Chính sách tiền tệ là một trong những công cụ quản lý kinh tế vĩ mô quan trọng nhất của Nhà nước. Ngân hàng trung ương sử dụng chính sách tiền tệ nhằm điều chỉnh cung ứng tiền cho nền kinh tế, ổn định tiền tệ, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tạo việc làm. Chính sách tiền tệ ở Việt Nam hiện nay đang được điều hành thận trọng, linh hoạt; điều hành khối lượng tiền cung ứng phù hợp với cầu vốn thị trường thông qua việc sử dụng linh hoạt các công cụ chính sách tiền tệ như nghiệp vụ tái cấp vốn, dự trữ bắt buộc, đặc biệt là nghiệp vụ thị trường mở
34 trang |
Chia sẻ: ndson | Lượt xem: 1543 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nghiên cứu chính sách tiền tệ trong nền kinh tế mở, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ngược lại. Tuy nhiên, việc thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc có thể gây nên lộn xộn không thể kiểm soát được của hệ thống NHTM như: NHTƯ muốn nhanh chóng giảm lượng tiền cung ứng nên đã nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 5% lên 10% làm cho các NHTM nhận thấy rằng họ không có đủ dự trữ để đáp ứng yêu cầu của NHTƯ đề ra và không có đủ dự trữ để đáp ứng các hoạt động hàng ngày của họ. Vì thế lúc này NHTM sẽ tìm cách bán chứng khoán, thu hồi các món vay, vay từ các Ngân hàng khác… Nếu chỉ một Ngân hàng làm như vậy thì không sao nhưng nhiều Ngân hàng đều làm như vậy thì hệ thống Ngân hàng sẽ xảy ra tình trạng tranh giành tính thanh khoản, gây nên lộn xộn trong hệ thống Ngân hàng và có thể gây ra hoảng loạn Ngân hàng.
Vì vậy, công cụ này không được khuyến khích sử dụng thường xuyên, nếu có sử dụng thì thay đổi với tỷ lệ nhỏ.
2.2. Các công cụ trực tiếp:
Đây là loại công cụ được NHTƯ sử dụng trực tiếp để tác động vào khối lượng cung, cầu tiền tệ của nền kinh tế mà không cần thông qua loại công cụ nào khác, nó bao gồm:
2.2.1. Ấn định lãi suất:
* NHTƯ ấn đinh trực tiếp mức lãi suất cho vay để các NHTM áp dụng với các đối tượng cho vay. Nếu muốn tăng khối lượng cho vay thì NHTƯ giảm mức lãi suất cho vay để kích thích các nhà đầu tư vay vốn, và nếu thấy cần hạn chế đầu tư thì NHTƯ ấn định mức lãi suất cao.
- Ưu điểm của biện pháp này là NHTƯ có thể tác động trực tiếp vào các dự án kinh tế nào có lợi nhuận cao nhất mới được vay vốn Ngân hàng và như vậy cũng có nghĩa là loại bỏ các dự án kinh tế có lợi nhuận thấp mà theo chuyên gia Ngân hàng thì đầu tư vào các dự án đó không có lợi.
Để có thể thực hiện được các biện pháp này có hiệu quả đòi hỏi Ngân hàng phải nắm được trong tay các dự án đầu tư từ trước để ấn định được khối lượng tín dụng phù hợp.
- Nhược điểm của biện pháp này là:
+ Nhược điểm thứ nhất của nó là nếu lãi suất Ngân hàng được ấn định không sát đúng với nền kinh tế thì có thể xảy ra 2 hiện tượng sau:
Lãi suất Ngân hàng quá thấp sẽ làm cho cầu tiền tệ tăng nhanh hơn dự đoán và Ngân hàng sẽ lúng túng khi đáp ứng.
Khi lãi suất Ngân hàng quá cao sẽ làm cho cầu tiền tệ giảm đi, đầu tư suy giảm mà nếu Ngân hàng không điều chỉnh kịp sẽ làm bỏ lỡ cơ hội đầu tư.
+ Nhược điểm thứ hai là tính linh hoạt của thị trường tiền tệ sẽ bị suy giảm, các NHTM sẽ gặp khó khăn khi vốn huy động nhiều nhưng không cho vay được.
* NHTƯ cũng có thể áp dụng lãi suất tiền gửi quy định cho các NHTM và các định chế tài chính phải thực hiện. Biện pháp này cũng có ưu nhược điểm sau:
- Ưu điểm: là ngay lập tực hệ thống Ngân hàng trong một thời hạn ngắn có thể huy động được một lượng tiền gửi lớn nếu lãi suất tiền gửi cao hơn lợi nhuận kinh doanh, hoặc hạn chế việc gửi tiền bằng cách quy định lãi suất thấp, buộc người có tiền phải sử dụng các hình thức sinh lợi khác như mua bất động sản, trái phiếu, cổ phiếu...
- Nhược điểm: Các NHTM cũng không còn linh hoạt trong kinh doanh của mình mà phải tuân theo các quy định của NHTƯ. Hơn nữa nếu lãi suất ấn định không phù hợp với thực tế thì có thể xảy ra hậu quả là, hoặc người có tiền tìm cách chuyển tiền đến Ngân hàng để hưởng lợi tức. Vì vậy, đầu tư sẽ suy giảm khi gửi tiền ổn định và ít rủi ro, hoặc người có tiền sẽ không gửi tiền ở Ngân hàng nữa mà đầu tư vào động sản, dự trữ vàng nếu vàng có khuynh hướng tăng giá...
* Chúng ta có thể thấy rằng ấn định lãi suất cho cả 2 trường hợp như trên là rất khó chính xác và khó có thể bám sát được diễn biến hàng ngày, hàng giờ của thị trường tiền tệ. Để khắc phục tình trạng này, nếu NHTƯ muốn bảo vệ quyền lợi của các Ngân hàng, NHTƯ ấn định mức lãi suất cao nhất của lãi suất tiền cho vay, còn sự biến động dưới mực cao nhất đó do NHTM tự thích ứng với thị trường. Nếu nhằm bảo vệ quyền lợi cho khách hàng của NHTM, thì NHTƯ thường quy định mức lãi suất tối thiểu cho tiền gửi và mức tối đa cho tiền vay. NHTƯ muốn kiểm soát được lãi suất, bởi vì lãi suất có tác động mạnh đến tiết kiệm và đầu tư, qua đó tác động vào tăng trưởng kinh tế và giá cả.
.Lãi suất là nhân tố trung tâm của nền kinh tế, nó biểu hiện sự tác động của cung - cầu tiền tệ và quyết định khối lượng đầu tư của nền kinh tế, tức là quyết định đến sản lượng, công ăn việc làm, giá cả và lạm phát.
Sự nhạy cảm của lãi suất đối với đầu tư là rất lớn, vì vậy mà ít có Nhà nước nào quy định trực tiếp lãi suất Ngân hàng.
2.2.2. Ấn định hạn mức tín dụng:
Đây là biện pháp mà NHTƯ ấn định một khối lượng tín dụng phải cung cấp cho nền kinh tế trong một thời gian nhất định rồi sau đó tìm con đường để đưa nó vào nền kinh tế.
Hạn mức tín dụng được xác định trên cơ sở chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế và chỉ tiêu lạm phát dự kiến hàng năm, ngoài ra còn dựa vào một số tín hiệu thị trường khác như: tỷ lệ thất nghiệp, tỷ giá, thâm hụt ngân sách nhà nước, tốc độ lưu thông tiền tệ... Trên cơ sở đó hạn mức tín dụng dược phân bổ cho các NHTM, cho từng thời kì phù hợp với mục tiêu chính sách tiền tệ.
Để kiểm soát mức tăng trưởng quá nóng của tín dụng trong nền kinh tế, NHTƯ quy định hạn mức tín dụng tối đa cho từng NHTM.Trong phần lớn các trường hợp, những hạn mức riêng này được xác địn căn cứ vào tỷ trọng cho vay của nó trong quá khứ so với tổng mức cho vay của hệ thống Ngân hàng. NHTM chỉ được cấp tối đa cho nền kinh tế bằng hạn mức tín dụng được quy định.
