ĐẶT VẤN ĐỀ
Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, Đảng và nhà nước ta luôn luôn quan tâm đến sức khoẻ của nhân dân lao động, đặc biệt là của học sinh, sinh viên trong các trường học. Sau khi cách mạng Tháng Tám thành công, trong lời kêu gọi toàn dân tập thể dục, Bác Hồ đã viết:”Giữ gìn dân chủ, xây dựng nước nhà, gây đời sống mới việc gì cũng cần có sức khoẻ mới thành công” (Lời kêu gọi toàn dân tập thể dục của Hồ Chủ Tịch ngày 27 tháng 3 năm 1946).[59,60]
Năm 1954 sau ngày hoà bình lập lại, đặc biệt là sau khi đất nước thống nhất năm 1975, cả nước ta đã hình thành một phong trào tập luyện TDTT rộng rãi, với sự tham gia của nhiều tầng lớp nhân dân, trong đó có học sinh, sinh viên. Phong trào này diễn ra liên tục trong suốt 40 năm qua và nó đã góp phần to lớn vào sự nghiệp củng cố, nâng cao sức khoẻ phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc Việt Nam XHCN.
Ở các trường học, từ bậc mẫu giáo, phổ thông đến bậc đại học, Bộ Giáo dục và đào tạo đã quy định một chương trình GDTC bắt buộc, nhằm đào tạo con người mới - con người XHCN, phát triển toàn diện về các mặt đức, trí, thể, mỹ. Tuy nhiên, sau nhiều năm chiến tranh liên tục, do điều kiện kinh tế còn gặp nhiều khó khăn, nên cơ sở vật chất còn nhiều thiếu thốn, chưa được thoả mãn nhu cầu tập luyện TDTT, ở hầu hết các trường Đại học còn nhiều khó khăn về kinh phí, cơ sở vật chất, chưa thoả mãn nhu cầu tập luyện của sinh viên. Hơn nữa, ở các trường đại học trong cả nước, chương trình GDTC chỉ mới tập trung ở hai năm đầu, bao gồm những nội dung chính của môn điền kinh, thể dục và một số môn thể thao tự chọn, thời gian còn lại của hai năm cuối sinh viên không bị những điều kiện ràng buộc nên hầu hết sinh viên ít hoặc không tham gia luyện tập TDTT.[20,22,25]
Những năm gần đây, trong chương trình nghiên cứu khoa học của các tác giả Vũ Đức Thu, Lưu Quang Hiệp (1986, 1990), Trần Văn Tác, Bùi Hoàng Phúc (1998), Phạm Thị Nghi, Phạm Thu Thái (1999), Trần Thuỳ Linh, Phạm Tất Thắng (2002), đều xác nhận tình trạng thể lực của sinh viên cuối khoá ở các trường đại học đều giảm sút. Điều đó, buộc các nhà sư phạm trong lĩnh vực GDTC phải tìm ra những biện pháp khắc phục, với mục đích duy trì trạng thái thể lực, sức khoẻ cho sinh viên trong suốt quá trình học, để sau khi tốt nghiệp, sinh viên có sự chuẩn bị đầy đủ về sức khoẻ và kiến thức, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.[41,61]
Ngày nay, công cuộc đổi mới trên đất nước ta đang diễn ra với tốc độ nhanh và mạnh mẽ, sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hóa đất nước đòi hỏi đội ngũ thanh niên không chỉ có tri thức khoa học vững vàng, có đạo đức trong sáng, mà còn cần có sức khỏe tốt.
Trường đại học Dân Lập Thăng Long là một trong những trường đào tạo đội ngũ cán bộ về lĩnh vực tin học, quản lý và ngôn ngữ, phần đông sinh viên là nữ có độ tuổi 18 - 22. Song song với việc nâng cao chất lượng đào tạo chuyên môn, nhà trường còn chú trọng đến công tác GDTC cho nữ sinh viên. Theo số liệu nghiên cứu ban đầu, tình trạng thể lực của nữ sinh viên trong những năm qua chủ yếu tăng ở hai năm đầu là do có luyện tập TDTT thường xuyên, ở hai năm tiếp theo, tình trạng thể lực của sinh viên hướng giảm sút đáng lo ngại. Tuy nhiên, trong các giờ nhàn rỗi buổi sáng, buổi chiều, đã xuất hiện nhiều sinh viên tham gia tập chương trình GDTC của Bộ Giáo Dục và Đào Tạo quy định. Song, việc tập luyện của hầu hết sinh viên còn mang tính tự phát, thiếu hướng dẫn tổ chức và quản lý của trường, Hội thể thao sinh viên.
Thể dục tổng hợp cổ truyền là môn tập được nữ thanh niên ưa thích, việc tổ chức tập luyện môn tập này không đòi hỏi điều kiện tập luyện phức tạp, nhưng góp phần làm phong phú hiệu qủa cao về sức khoẻ, giáo dục nhân cách, nếp sống lành mạnh và đặc biệt là tạo dáng vẻ đẹp cho người tập - một nhu cầu của sinh viên hiện nay. Qua điều tra sơ bộ, ở 4 khoá học từ năm thứ nhất đến năm thứ tư, có tới 65 - 70% số sinh viên nữ trả lời có nguyện vọng tập môn thể dục tổng hợp cổ truyền.[38]
Một vấn đề quan trọng đặt ra là phải sớm nghiên cứu hình thức tập luyện và xây dựng một chương trìng giảng dạy hợp lý, phong phú nội dung tập luyện ở hai năm đầu và nâng cao hiệu quả môn tập tự chọn ở hai năm cuối cho sinh viên.
Trên cơ sở ý nghĩa của công tác GDTC cho sinh viên, nhất là sinh viên nữ, do tầm quan trọng của môn thể dục tổng hợp cổ truyền đối với đối tượng tập luyện này, chúng tôi nghiên cứu đề tài:
“Nghiên cứu hiệu quả của chương trình thể dục tổng hợp cổ truyền đối với việc nâng cao sức khoẻ cho nữ sinh trường đại học Dân Lập Thăng Long”.
Mục đích nghiên cứu của đề tài
Trên cơ sở đánh giá sự phát triển thể chất nữ sinh viên của trường đại học Dân Lập Thăng Long, chúng tôi biên soạn chương trình tập luyện thể dục dưỡng sinh tổng hợp cổ truyền được thực hiện bắt buộc nhằm nâng cao trình độ thể chất cho nữ sinh viên.
Nhiệm vụ nghiên cứu.
Để giải quyết đề tài nghiên cứu trên đây, các nhiệm vụ sau đây được đặt ra:
1.Điều tra sự phát triển thể chất của nữ sinh viên trường đại học Dân Lập Thăng Long Hà nội.
2. Nghiên cứu hiệu quả chương trình thể dục dưỡng sinh tổng hợp cổ truyền đối với sự phát triển thể chất của nữ sinh viên trường đại học Thăng Long Hà nội.
83 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2294 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nghiên cứu hiệu quả của chương trình thể dục tổng hợp cổ truyền đối với việc nâng cao sức khoẻ cho nữ sinh trường đại học Dân Lập Thăng Long, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
àn 2 chiếc.
- Đồng hồ bấm giây 3 chiếc.
- Thước dây 3 chiếc.
- Cát sét 1 chiếc và một số đĩa nhạc.
- Máy tính điện tử để sử lý số liệu 1 chiếc.
CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
ĐÁNH GIÁ TRÌNH ĐỘ THỂ CHẤT CỦA NỮ SINH TRƯỜNG ĐẠI HỌC DÂN LẬP THĂNG LONG.
3.1. Đánh giá trình độ thể lực chung của nữ sinh trường Đại học Dân Lập Thăng Long.
Ngày nay, đánh giá trình độ thể lực chung được nhiều tác giả trong và ngoài nước xem xét trên 3 mặt: Về mặt hình thái học (các chỉ số bên ngoài cơ thể); các chỉ số về chức năng (trạng thái chức năng của các hệ cơ quan trong cơ thể như hô hấp, tuần hoàn) và các chỉ số biểu thị tố chất thể lực chung bao gồm: sức nhanh, sức mạnh, sức bền, độ dẻo và sự khéo léo (xem bảng 3.2). Trên bảng 3.2 trình bày các số liệu đo được từ nghiên cứu.
Để đánh giá trạng thái chức năng, chúng tôi lựa chọn 2 chỉ số dung tích sống (lít) và chỉ số Harvard, các chỉ số hình thái được chọn là chiều cao (cm), cân nặng (kg); chu vi lồng ngực (cm), chỉ số Pinhê. Các tố chất thể lực chung được đánh giá gồm 6 test (bài thử): sức nhanh (chạy 50m); sức bền C(chạy 500m); sức mạnh (bật xa tại chỗ, nằm sấp chống đẩy); độ dẻo (gập với sâu về trước) và khéo léo (phối hợp động tác).
3.1.1.Đánh giá trạng thái chức năng cơ thể:
a)Về dung tích sống: Trị số dung tích sống thay đổi theo năm học, thay đổi lớn nhất là từ năm thứ nhất đến năm thứ hai. Nếu năm thứ nhất, dung tích sống trung bình của nữ sinh là 2,54 lít - 0,16, thì ở năm thứ hai là 5,65 lít - 0,13. Năm thứ ba, giảm đi là 2,54 lít - 0,14 và ở năm thứ tư dung tích sống trung bình đạt 2,55 lít - 0,19. Khi so sánh thống kê học chỉ thấy khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nhóm nữ sinh viên năm thứ nhất so với năm thứ hai, tính được t = 2,18, P 5%.
b)Chỉ số Harvard (công năng tim):
Cũng giống như ở các chỉ số dung tích sống; chỉ số Harvard tăng chủ yếu từ năm thứ nhất đến năm thứ hai, nghĩa là từ 64,80 - 3,88 (nhóm nữ sinh năm thứ nhất) đến 73,10 - 3,77 (nhóm nữ sinh năm thứ hai). Sau đó, các chỉ số này giảm dần 68,95 - 4,05 (nhóm nữ sinh năm thứ ba); 66,36 - 4,16 (năm thứ tư). Về mặt thống kê, chỉ thấy sự khác biệt có ý nghĩa giữa năm thứ hai so với năm thứ tư, giá trị tính được là t = 2,85; P < 0,05.
