần dần, từ từ, nữa, hoài, luôn, mãi... Cũng như với các phụ từ, khả năng xuất hiện thực từ tại phần phụ sau động ngữ lệ thuộc nội dung ý nghĩa của từ làm thành tố chính. Tóm lại, ta có cấu tạo đầy đủ của động ngữ như sau: Phụ tố trước Chính tố ở trung tâm Phụ tố sau phụ từ/thực từ V phụ từ/thực từ đã ăn xong cơm còn yêu nhiều hãy hỏi tôi Trong khuôn khổ khoá luận ta chỉ xét trường hợp đơn giản với các qui tắc sinh động ngữ như sau 1) VP → Det1 V Det2 2) Det1 → J | A | C 3) Det2 → J | A | C 4.2.3. Tính ngữ Cấu tạo chung của tính ngữ cũng gồm 3 phần: phần trung tâm, phần phụ trước, phần phụ sau. Các thành tố phụ của tính ngữ gồm có hai loại: thành tố phụ là phụ từ và thành tố phụ là thực từ. Phần lớn những thành tố phụ là phụ từ xuất hiện ở động ngữ đồng thời cũng có thể làm thành tố phụ trong tính ngữ. Cụ thể như: đã, sẽ, đang, vừa, đều, mới, vẫn, cứ, cũng... với tư cách thành tố phụ trước; rồi với tư cách là thành tố phụ sau. Một vài thành tố phụ có tác dụng đánh dấu từ loại động từ không thể xuất hiện hoặc chỉ xuất hiện với những điều kiện nhất định ở tính ngữ, như hãy, đừng (thành tố phụ trước), đã (thành tố phụ sau). Xét tính từ ở vị trí trung tâm ngữ trong mối quan hệ với hai loại thành tố phụ là hư từ và thực từ, có thể phân biệt hai trường hợp sau đây, trong mỗi trường hợp đó, có sự phân biệt giữa hai lớp con tính từ đối với nhau: 1. Xét ở khả năng kết hợp với những phụ từ chỉ mức độ như rất, lắm, quá, cực kỳ... Ở đây phân biệt được hai lớp con tính từ là tính từ có thang độ (ví dụ, tốt, đẹp, xấu, đúng, sai, to, nhỏ, vừa, xanh, sạch...) và tính từ không có thang độ hay tính từ tuyệt đối (ví dụ, riêng tư, công, chính, đỏ au, thơm ngát, chín nẫu). 2. Xét khả năng kết hợp với thực từ về phía sau. Có thể phân biệt hai lớp con tính từ: a. Những tính từ có thực từ làm rõ nghĩa, tức là có bổ ngữ. Ví dụ đông, đầy, vắng, thưa, mau, nhiều... (Ngoài đường đông người). b. Những tính từ không cần có thực từ làm rõ nghĩa. Phần phụ trước của tính ngữ thường là các phụ từ chuyên dụng, như rất, hơi, khí, cực kỳ, tuyệt.... Ngoài những từ chuyên dụng này, tại phần phụ trước của tính ngữ, có thể xuất hiện hầu hết các phụ từ đi với động từ (trừ hãy, đừng, chớ). Cũng như phần phụ sau của động ngữ, trong phần phụ sau của tính ngữ có thể phân biệt những từ có tính chất từ hư -- phụ từ và các thực từ. Phụ từ chuyên dụng làm thành tố phụ sau của tính ngữ là từ lắm. Những từ cực, cực kỳ, tuyệt, quá như đã nói ở trên, thường đứng sau tính từ, nhưng cũng dễ dàng chuyển lên trước tính từ với sắc thái nhấn mạnh. Ví dụ, đẹp lắm, đẹp cực kỳ... Đặt trong mối quan hệ với tính từ làm thành tố chính, các thực từ làm thành tố phụ sau cũng được chia làm các nhóm nhỏ để tiện miêu tả về ý nghĩa, những thường là danh từ. Ở trong phạm vi khoá luận, em chưa sử dụng những sự phân biệt này. Tóm lại, cấu tạo đầy đủ của tính ngữ là: Phụ tố trước Chính tố ở trung tâm Phụ tố sau phụ từ A phụ từ/thực từ rất tốt nết khoẻ cực kỳ Trong khuôn khổ khoá luận ta chỉ xét trường hợp đơn giản với các qui tắc sinh tính ngữ như sau 1) AP → Det1 A Det2 2) Det1 → J 3) Det2 → J | N 4.2.4. Câu đơn hai thành phần Câu đơn hai thành phần là câu đơn có một cụm chủ - vị duy nhất làm thành nòng cốt câu. Câu đơn hai thành phần chiếm vị trí trung tâm và chủ yếu của việc miêu tả ngữ pháp về câu. Vì câu đơn hai thành phần có sự tương