Đề tài Nghiên cứu kinh nghiệm một số nước về giải pháp tín dụng ngân hàng hỗ trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ

4. Để giúp đỡ các DNVVN phát triển mạnh mẽ, đúng hướng và có hiệu quả kinh tế xã hội cao, cần thành lập các tổ chức tư vấn giúp cho các DNVVN xây dựng phương án sản xuất kinh doanh, lựa chọn công nghệ, hoàn thiện Maketing, cung cấp thông tin đào tạo cán bộ, thành lập hiệp hội các DNVVN, hệ thống ngân hàng đầu tư phát triển cho các DNVVN, và cuối cùng cần tăng cường các biện pháp quản lý Nhà nước để các DNVVN phát triển sản xuất kinh doanh theo đúng pháp luật hiện hành.

doc82 trang | Chia sẻ: ndson | Lượt xem: 1241 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nghiên cứu kinh nghiệm một số nước về giải pháp tín dụng ngân hàng hỗ trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
vừa và nhỏ, tuy cùng thành phần kinh tế, cùng hình thức sở hữu với các ngân hàng thương mại quốc doanh nhưng trong cơ chế thị trường đều là những doanh nghiệp Nhà nước độc lập, được Nhà nước giao cho quyền sử dụng vốn và các tài sản thuộc sở hữu Nhà nước. Các doanh nghiệp này được quyền quyết định các hoạt động sản xuất kinh doanh trong hành lang pháp luật của Nhà nước theo nguyên tắc bảo toàn vốn và có lợi nhuận. Quan hệ giữa doanh nghiệp Nhà nước với ngân hàng là quan hệ bình đẳng, quan hệ vay trả như các thành phần kinh tế khác. Doanh nghiệp vay vốn của ngân hàng phải có nghĩa vụ trả nợ cho ngân hàng. Vì vốn ngân hàng là vốn huy động trong dân, hoàn trả theo đúng thời hạn. Việc doanh nghiệp thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh tài sản để vay vốn ngân hàng để đảm bảo khi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp có rủi ro, hoặc phá sản thì doanh nghiệp có nghĩa vụ trả nợ cho ngân hàng trước tài sản đã thế chấp, cầm cố và bảo lãnh với vốn ngân hàng. Chương 3 Những giải pháp chủ yếu để mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng ngân hàng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta 3.1. Tạo vốn để phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Vốn đáp ứng cho yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nói chung và cho việc phát triển các DNVVN nói riêng là một cấn đề cực kỳ quan trọng và cấp bách đối với nước ta trong nhiều năm tới. Báo cáo của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng về “phương hướng nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội năm 2000- 2005” đã chỉ rõ rằng: “ Trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước theo đường lối đổi mới, Đảng, Nhà nước ta chủ trương huy động mọi nguồn vốn trong và ngoài nước để đầu tư phát triển, trong đó nguồn vốn trong nước có ý nghĩa quyết định, vốn ngoài nước có ý nghĩa quan trọng, kết hợp tiềm năng sức mạnh bên trong với khả năng có thể tranh thủ bên ngoài. Chiến lược lâu dài là phải huyđộng tối đa nguồn vốn trong nước để chiếm tỷ lệ cao trong đầu tư. Tuy nhiên, những năm đầu thời kỳ công nghiệp hoá đòi hỏi nguồn vốn lớn mà nguồn vốn trong nước còn hạn hẹp, nên phải phát huy nguồn vốn bên ngoài cho nhu cầu đầu tư phát triển trên nguyên tắc đảm bảo hiệu quả kinh tế và trả được nợ”. [21,Tr228] Trên cơ sở quán triệt chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, việc tạo vốn cho nền kinh tế là trách nhiệm của nhiều ngành, nhiều cấp và từ nhiều nguồn. Song với chức năng và nhiệm vụ của mình, ngành ngân hàng ý thức được rằng: Việc huy động vốn trong các tổ chức kinh tế, xã hội trong các tầng lớp dân cư và huy động vốn từ bên ngoài là trách nhiệm chính của mình. Quan điểm chỉ đạo chung của ngành ngân hàng l;à tập trung khai thác có hiệu quả nguồn vốn trong nền kinh tế bằng việc tiếp tục đưa ra những hình thức huy động được nhiều khách hàng. Song phải rất chú trọng huy động nguồn vốn có thời hạn dài trên một năm nhằm đổi mới một