Các chỉ số còn lại của các năm không thấy sự khác biệt nhau (P > 0,05 Điều đáng lưu ý là: Chỉ số công năng tim ở mức dưới trung bình của đầu năm thứ nhất (64,80 < 65), cuối năm thứ hai đã đạt xấp xỉ mức trung bình 73,10 so với 74 của bảng phân loại công năng tim. Các chỉ số này ở cuối năm thứ ba và cuối năm thứ tư đều trở về mức thấp của trung bình.
3.1.2. Các chỉ số hình thái.
Trong 4 chỉ số hình thái, chiều cao, cân nặng, chu vi lồng ngực, và chỉ số Pinhê có 3 chỉ số có khác biệt rõ giữa các nhóm sinh viên năm thứ nhất với sinh viên năm thứ hai. Thí dụ, về cân nặng: Nếu ở nhóm nữ sinh năm thứ nhất trọng lượng cơ thể trung bình là 43,96 kg ± 3,84, thì năm thứ hai trọng lượng trung bình là 46,67 kg ± 3,10. Về chu vi lồng ngực ở năm thứ nhất số đo trung bình của nhóm là 74,38 cm ± 2,52, ở năm thứ hai là 78,16 cm ± 3,05. Chỉ số Pinhê tính được ở nhóm nữ sinh năm thứ nhất P = 35,77 ± 3,37, xếp loại yếu thì ở năm thứ hai P = 32,26 ± 2,80, xếp loại sức khoẻ trung bình. Sau đó, ở các năm thứ ba và thứ tư, chỉ số Pinhê của các nhóm nữ sinh lại tăng đến 33,80 ± 3,44 (năm thứ ba) và 34,92 ± 3,27 (năm thứ tư). Trong 4 chỉ số kể trên sự khác biệt thống kê chỉ thấy ở 3 chỉ số hình thái là cân nặng, chu vi lồng ngực và chỉ số Pinhê. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê chỉ thấy giữa năm thứ hai với năm thứ nhất, tương ứng là: về cân nặng giá trị tính được là t = 2,75, P < 5%; về chu vi lồng ngực giá trị t = 3,40, P < 1% và chỉ số Pinhê giá trị t = 2,76, P < 0,05.
Như vậy: Chỉ số hình thái cũng giống như chỉ số công năng sự khác biệt chủ yếu diễn ra giữa năm thứ hai so với năm thứ nhất.
3.1.3.Các tố chất về thể lực chung:
Kết quả nghiên cứu cho thấy, trên bảng 2 trong 6 bài thử, có 4 bài thử có khác biệt rõ giữa năm thứ hai so với năm thứ nhất là các bài thử bật xa tại chỗ, nằm sấp chống đẩy (đánh giá sức mạnh); bài thử tập với sâu (đánh giá độ dẻo) và bài thử phối hợp động tác (đánh giá sự khéo léo). Các bài thử chạy 50m đánh giá sức nhanh và chạy 500m đánh giá sức bền có khác biệt về hình thức, song về thống kê học không thấy khác biệt có ý nghĩa thống kê.
- Ở chỉ số bật xa tại chỗ: nếu năm thứ nhất thành tích trung bình của nữ sinh đạt được là 155,60 cm ± 5,8, thì ở năm thứ hai thành tích trung bình là 166,17 cm ± 4,48, có giá trị t = 3,57, P < 0,01 (1%).
- Ở bài thử nằm sấp chống đẩy: Nếu thành tích trung bình ở năm thứ nhất là 8,90 lần ± 2,16 thì ở năm thứ hai đạt được 12,35 lần ± 3,05 có giá trị t = 3,84; P < 0,01 (1%).
- Ở bài thử gập với sâu: Thành tích trung bình năm thứ nhất là 14,65 cm ± 5,06 thì ở năm thứ hai thành tích trung bình của nhóm là 2,26 cm ± 4,45, có giá trị t = 3,90, P < 0,01 (1%).
- Ở bài thử phối hợp động tác: Thành tích trung bình ở năm thứ nhất đạt được là 6,67 điểm ± 1,80, ở năm thứ hai là 7,85 điểm ± 0,67, có giá trị t = 2,25 P < 0,05 (5%).
Như vậy đối với các tố chất thể lực chung, trong số 5 tố chất, chỉ có sức mạnh, độ dẻo, sự khéo léo có khác biệt giữa năm thứ nhất và năm thứ hai; hai tố chất là sức nhanh, sức bền chỉ khác biệt về mặt hình thức, chưa thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê; ở các năm sau các chỉ số thu được cả 5 tố chất đều có xu hướng giảm dần so với năm thứ hai, song không thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê.
Nhận xét sơ bộ: Từ kết quả nghiên cứu đánh giá trình độ thể lực chung của nữ sinh có thể nhận thấy:
- Sự khác biệt đều xảy ra ở các mặt trạng thái chức năng, chỉ số hình thái và tố chất thể lực chung.
- Song sự khác biệt diễn ra rõ hơn giữa năm thứ hai so với năm thứ nhất. Đa số các chỉ số tính được của năm thứ hai đều hơn hẳn năm thứ nhất và có ý nghĩa thống kê từ mức 5% - 1%.
- Các năm học tiếp theo (năm thứ ba và năm thứ tư) các chỉ số về cơ năng, hình thái cơ năng, các tố chất thể lực chung đều có xu hướng giảm dần trở lại mức ban đầu khi chưa tập luyện TDTT.
- Nguyên nhân của sự giảm thấp các chỉ số hình thái, cơ năng tố chất thể lực chủ yếu do sau học kỳ 5 sinh viên ít tập luyện TDTT thường xuyên.
Bảng 3.1: Kết quả trình độ thể lực chung của nữ sinh viên đại học Dân Lập Thăng Long (n = 216)
Số TT
Các chỉ số
Đối tượng
Chỉ số chức năng
Chỉ số hình thái
Tố chất thể lực chung
DTS
(lít)
Harvard
Chiều
cao
(cm)
Cân
nặng
(kg)
Chu vi vòng
Ngực
(cm)
Pinhê
Chạy
50m
(giây)
Chạy 500m (phút)
Bật xa
tại chỗ (cm)
Nằm sấp chống
đẩy
(lần)
Gập với
sâu
(cm)
Phối hợp động tác
(điểm)
1
Năm thứ 1
N = 58
2.54
±0.16
64.80
±3.88
152.88
±3.18
43.96
±3.84
74.38
±2.52
35.17
±3.37
9.72
±0.58
2.34
±0.741
155.60
±5.80
8.90
±2.16
14.45
±5.06
6.67
±0.80
2
Năm thứ 2
N = 48
2.56
±0.013
73.10
±3.77
153.62
±2.27
46.67
±3.10
78.76
±3.05
32.26
±2.80
9.28
±0.60
2.30
±0.68
166.17
±4.48
12.35
±3.05
20.26
±4.45
7.85
±0.67
3
Năm thứ 3
N = 56
2.58
±0.14
68.95
±4.05
153.50
±2.48
46.30
±2.97
76.60
±3.10
33.80
±3.44
9.326
±0.611
2.326
±0.665
163.20
±5.27
11.28
±2.87
19.65
±5.27
7.30
±0.58
4
Năm thứ 4
N = 54
2.55
±0.19
66.36
±4.16
153.46
±2.67
46.50
±3.20
75.70
±2.85
34.92
±3.27
9.228
±0.554
2.345
±0.599
157.16
±4.90
9.15
±3.14
16.37
±4.80
7.14
±0.54
5
Sự
Khác
Biệt
Thống
Kê
t2 – 1
2.18
2.85
1.05
2.75
3.40
2.76
1.16
0.70
3.57
3.84
3.90
2.25
P
0.05
0.05
>0.05
0.05
0.01
0.05
>0.05
>0.05
0.01
0.01
0.01
0.05
6
t3 – 2
0.38
0.64
0.11
0.10
0.37
0.14
0.08
0.13
0.48
0.70
0.47
0.50
P
>0.05
>0.05
>0.05
>0.05
>0.05
>0.05
>0.05
>0.05
>0.05
>0.05
>0.05
>0.05
7
t4 – 3
0.26
0.30
0.050
0.87
0.90
0.33
0.17
0.18
1.30
1.38
1.42
0.37
P
>0.05
>0.05
>0.05
>0.05
>0.05
>0.05
>0.05
>0.05
>0.05
>0.05
>0.05
>0.05
3.2. Kết quả phỏng vấn nữ sinh viên Đại học Dân Lập Thăng Long.
Trước khi tiến hành đánh giá trình độ thể chất, chúng tôi tiến hành phỏng vấn nữ sinh viên trường đại học Dân Lập Thăng Long. Tổng số người được phỏng vấn là 216 người, bao gồm 58 người năm thứ 1; 48 người năm thứ 2; 56 người năm thứ 3 và 54 người năm thứ 4. Các nữ sinh viên nói trên được trực tiếp kiểm tra phát triển thể chất, kết quả thể hiện ở bảng 3.1.