ứng với tổ chức của một phán đoán logic tối giản và, mặt khác, ở nó hội tụ các đặc trưng cơ bản của phần cú pháp học về câu (xét ở mặt ngữ pháp), nó được sử dụng rộng rãi nhất và được dùng làm cơ sở cho những kiểu câu có cấu tạo lớn hơn (câu đơn mở rộng nòng cốt câu, câu phức thành phần và nhất là câu ghép). Câu đơn được phân loại dựa trên các khuôn hình, đi từ khái quát đến cụ thể. Khuôn hình cơ sở của câu đơn hai thành phần là khuôn hình chủ - vị. I. [Câu] = [Chủ ngữ] + [Vị ngữ] Chủ ngữ có thể là danh ngữ, là tên riêng hoặc đại từ. Khuôn hình hiện thực cấp 1 thực hiện hoá khuôn hình cơ sở đến bậc từ loại. Giả sử chủ ngữ là danh ngữ, chúng ta xây dựng lược đồ như sau: 1. [Câu] = [Danh ngữ] + [Tính ngữ] | [Động ngữ] 2. [Câu] = [Danh ngữ] + [Từ không độc lập chỉ quan hệ + Danh ngữ | Động ngữ] Các ví dụ tương ứng là: Anh này + giỏi | đọc sách Anh này + là + sinh viên Cái này + để + treo Khuôn hình hiện thực cấp 2 cụ thể hoá các khuôn hình cấp 1 ở một số yếu tố của chúng. Trong khuôn hình này, cấu trúc 2. được thác triển tiếp như sau: là Anh này là sinh viên bằng Cái ấm này bằng nhôm Danh ngữ tại | do | bởi ... Danh ngữ Việc này tại anh ấy của Cái áo này của tôi ngoài | trên ... Anh ấy ngoài vườn như Cô ấy như người ốm Danh ngữ để Động ngữ Cái bàn này để ăn cơm Khuôn hình hiện thực cấp 3 là những biến thể song song và có thể chi tiết hơn của các khuôn hình cấp 2. Nhưng trong phạm vi khoá luận này, em xin dừng lại ở khuôn hình hiện thực cấp 2. 4.2.5. Văn phạm tiếng Việt Tổng kết lại, ta xét văn phạm sinh một lớp các câu đơn giản hai thành phần của tiếng Việt như sau: 1. [Câu] → [Chủ ngữ] + [Vị ngữ] 2. [Chủ ngữ] → [Tên riêng] 3. [Chủ ngữ] → [Đại từ] 4. [Chủ ngữ] → [Đại từ] + [Phụ tố chỉ định] 5. [Chủ ngữ] → [Danh ngữ] 6. [Vị ngữ] → [Tính ngữ] 7. [Vị ngữ] → [Động ngữ] 8. [Vị ngữ] → [Từ quan hệ] + [Danh ngữ] 9. [Vị ngữ] → [Từ quan hệ] + [Động ngữ] 10. [Danh ngữ] → [Danh từ] 11. [Danh ngữ] → [Phụ tố số lượng] + [Danh từ] 12. [Danh ngữ] → [Phụ tố số lượng] + [Phụ tổ loại thể, đơn vị] + [Danh từ] 13. [Danh ngữ] → [Danh từ] + [Phụ tố chỉ định] 14. [Danh ngữ] → [Phụ tổ loại thể, đơn vị] + [Danh từ] 15. [Danh ngữ] → [Phụ tổ loại thể, đơn vị] + [Danh từ] + [Phụ tố chỉ định] 16. [Danh ngữ] → [Phụ tố số lượng] + [Phụ tổ loại thể, đơn vị] + [Danh từ] + [Phụ tố chỉ định] 17. [Động ngữ] → [Động từ] 18. [Động ngữ] → [Động từ] + [Danh từ] 19. [Động ngữ] → [Động từ] + [Phụ từ] 20. [Động ngữ] → [Động từ] + [Tính từ] 21. [Động ngữ] → [Phụ từ] + [Động từ] 22. [Động ngữ] → [Phụ từ] + [Động từ] + [Phụ từ] 23. [Động ngữ] → [Phụ từ] + [Động từ] + [Danh từ] 24. [Động ngữ] → [Phụ từ] + [Động từ] + [Tính từ] 25. [Tính ngữ] → [Tính từ] 26. [Tính ngữ] → [Tính từ] + [Phụ từ] 27. [Tính ngữ] → [Tính từ] + [Danh từ] 28. [Tính ngữ] → [Phụ từ] + [Tính từ] 29. [Tính ngữ] → [Phụ từ] + [Tính từ] + [Danh từ] Bảng 5. Tập luật của văn phạm tiếng Việt Bây giờ em xin trình bày cấu trúc dữ liệu được sử dụng trong chương trình phân tích cú pháp từ trên xuống cho văn phạm phi ngữ cảnh, chỉ nêu lên phần cài đặt cấu trúc dữ liệu và thuật toán phân tích mà không liệt kê chi tiết toàn bộ mã nguồn của chương trình. Cấu trúc dữ liệu và thuật toán được trình bày trong ngôn ngữ lập trình Java. Với tiếng Việt, trước khi phân tích cú pháp, ta cần tách các đơn vị từ vựng trong câu, sau đó áp dụng tương tự mô hình tiếng Anh. Vì