Hiện nay một số nhà nghiên cứu của Việt Nam đang cho đây là biện pháp hay vì nó là một kế hoạch chắc chắn khối lượng tiền tệ trong lưu thông. Nhưng đối với nền kinh tế hàng hoá, thì xác định một khối lượng tín dụng một cách chắc chắn như vậy là một điều khó thực hiện được. Mà có chăng, đó chỉ là dự đoán có thể xảy ra trong tương lai để chuẩn bị các điều kiện cần thiết thực hiện nó, nhưng lại dựa trên yêu cầu là để cho quy luật cung cầu được tự do hoạt động chứ không bắt ép nền kinh tế phải nhận một khối lượng tín dụng đã định sãn.
Hơn nữa việc ấn định hạn mực tín dụng trực tiếp như vậy chỉ có thể thực hiện được trong nền kinh tế chỉ có hệ thống Ngân hàng quốc doanh, có nghĩa là Ngân hàng phải thực hiện các chỉ tiêu tín dụng theo hạn mực mà NHTƯ đã cấp. Nhưng trong nền kinh tế thị trường việc vay vốn và cho vay vốn luôn luôn bị quy luật cung cầu chi phối cho nên biện pháp này không còn tác dụng như trong nền kinh tế theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung.
IV. Vai trò và nội dung của chính sách tiền tệ trong nền kinh tế mở
1. Thế nào là một nền kinh tế mở
Nền kinh tế mở là nền kinh tế có trao đổi thương mại và chu chuyển vốn giữa nước này với nước khác. Mức độ mở cửa của một nền kinh tế có thể biểu hiện bởi chỉ số tổng giao dịch ngoại hối hoặc tỷ lệ giữa tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá với GDP.
Nền kinh tế mở kết nối với thị trường thế giới theo hai cách: Thị trường hàng hoá và thị trường tài chính thế giới biểu hiện cụ thể là xuất khẩu ròng (NX, phần chênh lệch giữa giá trị xuất khẩu và giá trị nhập khẩu) và đầu tư nước ngoài ròng (NFI, phần chênh lệch giữa lượng tài sản nước ngoài do dân cư trong nước mua và lượng tài sản trong nước do người nước ngoài mua).
2. Ảnh hưởng của toàn cầu hoá đến cơ chế tác động của chính sách tiền tệ
Điều hành chính sách tiền tệ đó là quá trình kiểm soát cung tiền, tín dụng của NHTƯ bằng tổng thể các biện pháp nhằm đạt được mục tiêu cuối cùng là ổn định hệ thống tiền tệ, ổn định giá cả ở mức hợp lý, qua đó góp phần tăng trưởng kinh tế bề vững. Chính vì vậy mà hội nhập kinh tế thế giới mang lại không ít những cơ hội và thách thức cho điều hành, thực thi chính sách tiền tệ của NHTƯ. Cụ thể :
- Cơ hội
Đối với NHTƯ, hội nhập quốc tế tạo cơ hội để nâng cao hơn nữa năng lực và hiệu quả điều hành tiền tệ: đổi mới cơ chế kiểm soát tiền tệ, lãi suất, tỷ giá dựa trên cơ sở thị trường.
Bên cạnh đó, hội nhập kinh tế quốc tế có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thông qua các cam kết xây dựng và triển khai chính sách ổn định hơn của chính phủ, phối hợp và điều hành chính sách kinh tế vĩ mô phù hợp hơn với thông lệ quốc tế. Hội nhập kinh tế trong hoạt động Ngân hàng sẽ mở ra các cơ hội tăng cường phối hợp giữa NHTƯ trong nước và ngoài nước, các tổ chức tài chính quốc tế về chính sách, chia sẻ thông tin và phương pháp hành động trong ngăn chặn và xử lý rủi ro, qua đó sẽ có tác dụng góp phần bảo đảm an toàn trong hệ thống Ngân hàng và hạn chế sự biến động của thị trường.
Hội nhập quốc tế sẽ buộc các Ngân hàng phải hoạt động theo nguyên tắc thị trường và minh bạch hơn. Nâng cao tính cạnh tranh và kỷ luật thị trường trong hoạt động Ngân hàng sẽ khuyến khích tạo ra những Ngân hàng có quy mô lớn về tài chính kinh doanh có hiệu quả hơn, các Ngân hàng yếu kém sẽ bị đào thải hoặc phải vươn lên nếu muốn tồn tại. Do vậy, khả năng cạnh tranh của các Ngân hàng sẽ được nâng cao. Đây là động lực chính thúc đẩy cải cách của mỗi Ngân hàng và toàn bộ hệ thống Ngân hàng.
Hội nhập quốc tế thúc đẩy cải cách thể chế, hoàn thiện hệ thống pháp luật và năng lực hoạt động của các cơ quan tài chính. NHTƯ cũng phải tính đến việc cải cách căn bản năng lực hoạt động, xây dựng và thực thi chính sách, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý phù hợp với thông lệ quốc tế. Hội nhập quốc tế đòi hỏi phải loại bỏ các biện pháp bảo hộ, bao cấp vốn, tài chính đối với các NHTMNN.
- Thách thức trong điều hành tài chính tiền tệ
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy về dài hạn, hội nhập quốc tế cũng đặt ra những thách thức nhất định trong điều hành chính sách tiền tệ:
Những diễn biến trên thị trường hàng hoá và tài chính toàn cầu sẽ có ảnh hưởng nhiều hơn tới quá trình hoạch định chính sách của NHTƯ, như mức chênh lệch giữa lãi suất trong nước và lãi suất nước ngoài sẽ là một nhân tố quan trọng cần xem xét tới khi điều hành các công cụ chính sách tiền tệ.
NHTƯ sẽ phải chú trọng nhiều hơn tới công tác nghiên cứu dự báo, xác định những biến động trên thị trường quốc tế có khả năng ảnh hưởng hay lây lan tới thị trường tài chính trong nước và đưa ra quyết định kịp thời về các phản hồi chính sách cần thiết để giảm thiểu những tác động bất lợi đối với nền kinh tế nói chung và hệ thống tài chính trong nước nói riêng.
Việc mở cửa thị trường tài chính nội địa sẽ làm tăng tủi ro thị trường do các tác động từ bên ngoài, hạn chế khả năng tận dụng năng lực tỷ giá, lãi suất giữa thị trường trong nước và quốc tế. Hệ thống Ngân hàng trong nước cũng phải đối mặt lớn hơn với rủi ro khủng hoảng, các cú sốc kinh tế tài chính, khu vực, sự lây truyền của khủng hoảng.
3. Sự cần thiết phải thay đổi chính sách tiền tệ trong nền kinh tế mở ở Việt Nam.
Qua các phân tích trên, chúng ta thấy những thuận lợi và các thách thức của toàn cầu hóa kinh tế đối với Việt Nam trong quá trình phát triển, toàn cầu hoá kinh tế ảnh hưởng lớn đến tác động của các chính sách kinh tế vĩ mô, đặc biệt đối với chính sách thương mại và chính sách tiền tệ. Hội nhập quốc tế thúc đẩy cải cách thể chế, hoàn thiện hệ thống pháp luật và năng lực hoạt động của các cơ quan quản lý tài chính. Cơ quan quản lý hoạt động Ngân hàng - NHNN và Bộ Tài chính cũng phải tính đến việc cải cách căn bản năng lực hoạt động, xây dựng và thực thi chính sách, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý phù hợp với thông lệ quốc tế. Hội nhập quốc tế đòi hỏi phải loại bỏ các biện pháp bảo hộ, bao cấp vốn, tài chính đối với các NHTMNN, điều này tạo ra cho lãnh đạo các NHTMNN có thêm động lực để tự cải cách, tăng cường năng lực cạnh tranh bằng chính mình, hạn chế trông chờ, ỷ lại vào Nhà nước. Tất cả các biện pháp cải cách vĩ mô và vi mô nhằm tạo lập môi trường hoạt động Ngân hàng an toàn, hiệu quả, hệ thống tiền tệ Ngân hàng có khả năng thích ứng cao đối với môi trường toàn cầu.