Câu hỏi thứ nhất: Sinh viên tự đánh giá tình hình sức khỏe của bản thân. Có 5 mức đánh giá: rất tốt, tốt, trung bình, kém và rất kém. Kết qủa như sau: Rất tốt có 16 người, chiếm tỷ lệ 7,40%. Tốt có 34 người trả lời, chiếm tỷ lệ 15,74%. Trung bình có 85 người trả lời, chiếm tỷ lệ 40,7%. Kém có 70 người trả lời, chiếm tỷ lệ 32,40%. Rất kém có 8 người trả lời, chiếm tỷ lệ 3,7%. Như vậy, số tự đánh giá sức khỏe tốt trở lên có 23,16%. Mức trung bình trở xuống có 78,64%. Trong đó, mức kém và rất kém chiếm 36,10%.
Câu hỏi thứ hai: Về nguyên nhân của tình hình sức khỏe ở mức trung bình, yếu kém, chúng tôi chỉ tiến hành phỏng vấn câu hỏi này ở 166 người thuộc diện trên. Các nguyên nhân được liệt kê gồm: Do giờ nội khóa ít (chỉ có 1 lần trong tuần), do không có thời gian tập ngoại khóa, do không có người hướng dẫn, do cơ sở vật chất dụng cụ tập luyện thiếu, do thiếu thông tin và tài liệu tham khảo, do không quy định về tiêu chuẩn kiểm tra thể lực, do bệnh tật, do bản thân lười biếng. Kết qủa thu được như sau: Có 140/166 người cho rằng giờ nội khóa 1 tiết/tuần là rất ít, chiếm tỷ lệ 84,33%; nguyên nhân không có thời gian nhàn rỗi để tập ngoại khóa, có 135 người trả lời, chiếm tỷ lệ 81,32%; nguyên nhân do cơ sở vật chất, dụng cụ tập luyện thiếu có 147 người trả lời, chiếm tỷ lệ 88,05%; nguyên nhân thiếu người hướng dẫn tập luyện có 133 người trả lời, chiếm tỷ lệ 80,12%; nguyên nhân thiếu thông tin và tài liệu tham khảo có 150 người chiếm tỷ lệ 90,36%; nguyên nhân bộ môn GDTC không quy định kiểm tra thể lực trong năm học là 146 người chiếm tỷ lệ 87,95. Như vậy, 6 nguyên nhân nói trên được sinh viên trả lời khá tập trung có tỷ lệ phần trăm cao đều từ 80,12 đến 90,36%. Riêng hai nguyên nhân do bản thân lười tập luyện và do bệnh tật chiếm tỷ lệ rất thấp tương ứng là 9,63% và 3,61%. Do đó, có thể khẳng định là sinh viên đa số có nhận thức đúng đắn với việc phát triển thể lực, rất ít sinh viên lười biếng. Điều này, sẽ được thể hiện ở câu hỏi thứ 3.
Câu hỏi thứ 3: Nhận thức của sinh viên về việc nâng cao sức khỏe và phát triển thể lực. Có bốn mức độ được đặt ra: rất quan trọng, quan trọng, bình thường và không quan trọng. Ý kiến thu được như sau: có 80 sinh viên trả lời là rất quan trọng, chiếm tỷ lệ 37,03%; mức quan trọng có 116 sinh viên, chiếm tỷ lệ 53,70%; mức bình thường có 14 sinh viên, chiếm tỷ lệ 6,48% và mức không quan trọng có 6 sinh viên, chiếm tỷ lệ 2,77%. Như vậy, tỷ lệ 90,73% số người được hỏi có mức quan trọng trở lên. Các nhận thức khác, chiếm tỷ lệ thấp là 9,25%.
Câu hỏi thứ 4: Về nguỵên vọng của sinh viên với công tác GDTC trong nhà trường. Chúng tôi chuẩn bị 8 phương án gồm: nghiên cứu tăng chất lượng giờ nội khóa; tăng cường giờ học ngoại khóa (nhất là ngoại khóa bắt buộc); đảm bảo sân bãi dụng cụ tập luyện đầy đủ; thường xuyên cung cấp thông tin, tài liệu tham khảo; quy định bắt buộc kiểm tra thể lực hàng năm; có người hướng dẫn tập luyện; xây dựng CLB thể thao môn tự chọn và tổ chức các giảit thi đấu thể thao thường xuyên. Kết quả thu được từ phỏng vấn sinh viên có 198/216 sinh viên trả lời cần tăng các giờ ngoại khóa bắt buộc, chiếm tỷ lệ 91,66%. Nguyện vọng xây dựng CLB thể thao môn tập tự chọn cóa 196 người, chiếm 90,74%. Có 184 người đề nghị nên thường xuyên tổ chức các giải thi đấu thể thao chiếm tỷ lệ 85,18%. Có 160 người mong muốn nâng cao chất lượng các giờ tập luyện các giờ thể dục nội khóa, tỷ lệ 74,07%. Có 153 người đề nghị được cung cấp thông tin, tài liệu tham khảo về bài tập và phương pháp tập chiếm 70,83%. Các nguyện vọng đảm bảo về sân bãi dụng cụ tập luyện, có quy định bắt buộc kiểm tra thể lực hàng năm, có người hướng dẫn tập luyện, có tỷ lệ phần trăm tương đối cao (từ 60,18% đến 68,05%).
Câu hỏi thứ 5 : Về việc lựa chọn môn thể thao tự chọn do phần đông sinh viên là nữ cho nên các nữ sinh đều mong muốn được tập luyện các môn thể thao phù hợp với giới tính và trình độ sức khỏe. Vì vậy, các ý kiến trả lời đã phản ánh đúng nguyện vọng của nữ sinh với việc tập luyện môn thể thao tự chọn sau khi kết thúc chương trình TDTT nội khóa ở học kỳ 5 (năm thứ 3).
Môn thể thao được lựa chọn đông nhất là môn Thể dục tổng hợp cổ truyền, có 195/216 người tán thành, chiếm tỷ lệ 90,27% ; Môn có nguyện vọng thứ hai là môn cầu lông, có 150 nữ sinh đồng ý, chiếm tỷ lệ 62,96%; Môn bóng bàn chiếm vị trí thứ ba, có 136 người nhất trí, chiếm tỷ lệ 62,96% ; Hai môn còn lại cũng được nữ sinh ưa thích có tỷ lệ số ý kiến tán thành trên 50% là các môn võ có 123 em có nguyện vọng, chiếm 56,94% và môn bơi lội có 114 sinh viên lựa chọn, chiếm 52,77%. Các môn còn lại là các môn bóng như bóng đá, bóng rổ, bóng chuyền có tỷ lệ lựa chọn thấp (từ 16 - 38%).
Câu hỏi thứ 6: Ý kiến về số buổi tập môn thể thao tự chọn trong tuần. Trong các phương án trả lời, xếp theo trình tự từ 1 buổi và từ 4 buổi trở lên, ý kiến trả lời như sau: Tập 3 buổi/tuần được nhiều người lựa chọn hơn cả có 148/216, chiếm tỷ lệ 58,61%. Số buổi tập là 2, có 46 người đồng ý, chiếm tỷ lệ 21,99%, số buổi tập 1 và 4 buổi trở lên, có tỷ lệ phần trăm trả lời thấp, tương ứng là 8,33 và 1,85%.
Bảng 3.2 Kết qủa phỏng vấn nữ sinh viên trường Đại học Dân Lập Thăng Long (n = 216)
TT
Nội dung câu hỏi
Kết quả
Chú giải
SL
%
1
Tự đánh giá sức khỏe
-Rất tốt
-Tốt
-Trung bình
-Kém
-Rất kém
16
34
88
70
8
7,40
15,74
40,74
32,40
3,70
2
Nguyên nhân dẫn đến sức khỏe trung bình, yếu kém
-Do giờ nội khóa ít thời gian
-Do không có thời gian ngoại khóa
-Do cơ sở vật chất, dụng cụ tập thiếu
-Do thiếu người hướng dẫn
-Do thiếu thông tin và tài liệu
-Do lười tập luyện
-Do không quy định kiểm tra thi lại
-Do bệnh tật
140
135
147
133
150
16
146
6
84,33
81,32
68,05
80,12
90,36
9,63
87,95
3,61
Phỏng vấn 166 người thuộc diện sức khỏe này
3
Nhận thức về sức khỏe
-Rất quan trọng
-quan trọng
-Bình thường
-Không quan trọng
80
116
14
66
37,03
53,70
6,48
2,77
4
Nguyện vọng với công tác GDTC
-Nâng cao chất lượng giờ nội khóa
-Tăng giờ ngoại khóa bắt buộc
-Đảm bảo sân bãi, dụng cụ tập luyện đủ
-Cung cấp thông tin, tài liệu tham khảo
- Quy định kiểm tra thể lực bắt buộc
-Có người hướng dẫn tập
-Xây dựng CLB TDTT, môn tự chọn
-Tổ chức giải thi đấu thể thao
160
198
147
153
141
130
196
184
74.07
91,66
68,05
70,83
65,27
60,18
90,74
5,18
5
Lựa chọn môn thể thao tự chọn
- Thể dục tổng hợp cổ truyền
- Bóng đá
- Bóng rổ
- Bóng chuyền
-Điền kinh
-Bơi lội
-Các môn võ
-Cầu lông
-Bóng bàn
-Bóng ném
195
41
36
84
78
114
123
150
136
16
90,27
18,98
16,66
38,88
36,11
52,77
56,94
69,44
62,96
7,40
6
Số buổi tập/1tuần
-1 buổi
-2 buổi
-3 buổi
-4 buổi trở lên
18
46
148
4
8,33
21,99
68,51
1,85
Nhận xét: Từ kết quả phỏng vấn nữ sinh viên về các vấn đề có liên quan đến trạng thái thể lực và nguyện vọng phát triển thể lực của nữ sinh, thấy tình hình sức khỏe thể lực của nữ sinh trường đại học Dân Lập Thăng Long Hà nội đa số ở mức trung bình và dưới mức trung bình. Nhất là số có tình hình sức khỏe yếu kém tương đối lớn (36,10%). Nguyên nhân của tình hình sức khỏe nói trên có rất nhiều (6/8 nguyên nhân đặt ra trong phiếu phỏng vấn). Tuy nhiên, sinh viên ngày nay đã nhận thức rõ vai trò của việc nâng cao sức khỏe phát triển thể lực. Đa số được mong muốn có giờ tập luyện thêm TDTT; được xây dựng thêm các CLB TDTT tự chọn; được tổ chức thường xuyên các giải thi đấu; được nâng cao chất lượng các giờ thể dục nội khóa, cung cấp thông tin và tài liệu tham khảo. Các môn tự chọn ở hai năm học cuối cùng được đa số nữ sinh lựa chọn là môn Thể dục tổng hợp cổ truyền, (90,27%) và một số môn tập hợp với sức khỏe và giới tính, đó là cầu lông, bóng bàn. Đa số nữ sinh mong muốn có 3 buổi tập/tuần (68,51%) ý kiến. Điều này, hoàn toàn phù hợp với số buổi tập luyện trong một tuần để nâng cao sức khỏe.