bước cơ cấu nguồn vốn. Từ những quan điểm trên, chúng tôi kiến nghị giải pháp tạo vốn cho nền kinh tế nói chung và cho sự phát triển DNVVN trong những năm tới như sau: 3.1.1. Tăng cường huy động vốn ngắn hạn, dài hạn trong các tổ chức kinh tế và dân cư. 1. Hoàn thiện các hình thức tiền gửi tiết kiệm của dân cư: Trong tổng số nguồn vốn huy động của các ngân hàng thương mại, nguồn gửi tiết kiệm của dân cư chiếm tỷ trọng lớn, ngày càng tăng và ổn định. Các hình thức huy động tiết kiệm nay tuy đã được sửa đổi và cải tiến nhưng vẫn còn nghèo nàn. Vấn đề đặt ra cho các nhà nghiên cứu và quản lý trong lĩnh vực ngân hàng cần đưa ra các hình thức huy động ơhong phú hấp dẫn hơn. Theo chúng tôi các hình thức huy động tiền gửi tiết kiệm nên đổi mới theo hướng sau đây: - Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, hàng quý nên có quay số thưởng. Lãi suất huy động vốn không chênh lệch nhiều so với hình thức tiền gửi có kỳ hạn ngắn. Vì đây là loại hình khách hàng dễ chấp nhận hơn. - Thể thức tiền gửi ngắn hạn từ trên một tháng đến dưới một năm không cần phân ra thời hạn gửi 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng như thể thức hiện nay. Nhưng lãi suất quy định theo từng thời gian gửi 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng. Mục đích là để đơn giản thủ tục giấy tờ. - Phát hành thể thức gửi tiết kiệm dài hạn 1 năm, 2 năm, 3 năm với mức lãi suất hợp lý để khuyến khích người gửi. Loại tiết kiệm này được tự do chuyển nhượng quyền sở hữu và có khả năng thanh toán ở các ngân hàng trong cùng hệ thống và khác hệ thống trên phạm vi cả nước. Đây là một cách thức để mở rộng giao dịch tiền trên thị trường tiền tệ. 2. Đa dạng hoá các công cụ huy động vốn của ngân hàng. Ngoài các hình thức huy động vốn tiết kiệm truyền thống cần phải đa dạng hoá các công cụ huy động vốn như phát hành kỳ phiếu, trái phiếu nội tệ và ngoại tệ. Đây là các công cụ huy động vốn và mục đích sử dụng vốn từng thời kỳ mà các ngân hàng quyết định thời hạn phát hành, tổng lượng vốn cần huy động qua công cụ phát hành kỳ phiếu và trái phiếu có mục đích cao hơn lãi suất huy động thông thường, và do đó các ngân hàng thương mại cũng được cho phép vay với lãi suất thoả thuận cao hơn lãi suất đầu ra để phục vụ tốt hơn cho các DNVVN. 3. Thực hiện chính sách ưu đãi với khách hàng. Trong cơ chế thị trường, các nhà kinh doanh luôn có nhu cầu sử dụng đồng vốn có hiệu quả. Nhiều nhà doanh nghiệp có số dư tiền gửi lớn ở ngân hàng (đây chỉ là nguồn vốn tạm thời và không ổn định), cac ngân hàng muốn sử dụng nguồn vốn này cần phải có chính sách ưu đãi đối với những khách hàng nào có số tiền gửi vào ngân hàng như ưu đãi về lãi suất, ưu đãi khi vay vốn và thanh toán. Mục đích là để khuyến khích khách hàng gửi tiền và vay tiền nhiều hơn. 4. Đẩy mạnh việc mở tài khoản tiền gửi thanh toán của các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế nhằm thu hút lượng tiền của các hộ kinh doanh cá thể, của cán bộ công nhân viên chức và của các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, xã hội chưa sử dụng đến gửi vào tài khoản ngân hàng. Một mặt để tăng cường nguồn vốn tín dụng, mặt khác tạo điều kiện mở rộng công tác thanh toán không dùng tiền mặt. Hai mặt này có tác dụng thúc đẩy lẫn nhau và tăng hiệu quả vận động vốn trong nền kinh tế hàng hoá. Chỉ có thể thực hiện được biện pháp huy động này khi hoạt động ngân hàng linh hoạt, gọn nhẹ, sát cụm dân cư, tránh giấy tờ, thủ tục phiền hà. Ngân hàng hoạt động vì lợi ích của người có tiền thì mới có lợi ích của chính mình. Phải đổi mới cơ chế mở tài khoản ở ngân hàng để tăng nguồn vốn tín dụng. Xoá bỏ sự phân biệt đối xử với việc mở và sử dụng tài khoản chính phụ, tài khoản tiền gửi quốc doanh, ngoài quốc doanh và tư nhân chính sách thể. Thủ tục mở tài khoản phải đơn giản nhưng đảm bảo tính pháp lý. Theo chúng tôi, tư nhân cá thể chỉ cần có đơn xin mở tài khoản theo mẫu in sẵn, kèm theo chứng minh nhân dân; các doanh nghiệp chỉ cần quyết định thành lập doanh nghiệp và đăng ký kinh doanh là đủ điều kiện để mở tài khoản. Khách hàng mở tài khoản giao dịch không phân biệt địa dư hành chính và được đảm bảo bí mật tài khoản tiền gửi của mình. Ngân hàng thực hiện chi theo lệnh của khách hàng bằng các phương tiện thanh toán như tiền mặt, ngân phiếu, chuyển khoản tuỳ ý. Đặc biệt đối với khách hàng DNVVN. 