vậy, trong phần này em chỉ trình bày cấu trúc dữ liệu và cài đặt thuật toán cho bài toán phân tích cú pháp tiếng Anh. Trong phần phụ lục của khoá luận em sẽ trình bày chi tiết bài toán tách từ vựng tiếng Việt. Chương 5. Cài đặt chương trình 5.1. Cấu trúc dữ liệu Từ điển là một danh sách tuyến tính các mục từ trong từ điển. Mỗi mục từ là một đối tượng của lớp Lexicon. Lớp Lexicon gồm hai thành phần dữ liệu: biến kiểu xâu ký tự word chứa nội dung của mục từ và một vector partOfSpeech biểu diễn các từ loại tương ứng với từ đó. Các phương thức thao tác trên hai thành phần dữ liệu này là: ¾ boolean isPos(String c) kiểm tra xem từ này có kiểu từ loại là c hay không ¾ String getWord() lấy ra nội dung của từ ¾ Vector getPos() lấy ra vector các từ loại của từ Lớp Lexicon có dạng như sau: class Lexicon { String word; Vector partOfSpeech; Lexicon(String w, Vector pos) {} boolean isPOS(String c) {} public String getWord() {} public Vector getPOS() {} public String toString() {} } Để tăng tốc độ tính toán trong quá trình phân tích, ta biểu diễn mỗi kiểu từ loại bởi một ký tự. Để thực hiện điều này, ta dùng một bảng băm (hashtable) chứa các cặp khoá-trị thể hiện các cặp kiểu từ loại -- mã ký tự tương ứng. Trong chương trình phân tích cú pháp tiếng Anh, ta dùng bảng băm sau: Hashtable ht = new Hashtable(); String keys[] = {"S", "N", "V", "a","n", "v", "i", "j", "P", "p", "x", "o", "u" }; String values[] = {"S", "NP", "VP", "ART", "NOUN", "VERB", "NAME", "ADJ", "PP", "PREP", "AUX", "PRONOUN", "NUMBER" }; for (int i = 0; i < keys.length; i++) ht.put(keys[i], values[i]); Bảng băm này cũng tiện dụng khi biểu diễn các nút của cây chứa kết quả phân tích. Để biểu diễn các nút của cây phân tích, ta sử dụng lớp ParsingTreeNode. Lớp này gồm hai thành phần dữ liệu value chứa tên từ loại và key chứa mã của từ loại này. Lớp ParsingTreeNode có dạng như sau: class ParsingTreeNode { private String value; Khoá luận tốt nghiệp private String key; public ParsingTreeNode() {} public ParsingTreeNode(String k, String v) {} public String getKey() {} public String toString() {} } Với bảng băm nêu trên, ta có văn phạm đơn giản của tiếng Anh gồm 11 quy tắc như sau: STT Dạng đầy đủ Dạng biểu diễn 1. S → NP VP S → NV 2. NP → ART NOUN N → an 3. NP → ART ADJ NOUN N → ajn 4. NP → NAME N → i 5. NP → PRONOUN N → o 6. PP → PREP NP P → pN 7. VP → VERB V → v 8. VP → AUX V NP V → xvN 9. VP → VERB NP V → vN 10. VP → VERB NP PP V → vNP 11. VP → VERB PP V → vP Bảng 6. Tập luật của văn phạm tiếng Anh Để lưu các vế trái và vế phải của các quy tắc sinh trong văn phạm, ta sử dụng hai mảng một chiều left, right: int MAX_RULES = 50; // số quy tắc cực đại String left[] = new String[MAX_RULES]; String right[] = new String[MAX_RULES]; Các từ của câu cần phân tích được chứa trong mảng tokens. Với tiếng Anh, ta chỉ cần dựa vào các ký tự trắng trong câu để cắt ra các từ. String tokens[]; Để chứa các trạng thái phân tích được sao lưu và vị trí hiện tại đang xét trong câu cần phân tích, ta dùng các ngăn xếp Stack backupStates = new Stack(); Stack positions = new Stack(); 5.2. Cài đặt thuật toán Để dựng được cây phân tích, bao giờ ta cũng cần tìm dẫn xuất trái của quá trình phân tích. Dẫn xuất trái là một dẫn xuất tại mỗi bước luôn luôn chọn chữ phụ đầu tiên của xâu trung gian để thực hiện phép thế. Như vậy, một xâu ù bất kỳ thuộc vào