3.3. Phân tích mối quan hệ giữa trình độ thể lực chung và kết quả học tập môn GDTC nội khóa của nữ sinh viên trường đại học Dân Lập Thăng Long
Để phân tích mối quan hệ giữa trình độ thể lực chung và kết quả học tập môn GDTC trong chương trình nội khóa, chúng tôi tính hệ số tương quan giữa các chỉ số chức năng, hình thái, các tố chất thể lực cơ bản (đã nghiên cứu ở chương 3) với kết quả học tập môn học GDTC mà nữ sinh viên đạt được trong quá trình học tập, ở năm thứ nhất và năm thứ hai, kết quả học tập là điểm thi môn GDTC cuối năm, vào thời điểm đánh giá trình độ thể lực chung. Riêng năm thứ ba vì cuối học kỳ 5, sinh viên kết thúc môn GDTC, nên tôi lấy điểm học tập môn GDTC vào thời điểm cuối học kỳ này.
3.3.1.Mối tương quan giữa trình độ thể lực chung và kết quả học tập môn GDTC của nữ sinh năm thứ nhất,
Phân tích kết quả nghiên cứu cho thấy:
a)Về trạng thái chức năng: Hai chỉ số dung tích sống và công năng tim có tương quan ở mức trung bình với thành tích học tập môn GDTC nội khóa, tương ứng r = 0,605 và 0,589.
b)Về hình thái cơ thể: Trong số 4 chỉ số là chiều cao, cân nặng, chu vi lồng ngực và chỉ số Pinhê, thấy có 3 mối tương quan đồng biến ở mức trung bình với thành tích học tập môn GDTC nội khóa. Đó là cân nặng, chu vi vòng ngực và chỉ số Pinhê, tương ứng là 0,610; 0,570 và 0,562, trừ chỉ số này ảnh hưởng không nhiều tới kết quả thuận với thành tích học tập, có thể là chỉ số này ảnh hưởng không nhiều tới kết quả học tập môn học GDTC có trong chương trình nội khóa (Xem bảng 3.3).
c)Về các chỉ số tố chất thể lực chung:
Trong số 6 bài thử biểu thị 5 tố chất thể lực cơ bản là sức nhanh, sức mạnh, sức bền, độ dẻo và sự khéo léo, thì 5/6 bài thử có tương quan đồng biến với kết quả học tập môn GDTC. Đó là chạy 50m r = 0,554; chạy 500m r = 0,548; bật xa tại chỗ r = 0,720; nằmg sấp chống đẩy, r = 0,625; phối hợp động tác, r = 0,572. Chỉ có một trường hợp ở bài thử gập dẻo trước, mối tương quan thu được ở mức dưới trung bình r = 0,401.
Như vậy: Qua phân tích 12 hệ số tương quan giữa trạng thái chức năng, hình thái cơ thể và tố chất thể lực chung với kết quả thi môn GDTC ở cuối năm thứ nhất thì 10/12 chỉ số thu được mối tương quan đồng biến với kết quả học tập mon GDTC nội khóa, trong đó bật xa tại chỗ có mối tương quan cao r = 0,72.
Nhận xét: Từ kết quả phân tích tương quan có thể nhận thấy giữa các chỉ số biểu thị trình độ thể lực chung với kết quả học tập môn GDTC ở năm thứ nhất đa số các trường hợp tính được biểu thị mối tương quan thuận r đạt từ 0,50 trở lên.
Bảng 3 .3: Mối tương quan giữa trình độ thể lực chung và kết quả học tập môn GDTC của nữ sinh năm thứ nhất (n = 216)
TT
Các chỉ số
Mối tương quan với kết quả học tập
Ghi chú
1
Chức năng:
-Dung tích sống
-Công năng tim (HW)
0,605
0,589
Điểm thi GDTC cuối học kỳ 2, năm thứ nhất
2
Hình thái:
-Chiều cao
-Cân nặng
-Chu vi vong ngực
-Chỉ số Pinhê
0.336
0.610
0.570
0.562
Điểm thi GDTC cuối học kỳ 2, năm thứ nhất
3
Tố chất thể lực:
-Chạy 50m
-Chạy 500m
-Bật xa tại chỗ
-Nằm sấp chống đẩy
-Gập dẻo trước
-Phối hợp động tác
0.554
0.548
0.720
0.625
0.401
0.572
Điểm thi GDTC cuối học kỳ 2, năm thứ nhất
4
Mối tương quan thuận
Mối tương quan cao
10/12
1
TRẠNG THÁI CHỨC NĂNG MTQ HÌNH THÁI CƠ THỂ MTQ TỐ CHẤT THỂ LỰC
BIỂU ĐỒ1: MỐI TƯƠNG QUAN TRÌNH ĐỘ THỂ LỰC CHUNG VỚI KẾT QUẢ HỌC TẬP MÔN GDTC NĂM THỨ 1
3.3.2 Mối tương quan giữa trình độ thể lực chung và kết quả học tập môn GDTC của nữ sinh viên năm thứ hai.
Kết quả được trình bày trên bảng 3.4 và sơ đồ kèm theo. Phân tích kết quả nghiên cứu cho thấy:
a)Trạng thái chức năng:
Khác với năm thứ nhất, ở năm thứ hai chỉ số dung tích sống và công năng tim có mối tương quan cao với kết quả học tập môn GDTC: chỉ số dung tích sống r = 0.750, chỉ số công năng tim r = 0.767.
b)Về hình thái cơ thể:
Trong số 4 chỉ số hình thái có tương quan đồng biến mức cao với kết quả học tập môn GDTC, đó là chỉ số cân nặng r = 0.718; chu vi vòng ngực r = 0.695 và chỉ số Pinhê r = 0.645. Trừ chỉ số chiều cao, cũng giống như ở năm thứ nhất, hệ số tương quan tính được r = 0.470 thấp hơn mức tương quan trung bình. Tuy nhiên, chỉ số này cũng cao hơn chỉ số cùng loại của nữ sinh năm thứ nhất.
c)Về tố chất thể lực chung: Trong số 6 bài thử của 5 tố chất, thì 5/6 có tương quan đồng biến đến tương quan cao với kết quả học tập môn GDTC. Bài thử chạy 50m r = 0.710; chạy 500m r = 0.640, bật xa tại chỗ r = 0.783; nằm sấp chống đẩy r = 0,672; phối hợp động tác r = 0,669.
Như vậy: Trong tổng số 12 chỉ số được phân tích thì tương tự với kết quả thu được của nữ sinh năm thứ nhất, ở nhóm nữ sinh năm thứ hai có 10/12 có tương quan đồng biến đến mức cao, trừ các chỉ số chiều cao (của hình thái) và độ gập dẻo trước (của tố chất mềm dẻo) có hệ số tương quan thấp hơn mức trung bình. Khác với nữ sinh năm thứ nhất, số mối tương quan cao giữa trình độ thể lực chung và kết quả học tập môn GDTC nội khóa đã tăng: có 5 mối tương quan cao là dung tích sống, công năng tim, cân nặng, chạy 50m và bật xa tại chỗ.
Nhận xét: Kết quả nghiên cứu mối tương quan của nữ sinh viên năm thứ hai, cho thấy mối quan hệ giữa trình độ thể lực với thành tích học tập ngày càng có mối tương quan chặt chẽ hơn, biểu thị bằng số mối tương quan cao hơn năm thứ nhất. Các chỉ số tương quan tính được mặc dù ở mức trung bình song đều lớn hơn các chỉ số tương ứng đạt được ở năm thứ nhất.