Luồng vốn tự do luân chuyển, sự tiếp xúc với thị trường vốn quốc tế trong toàn cầu hoá kinh tế mang lại cho quốc gia cả lợi ích và rủi ro. Toàn cầu hoá tài chính mang lại lợi ích lớn cho các nước lớn có thu nhập trung bình trong những năm gần đây, nhưng nó cũng gắn liền với khủng hoảng tài chính với các phí tổn to lớn. Tuy nhiên, thực tế cho thấy rằng trong dài hạn tính rủi ro này sẽ được giảm xuống do việc đa dạng hoá danh mục tài sản, và sự phát triển lành mạnh hơn ở khu vực tài chính. Các nước cần có các thể chế chính sách tốt hơn để có thể tránh né rủi ro và thu được lợi ích từ sự hội nhập tài chính. Nếu không có một hệ thống tài chính trong nước vững mạnh thì sự hội nhập vào thị trường vốn quốc tế có thể dẫn tới thảm hoạ như đã từng xảy ra với Thái Lan, Indonêxia và Hàn Quốc vào năm 1997. Điều này đòi hỏi NHTƯ phải đẩy mạnh việc đổi mới ,nâng cao hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ, xác định rõ các mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ và cơ chế truyền tải tác động của chính sách tiền tệ đến mục tiêu chính sách tiền tệ.
Việt Nam vừa mới gia nhập WTO, thị trường tài chính - tiền tệ chắc chắn sẽ có nhiều thay đổi lớn. Do vậy, để tránh tình trạng lúng túng, bị động, ngay từ bây giờ, chúng ta phải tiến hành nghiên cứu đưa ra các dự báo để có cơ sở tổ chức hoạt động và quản lý thị trường này có hiệu quả. Do vậy, đối với các Ngân hàng trong nước, việc chiếm lĩnh và duy trì thị phần, thoả mãn nhu cầu của khách hàng sẽ trở nên khó khăn hơn nếu không có những đổi mới và thích ứng cần thiết. Xác lập một khuôn khổ chính sách tiền tệ hoàn chỉnh, lành mạnh với các nhóm mục tiêu hoạt động, mục tiêu trung gian, mục tiêu cuối cùng của chính sách tiền tệ và một cơ chế chuyển tải tác động chính sách tiền tệ hiệu quả, hoạt động ổn định trên nền tảng dữ liệu kinh tế vĩ mô đầy đủ, có cùng chất lượng là nhiệm vụ quan trọng hiện nay nhằm nâng cao hiệu lực điều hành chính sách tiền tệ, từng bước đưa NHNNVN trở thành một NHTƯ hiện đại trong khu vực và thế giới.
Chương II: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ Ở VIỆT NAM
I. Thực trạng chính sách tiền tệ ở Việt Nam
Nước ta tiến hành mở cửa với điểm xuất phát thấp
Năm nội dung cơ bản của đối mới kinh tế của Việt Nam: Chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; Từng bước hình thành thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN; Chuyển một nền kinh tế khép kín, nhập khẩu là chủ yếu sang nền kinh tế mở, chủ động hội nhập, hướng mạnh về xuất khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu những sản phẩm mà Việt Nam có lợi thế và có hiệu quả; Tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội vì mục tiêu phát triển con người; Từng bước đổi mới hệ thống chính trị.
UNDP coi Việt Nam là một trong những ví dụ thành công nhất về chuyển đổi kinh tế trong lịch sử đượng đại, đổi mới làm thay đổi gần như tất cả mọi mặt của cuộc sống kinh tế. Đã có nhiều thay đổi quan trọng trong sản xuất, tiêu dùng, tiết kiệm, đầu tư, chính sách tiền tệ và ngoại thương. Chính sách đổi mới mở ra nhiều phương thức tổ chức và quản lý kinh tế mới mẻ, góp phần cải thiện đời sống con người Việt Nam. Tuy nhiên, khi nói về con đường tương lai của Việt Nam và làm thế nào để duy trì đà thành công của mình thì vẫn còn rất nhiều thách thức, bởi vì điểm xuất phát của Việt Nam thấp, trình độ tổ chức quản lý còn nhiều hạn chế so với các nước trong khu vực và trên thế giới; Các nền kinh tế trong khu vực cải cách nhanh hơn như Xin-ga-po, Ma-lai-xi-a, Hồng Kông… Chính vì vậy muốn cạnh tranh thành công trong tương lai, Việt Nam không chỉ chạy mà phải chạy nhanh hơn các đối thủ, tức là phải mở cửa, cải thiện môi trường đầu tư và kinh doanh hơn nữa…
Có thể nhận thấy các Ngân hàng Việt Nam đang phải đứng trước cuộc đua không cân sức đối với các Ngân hàng nước ngoài trong một tương lai gần.
Ðặc điểm quan trọng của NHTMVN là quy mô tài sản tự có rất nhỏ. Các NHTMNN dù được giao vai trò chủ đạo, chiếm tới 73-75% thị phần nguồn vốn và tín dụng nhưng tổng nguồn vốn điều lệ của các Ngân hàng hiện nay cũng chưa vượt quá 800 triệu USD, chưa bằng vốn của một Ngân hàng cỡ vừa trên thế giới. Các NHTM cổ phần còn "bi đát" hơn với số tài sản manh mún, yếu ớt, bình quân chưa đến 10 triệu USD/Ngân hàng. Theo thông lệ quốc tế, tỷ lệ an toàn của một Ngân hàng phải đạt 8% (tài sản tự có/tổng tài sản có của Ngân hàng). Nhưng với thực trạng trên, tỷ lệ an toàn của các Ngân hàng mới chỉ đạt mức dưới 5%.
Đánh giá mức độ hội nhập quốc tế của thị trường tiền tệ Việt Nam:
Xét trên những thoả thuận và nguyên tắc đạt được trong khuôn khổ của GATS, hiện trạng về mở cửa thị trường tiền tệ của Việt Nam đã đáp ứng được yêu cầu hội nhập quốc tế ở một số mặt. Đó là, thị trờng tiền tệ của Việt Nam đã có sự tham gia rộng rãi của các chi nhánh Ngân hàng nước ngoài, Ngân hàng liên doanh. Tính đến năm 2002, đã có 6 NHTMNN (kể cả Ngân hàng phục vụ người nghèo và Ngân hàng Phát triển nhà đồng bằng Sông Cửu Long), 47 NHTM cổ phần, 8 công ty cho thuê tài chính và 959 quỹ tín dụng nhân dân với mạng lới rộng khắp trong cả nước. Ngoài ra, Việt Nam đã có 31 chi nhánh của 26 Ngân hàng nước ngoài và 4 Ngân hàng liên doanh. Nhiều chi nhánh của các Ngân hàng nổi tiếng như ANZ - Australia New Zeland Bank (úc), Citi Bank (Hoa Kỳ), Standard Charter Bank (Anh), ABN-Amro (Hà lan)...đã có mặt tại Việt Nam. Với mức độ tham gia như vậy, thị trường tiền tệ của Việt Nam có vẻ là thông thoáng không kém gì các quốc gia khác trong khu vực, nơi đã có cơ sở hạ tầng kinh tế phát triển hơn nước ta nhiều lần. Sự có mặt của các Ngân hàng nước ngoài đã góp phần làm phong phú thêm và sôi động hơn thị trường tiền tệ, tạo nên môi trường cạnh tranh mới, phá dần thế độc quyền trên thị trường tiền tệ ở Việt Nam; thông qua đó quốc tế hoá hoạt động của hệ thống Ngân hàng Việt Nam.
Như vậy có thể nói, hiện nay, hội nhập kinh tế quốc tế mang lại nhiều cơ hội và thuận lợi, nhưng cũng sẽ nảy sinh không ít thách thức cho điều hành chính sách tiền tệ và quản lý hoạt động Ngân hàng. Vì vậy, đòi hỏi NHNN phải nỗ lực cải cách với những bước đi và giải pháp thích hợp.