ngôn ngữ sinh bởi văn phạm G khi và chỉ khi có tồn tại dẫn xuất trái để từ ký hiệu khởi đầu S suy dẫn được ra ù. Ta gọi dãy các số hiệu của các quy tắc suy dẫn i1i2...in là dãy trái. Ta quy bài toán phân tích câu về bài toán tìm dãy trái của ù. Với những cấu trúc dữ liệu và thuật toán đã trình bày, ta có phương thức tìm dãy trái của một xâu như sau: ¾ Input: Một câu tiếng Anh ù, các từ cách nhau ít nhất một ký tự trắng, không có các dấu chấm câu ¾ Output: Dãy trái của ù nếu phân tích được, hoặc trả lời không đoán nhận được public Vector parse(String w) { int i,j; boolean recognizable = false; // đã đoán nhận được? Vector parsingOrder = new Vector();// dãy trái của phân tích // Lấy ra các từ trong câu StringTokenizer stk = new StringTokenizer(w); int n = stk.countTokens(); tokens = new String[n]; i = 0; while (stk.hasMoreTokens()) { tokens[i] = stk.nextToken(); i++; } String curState = ""; // trạng thái hiện tại int curPos = 0; // vị trí hiện tại Stack backupStates = new Stack(); // các trạng thái sao lưu Stack positions = new Stack(); // các vị trí sao lưu Stack ruleIdxs = new Stack(); // chỉ số các quy tắc được chọn backupStates.push(startSymbol); // startSymbol = S - câu ruleIdxs.push(new Vector()); positions.push(new Integer(0)); // vòng lặp phân tích while ((!backupStates.isEmpty()) && (!recognizable)) { curState = (String)backupStates.pop(); parsingOrder = (Vector)ruleIdxs.pop(); curPos = ((Integer)positions.pop()).intValue(); j = 0; while ((curState.length() > 0) && (Character.isLowerCase(curState.charAt(j)))) { // lo•i b• nh•ng ph••ng án không th• ••a t•i k•t qu• while ((curState.length() > n-curPos) && (!backupStates.isEmpty())) { curState = (String)backupStates.pop(); curPos = ((Integer)positions.pop()).intValue(); parsingOrder = (Vector)ruleIdxs.pop(); } // nếu từ hiện tại thuộc kiểu từ loại này if (lexiconDic.match(""+curState.charAt(j),tokens[curPos])){ curPos++; curState = (curState.length() == 1)? "" : curState.substring(1); j = 0; if ((curPos >= tokens.length) && curState.compareTo("") == 0)){ recognizable = true; break; } } else { // n•u không thì xét v• trí và tr•ng thái sao l•u if (!positions.isEmpty()) curPos = ((Integer)positions.pop()).intValue(); if (!backupStates.isEmpty()) { curState = (String)backupStates.pop(); parsingOrder = (Vector)ruleIdxs.pop(); } else break; } } // Áp d•ng các suy d•n: ••a các ph••ng án ti•p theo vào các ng•n x•p, // ch• ••a vào các ph••ng án có kh• n•ng cho k•t qu• if ((!recognizable) && (curState.compareTo("") != 0)) for (i = 0; i < numberOfRules; i++) if ((left[i].compareTo("" + curState.charAt(0)) == 0) && (curState.length() <= tokens.length-curPos+1)) { backupStates.push(right[i]+ ((curState.length() >= 1) ? curState.substring(1) : "")); positions.push(new Integer(curPos)); Vector tempVec = new Vector(); for (Enumeration e = parsingOrder.elements(); e.hasMoreElements();) tempVec.addElement((Integer)e.nextElement()); tempVec.addElement(new Integer(i+1)); ruleIdxs.push(tempVec); } } // kết thúc vòng lặp phân tích if (!recognizable) return new Vector(); else return parsingOrder; } Phương thức parse nêu trên tìm dãy trái của ù và đưa nó vào một vector các số nguyên, mỗi phần tử của vector này là số hiệu của các quy tắc suy dẫn tương ứng. 5.3. Thể hiện kết quả phân tích Để thể hiện kết quả phân tích ở dạng cây, ta dùng