Bảng 3.4 Mối tương quan giữa trình độ thể lực chung và kết quả học tập môn GDTC của nữ sinh năm thứ 2 (n = 216)
TT
Các chỉ số
Mối tương quan với kết quả học tập
Ghi chú
1
Chức năng:
-Dung tích sống
-Công năng tim (HW)
0,605
0,767
điểm thi GDTC cuối học kỳ 2, năm thứ nhất
2
Hình thái:
-Chiều cao
-Cân nặng
-Chu vi vong ngực
-Chỉ số Pinhê
0.470
0.718
0.695
0.645
Như trên
3
Tố chất thể lực:
-Chạy 50m
-Chạy 500m
-Bật xa tại chỗ
-Nằm sấp chống đẩy
-Gập dẻo trước
-Phối hợp động tác
0.710
0.640
0.753
0.672
0.491
0.669
Như trên
4
Mối tương quan thuận
Mối tương quan cao
10/12
5
TRẠNG THÁI CHỨC NĂNG MTQ HÌNH THÁI CƠ THỂ MTQ TỐ CHẤT THỂ LỰC
BIỂU ĐỒ2: MỐI TƯƠNG QUAN TRÌNH ĐỘ THỂ LỰC CHUNG VỚI KẾT QUẢ HỌC TẬP MÔN GDTC NĂM THỨ 2
VÙNG TƯƠNG QUAN CAO
VÙNG TƯƠNG QUAN THẤP
3.3.3. Mối tương quan giữa trình độ thể lực chung và kết quả học tập môn GDTC của nữ sinh năm thứ ba (học kỳ 5).
Kết quả nghiên cứu được trình bày trên bảng 3.5 và sơ đồ kèm theo. Phân tích kết quả nghiên cứu cho thấy:
a)Về trạng thái chức năng: Hai chỉ số dung tích sống và công năng tim có tương quan cao với kết quả học tập thể dục, tương ứng r = 0.720 và 0.813.
b)Về hình thái cơ thể: Trong 4 chỉ số hình thái được tính, thì 4/4 (200%) có tương quan đồng biến với kết quả học tập: chiều cao, r = 5; công năng tim, r = 0.800; chu vi vòng ngực, r = 0.710 và chỉ số Pinhê, r = 0.755. Điều đó, chủ yếu là chỉ số chiều cao nếu như ở hai năm học trước có mối tương quan thấp hơn mức trung bình với thành tích học tập, thì ở học kỳ 5 của năm thứ ba, đã có tương quan thuận. Ba chỉ số còn lại là công năng tim, chu vi lồng ngực, và chỉ số Pinhê đều đạt được mối tương quan cao từ 0.710 - 0.800.
c) Các tố chất thể lực chung: Trong 6 bài thử được nghiên cứu thì 6/6 chỉ số đều có tương quan đồng biến với kết quả học tập thể lực. Nếu hai năm học trước, chỉ số gập dẻo trước có mối tương quan thấp hơn mức trung bình, thì ở năm thứ ba, r = 0.520 ở mức tương quan trung bình. Trong 5 chỉ số còn lại, ngoại trừ chạy 500m có tương quan trung bình r = 0.695; 4 trường hợp khác đều có tương quan cao từ 0.714 đến 0.860.
Nhận xét: Khác biệt với nữ sinh viên năm thứ nhất, năm thứ hai và ở học kì 5 năm học thứ ba (học kỳ cuối có chương trình thể dục tổng hợp cổ truyền), các tố chất thể lực chung có tương quan rất chặt với thành tích học tập. Cả 12/12 (100%) có mối tương quan thuận đến mối tương quan cao với kết quả học tập các môn thể dục thể thao của chương trình. Đặc biệt quan trọng có 9/12 mối tương quan đạt mức cao.
Nhận xét chương: Từ kết quả nghiên cứu của chương 3, rút ra những nhận xét chính sau:
Về cơ bản, kết quả phỏng vấn và kết quả đánh giá trình độ thể lực chung của nữ sinh viên phù hợp với nhau, có nghĩa là: cảm giác chủ quan về trình độ thể lực ở mức trung bình, yếu kém, thì khi xác định trình độ thể lực qua các bài thử đánh giá trạng thái chức năng, hình thái cơ thể và các tố chất thể lực chung, đều thấy ở các năm thứ nhất (chưa được tập luyện TDTT thường xuyên) và các năm thứ ba - thứ tư (sau khi học xong chương trình TDTT nội khóa), trình độ thể lực của nữ sinh đều ở mức trung bình và thấp chỉ số Harvard, chỉ số Pinhê ở các năm thứ nhất, thứ ba, thứ tư của nữ sinh đều đạt ở mức yếu kém. Chỉ có ở năm thứ hai, các chỉ số chức năng, hình thái, tố chất thể lực chung có khác biệt rõ so với năm thứ nhất và cả năm thứ ba và thứ tư.
Nguyên nhân của trình độ thể lực thấp của nữ sinh, là do ít tập luyện thể dục thể thao thường xuyên; ở năm thứ nhất, thời gian dành cho tập luyện chưa nhiều. Năm thứ ba và năm thứ tư thời gian tập luyện thể dục thể thao nội khóa đã kết thúc, tập luyện thể dục thể thao ngoại khóa nhà trường chưa quy định bắt buộc nên không được tổ chức tiến hành thường xuyên.
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu giải quyết nhiệm vụ 2 của đề tài, có thể nhận thấy mối quan hệ giữa trình độ thể lực chung và thành tích học tập môn GDTC tăng dần từ năm thứ nhất, đến học kỳ 5 của năm thứ ba. Số mối tương quan cao ngày càng tăng: Từ 1 mối tương quan của năm thứ nhất và năm thứ hai, đến 9 mối tương quan của năm thứ ba. Nếu ở năm thứ nhất và năm thứ hai có 2 chỉ số có tương quan dưới trung bình với kết quả học tập môn GDTC thì đến năm thứ ba cả 2 chỉ số này đều đạt được mức tương quan trung bình với kết quả học tập GDTC nội khóa.
Bảng 3.5 Mối tương quan giữa trình độ thể lực chung và kết quả học tập môn GDTC của nữ sinh học kỳ 5 - năm thứ 3 (n = 216)
TT
Các chỉ số
Mối tương quan với kết quả học tập
Ghi chú
1
Chức năng:
-Dung tích sống
-Công năng tim (HW)
0,720
0,812
điểm thi GDTC cuối học kỳ 2, năm thứ nhất
2
Hình thái:
-Chiều cao
-Cân nặng
-Chu vi vong ngực
-Chỉ số Pinhê
0.504
0.800
0.710
0.755
Như trên
3
Tố chất thể lực:
-Chạy 50m
-Chạy 500m
-Bật xa tại chỗ
-Nằm sấp chống đẩy
-Gập dẻo trước
-Phối hợp động tác
0.730
0.695
0.818
0.860
0.520
0.714
Như trên
4
Mối tương quan thuận
Mối tương quan cao
12/12
9
TRẠNG THÁI CHỨC NĂNG MTQ HÌNH THÁI CƠ THỂ MTQ TỐ CHẤT THỂ LỰC
BIỂU ĐỒ 3: MỐI TƯƠNG QUAN TRÌNH ĐỘ THỂ LỰC CHUNG VỚI KẾT QUẢ HỌC TẬP MÔN GDTC NĂM THỨ 3
VÙNG TƯƠNG QUAN CAO
CHƯƠNG IV:
NGHIÊN CỨU HIỆU QUẢ CHƯƠNG TRÌNH THỂ DỤC TỔNG HỢP CỔ TRUYỀN HAI GIAI ĐOẠN ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN THỂ CHẤT CỦA NỮ SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC DÂN LẬP THĂNG LONG (THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM)
Mục đích của thực nghiệm sư phạm là: Chứng minh hiệu quả của tập luyện thể dục tổng hợp cổ truyền (TDTHCT) được tổ chức theo hai giai đoạn, nhằm nâng cao trình độ thể lực cho nữ sinh viên trường đại học Dân Lập Thăng Long.
4.1.Một số ý kiến trước thực nghiệm sư phạm
Thực nghiệm sư phạm được tổ chức vào học kỳ 6 của năm thứ 3, khi sinh viên đã kết thúc chương trình giảng dạy thể dục nội khóa. Như nhiều công trình nghiên cứu của các tác giả; Bùi Hoàng Phúc (1998); Phạm Thu Thái, Phạm Thị Nghi (2000), Lê Thanh Thủy (1997) đã cho thấy sau khi kết thúc chương trình thể dục nội khóa, trình độ thể lực chung của sinh viên nói chung, của sinh viên nữ nói riêng thường bắt đầu suy giảm. Ở hầu hết các trường đại học và cao đẳng, cho đến nay, việc tổ chức tập luyện thể dục ngoại khóa các môn thể thao tự chọn vẫn chưa được quy định một cách đúng mức. Có trường, nhờ sự quan tâm của Đảng ủy, Ban giám hiệu, Hội sinh viên đại học và bộ môn GDTC việc tập luyện thể dục ngoại khóa được tiến hành có tổ chức. Tuy nhiên, ở nhiều trường việc tổ chức tập luyện ngoại khóa môn thể thao tự chọn thực hiện thiếu nghiêm túc. Hầu hết sinh viên tự tập luyện môn thể thao mình ưa thích, đều không có sự hướng dẫn của giáo viên, điều kiện tập luyện còn nhiều khó khăn. Vì vậy, vấn đề đặt ra là: làm thế nào để có thể tận dụng được điều kiện hiện có của các nhà trường vào việc tổ chức hướng dẫn cho sinh viên tập luyện môn thể thao tự chọn. Trường đại học Dân Lập Thăng Long, phần đông là nữ sinh viên. Như kết quả phỏng vấn được trình bày ở nhiệm vụ thứ nhất (chương 3), số lượng trên 90% nữ sinh viên có nguyện vọng tập luyện không đòi hỏi điều kiện phức tạp, dễ điều chỉnh lượng vận động, dễ tập với mọi đối tượng. Chính vì lý do trên, tôi nghiên cứu đề tài này và mong muốn bằng thực nghiệm sư phạm của mình, được tổ chức theo hai giai đoạn, mỗi giai đoạn gồm 6 tuần (bằng 1,5 tháng) mỗi tuần tập 3 buổi vào sau giờ học tập, có thể duy trì và nâng cao trình độ thể lực của nữ sinh viên lên một trình độ cao hơn, so với khi sinh viên còn tập GDTC nội khóa.