2. Tình hình sử dụng các công cụ để điều hành chính sách tiền tệ ở Việt Nam trong thời gian qua, thành tựu và hạn chế
2.1 Lãi suất:
Lãi suất là một yếu tố rất nhạy cảm đối với nền kinh tế của các nước. ở Việt Nam NHTƯ đã rất linh hoạt trong việc sử dụng công cụ lãi suất nhắm tác động tích cực đến nền kinh tế trong quá trình chuyển đổi, có thể thấy rõ tính linh hoạt của chính sách lãi suất qua các thời điểm:
- Trước ngày 1/6/2002 NHNNVN thực hiện cơ chế điều hành lãi suất cơ bản Đồng Việt Nam, mức lãi suất cơ bản đựơc công bố trong các tháng đầu năm 2002 là 0,6%/Tháng. NHNN cũng đã rất mạnh dạn thực hiện chính sách tự do hoá lãi suất đối với ngoại tệ từ tháng 6/2001. Chính sách lãi suất như vậy là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường và bám sát với diễn biến của thị trường tiền tệ quốc tế.
- Từ ngày 1/6/2002 NHNN quyết định chuyển sang cơ chế lãi suất thoả thuận Đồng Việt Nam của các tổ chức tín dụng (TCTD) đối với khách hàng. Đây là một sự “cởi trói” cho các TCTD trong hoạt động kinh doanh, tạo điều kiện cho các TCTD chủ động trong hoạt động huy động vốn và cho vay đối với khách hàng. Cơ chế mới đã tạo ra sự sôi động trong hoạt động kinh doanh và cạnh tranh của các TCTD. Nếu như với cơ chế lãi suất cơ bản, trong các tháng đầu năm của năm 2002 lãi suất huy động vốn dừng lại ở mức 0,6%/tháng, lãi suất cho vay bình quân là 0,7%/Tháng, thì từ khi áp dụng cơ chế lại suất thoả thuận từ tháng 6/2002 và nhất là trong các tháng 8 và 9/2002 lãi suất huy động vốn cao nhất của các NHTM lên tới 0,7%, thậm chí 0,72%/Tháng - Mức lãi suất cao nhất trong vòng gần 2 năm qua.
Không dừng lại ở đó, các tháng đầu năm 2003 do nhu cầu vay vốn trên thị trường vẫn cao, các NHTM, các TCTD tiếp tục lao vào cuộc cạnh tranh huy động vốn qua các biện pháp nâng lãi suất huy động; Thực hiện các hình thức khuyến mãi rầm rộ và hấp dẫn. Đã xuất hiện diễn biến bất thường trên thị trường tiền tệ Việt Nam là lãi suất nội tệ tăng lên quá cao, trong khi đó lãi suất ngoại tệ giảm xuống quá thấp. Thị trường tiền tệ VND nóng lên, tuy vậy vẫn không tác động tích cực đến vấn đề tiết kiệm và đầu tư. Thực tế trên cho thấy các NHTM và các TCTD đã vào cuộc rất nhanh với cơ chế mới, theo sát diễn biến của thị trường, năng động trong kinh doanh để huy động vốn và đáp ứng nhu cầu của khách hàng, nhưng với lãi suất quá nóng sẽ tiềm ẩn những rủi ro cho các TCTD và khách hàng. Đối với các TCTD chi phí cao, lợi nhuận giảm thậm chí thua lỗ, đối với các doanh nghiệp chi phí vốn cao, đẩy giá thành lên cao sẽ giảm khả năng cạnh tranh trên thị trường.
Để tăng cường vai trò chủ động của NHTW trong điều hành chính sách tiền tệ việc tăng khả năng kiểm soát mặt bằng lãi suất là yếu tố quan trọng nhất ở Việt Nam trong thời gian qua NHTW cũng đã cố gắng sử dụng công cụ lãi suất để điều hành chính sách tiền tệ phù hợp với nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi. Cho đến cuối năm 2002, NHNNVN đã thiết kế đủ hệ thống lãi suất chủ đạo bao gồm: Cặp lãi suất tái suất vốn, lãi sất cơ bản và hệ thống lãi suất của phương tiện thường xuyên gắn liền với hoạt động cho vay qua đêm ( Quyết định 1085/2002/QĐ-NHNN) và lãi suất cho số dư tiền gửi thường xuyên của các TCTD tại NHNN ( Quyết định 1284/2002/QĐ-NHNN).
Trong thực tế, mặc dù NHNN công bố lãi suất cơ bản nhưng nó ít tác động đến lãi suất thị trường bởi vì nhu cầu vay vốn là rất lớn khách hàng chấp nhận vay vốn với lãi suất cao, các TCTD đua nhau tăng lãi suất huy động vốn để cho vay, các tổ chức tài chính phi Ngân hàng cũng tham gia cạnh tranh tích cực trên thị trường vốn, lãi suất trái phiếu kho bạc được đẩy lên cao, lãi suất trái phiếu địa phương tăng vọt… điều đó làm cho thị trường tiền tệ nóng lên NHNNVN khó kiểm soát được lãi suất thị trường.
- Lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái chiết khấu: đây là cửa sổ chiết khấu rất quan trọng để tăng hoặc giảm khả năng cho vay của các NHTM làm tăng hoặc giảm lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế. Trong thời gian vừa qua lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái chiết khấu đã được NHNN áp dụng phù hợp với diễn biến trên thị trường tiền tệ, do tình hình lãi suất trên thị trường tiền tệ quá nóng từ tháng 8/2003, NHNN đã quyết định giảm đáng kể lãi suất tái cấp vốn từ 6,0%/năm xuống 5,0%/năm; Lãi suất tái chiết khấu từ 5,0%/năm xuống 4,2%/năm ( quyết định 833/2003/QĐ-NHNN).
- Bám sát diễn biến thị trường tiền tệ, trong năm 2005 NHNN đã điều chỉnh tăng một số loại lãi suất chủ đạo. Cụ thể lãi suất tái cấp vốn là 6,5%/năm, lãi suất chiết khấu là 4,5%/năm, lãi suất cơ bản của đồng Việt Nam là 8,25%/năm ; Lãi suất tiền gửi không kì hạn tăng lên 0,5%/năm, tiền gửi có kì hạn đến 6 tháng là 1,2%/năm và lãi suất tiền gửi có kì hạn trên 6 tháng là 5,1%/năm.
- Với phương châm điều hành chính sách tiền tệ thận trọng, linh hoạt, đồng thời nhằm hạn chế sức ép tăng lãi suất, đặc biệt là lãi suất của đồng đôla Mỹ trên thị trường quốc tế, từ đầu năm 2006 đến nay, NHNNVN tiếp tục giữ nguyên các mức lãi suất chủ đạo. Nhờ vậy, tính đến cuối tháng 6/2006, mặt bằng lãi suất huy động và cho vay bằng VND của các tổ chức tín dụng chỉ tăng nhẹ so với đầu năm (khoảng 0,12-0,24%/năm), trong đó lãi suất cho vay tăng thấp hơn lãi suất huy động vốn. Lãi suất VND tiếp tục được duy trì ở mức hợp lý, đảm bảo chênh lệch dương so với lạm phát khoảng 2%/năm; đồng thời, đảm bảo cho người gửi tiền bằng VND được hưởng mức lãi suất cao hơn so với gửi tiền bằng USD khoảng 4%/năm.
Một thực tế đáng quan tâm nữa là lãi suất huy động vốn của NHTM này tương đương hoặc cao hơn lãi suất cho vay của NHTM khác. Bởi vậy nếu các NHTM cứ tăng lãi suất trung và dài hạn lên, thì vốn từ Ngân hàng có lãi suất thấp hơn sẽ chạy sang Ngân hàng có lãi suất cao hơn và nếu phát hành trái phiếu Chính phủ và trái phiếu Đô thị với lãi suất cao, thì chủ yếu hút vốn từ các NHTM đầu tư vào đó, ảnh hưởng đến việc cho vay vốn trung và dài hạn của Ngân hàng cho khách hàng và các dự án. Thực trạng này cho thấy thị trường liên Ngân hàng chưa phát triển, chưa có tác dụng điều hoà lãi suất trong nền kinh tế. Từ đó đòi hỏi NHNN phải có các giải pháp để điều hành chính sách tiền tệ phù hợp.
2.2. Công cụ nghiệp vụ thị trường mở
Ngày 12/7/2000, NHNNVN chính thức đưa công cụ nghiệp vụ thị trường mở vào hoạt động, đây là một sự chuyển biến quan trọng trong điều hành chính sách tiền tệ của NHNN, từ sử dụng công cụ trực tiếp sang sử dụng các công cụ gián tiếp theo tín hiệu của thị trường, phù hợp với thông lệ Quốc tế.
Từ tháng 5/2002 nghiệp vụ thị trường mở được đưa vào giao dịch hàng tuần, quy mô và doanh số ngày càng tăng, lãi suất ngày càng linh hoạt. Trong các hình thức giao dịch của nghiệp vụ thị trường mở thì việc NHNN mua các giấy tờ có giá là chủ yếu( NHNN bơm tiền ra); chiếm tỷ lệ khoảng từ 71% lên trên 90%. Như vậy, đây chính là một “kênh” quan trọng của NHNN nhằm mục tiêu điều tiết vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng và điều chỉnh lượng tiền cung ứng qua các kênh khác.
Trong năm 2003, số lượng thành viên tham gia nghiệp vụ thị trường mở chủ yếu là bốn NHTM quốc doanh, còn các NHTM cổ phần, chi nhánh Ngân hàng nước ngoài tham gia rất hạn chế do không có giấy tờ có giá ngắn hạn (từ tháng 8/2003 được sử dụng giấy tờ có giá dài hạn).
Về thành viên tham gia thị trường mở năm 2004, có thêm sự tham gia của các thành viên mới như NHTM cổ phần Kỹ Thương, NHTM cổ phần Á châu, Ngân hàng liên doanh VID-public, chi nhánh Ngân hàng nước ngoài Citibank đã chứng tỏ các tổ chức tín dụng có sự quan tâm hơn đối với nghiệp vụ thị trường mở song vẫn còn hạn chế.
Trong năm 2004 nghiệp vụ thị trường mở đã được tăng cường sử dụng như một công cụ chủ yếu trong điều tiết tiền tệ theo mục tiêu chính sách tiền tệ của NHNN thông qua việc bơm/hút vốn khả dụng của tổ chức tín dụng với thời hạn ngắn từ 7-60 ngày. Doanh số giao dịch bình quân một phiên năm 2004 khoảng 504 tỷ đồng, bằng 223% doanh số giao dịch bình quân một phiên năm 2003. Đồng thời, việc điều hành nghiệp vụ thị trựờng mở đã có sự phối hợp nhất định với công cụ lãi suất nhằm điều tiết gián tiếp và đảm bảo sự ổn định lãi suất thị trường. Vào dịp Tết cổ truyền, NHNN đã cung ứng khoảng 11 nghìn tỷ VNĐ đáp ứng nhu cầu thiếu hụt vốn tạm thời của các NHTM nhằm giảm áp lực tăng lãi suất và triệt tiêu tác động của các kênh khác đến cung cầu vốn trên thị trường tiền tệ.
Từ 15/12/2004, việc NHNN áp dụng công nghệ trang Web trong đặt thầu và đấu thầu đã tạo thuận lợi cho các thành viên tham gia thị trường (giảm chi phí đầu tư ban đầu do không phải cài đặt phần mềm). Như vậy, năm 2004 cùng với việc duy trì ổn định các mức lãi suất do NHNN công bố như lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu, NHNN đã sẵn sàng hỗ trợ thanh khoản với chi phí thấp qua các kênh nhất là nghiệp vụ thị trường mở, đã góp phần duy trì ổn định lãi suất thị trường và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Trong thực tế, với sự cố gắng của NHNN mặc dù nghiệp vụ thị trường mở đã hoạt động ổn định, và NHNN đã có những thành công bước đầu trong việc đưa một công cụ mới vào điều hành chính sách tiền tệ, nhằn tác động tới vốn khả dụng của các TCTD, nhưng với thực trạng quy mô thị trường nhỏ, nhiều phiên giao dịch của thị trường không có thành viên nào đăng ký giao dịch, thị trường mở hầu như chỉ là sân riêng của các NHTMQD lớn còn các NHTM cổ phần vốn ít, NH liên doanh, chi nhánh NH nước ngoài ít vốn nội tệ hầu như đứng ngoài, điều này cho thấy việc vận hành nghiệp vụ thị trường mở chưa thông suốt, lãi suất trên thị trường mở ít có tác động đến lãi suất trên thị trường. Do đó cần phải có giải pháp điều chỉnh hoạt động thị trường mở, phát triển thị trường này để trong thời gian tới nó sẽ thực sự trở thành công cụ điều hành chính sách tiền tệ.
2.3- Dự trữ bắt buộc
NHTW sử dụng công cụ dự trữ bắt buộc để tác động đến lượng tiền cung ứng ra qua việc tác động đến cơ chế tạo tiền gửi của các NHTM và tác động đến lãi suất cho vay của các TCTD. Trong năm 2002, tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi nội tệ là 2% đối với NHNN&PTNTVN, 3% đối với các TCTD đô thị khác. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi ngoại tệ là 8%, thực hiện từ tháng 4/2002 và giảm tiếp xuống 5% thực hiện từ tháng 12/2002. Tuy nhiên động thái này đã ít ảnh hưởng đến lãi suất thị trường.
Để thực hiện mục tiêu ổn định tiền tệ góp phần tăng trưởng kinh tế, từ tháng 7/2004, NHNN đã điều chỉnh tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các loại tiền gửi dưới 24 tháng bằng VND và ngoại tệ (Quyết định số 796/QĐ-NHNN ngày 25/6/2004). Cụ thể, đối với tiền gửi VND không kỳ hạn và có kỳ hạn đến dưới 12 tháng tăng từ 2% lên 5%, riêng NHNN&PTNTVN tăng từ 1,5% lên 4%, NHTMCP nông thôn và Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương tăng từ 1% lên 2%. Đối với tiền gửi bằng VND kỳ hạn từ 12 tháng đến dưới 24 tháng tăng từ 1% lên 2%. Đối với tiền gửi ngoại tệ không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12 tháng tăng từ 4% lên 8%, loại từ 12 tháng đến dưới 24 tháng tăng từ 1% lên 2%.
Đồng thời, để khuyến khích các TCTD sử dụng vốn có hiệu quả, tránh tăng lãi suất dẫn đến dư thừa vốn VND, NHNN đã thay đổi phương thức trả lãi đối với tiền gửi dự trữ bắt buộc bằng VND (Quyết định số 923/QĐ-NHNN ngày 20/7/2004). Theo đó, đối với dự trữ bắt buộc bằng VND, NHNN chỉ trả lãi cho tiền gửi dự trữ bắt buộc (1,2%/năm) mà không trả lãi cho phần tiền gửi dự trữ bắt buộc vượt.
1. 4. Công cụ tỷ giá
Xung quanh vấn đề tỷ giá ở VN hiện nay, các nhà nghiên cứu kinh tế cho rằng: Giá trị đồng VN đã bị đánh giá quá cao so với ngoại tệ, như vậy, trước hết nó sẽ làm giảm sức cạnh tranh của hàng hóa VN trên thị trường quốc tế, ảnh hưởng xấu đến hoạt động xuất nhập khẩu, sau đó làm NHNN khó điều hành chính sách tiền tệ.
Hiện nay trên thế giới còn tồn tại nhiều chế độ tỷ giá hối đoái khác nhau, nhưng trong điều kiện hội nhập và quốc tế hóa ngày nay, xu hướng tiến tới tự do hóa tỷ giá hối đoái đang được Chính phủ các quốc gia theo đuổi. Xét trên bình diện quản lý vĩ mô thì NHNNVN đang thực hiện chế độ tỷ giá linh hoạt, có sự kiểm soát của Nhà nước, đây có thể nói là một sự lựa chọn đúng đắn của Nhà nước trong điều kiện quá trình hội nhập của VN với thế giới còn nhiều cách biệt. Nếu lựa chọn tỷ giá thả nổi tự do thì điều kiện phát triển kinh tế - xã hội hiện nay của của chúng ta chưa cho phép, còn nếu lựa chọn chính sách điều hành tỷ giá theo kiểu ‘‘an toàn’’ thì không thể tránh khỏi những áp đặt mang tính hành chính vào quản lý tỷ giá – điều mà chúng ta đang cố gắng thay đổi để thích ứng dần với việc điều hành nền kinh tế theo các quy luật phát triển. Điều kiện nêu trên đặt ra những yêu cầu đối với Nhà nước trong việc lựa chọn và điều hành tỷ giá phải hết sức linh hoạt, thích ứng dần với hội nhập và tạo động lực phát triển kinh tế.