cấu trúc JTree của Java. Cây phân tích được xây dựng từ dãy trái, trong quá trình chèn các nút mới, ta sử dụng thuật toán tìm kiếm theo chiều sâu để tìm nút cha của nút mới cần chèn vào. Phương thức xây dựng cây phân tích như sau: public JTree createParsingTree(Vector parsingOrder) { JTree tree; rootNode = new DefaultMutableTreeNode(new ParsingTreeNode("S", "S")); int q; Enumeration e; String s; for (int i = 0; i < parsingOrder.size(); i++) { q = ((Integer)parsingOrder.elementAt(i)).intValue()-1; e = rootNode.depthFirstEnumeration(); DefaultMutableTreeNode treeNode; while (e.hasMoreElements()) { treeNode = (DefaultMutableTreeNode)e.nextElement(); s = ((ParsingTreeNode)treeNode.getUserObject()).getKey(); if ((s.compareTo(left[q]) == 0) && (treeNode.isLeaf())) { DefaultMutableTreeNode tempNode = null; for (int j = 0; j < right[q].length(); j++) { String key = "" + right[q].charAt(j); tempNode = new DefaultMutableTreeNode(new ParsingTreeNode(key, (String)partOfSpeechMap.get(key))); treeNode.add(tempNode); } break; } } } e = rootNode.depthFirstEnumeration(); DefaultMutableTreeNode treeNode; int j = 0; while (e.hasMoreElements()) { treeNode = (DefaultMutableTreeNode)e.nextElement(); if (treeNode.isLeaf()) { DefaultMutableTreeNode tempNode = null; tempNode = new DefaultMutableTreeNode(tokens[j]); treeNode.add(tempNode); j++; } } tree = new JTree(rootNode); tree.setEditable(true); tree.getSelectionModel().setSelectionMode( TreeSelectionModel.SINGLE_TREE_SELECTION); tree.setShowsRootHandles(true); return tree; } Hình 14 là giao diện của chương trình và thể hiện cây phân tích của câu "The green water evaporated" nhập từ một hộp soạn thảo. Hình 14. Giao diện chương trình phân tích cú pháp tiếng Anh Nếu trình phân tích không phân tích được câu nhập vào (câu sai cú pháp hoặc câu chứa từ không có trong từ điển) thì chương trình đưa ra thông báo là không phân tích được. Dưới đây là kết quả phân tích của chương trình với một số câu nhập vào khác nhau: Để thử nghiệm chương trình phân tích cú pháp tiếng Việt, ta có thể nhập vào một số câu có cấu trúc khác nhau. Nếu dùng ký hiệu [w*] để chỉ từ w có thể xuất hiện hoặc không xuất hiện trong câu thì những câu có dạng: 1. Cô [ấy*] [rất*] tốt [nết*] 2. Cô [ấy*] tốt [cực kỳ*] đều được phân tích đúng. Để thử nghiệm danh ngữ làm chủ ngữ, ta có thể thay đại từ “cô” bằng các tổ hợp: mèo, mèo ấy, con mèo, con mèo ấy, những con mèo ấy và chọn tính ngữ làm vị ngữ cho phù hợp. Có thể nhập vào một số câu như sau để thử nghiệm động ngữ làm vị ngữ: Anh [này*] [đang*] ăn [cơm* | ngon*] Tương tự, có thể thay đại từ “anh” bằng một danh ngữ. Để thử nghiệm từ quan hệ, ta có thể dùng một số câu như: 1. Tôi là sinh viên 2. Nó bằng nhôm 3. Anh ấy là sinh viên 4. Họ là các sinh viên 5. Chúng là hai con mèo 5.4. Đánh giá kết quả Khoá luận trình bày việc vận dụng các mô hình văn phạm phi ngữ cảnh và các mạng chuyển vào bài toán phân tích cú pháp tiếng Anh và tiếng Việt. Trong phân tích cú pháp có những đặc điểm chính sau: • Tách riêng việc giải quyết phân tách từ vựng và phân tích cú pháp cho tiếng Việt. Sử dụng kết quả phân tích cú pháp để hỗ trợ quyết định chọn phương án phân tách từ vựng của câu (Phần Phụ lục). • Giải quyết được vấn đề độ dài từ ghép hoặc cụm từ cố định. • Chương trình hiện tại chỉ xử lý những câu đơn hai thành phần đơn giản của tiếng Việt • Với câu nhập nhằng thì đưa ra mọi phương án phân tích có thể. • Chương trình cung cấp các giao diện nhập liệu và xử lý trong môi trường hệ điều hành Windows, thuận tiện cho việc sử dụng. Mọi câu đưa vào đều được thực hiện theo hai bước, gồm tách từ vựng và phân tích cú pháp. Mặc dù em chưa đưa ra được những số liệu thống kê chính xác nhưng quá trình thử nghiệm bước đầu cho thấy chương trình chạy khá nhanh và cho kết quả tương đối chính xác. Phụ lục Bài toán tách từ vựng tiếng Việt Trước khi thực hiện phân tích cú pháp của một câu tiếng Việt, ta cần một bước tiền xử lý quan trọng, đó là tách câu thành các đơn vị từ vựng và gán cho chúng những nhãn từ loại tương ứng (chẳng hạn danh từ, động từ...). 1. Đặt bài toán Nhập vào một câu tiếng Việt bất kỳ, hãy tách câu đó thành những đơn vị từ vựng (từ), hoặc chỉ ra những âm tiết nào không có trong từ điển (phát hiện đơn vị từ vựng mới). Để giải quyết bài toán đặt ra, ta cần tập dữ liệu gồm từ điển âm tiết (khoảng 6700 âm tiết) và từ điển từ vựng tiếng Việt (khoảng 30.000 từ). Việc sử dụng hai bộ từ điển nêu trên trong phạm vi đề tài nghiên cứu đã được sự đồng ý của Trung tâm từ điển học. Các từ điển được lưu dưới dạng các tệp văn bản có định dạng mã TCVN hoặc Unicode (UTF-8). 2. Các bước giải quyết 1. Xây dựng ôtôtmát âm tiết đoán nhận tất cả các âm tiết tiếng Việt 2. Xây dựng ôtôtmát từ vựng đoán nhận tất cả các từ vựng tiếng Việt. 3. Dựa trên các ôtômát nêu trên, xây dựng đồ thị tương ứng với câu cần phân tích và sử dụng thuật toán tìm kiếm trên đồ thị để liệt kê các cách phân tích có thể. Tư tưởng của phương pháp xây dựng các ôtômát là: xây dựng dần dần dựa trên ôtômát đã có ở bước trước và âm tiết (hoặc từ vựng) mới đọc được từ tệp dữ liệu ở bước hiện tại. Bảng chữ cái của ôtômát âm tiết là bảng chữ cái tiếng Việt, mỗi cung chuyển được ghi trên đó một ký tự, ban đầu ôtômát âm tiết chỉ gồm một trạng thái khởi đầu được đánh số hiệu 0. Giả sử tại bước nào đó ta đọc được âm tiết a có độ dài n (tính bằng số ký tự) từ tệp dữ liệu. Xuất phát từ trạng thái khởi đầu p = q0 ta lấy ra từng ký tự ci của a và tìm xem từ p có cung chuyển đến trạng thái q nào đó mà trên đó ghi ký tự ci hay không. Nếu có trạng thái q như thế, ta chuyển p thành q và lặp lại bước trên với ký tự ci+1 tiếp theo. Nếu không có q nào như thế, ta ra khỏi vòng lặp và xây dựng mới các trạng thái và cung chuyển tương ứng trên đó ghi các ký tự ci, ci+1,..., cn-1 theo sơ đồ sau (ô vuông chỉ rằng đó là trạng thái kết). Ví dụ, với ba âm tiết phương, pháp, trình ta sẽ có ôtômát âm tiết như Hình 15. Hình 15. Phương pháp xây dựng ôtômát âm tiết Ôtômát từ vựng được xây dựng tương tự, với điểm khác như sau: thay vì ghi trên mỗi cung chuyển một ký tự, ta ghi một số. Số này là số hiệu của trạng thái (kết) của ôtômát âm tiết tại đó đoán nhận mỗi âm tiết của từ. Với cách tổ chức này, ta làm giảm được kích thước của ôtômát từ vựng mà không làm mất thông tin của nó, bởi vì mỗi âm tiết được xác định bằng một trạng thái kết duy nhất trong ôtômát âm tiết. Ví dụ, với hai từ phương pháp và phương trình, giả sử khi đưa lần lượt các âm tiết phương, pháp, trình qua ôtômát âm tiết, ta đến được các trạng thái kết ghi các số n1, n2, n3 thì trên các cung chuyển tương ứng ta ghi các số n1, n2, n3 (Hình 16). Hình 16. Phương pháp xây dựng ôtômát từ vựng Sau khi đã xây dựng xong hai ôtômát, ta