4.2.Tổ chức và tiến hành thực nghiệm sư phạm
Thực nghiệm sư phạm được tiến hành theo hình thức so sánh trình tự trên một nhóm nữ sinh viên gồm 36 người thuộc năm thứ ba. Nhóm thực nghiệm này được tổ chức từ nhiều khoa khác nhau, song có chung ham thích là yêu mến môn TDTHCT đang tham gia sinh hoạt tại câu lạc bộ thể dục thể thao. Chương trình thực nghiệm gồm hai loại bài tập. ở giai đoạn 1, nhóm nữ sinh được học các động tác cơ bản của TDTHCT, sau khi đã hoàn thành được những kỹ năng động tác đơn giản, thực hiện bài ghép dành cho những người mới tham gia học TDTHCT lần đầu (bài tập được trình bày ở phần phụ lục). Việc tập luyện được thực hiện theo định mức vận động hợp lý với sức khỏe người tập căn cứ vào đo tần số mạch đập. Cách tính tần số mạch hợp lý như sau: lấy 220 lần/phút là mạch giới hạn tối đa, trừ đi tuổi người tập. Mạch thích hợp trong tập luyện của người mới tập lần đầu ở giai đoạn 2, lượng vận động căn cứ vào tần số mạch đập song mạch đập sau khi thực hiện bài tập tăng lên 70 - 80% mạch đập tối đa.
Trước thực nghiệm sư phạm, tôi đã tiến hành kiểm tra trình độ thể lực chung của nữ sinh viên tham gia thực nghiệm sư phạm. Trên bảng 4.1, trình bày các chỉ số về chức năng, hình thái và tố chất thể lực chung của nữ sinh viên. Số liệu thu được chỉ rõ: trình độ thể lực của nữ sinh viên, tương ứng với số liệu kiểm tra trên một số lượng lớn nữ sinh viên được tiến hành ở cuối năm thứ ba sau khi không còn giờ GDTC nội khoá ở học kỳ 6.
4.2.1.Kết quả thực nghiệm sư phạm sau giai đoạn 1.
Giai đoạn thực nghiệm sư phạm lần thứ nhất gồm 18 buổi tập, tôi đã tiến hành kiểm tra lại trình độ thể lực chung của nữ sinh viên. Phân tích kết quả nghiêm cứu cho thấy:
a)Chỉ số chức năng
Nếu trước thực nghiệm, dung tích sống trung bình của nữ sinh viên là 2,59 lít ± 0,145 thì sau giai đoạn thực nghiệm 1 tương ứng là 2,068 lít ± 0,152. chỉ số Harvard trước thực nghiệm là 68,87 ± 4,10; thì sau thực nghiệm là 75,20 ± 3,84. Khi phân tích về thống kê học thấy một trong hai chỉ số có sự khác biệt tin cậy, là chỉ số Harvard t = 2,56; P < 0.05. Điều đáng chú ý là chỉ số Harvard đã tăng lên đến gần giới hạn của người có trạng thái chức năng tim mạch mức trên trung bình. Chứng tỏ trạng thái chức năng cơ thể, đặc biệt là trạng thái tim mạch của nữ sinh viên đã có những biến đổi tốt cho sức khỏe.
b)Về các chỉ số hình thái:
Trong 4 chỉ số được tính là chiều cao, cân nặng, vòng ngực trung bình và chỉ số Pinhê, đền thấy tăng tiến đáng kể. Trừ sự tăng chiều cao diễn ra ít (từ 153,48 ± 2,50 trước thực nghiệm đến 153,53 ± 2,36 sau thực nghiệm), các chỉ số còn lại đều tăng rất rõ. Trung bình trọng lượng cơ thể của nữ sinh trước thực nghiệm là 45,70kg ± 3,10 thì sau giai đoạn thực nghiệm 1 trọng lượng cơ thể trung bình của nhóm là 47,28kg ± 3,21. Chỉ số chu vi lồng ngực cũng có thay đổi. Trước thực nghiệm, số đo vòng ngực trung bình là 78,12 cm ± 3,16, thì sau thực nghiệm số đo tương ứng là 80,87 cm ± 3,07. Chỉ số Pinhê trước thực nghiệm là 33.86, sau thực nghiệm chỉ số này là 30,20 ± 2,46. Khi phân tích về thống kê học, các chỉ số chức năng, chu vi vòng ngực, Pinhê, sự khác biệt sau thực nghiệm lần thứ nhất so với trước thực nghiệm sư phạm có ý nghĩa thống kê tương ứng là 2,78; 2,40; 2,07; P < 0.05 . Đáng lưu ý là chỉ số Pinhê cả trước và sau thực nghiệm đều ở mức của người sức khỏe trung bình, song đang tiến dần đến giới hạn của người có sức khỏe tốt.
c)Về tố chất thể lực:
Trong số 6 bài thử đánh giá trình độ sức nhanh, sức bền, sức mạnh của chân, sức mạnh của tay, độ dẻo cột sống và phối hợp động tác, chỉ có một chỉ số biểu thị tố chất sức nhanh là chưa thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê, mặc dù có rút ngắn thời gian chạy 50m, từ 9,76 giây ± 0,88 đến 9,50 giây ± 0,48; t = 0,44; P > 0,05. Các chỉ số còn lại, chạy 500m (sức bền); bật xa tại chỗ (sức mạnh chân); nằm sấp chống đẩy (sức mạnh tay); gập với sâu (độ dẻo cột sống) và phối hợp động tác (sự khéo léo), biểu thị sự khác biệt rõ đạt được mức tin cậy thống kê cần thiết. Thí dụ: chỉ số bật xa tại chỗ tăng từ 165,18cm ± 6,60 lên 167,84 cm ± 5,03, t = 2,12; P < 5%. Bài thử gập với sâu tăng từ 18,84 cm =- 6,05 lên 21,44 cm ± 4,37; t = 2,68; P < 5%. Bài thử phối hợp đông tác tăng từ 7,26 điểm ± 0.70 lên 8,28 điểm ± 0,64; t = 2,50; P < 0,05.
Nhận xét chung: Như vậy, sau giai đoạn thực nghiệm sư phạm 1, nhận thấy có sự tăng trình độ thể lực chung thông qua các chỉ số chức năng, chỉ số hình thái, tố chất thể lực chung. Trong số 12 chỉ số được tính, 9/12 có khác biệt rõ đạt độ tin cậy thống kê cần thiết ở mức 5%. Rõ ràng là việc tập luyện TDTHCT thường xuyên có tổ chức chu đáo đã góp phần nâng cao trình độ thể lực chung của nữ sinh viên.
Bảng 4.1: Kết quả trình độ thể lực chung trước và sau thực nghiệm sư phạm giai đoạn 1 của nữ
sinh viên năm thứ 3 trường đại học Dân Lập Thăng Long (n = 36)
Số TT
Các chỉ số
Đối tượng
Chỉ số chức năng
Chỉ số hình thái
Tố chất thể lực chung
DTS
(lít)
Harvard
Chiều
cao
(cm)
Cân
nặng
(kg)
Chu vi
vòng
ngực
(cm)
Pinhê
Chạy
50m
(giây)
Chạy
500 m (phút)
Bật xa
tại chỗ
(cm)
Nằm sấp chống
đẩy
(lần)
Gập với
sâu
(cm)
Phối hợp động tác
(điểm)
1
Trước thực
Nghiệm sư phạm
2.39
± 0,145
68.87
± 4.10
153.48
± 2,50
45.70
±3.10
78.12
±3.16
33.86
±3.54
9.76
±0.58
2.35
±0.657
165.18
±6.60
11.12
±3.14
18.84
±6.05
7.26
±0.70
2
Sau thực nghiệm sư phạm 1
2,68
± 0,152
75,20
± 3,84
153.53
± 2,36
47.28
±3.21
80.87
±3.07
30.20
±2.46
9.50
±0.48
2.28
±0.567
167.84
±5.03
13..26
±3.20
21.44
±4.37
8.28
±0.64
3
Sự khác biệt tin cậy
t
1.64
2,36
0,41
2.18
2.40
2.07
1.44
2.01
2.12
2.20
2.68
2.50
P
>0.05
0,05
>0.05
0.05
0.05
0.05
>0.05
0.05
0.05
0.05
0.05
0.05
4.2.2.Kết qủa thực nghiệm giai đoạn 2.
Trên bảng 4.2, trình bày kết quả thực nghiệm giai đoạn 2 chương trình TDTHCT nâng cao. Sau khi kết thúc giai đoạn 1, tôi tiếp tục dạy cho học sinh chương trình TDTHCT nâng cao trong 6 tuần tiếp theo của giai đoạn thực nghiệm 2. Mục đích của giai đoạn thực nghiệm này là tiếp tục khẳng định lợi ích to lớn của TDTT đối với việc cải thiện trình độ thể lực chung cho nữ sinh viên. Bài tập trong giai đoạn này khó hơn về sự phối hợp, về nhịp điệu, về biên độ thực hiện và tốc độ động tác. Sau một tháng rưỡi thực nghiệm, chúng tôi một lần nữa kiểm tra trình độ thể lực thông qua 12 chỉ số biểu thị trình độ thể lực đã trình bày ở bảng 4.1. Điều đáng quan tâm là sự thay đổi rõ các chỉ số thể lực sau giai đoạn 2 so với thực nghiệm sư phạm. Trong số 12 chỉ số nêu trên, trừ chiều cao cơ thể và bài thử chạy 50m không thấy khác biệt có độ tin cậy thống kê, 10 chỉ số còn lại đều có khác biệt rõ rệt.
- Các chỉ số hình thái về cân nặng, giá trị t tìm được t = 2,65, P < 5%. Có hai chỉ số chu vi vòng ngực và Pinhê, giá trị t tìm được t = 3,05 và t = 3,10, P < 0,01 (1%).