Từ 1/7/2002 NHNN quyết định nới lỏng biên độ quy định tỷ giá của các TCTD trong giao dịch mua bán ngoại tệ đối với khách hàng, quyết định này đã giảm dần những quy định mang tính chất hành chính can thiệp vào quyền tự chủ kinh doanh của các TCTD. Ngày 13/9/2003 Thống đốc NHNN đã ra quyết định 958/2002/QĐ-NHNN về quản lý ngoại hối đối với việc mua bán chứng khoán của các tổ chức, cá nhân nước ngoài tại trung tâm giao dịch chứng khoán. Từ tháng 10/2002 NHNN đã có qui định mới về trạng thái ngoại tệ đối với các NHTM… Cùng với việc ban hành các chính sách nói trên, NHNN vẫn duy trì và vận hành có hiệu quả hoạt động của thị trường ngoại tệ, liên Ngân hàng, thực hiện nghiệp vụ Swap trong giao dịch hoán đổi ngoại tệ lấy đồng Việt Nam giữa NHTM và NHNN.
Trong năm 2004, NHNN đã điều hành tỷ giá linh hoạt sát với cung cầu trên thị trường, phát huy lợi thế cho hoạt động xuất khẩu mà vẫn không để hoạt động nhập khẩu gặp khó khăn. Đồng thời, NHNN đã can thiệp trên thị trường ngoại hối vào những thời điểm thích hợp, góp phần ổn định tỷ giá và tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động thanh toán quốc tế. Bên cạnh đó, NHNN cũng không ngừng hoàn thiện các công cụ phòng ngừa rủi ro tỷ giá như chỉnh sửa các quy định về tỷ giá kỳ hạn theo hướng ngày càng tự do hoá để chu chuyển ngoại tệ đạt đến trạng thái cân bằng, tạo điều kiện thông thoáng về giao dịch hoán đổi.
Cũng trong 6 tháng đầu năm 2006, do cán cân vãng lai thặng dư và thu hút vốn từ nước ngoài tăng mạnh nên nguồn cung ngoại tệ của nền kinh tế khá dồi dào. Nhờ vậy, dự trữ ngoại hối nhà nước tăng lớn so với mức tăng cùng kỳ trong nhiều năm gần đây. Đây là điều kiện thuận lợi cho phép tỷ giá VND/USD tiếp tục được NHNN điều hành ổn định. Tỷ giá VND/USD của các NHTM vẫn bám sát tỷ giá bình quân liên Ngân hàng. Điểm đáng lưu ý trên thị trường tiền tệ trong 6 tháng đầu năm là sự gia tăng đột biến của tỷ giá VND/USD trên thị trường tự do trong những ngày đầu tháng 5/2006 do tác động của việc tăng giá dầu thô, giá vàng trên thị trường quốc tế và những tin đồn thất thiệt về việc thay đổi chính sách tỷ giá, ngoại hối của Nhà nước. Đã có những thời điểm giá vàng trong nước lên tới 1.500.000 đồng/chỉ và tỷ giá lên tới 17.200 đồng/USD. Tuy nhiên, bằng việc tích cực tuyên truyền định hướng dư luận và sử dụng đồng bộ các biện pháp can thiệp ("nới rộng" việc nhập khẩu vàng nhằm tăng lượng cung bình ổn giá vàng trong nước, đáp ứng kịp thời nhu cầu ngoại tệ của các doanh nghiệp nhập khẩu...), "cơn sốt" giá vàng và tỷ giá VND/USD đã nhanh chóng "hạ nhiệt". Đến thời điểm hiện nay, giá vàng trong nước đã theo sát giá vàng thế giới và tỷ giá VND/USD diễn biến ổn định ở mức khoảng 16.000 đồng/USD.
Về cơ bản, cơ chế điều hành tỷ giá đã đảm bảo được sự duy trì ổn định. Việc duy trì ổn định tỷ giá đã tác động mạnh đến tâm lý của người dân và nhà đầu tư, hạn chế chuyển dịch từ VND sang ngoại tệ. Bên cạnh đó, NHNN đã thực hiện tốt vai trò người mua bán cuối cùng trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, đáp ứng kịp thời và đầy đủ các nhu cầu về ngoại tệ của nền kinh tế.
Với các biện pháp nêu trên, thị trường ngoại hối Việt Nam trong thời gian qua tương đối ổn định, tỷ giá biến động không nhiều góp phần ổn định tiền tệ, ổn định kinh tế.
3. Khái quát hoạt động điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thời gian qua
* Thành tựu đạt được:
- Từ khi có Pháp lệnh NHNN đến nay, hoạt động điều hành chính sách tiền tệ của NHNN đã có những chuyển biến căn bản, từ chỗ khuôn khổ chính sách tiền tệ chưa được xác định rõ ràng, các công cụ chính sách tiền tệ chưa hình thành đầy đủ, đến nay NHNN đã tạo lập được một khuôn khổ chính sách tiền tệ tương đối rõ ràng, hệ thống các công cụ chính sách tiền tệ tương đối hoàn chỉnh hơn.
- Các công cụ của chính sách tiền tệ không ngừng được xây dựng và hoàn thiện theo hướng nâng cao vai trò điều tiết tiền tệ của từng công cụ, các công cụ trực tiếp dần ít được sử dụng, các công cụ gián tiếp bước đầu được sử dụng một cách mềm dẻo, linh hoạt theo tín hiệu thị trường, đặc biệt là vào những thời điểm biến động phức tạp của thị trường tiền tệ trong nước và quốc tế. NHNN đã bắt đầu sử dụng phối hợp các công cụ chính sách tiền tệ để phát tín hiệu về chính sách tiến tệ nhằm định hướng kỳ vọng của thị trường.
- NHNN có xu hướng nghiêng về sử dụng cơ chế điều chỉnh lượng (khối lượng tiền cung ứng) hơn là cơ chế điều chỉnh thông qua giá cả (các mức lãi suất) trong điều hành chính sách tiền tệ.
- Trong những và điều tiết tốc độ gia tăng tổng phương tiện thanh toán, góp phần ổn định kinh tế năm qua, về cơ bản, NHNN đã thực hiện tốt các yêu cầu về ổn định tỷ giá ngoại tệ, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, kiểm soát được sự gia tăng khối lượng tín dụng đối với nền kinh tế, từng bước góp phần ổn định giá cả nói chung đồng thời chủ động kiểm soátvĩ thực sự là cơ quan hoạch định chính sách tiền tệ mà về cơ bản, chỉ là cơ quan thực thi chính sách tiền tệ. Công tác điều hành chính sách tiền tệ hiện nay còn phụ thuộc quá nhiều vào các chính sách khác, cũng như chịu sự chi phối bởi các quyết định của Chính phủ; thêm vào đó, còn có khá nhiều các cơ quan, tổ chức tham gia chỉ đạo và giám sát việc xây dựng, thực thi chính sách tiền tệ của NHNNVN. Việc xác định mục tiêu chính sách tiền tệ chủ yếu vẫn dựa vào kinh nghiệm và kết quả trong quá khứ, chưa được mô hình hoá và chưa đo lường tác động về mặt định lượng một cách rõ ràng.
- Việc xây mô, đẩy lùi và kiểm soát được lạm phát, làm giảm đáng kể khối lượng tiền mặt lưu thông, ổn định sức mua của đồng Việt Nam, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo thêm công ăn việc làm, thực hiện chính sách xoá đói giảm nghèo ...
* Một số hạn chế trong điều hành chính sách tiền tệ hiện nay:
- NHNN chưa dựng hệ thống các công cụ chính sách tiền tệ, đặc biệt là các công cụ gián tiếp vẫn đang trong quá trình hoàn thiện. Sự phối kết hợp các công cụ chưa thường xuyên và kém hiệu quả, dẫn đến việc xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ của Việt Nam thời gian qua còn nhiều bất cập, chưa thực sự tạo được lòng tin của công chúng.