ghi chúng vào hai tệp định kiểu để dùng trong bước phân tách từ vựng. Đến lúc này, hai từ điển ban đầu không còn cần thiết nữa, mọi dữ liệu của ta nằm trong hai tệp ghi hai ôtômát này. Nếu mỗi ký tự (char) được ghi vào tệp với kích thước 2 byte (mã Unicode), mỗi số nguyên (int) có kích thước 4 byte thì tệp lưu ôtômát âm tiết có kích thước 146KB, tệp ôtômát từ vựng có kích thước 1MB. Tư tưởng của thuật toán phân tách từ vựng là quy việc phân tách câu về việc tìm đường đi trên một đồ thị có hướng, không có trọng số. Giả sử câu ban đầu là một dãy gồm n+1 âm tiết s0, s1, ..., sn. Ta xây dựng một đồ thị có n+2 đỉnh v0, v1, ..., vn, vn+1, sắp thứ tự trên một đường thẳng từ trái sang phải; trong đó, từ đỉnh vi đến đỉnh vj có cung (i < j) nếu các âm tiết si, si+1, ..., sj-1 theo thứ tự lập thành một từ. Khi đó mỗi cách phân tách câu khác nhau tương ứng với một đường đi trên đồ thị từ đỉnh đầu v0 đến đỉnh cuối vn+1. Trong các cách phân tách câu đó, cách phân tích câu đúng đắn nhất ứng với đường đi qua ít cung nhất trên đồ thị. Trong trường hợp câu có sự nhập nhằng thì đồ thị sẽ có nhiều hơn một đường đi ngắn nhất từ đỉnh đầu đến đỉnh cuối, ta liệt kê toàn bộ các đường đi ngắn nhất trên đồ thị, từ đó đưa ra tất cả các phương án tách câu có thể và để người dùng quyết định sẽ chọn phương án nào, tuỳ thuộc vào ngữ nghĩa hoặc văn cảnh. Ví dụ, xét một câu có cụm "thuộc địa bàn", ta có đồ thị như sau (Hình 17) Hình 17. Một tình huống nhập nhằng Cụm này có sự nhập nhằng giữa thuộc địa và địa bàn và ta sẽ có hai kết quả phân tách là "thuộc địa / bàn" và "thuộc / địa bàn". Ta có thể chỉ ra rất nhiều những cụm nhập nhằng trong tiếng Việt, chẳng hạn "tổ hợp âm tiết", "bằng chứng cớ",... Trường hợp trong câu có âm tiết không nằm trong từ điển thì rõ ràng ôtômát âm tiết không đoán nhận được âm tiết này. Kết quả là đồ thị ta xây dựng từ câu đó là không liên thông. Dựa vào tính chất này, ta thấy rằng nếu đồ thị không liên thông thì dễ dàng phát hiện ra rằng đơn vị âm tiết không đoán nhận được không nằm trong từ điển âm tiết, tức nó bị viết sai chính tả hoặc là một đơn vị âm tiết (từ vựng) mới. 3. Đánh giá kết quả Với cách tiếp cận như trên, bài toán phân tách từ vựng trong câu tiếng Việt về cơ bản đã được giải quyết, đặc biệt là vấn đề tách các tổ hợp từ tương đương với một đơn vị từ vựng, thường là các cụm từ cố định, ngữ cố định hoặc các thành ngữ trong tiếng Việt. Nếu chúng ta chỉ sử dụng một danh sách từ vựng thông thường và thực hiện các thao tác tìm kiếm trên danh sách này thì không thể đảm bảo thời gian tách từ vựng đối với câu có chiều dài lớn. Với những câu nhập vào có sự nhập nhằng từ vựng, tức có nhiều hơn một cách phân tách thì chương trình liệt kê toàn bộ các phương án tách từ có thể và giành quyền lựa chọn kết quả cho người sử dụng. Trong tất cả các phương án phân tách đó bao giờ cũng tồn tại phương án đúng. Dưới đây là một số câu nhập vào và kết quả tách từ tương ứng. 1. Nó | là | một | bản | tuyên ngôn | đặc sắc | của | chủ nghĩa nhân đạo | , một | tiếng | chuông | cảnh tỉnh | trước | hiểm họa | lớn lao | của | hành tinh | trước | sự | điên rồ | của | những | kẻ | cuồng tín 2. Sự | giản dị | trong sáng | toả | khắp | tác phẩm | đã | khiến | nó | trở nên | một | bài | thơ | bất hủ | mà | mãi mãi | người ta | muốn | đem | làm quà | tặng | của | tình yêu 3. Trong khi | các | thành phần | tư bản chủ nghĩa | có | những | bước | phát triển | mạnh | hơn | thời kì | trước | thì | thế lực | của | giai cấp | địa chủ | vẫn | không hề | suy giảm. Tuy nhiên, chương trình phân tách từ vựng hiện tại vẫn còn một số vấn đề khó khăn cần phải tiếp tục nghiên cứu giải quyết: Thứ nhất là vấn đề giải quyết nhập nhằng phân tách. Cần phải chọn một phương án đúng đắn trong số nhiều phương án. Các hướng tiếp cận khả thi cho vấn đề này có thể là: - Dùng phương pháp phân tích cú pháp. Tiến hành phân tích cú pháp của câu với những phương án tách từ vựng có thể, từ đó loại ra những phương án sai cú pháp. Muốn thực hiện được điều này thì ta cần một trình phân tích cú pháp tương đối tin cậy và đầy đủ. - Dùng phương pháp xác suất - thống kê. Ta sẽ thống kê trên những tập văn (corpus) tương đối lớn của tiếng Việt để tìm ra xác suất của các bộ đôi hay bộ ba từ loại hoặc từ vựng đi cạnh nhau. Từ đó lựa chọn phương án phân tách có xác suất sai ít nhất. Chương trình phân tích cú pháp tiếng Việt hiện tại cũng đã có khả năng nhận biết được một số câu nhập nhằng từ vựng. Ví dụ, với câu “bản sao chụp mờ” thì có thể có hai cách phân tích như trong Hình 18. Ở đây có hai cách phân tách từ có thể là “bản | sao chụp” và “bản sao | chụp”, trình phân tích nhận thấy cả hai cách tách từ này đều đúng cú pháp và đưa ra hai cây phân tích tương ứng. Nhưng xét một ví dụ tương tự, câu “anh ấy rất thuộc địa bàn” thì mặc dù cụm “thuộc địa bàn” có hai cách phân tách từ vựng là “thuộc | địa bàn” và “thuộc địa | bàn” nhưng trình phân tích chỉ đoán nhận được một và đưa ra cách phân tích tương ứng với cách tách từ đó. Do đó, cách tách từ còn lại là sai. (Hình 19) Hình 18. Các phương án phân tích cho một câu tiếng Việt nhập nhằng Hình 19. Cây phân tích ứng với cách tách từ đúng Thứ hai là vấn đề giải quyết tên riêng, tên viết tắt và tên có nguồn gốc nước ngoài có mặt trong câu. Hiện tại chương trình phân tách chưa nhận ra được các cụm từ dạng “Nguyễn Văn A”, “Đại học Khoa học Tự nhiên”, hoặc “ĐT. 8.20.20.20”, “1.000$”, “0,05%”... Tài liệu tham khảo [1] Margaret King, Parsing Natural Language, Academic Press Inc, London, 1983. [2] Christopher D. Manning and Hinrich Schütze, Foundations of Statistical Natural Language Processing, Massachusetts Institute of Technology, USA, 1999. [3] Emmanuel Roche and Yves Schabes, Finite-State Language Processing, The MIT Press, Massachusetts, USA, 1997. [4] Đỗ Đức Giáo, Đặng Huy Ruận, Văn phạm và ngôn ngữ hình thức, NXB Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội, 1991. [5] Lê Thanh Hương, Phân tích cú pháp tiếng Việt, Luận văn tốt nghiệp cao học, Hà Nội, 1999. [6] Diệp Quang Ban, Hoàng Văn Thung, Ngữ pháp tiếng Việt (2 tập), NXB Giáo dục, Hà Nội, 1999. [7] Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến, Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2000. [8] Nguyễn Thiện Giáp, Đoàn Thiện Thuật, Nguyễn Minh Thuyết, Dẫn luận ngôn ngữ học, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2001. [9] Ngữ Pháp Tiếng Việt, NXB Khoa học xã hội, 1983. [10] Hoàng Phê, Từ điển tiếng Việt, NXB Khoa học xã hội - Trung tâm từ điển học, Hà Nội, 2000. [11] Bruce Eckel, Thinking in Java, 2nd edition, Revision 11, 2000. [12] Sun Microsystem, The Java Tutorial, CDROM, 2000.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc8136.doc
Tài liệu liên quan