Đáng chú ý là sau giai đoạn thực nghiệm 2 chỉ số Pinhê đã từ 30,20 (sau thực nghiệm 1), giảm xuống còn 27,10 (sau giai đoạn thực nghiệm 2) và đạt được mức của người có sức khỏe tốt.
- Các chỉ số tố chất thể lực, trừ bài thử chạy 500m đánh giá sức bền, giá trị t tính được t = 2,67; P < 0,05 (5%). Các bài thử còn lại như bật xa tại chỗ, nằm sấp chống đẩy, gập với sâu, phối hợp động tác, thì các giá trị tính được đều đạt khá cao tương ứng là 3,20; 3,65; 3,45 giá trị P đều nhỏ hơn 0,01 (1%).
Khi so sánh kết quả sau giai đoạn thực nghiệm 2 với kết quả sau giai đoạn thực nghiệm 1, thấy có biến đổi rõ về trình độ thể lực. Trong 12 chỉ số kiểm tra về chức năng, hình thái, về các tố chất thể lực chung, thì 10/12 chỉ số có khác biệt đạt được độ tin cậy thống kê ở mức 5%. Đó là chỉ số dung tích sống t = 2,01; chỉ số công năng tim, t = 2,04; cân nặng, t = 2,05; chu vi lồng ngực, t = 2,17; chỉ số Pinhê, t = 2,60; bài thử chạy 50m, t = 2,08; bật xa tại chỗ, t = 2,11; nằm sấp chống đẩy, t = 2,20; gập với sâu, t = 2,86; bài thử phối hợp động tác, t = 2,02.
Nhận xét chương 5: Từ kết quả thực nghiệm sư phạm được tổ chức theo hai giai đoạn: giai đoạn học cơ bản và giai đoạn học nâng cao có thể nhận xét như sau:
- Sau giai đoạn học cơ bản, trình độ thể lực chung của nữ sinh viên đã được nâng lên mức đáng kể: 9/12 chỉ số đã biến đổi rõ đạt độ tin cậy thống kê cần thiết.
- Sau giai đoạn thực nghiệm 2, học chương trình thể dục tổng hợp cổ truyền nâng cao, trình độ thể lực chung của nữ sinh viên không những được duy trì, mà tiếp tục được phát triển lên mức cao hơn. Điều này, biểu thị ở các chỉ số có khác biệt thống kê tin cậy tăng từ 9 lên 10 trong tổng số 12 chỉ số. Mặt khác biệt ở đa số các chỉ số có độ tin cậy thống kê cao hơn so với giai đoạn 1, có nhiều chỉ số tin cậy thống kê tăng đến mức 1% so với trước thực nghiệm sư phạm. Kết quả thực nghiệm trên chứng tỏ nếu được tập luyện thể dục tổng hợp cổ truyền thường xuyên, có tổ chức hợp lý đem lại hiệu quả trình độ thể lực chung rất tốt đối với nữ sinh viên trường đại học Dân Lập Thăng Long nói riêng và ngay cả đối với nữ sinh viên ở các trường đại học và cao đẳng khác.
Bảng 4.2: Trình độ thể lực chung sau thực nghiêm sư phạm 2 giai đoạn của nữ sinh viên năm thứ 3 trường đại học Dân Lập Thăng Long (n = 36)
Số TT
Các chỉ số
Đối tượng
Chỉ số chức năng
Chỉ số hình thái
Tố chất thể lực chung
DTS
(lít)
Harvard
Chiều
cao
(cm)
Cân
nặng
(kg)
Chu vi vòng
Ngực
(cm)
Pinhê
Chạy
50m
(giây)
Chạy 500m (phút)
Bật xa
tại chỗ (cm)
Nằm sấp chống
đẩy
(lần)
Gập với
sâu
(cm)
Phối hợp động tác
(điểm)
1
Trước thực
Nghiệm sư phạm
2.59
±0.145
68.78
±4.10
153.48
±2.50
45.70
±3.10
78.12
±3.16
33.86
±3.54
9.76
±0.58
2.35
±0.657
165.18
±6.60
11.12
±3.14
18.84
±6.05
7.26
±0.70
2
Sau thực nghiệm
Sư phạm
Giai đoạn 1
2.68
±0.152
73.20
±3.84
153.52
±2.36
47.28
±3.21
80.87
±3.07
30.20
±2.46
9.50
±0.48
2.28
±0.567
167.84
±5.03
13.26
. ±3.20
21.44
±4.37
8.28
±0.64
3
Sau thực nghiệm
Sư phạm
Giai đoạn 2
2.43
±0.143
75..20
±3.80
153.62
±2.30
48.65
±3.30
81.45
±3.12
27.10
±2.37
9.26
±0.33
2.08
±0.551
169.95
±4.85
14.40
±3.05
25.80
±3.97
8.97
±0.55
4
Sự khác biệt tin
cậy
t2 - 1
2.16
2.94
0.70
2.65
3.05
3.10
1.08
2.67
3.17
3.20
3.65
3.45
P
0.05
0.05
>0.05
0.05
0.01
0.01
>0.05
0.05
0.01
0.01
0.01
0.01
5
t3 – 2
2.01
2.04
0.38
2.05
2.17
2.60
1.05
2.08
2.11
2.20
2.86
2.02
P
>0.05
0.05
>0.05
0.05
0.05
0.05
>0.05
0.05
0.05
0.05
0.05
0.05
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
A.Các kết luận
1.Kết quả phỏng vấn đối tượng nữ sinh viên trường đại học Dân Lập Thăng Long cho thấy: Phần đông nữ sinh viên tự đánh giá tình trạng sức khỏe và tập luyện của bản thân ở mức trung bình và dưới trung bình. Số lượng nữ sinh có tình trạng sức khỏe yếu tương đối nhiều (36,10%).
Nguyên nhân của tình trạng sức khỏe trung bình, dưới mức trung bình, là do giờ học nội khóa môn thể dục quá ít (2 tiết một tuần). Sinh viên không có thời gian nhàn rỗi để tập luyện ngoại khóa. Sau học kỳ 5, giờ học GDTC nội khóa đã kết thúc, thiếu thời gian tập luyện ngoại khóa, là nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng sức khỏe yếu của nữ sinh.
2.Hiện nay, đa số nữ sinh đã nhận thức được tầm quan trọng của việc giữ gìn sức khỏe, phát triển tố chất thể lực, họ mong muốn được bố trí các giờ học ngoại khóa, xây dựng các câu lạc bộ thể dục thể thao môn tự chọn, được cung cấp các thông tin về các bài tập, về phương pháp tập luyện môn tự chọn để phát triển thể chất. Trường đại học Dân Lập Thăng Long phần đông là nữ sinh, nên đa số sinh viên (90,27%) lựa chọn môn thể dục tổng hợp cổ truyền là phương tiện tập luyện chủ yếu trong các giớ học ngoại khóa.
3. Kết quả thực nghiệm đã chứng minh: Việc tập luyện thể dục tổng hợp cổ truyền được tổ chức theo hai giai đoạn: Giai đoạn học cơ bản và giai đoạn học nâng cao với chế độ tập luyện 3 lần/tuần, được kéo dài trong 6 tuần liên tục của mối giai đoạn, đã đem lại hiệu quả nâng cao sức khỏe phát triển thể chất cho nữ sinh viên. Sau giai đoạn thực nghiệm sư phạm 1 (học chương trình thể dục tổng hợp cổ truyền cơ bản), phần lớn các chỉ số chức năng, hình thái, tố chất thể lực có sự thay đổi so với trước thực nghiệm sư phạm, có độ tin cậy thống kê ở mức 5% thì ở giai đoạn học nâng cao đa số các chỉ số nói trên đã biến đổi rõ hơn. Sự biến đổi về trình độ thể lực chung sau giai đoạn học chương trình thể dục tổng hợp cổ truyền nâng cao so với trước thực nghiệm sư phạm đạt độ tin cậy thống kê ở mức 1%.
B.Ý kiến đề nghị:
Từ các kết luận của đề tài nghiên cứu, có một số đề nghị sau đây:
1. Cần quan tâm thường xuyên tới công tác GDTC cho đối tượng nữ sinh viên trường đại học Dân Lập Thăng Long. Ở những năm đầu phải nâng cao chất lượng giờ học GDTC nội khóa. Ngoài ra, cần bố trí thêm giờ học thể dục ngoại khóa để sinh viên tự rèn luyện thể chất và nâng cao sức khỏe. Sau học kỳ thứ 5 (năm thứ 3) cần bố trí các giờ học ngoại khóa bắt buộc theo đăng ký môn học tự chọn của nữ sinh viên để tăng tính tự giác và hứng thú tập luyện.
2. Do đa số nữ sinh có nguyện vọng tập môn thể dục tổng hợp cổ truyền, nên trường đại học Dân Lập Thăng Long cần bố trí sớm môn học này vào chương trình giảng dạy từ năm thứ nhất đến năm cuối khóa học để luôn gây hứng thú và đem lại hiệu quả cao với phát triển thể chất, cần xây dựng một loại bài tập mới, tăng lượng vận động tập luyện hợp lý phù hợp với trình độ sức khỏe người tập.
3.Có thể áp dụng các bài tập thể dục tổng hợp cổ truyền do chúng tôi giới thiệu, phổ biến rộng rãi trong tập luyện ngoại khóa của nữ sinh viên tại câu lạc bộ thể dục, hiện đã hình thành tại trường đại học Dân Lập Thăng Long.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Kỳ Anh, Vũ Đức Thu (1994), “Những giải pháp thực thi nhằm cải tiến nâng cao chất lượng GDTT trong các trường Đại học”, Tuyển tập nghiên cứu khoa học TDTT, NXB TDTT, Hà Nội.
2. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (1960), Báo cáo chính trị của BCH TW Đảng cộng sản khoá III, NXB Sự thật, Hà Nội.