- NHNN chưa xác lập được một cơ chế kiểm soát lãi suất chủ động và chưa xây dựng được một cơ chế điều hành lãi suất ngắn hạn trên thị trường tiền tệ một cách chuẩn mực theo thông lệ quốc tế. Quan hệ giữa các loại lãi suất chưa diễn ra theo đúng quy luật cung cầu, lãi suất ngắn hạn hầu như không có ảnh hưởng đến lãi suất dài hạn trên thị trường tài chính thị trường tín dụng… hệ quả là lãi suất ngắn hạn trên thị trường tiền tệ chưa thể đảm trách là một công cụ quyền lực của NHNN.
- Cơ chế điều hành tiền tệ hiện nay của NHNN vẫn cơ bản dựa trên hoạt động điều tiết khối lượng tiền tệ với hạn mức cung ứng tiền do Chính phủ phê duyệt nhằm hỗ trợ cho các mục tiêu tăng trưởng kinh tế và lạm phát do Quốc hội đề ra; do đó, cơ chế điều hành các công cụ chính sách tiền tệ lên các biến số mục tiêu còn có những hạn chế. Một vấn đề quan trọng hiện nay là NHNN chưa xác lập được một cách chính thức cơ chế truyền tải tác động của chính sách tiền tệ để phục vụ cho việc kiểm soát, điều hành tiền tệ.
- Thông tin và các dữ kiện kinh tế vĩ mô sử dụng trong công tác dự báo và xây dựng, thực thi chính sách tiền tệ chưa đầy đủ và đồng đều, ảnh hưởng đến hoạt động định hướng, can thiệp thị trường của NHNN. Điều này đi ngược lại vai trò hoạt động của NHTƯ là chủ động tạo ra sự biến động về số lượng và giá cả ngắn hạn của vốn tiền tệ nhằm hướng nhu cầu tiền tệ của nền kinh tế tới các mục tiêu kinh tế vĩ mô. Thêm vào đó, công tác thống kê và xử lý thông tin thị trường còn mang tính thụ động và hiệu quả không cao, càng làm cho việc dự báo các chỉ tiêu khác kém chính xác.
- Một vấn đề cần quan tâm nữa hiện nay là mức độ đô la hoá ở Việt Nam tương đối cao, gây ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển lành mạnh của nền kinh tế và tác động lớn tới việc hoạch định và điều hành chính sách tiền tệ. Bên cạnh đó, tình trạng đô la hoá cũng làm cho mối quan hệ giữa tổng phương tiện thanh toán với giá cả và sản lượng đôi khi không tuân thủ theo những quy luật vốn có, làm hạn chế tác dụng của mục tiêu trung gian đã xác định.
- Trình độ nhận thức, năng lực xây dựng, thực thi, quản lý và điều hành chính sách tiền tệ của đội ngũ cán bộ tại NHNN còn chưa đồng đều.
II. Những vấn đề đặt ra trong điều hành chính sách tiền tệ trong thời gian tới.
1. Phương hướng cơ bản để tiếp tục hoàn thiện chính sách tiền tệ.
Chính sách tiền tệ nước ta đang trong quá trình chuyển đổi phải đảm bảo sự ổn định kinh tế vĩ mô. Cụ thể là duy trì, kiềm chế ổn định lạm phát ở mức chấp nhận được, đồng thời kiểm soát được khối lượng tiền tệ cung ứng cho nền kinh tế, giữ và ổn định giá trị đồng tiền quốc gia trên cả 2 mặt sức mua và tỷ giá.
Chính sách tiền tệ thực sự tạo động lực phát triển, hoàn thiện lành mạnh hoá lĩnh vực tiền tệ, góp phần thực hiện có hiệu quả mục tiêu tăng trưởng và phát triển kinh tế nhanh, bền vững trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta.
Từng bước chuẩn bị, tạo điều kiện để đòng tiền Việt Nam trở thành đồng tiền tự do chuyển đổi, đảm bảo và tạo điều kiện chủ động hội nhập khu vực, hội nhập quốc tế một cách thực sự, hiệu quả trong tiến trình toàn cầu hoá.
2. Những vấn đề đặt ra nhằm nâng cao hiệu lực điều hành chính sách tiền tệ của NHNNVN.
Thứ nhất: Về mục tiêu của chính sách tiền tệ: Cần đi sâu nghiên cứu làm rõ vai trò và tầm quan trọng của ổn định giá cả đối với mục tiêu ổn định tiền tệ, tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn việc làm và nâng cao mức sống người lao động... Khẳng định rõ vai trò của ổn định giá cả là yếu tố quan trọng, giúp nền kinh tế phân bổ và sử dụng tối ưu nhất mọi nguồn lực để phát triển. Đồng thời, xác định ổn định giá cả là mục tiêu dài hạn, cuối cùng của chính sách tiền tệ. Việc lựa chọn các mục tiêu khác của chính sách tiền tệ cần căn cứ vào tính cấp thiết của mục tiêu, mức độ đánh đổi giữa các mục tiêu và khả năng thực hiện được các mục tiêu nhằm đạt được sự tối ưu trong điều hành chính sách tiền tệ của NHTƯ là vừa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, vừa ổn định giá cả, kiềm chế lạm phát.
Thứ hai: Về điều hành các công cụ của chính sách tiền tệ: Cần đẩy mạnh hơn nữa việc chuyển từ cơ chế kiểm soát tiền tệ trực tiếp sang cơ chế kiểm soát tiền tệ gián tiếp và xem xét các giải pháp kỹ thuật nhằm xác định và lượng hoá được mục tiêu hoạt động, mục tiêu trung gian, mục tiêu cuối cùng của chính sách tiền tệ cũng như trật tự ưu tiên các mục tiêu của chính sách tiền tệ. Từ đó, xây dựng khuôn khổ điều hành chính sách tiền tệ, xác định hệ thống công cụ chính sách tiền tệ và cơ chế truyền tải tác động chính sách tiền tệ đến các mục tiêu, đồng thời thông qua các kênh truyền dẫn như kênh tiền tệ, kênh tín dụng, kênh tỷ giá hối đoái hay kênh giá tài sản để tác động đến các biến số vĩ mô của nền kinh tế thông qua thị trường và các nghiệp vụ thị trường nhằm tạo ra sự minh bạch trong hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ của NHNNVN.
Thứ ba: Về cơ chế truyền dẫn chính sách tiền tệ: Xuất phát từ mục tiêu dài hạn là ổn định giá cả cần tích cực nghiên cứu để sớm đưa ra hệ thống mục tiêu và cơ chế truyền dẫn phù hợp với điều kiện thực tiễn Việt Nam dựa trên cơ sở nguyên lý truyền dẫn tác động chính sách tiền tệ đang được nhiều nước trên thế giới áp dụng; trong đó, chủ trương lựa chọn lãi suất ngắn hạn trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng làm mục tiêu hoạt động và quan tâm thích đáng đến các kênh truyền dẫn như kênh tiền tệ, kênh tín dụng, kênh tỷ giá và kênh giá tài sản nhằm đảm bảo tác động hiệu quả tới tổng sản lượng hay tổng cầu (theo mô hình khái quát về cơ chế truyền dẫn tác động chính sách tiền tệ).
Thứ tư: Phát triển đồng bộ và hợp lý các thị trường bao gồm thị trường vốn, thị trường bất động sản, thị trường hối đoái và thị trường tín dụng nhằm đảm bảo sự ổn định của các kênh truyền dẫn, hướng tác động chính sách tiền tệ đến hành vi đầu tư, tiêu dùng, xuất nhập khẩu của các chủ thể kinh tế, phối hợp chặt chẽ chính sách tiền tệ với chính sách tài khoá nhằm kiểm soát hợp lý chi tiêu của Chính phủ qua đó ảnh hưởng đến tổng sản lượng (tổng cầu của nền kinh tế) và đến mục tiêu cuối cùng của chính sách tiền tệ.