3. Ban Bí thư Trung ương Đảng (2/10/1958), Chỉ thị 106-CT/TW về công tác TDTT, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
4. Ban Bí thư Trung ương Đảng (28/2/1962), Chỉ thị 38-CT/TW về tăng cường công tác thể thao quốc phòng, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
5. Ban Bí thư Trung ương Đảng (3/6/1964), Chỉ thị 79-CT/TW về công tác bảo vệ sức khoẻ của cán bộ, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
6. Ban Bí thư Trung ương Đảng (11/1/1967), Chỉ thị 140-CT/TW về bảo vệ và bồi dưỡng sức khoẻ của cán bộ và nhân dân trước tình hình mới, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
7. Ban Bí thư Trung ương Đảng (26/8/1970), Chỉ thị 180 CT/TW về công tác TDTT, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
8. Ban Bí thư Trung ương Đảng (17/6/1975), Chỉ thị số 221- CT/TW về công tác giáo dục ở miền Nam sau ngày giải phóng, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
9. Ban Bí thư Trung ương Đảng (18/11/1975), Chỉ thị số 227- CT/TW về công tác giáo dục thể thao trong tình hình mới, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
10. Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá III (1961), Nghị quyết số 08/NQ/TW, Hà Nội.
11. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (1976), Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
12. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (1982), Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
13. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (1986), Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội Đảng lần thứ VI, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
14. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (1991), Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội Đảng lần thứ VII, Hà Nội.
15. Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VII (1993), Nghị quyết hội nghị lần 4, Hà Nội.
16. Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VII (1997), “Nghị quyết hội nghị lần 2”, Những văn bản pháp lý Nhà nước và quản lý giáo dục, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
17. Ban Chấp hành TW Đảng khoá VII (1993), Đổi mới công tác giáo dục và đào tạo, Văn kiện hội nghị lần thứ VI, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội
18. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (1994), Chỉ thị 36 CT/TW về công tác TDTT trong giai đoạn mới, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
19. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (24/12/1996), Nghị quyết số 02 – NQ/TW, Hà Nội.
20. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Chương trình GDTC trong các trường Đại học, Cao đẳng (không chuyên TDTT) giai đoạn 1, Ban hành theo quyết định số 3244/GD &ĐT ngày 12/9/1995, NXB GDĐT, Hà Nội.
21. Bộ Giáo dục và Đào tạo (1994), Thông tư 11/TT GDTC về hướng dẫn chỉ thị 36/CT-TW, NXB GDĐT, Hà Nội.
22. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Tổng cục TDTT (1995), Xây dựng kế hoạch đồng bộ, xác định mục tiêu, nội dung hiến pháp, nhằm cải tiến công tác tổ chức quản lý TDTT và GDTC trong trường học các cấp đến năm 2000-2005, Thông tư liên tịch số 04/93 GDĐT-Tổng cục TDTT (17/4/1995), NXB TDTT, Hà Nội.
23. Bộ Giáo dục và Đào tạo (1996), Quy hoạch phát triển TDTT ngành giáo dục đào tạo 1996 –2000 và định hướng đến năm 2025, NXB GDĐT, Hà Nội.
24. Bộ Giáo dục và Đào tạo (1996), Định hướng phát triển giáo dục và đào tạo từ nay đến năm 2020, NXB GDĐT, Hà Nội.
25. Bộ Giáo dục Đào tạo(12/4/1997), Chương trình GDTC trong các trường Cao đẳng, Đại học không chuyên TDTT, Ban hành theo quyết định số 1262/GD&ĐT, Hà Nội.
26. Bộ Giáo dục Đào tạo(2004), Chỉ thị 25/2004-CT/ GD&ĐT, Hà Nội.
27. Phạm Đình Bẩm, Đặng Đình Minh (1998), Giáo trình quản lý TDTT (dùng cho sinh viên Đại học TDTT), NXB TDTT, Hà Nội.
28. Phạm Đình Bẩm(2006), Giáo trình quản lý TDTT (dùng cho cao học), NXB TDTT, Hà Nội.
29. Dương Nghiệp Chí (1991), Đo lường TDTT, NXB TDTT, Hà Nội.
30. Dương Nghiệp Chí (2000), Điều tra, đánh giá tình trạng thể chất và xây dựng tiêu chuẩn thể lực chung của người Việt Nam giai đoạn 1, từ 6 đến 20 tuổi, Viện KH TDTT, Hà Nội.
31. Lưu Quang Hiệp – Phạm Thị Uyên, Sinh lý học TDTT, NXB TDTT năm 1995.
32. Đảng Cộng sản Việt Nam (1976), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IV, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
33. Đảng lao động Việt Nam (1960), Văn kiện Đại hội Đảng lao động Việt Nam lần thứ VI, NXB Sự thật, Hà Nội.
34. Đảng Cộng Sản Việt Nam (1982), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V, NXB Sự thật, Hà Nội.
35. Đảng Cộng Sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội VII, NXB Sự thật, Hà Nội.
36. Đảng Cộng Sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội IX, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
37. Nguyễn Văn Chung-Phạm Hồng Dương-Nguyễn Anh Tú-Nguyễn Đương Bắc-Nguyễn Ngọc Dũng-Đinh Diệp Hòa-Bùi Hoàng Lân 2004, Giáo trình Võ Thuật, NXB Đại học Sư Phạm
38. Phạm Hồng Dương-Nguyễn Ngọc Dũng-Đinh Diệp Hòa-Bùi Hoàng Lân 2003, Giáo trình thể dục dưỡng sinh tổng hợp cổ truyền, NXB Hải Phòng.
39. Lưu Quang Hiệp, Vũ Đức Thu (1989), Nghiên cứu về sự phát triển thể chất sinh viên các trường Đại học, NXB TDTT, Hà Nội.
40. . Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam(2005), Luật Giáo dục, NXB Tư pháp, Hà Nội.
41. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam (2007), Luật thể dục, thể thao, NXB TDTT, Hà Nội.
42 Lê Văn Lẫm, Vũ Đức Thu, Nguyễn Trọng Hải, Vũ Bích Huệ (2000), Thực trạng phát triển thể chất của học sinh, sinh viên trước thềm thế kỷ 21, NXB TDTT, Hà Nội.
43. Lê Văn Lẫm, Phạm Trọng Thanh (2000), Giáo dục thể chất ở một số nước trên thế giới, NXB TDTT, Hà Nội.
44. Nguyễn Thị Mỹ Lộc (2003), “ Người học ở đại học và những đặc điểm tâm lý sinh viên”, Giáo dục đại học, Tài liệu bồi dưỡng dành cho các lớp giáo dục học đại học và nghiệp vụ sư phạm đại học, Hà Nội.
45. Nguyễn Xuân Sinh (1999), Thể dục dụng cụ, NXB TDTT, Hà Nội.
46. P.A. Rusđich (1986), Tâm lý học, Dịch: Nguyễn Văn Hiếu, NXB TDTT, Hà Nội.
47. Nguyễm Xuân Sinh, Lê Văn Lẫm, Lưu Quang Hiệp, Phạm Ngọc Viễn (1999), Giáo trình phương pháp nghiên cứu khoa học TDTT, NXB TDTT, Hà Nội.
48. Vũ Đức Thu, Nguyễn, Trọng Hải, Phùng Thị Hoà, Vũ Bích Huệ(1998), “Nghiên cứu đánh giá thực trạng công tác GDTC và phát triển TDTT trong nhà trường các cấp”, Tuyển tập NCKH GDTC, sức khoẻ trong nhà trường các cấp, NXB TDTT, Hà Nội
49. Nguyễn Toán, Phạm Danh Tốn (2000), Lý luận và phương pháp TDTT, NXB TDTT, Hà Nội.
50. Phạm Khắc Viện 2007, Từ sinh lý đến dưỡng sinh, NXB Thế giới.
51. Tập thể tác giả (1996), Quản lý TDTT, Dịch: Đinh Thọ, NXB TDTT, Hà Nội.
52. Nguyễn Thị Việt Hương 1999. Tìm hiểu năng lực thể chất của nam, nữ sinh viên khoá 1997 Trường Đại học Khoa Học Tự Nhiên TP Hồ Chí Minh, Luận văn Thạc Sỹ, TP HCM
53. Nguyễn Kim Minh 1986, nghiên cứu năng lực thể chất của người Việt Nam từ 5-18 tuổi. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp nghành.
54. Nguyễn Đức Văn (2000), Phương pháp thống kê trong TDTT, NXB TDTT, Hà Nội
55. M.I.Vi-nô-gra-đốp (1994), Sinh lý lao động, Dịch: Nguyễn Lê Văn, Đoàn Hiếu, Nguyễn Quang Vinh, NXB Y học, Hà Nội.
56. Phạm Ngọc Viễn, Lê Văn Xem, Mai Văn Muôn (1991), Tâm lý học TDTT, NXB TDTT, Hà Nội.
57. Nguyễn Khắc Anh Vũ (1997), Nghiên cứu sự biến đổi khả năng hoạt động thể lực và tình trạng sức khoẻ của sinh viên đại học không chuyên TDTT,
58. Luận văn thạc sĩ giáo dục học, ĐH TDTT I, Bắc Ninh.
59. Trương Quốc Uyên (2003), Chủ tịch Hồ Chí Minh với thể dục thể thao, NXB TDTT, Hà Nội.
60. Uỷ ban TDTT (1999), Xây dựng và phát triển nền Thể dục thể thao Việt Nam dân tộc, khoa học và nhân dân, NXB TDTT, Hà Nội
61. Tuyển tập nghiên cứu khoa học Trường Đại học TDTT I từ năm 1995 – 2005, NXB TDTT.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- KT93.docx