Thứ năm: Nâng cao năng lực điều hành chính sách tiền tệ của NHNN thông qua đổi mới điều hành các công cụ chính sách tiền tệ, tiếp tục hoàn thiện các công cụ chính sách tiền tệ như dự trữ bắt buộc, tái chiết khấu và nghiệp vụ thị trường mở; chú trọng các nghiệp vụ dẫn suất mới như SWAPS ngoại tệ, OPTIONS, FUTURE... xây dựng và hoàn thiện cơ chế điều hành lãi suất theo hướng tự do hóa, trên cơ sở thị trường nhằm đảm bảo tương quan hợp lý giữa các loại lãi suất trên thị trường tài chính và duy trì cạnh tranh lành mạnh, thúc đẩy kinh tế phát triển. Mặt khác càn tăng cường sự phối hợp giữa chính sách tiền tệ và các chính sách kinh tế vĩ mô khác.
Thứ sáu: Hoàn thiện cơ chế điều hành tỉ giá hối đoái, xây dựng cơ chế quản lý ngoại tệ theo hướng mở cửa, tự do hóa các giao dịch vãng lai, nới lỏng hơn các giao dịch vốn, kiểm soát chặt chẽ các dòng vốn quốc tế và nợ nước ngoài, nhất là nợ ngắn hạn và các luồng vốn đầu cơ khác để tác động tích cực đến tỷ giá cũng như tác động của cán cân thanh toán đến diễn biến tiền tệ và lạm phát.
Thứ bảy: Nâng cao trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ tại NHNN; đẩy mạnh việc chuẩn hoá đội ngũ cán bộ theo tiêu chuẩn ISO nhằm bồi dưỡng các thế hệ cán bộ trẻ có trình độ cao, tâm huyết với hoạt động ngân hàng, đặc biệt là đội ngũ cán bộ làm công tác xây dựng, thực thi chính sách tiền tệ tại NHNNVN.
Được xem là một tập hợp những phản ứng dây chuyền của các biến số kinh tế vĩ mô bắt nguồn từ những thay đổi của các điều kiện tiền tệ và dựa vào kỳ vọng của thị trường để tạo nên những kênh tác động đa phương đối với nền kinh tế. Cơ chế truyền dẫn tác động của chính sách tiền tệ được xác định là nhân tố vô cùng quan trọng nhằm định hướng tác động của chính sách tiền tệ đến các điều kiện tiền tệ (khối tiền cung ứng, các mức lãi suất thị trường...) và thông qua các kênh truyền dẫn như kênh tiền tệ, kênh tín dụng, kênh tỷ giá và kênh giá tài sản để tác động đến các biến số vĩ mô của nền kinh tế (C, I, G, EX...), từ đó tạo ra sự biến động tích cực đến tổng sản lượng (tổng cầu của nền kinh tế) và cuối cùng là đến sự ổn định dài hạn của giá cả... Vì vậy, trong thời gian tới, NHNN cần đẩy mạnh hoạt động xây dựng và hoàn thiện cơ chế truyền dẫn nhằm đáp ứng được đòi hỏi từ thực tiễn điều hành chính sách tiền tệ, tạo điều kiện để NHNNVN có thể sử dụng hiệu quả các công cụ chính sách tiền tệ, góp phần quan trọng nâng cao hiệu lực điều hành chính sách tiền tệ, từng bước đưa NHNNVN trở thành một NHTƯ hiện đại trong khu vực và thế giới.
C. KẾT LUẬN
Chính sách tiền tệ là một trong những công cụ quản lý kinh tế vĩ mô quan trọng nhất của Nhà nước. Ngân hàng trung ương sử dụng chính sách tiền tệ nhằm điều chỉnh cung ứng tiền cho nền kinh tế, ổn định tiền tệ, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tạo việc làm. Chính sách tiền tệ ở Việt Nam hiện nay đang được điều hành thận trọng, linh hoạt; điều hành khối lượng tiền cung ứng phù hợp với cầu vốn thị trường thông qua việc sử dụng linh hoạt các công cụ chính sách tiền tệ như nghiệp vụ tái cấp vốn, dự trữ bắt buộc, đặc biệt là nghiệp vụ thị trường mở. Thực hiện chính sách tỷ giá linh hoạt nhằm hỗ trợ phát triển kinh tế, khuyến khích xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu. Lãi suất được điều hành một cách linh hoạt trên cơ sở diễn biến lãi suất tiền tệ, lạm phát trong nước và lãi suất thị trường quốc tế. Tuy nhiên, vịệc sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ của chúng ta vẫn chưa thật sự có hiệu quả như: với công cụ tái cấp vốn, thực tế việc tái cấp vốn chưa thực hiện với mọi tổ chức tín dụng mà thường tập trung cho các ngân hàng thương mại Nhà nước, trong đó chủ yếu là tái cấp vốn theo mục tiêu chỉ định của chính phủ; với nghiệp vụ thị trường mở, chưa phát huy hết được ưu thế trong việc điều hành vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng bởi vẫn còn những hạn chế về phương thức giao dịch, khối lượng mua bán, số thành viên tham gia... Vì vậy, chúng ta cần phải xây dựng và hoàn thiện hệ thống cơ chế điều hành và quản lý chính sách tiền tệ ở nước ta ngày càng phù hợp với nền kinh tế trong nước và thế giới.
Chính sách tiền tệ ở Việt Nam – Thực trạng và giải pháp
MỤC LỤC
A. LỜI MỞ ĐẦU...................................................................................
1
B. NỘI DUNG........................................................................................
2
Chương I. Cơ sở lý thuyết về chính sách tiền tệ Quốc gia.................
2
I. Khái niệm, vị trí và nhiệm vụ của chính sách tiền tệ ................................
2
1. Khái niệm chính sách tiền tệ......................................................................
2
2. Vị trí của chính sách tiền tệ........................................................................
2
3. Nhiệm vụ của chính sách tiền tệ................................................................
2
II. Mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia....................................................
6
1. Công ăn việc làm cao.................................................................................
6
2. Tăng trưởng kinh tế....................................................................................
7
3. Kiểm soát lạm phát, ổn định giá trị đồng bản tệ..................................................
7
4. Quan hệ giữa các mục tiêu........................................................................
8
III. Các công cụ của chính sách tiền tệ.................................................................................
9
1. Các loại chính sách tiền tệ:..................................................................................
9
2. Các công cụ của chính sách tiền tệ............................................................
9
2.1. Các công cụ gián tiếp .............................................................................
9
2.2. Các công cụ trực tiếp..............................................................................
12
IV. Vai trò và nội dung của chính sách tiền tệ trong nền kinh tế mở........................
15
1. Thế nào là một nền kinh tế mở.............................................................................
15
2. Ảnh hưởng của toàn cầu hoá đến cơ chế tác động của chính sách tiền tệ...........
15
3. Sự cần thiết phải thay đổi chính sách tiền tệ trong nền kinh tế mở ở Việt Nam..
16
Chương II: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ Ở VIỆT NAM..........................................................................................................................
18
I. Thực trạng chính sách tiền tệ ở Việt Nam....................................................
18
1. Nước ta tiến hành mở cửa với điểm xuất phát thấp...................................
19
2. Tình hình sử dụng các công cụ để điều hành chính sách tiền tệ ở Việt Nam trong thời gian qua, thành tựu và hạn chế........................................................
19
3. Khái quát hoạt động điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thời gian qua....................................................................................
25
II. Những vấn đề đặt ra trong điều hành chính sách tiền tệ trong thời gian tới
27
1. Phương hướng cơ bản để tiếp tục hoàn thiện chính sách tiền tệ................
27
2. Những vấn đề đặt ra nhằm nâng cao hiệu lực điều hành chính sách tiền tệ của NHNNVN....................................................................................................
28
C. KẾT LUẬN........................................................................................
31
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình lý thuyết tiền tệ ngân hàng – Trường ĐHKTQD
2. Tiền tệ ngân hàng và thị trường tài chính (Fredric S.Mishkin)
3. Tạp chí ngân hàng
4. Bài viết: Chính sách tiền tệ hiện nay, những bất cập và hướng khắc phục
TS. Phạm Ngọc Dũng – HVTC
5. Bài viết : tác động của toàn cầu hóa kinh tế đến chính sách tiền tệ và chính sách thương mại quốc tế.
TS. Hoàng Yến
6. Các trang web: www.vnexpress.net
www.ctu.edu.vn
www.hocvientuphap.edu.vn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0968.doc