5. Mở rộng các dịch vụ ngân hàng, đặc biệt là dịch vụ thanh toán sao cho nhanh, thuận tiện an toàn với mức phí thấp, lãi suất thoả đáng, tạo được lòng tin để huy động vốn. Cải tiến việc chuyển tiền như chuyển tiền nhanh, chuyển tiền qua mạng vi tính, thanh toán điện tử. Ngân hàng cần đẩy mạnh phát triển séc cá nhân, sử dụng các loại thẻ thanh toán thẻ tín dụng và máy rút tiền tự đông (ATM) áp dụng các hình thức thanh toán không chứng từ.... Ngân hàng phải nhìn thấy sự hoạt động của bưu điện để xem xét chính mình. 3.1.2 Phát triển thị trường vốn để thu hút vốn. 1. Phát triển thị trường tiền tệ bao gồm thị trường tín dụng truyền thống, thị trường nội tệ và ngoại tệ liên ngân hàng, thị trường tín phiếu kho bạc. Đây là thị trường có tính chất nội bộ giữa các ngân hàng nhằm mua bán, chuyển nhượng nội tệ, ngoại tệ nhằm vận dụng nguồn vốn ngẵn hạn của ngân hàng. Các loại thị trường vốn đã được hình thành ở nước ta, bước đầu có kết quả. Những năm đầu việc mua bán ngoại tệ và vay mượn trên thị trường này đã đạt được doanh số khá. 2. Tạo điều kiện và tiền đề sớm có thị trường chứng khoán ở Việt Nam. Trong nền kinh tế hàng hoá, điều quan trọng nhất đối với việc sản xuất kinh doanh ở mọi doanh nghiệp kể cả DNVVN là vốn tiền tệ... Một thị trường vốn lành mạnh, ổn định rất cần thiết cho sự phát triển của nền kinh tế thị trường ở nước ta, cần hình thành sớm thị trường chứng khoán để những giấy tờ có giá trị dài hạn như cổ phiếu, trái phiếu công ty và trái phiếu chính phủ.... được chuyển nhượng và mua bán nhừm biến đổi đầu tư dài hạn thành ngắn hạn và ngựoc lại. Cần có cơ chế lãi suất cho vốn dài hạn cao hơn vốn ngắn hạn để khuyến khích việc huy động nguồn vốn trung và dài hạn được nhiều hơn. Chúng tôi cho rằng: ở nước ta hiện nay đã có một số tiền đề để mở thị trường chứng khoán như Nhà nước đã ban hành một số luật: Luật Công ty, Luật đầu tư nước ngoài, Luật DNVVN, pháp lệnh ngân hàng, nền kinh tế tăng trưởng khá, lạm phát đã được kiềm chế, giá cả tiền tệ ổn định, hệ thống ngân hàng đã phát triển thích ứng với cơ chế thị trường, công nghệ ngân hàng ngày càng hiện đại, thị trường tiền tệ đã hoạt động.... Song để sớm có thị trường chứng khoán, Chính phủ cần ban hành một số luật cơ bản như: Luật sở hữu tài sản, Luật tín dụng thương mại, Luật lưu thông và chuyển nhượng các giấy tờ có giá, Luật chống tham nhũng.... Báo cáo chính trị tại đại hội Đảng làn thứ VIII đã nhấn mạnh rằng: trong những năm tới cần “chuẩn bị các điều kiện cần thiết để từng bước xây dựng thị trường chứng khoán phù hợp với điều kiện Việt Nam và định hướng phát triển nền kinh tế đất nước”.(2 tr 100) 3.1.3. Khuyến khích các hộ tư nhân bỏ vốn ra đầu tư phát triển. Để giúp cho các doanh nghiệp tự huy động vốn trong dân, Nhà nước cần có luật cho phép các doanh nghiệp trực tiếp huy động vốn bằng cách phát hành các cổ phiếu, huy động các cổ phần để dân đầu tư trực tiếp và các doanh nghiệp; có chính sách khuyến khích những doanh nghiệp có vốn tự có lớn đầu tư vào các dự án. Đổi mới thiết bị công nghệ, sản xuất mặt hàng mới, mặt háng xuất khẩu; khuyến khích các nhà kinh doanh tư nhân góp vốn liên doanh với Nhà nước hoặc trực tiếp đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Để huy động được nguồn vốn này, Nhà nước là người bảo vệ quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp, tạo điều kiện thuận lợi đi đôi với tăng cường quản lý, hướng dẫn họ làm ăn đúng pháp luật; có lợi ích cho quốc tế dân sinh. Ngoài các giải pháp tạo vốn cho nền kinh tế nói chung và cho việc phát triển các DNVVN nói riêng chúng tôi đã phân tích và kiến nghị ở các điểm trên một vấn đề quan trọng là ngân sách Nhà nước phải tăng cường tích luỹ từ GDP cho đầu tư phát triển. Đây là nguồn vốn quan trọng để đầu tư vào các công trình then chốt, các ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước. 3.2. Mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. 3.2.1. Mở rộng cho vay vốn trung hạn và dài hạn để giúp cho các DNVVN đổi mới công nghệ thiết bị. Đầu tư vốn trung và dài hạn là đầu tư cho tương lai của các doanh nghiệp, là để các doanh nghiệp xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, áp dụng công nghệ mới để phát triển. Ngày nay cuộc cách mạng khoa học và công nghệ mà nội dung cơ bản là những tiến bộ vượt bậc của công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới.. đang phát triển ở trình độ cao. Các nước đang đứng trước cơ hội phát triển, nhưng ưu thế về vốn, về công nghệ và về thị trường thuộc về các nước tư bản chủ nghĩa phát triển. Đối với nước ta hiện nay vốn huy động trong nước dành cho đầu tư dài hạn còn ít, nên việc đầu tư của các ngân hàng thương mại đối với các doanh nghiệp phải biết lựa chon, ưu tiên cho các dự án quy mô vừa và nhỏ, ứng dụng kỹ thuật và công nghệ tiên tiến tránh tình trạng đầu tư mua lại những thiết bị cũ, lạc hậu của các nước. Thời gian qua một số DNVVN thuộc các ngành giầy da, may mặc, chế biến lâm sản... đã sử dụng vốn đầu tư của tín dụng ngân hàng mua phải một số thiết bị cũ, lạc hậu về kỹ thuật của Hàn Quốc, Đài Loan nên hiệu quả kinh tế thấp, chậm thu hồi vốn. Cần dành cho một tỷ lệ vốn hợp lý để đầu tư cho các dự án mở rộng sản xuất, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất và áp dụng công nghệ mới, đầu tư tạo lập một số doanh nghiệp mới có quy mô vừa và nhỏ. Ưu tiên các dự án tạo việc làm, thu hút nhiều lao động, dự án khôi phục các ngành nghề, làng truyền thống, dự án sản xuất hàng xuất khẩu, sản xuất hàng tiêu dùng, dự án phát triển của các ngành công nghiệp phục vụ dân sinh.. Với số vốn đầu tư ít ỏi, thời gian thi công nhanh, hiệu quả kinh tế cao thích hợp với trình độ năng lực quản lý và quản trị điều hành của các DNVVN. Để có thể đẩy mạnh đầu tư thu hút vốn trung và dài hạn cho các DNVVN cần phải giải quyết một số vấn đề: - Cần có một cơ quan tư vấn đầu tư để giúp các DNVVN xây dựng các dự án có tính khả thi, lựa chọn công nghệ phù hợp và áp dụng công nghệ đó vào sản xuất là hết sức quan trọng. Bởi vì các DNVVN thường không đủ điều kiện để giải quyết các vấn đề công nghệ, họ thường thiếu thông tin về các nguồn công ngệ trong cả nước. Theo kinh nghiệm của chúng tôi trong thời gian vừa qua việc đầu tư cho các DNVVN chủ yếu là đầu tư nhập các thiết bị lẻ hoạch một dây chuyền hiện đại với mức đầu vốn mà các DNVVN có khả năng trả được. Còn nhà xưởng thì đã có sẵn, thiết bị nhập về được lắp ráp nhanh và đưa vào sản xuất, phát huy hiệu quả ngay. - Quy định rõ cơ quan nào có thẩm quyền xét duyệt và thủ tục xét duyệt các dự án đầu tư để cấp giấy phép cho các DNVVN một cách nhanh chóng, thuận lợi. - Ngân hàng Nhà nước cần có quy định lại tỷ lệ vốn tự có của các doanh nghiệp tham gia vào dự án. Theo chúng tôi tuỳ dự án mà quy định mức thấp nhất nên quy định là 20% (hiện nay là 40%). - Đề nghị ngân hàng Nhà nước cho phép các ngân hàng thương mại được sử dụng một tỷ lệ vốn ngắn hạn ổn định để đầu tư cho vay trung và dài hạn đối với DNVVN. - Cho phép các doanh nghiệp được thế chấp tài sản được hình thành từ vốn vay của ngân hàng thương mại để khắc phục tình trạng đối với một số doanh nghiệp có dự án khả thi, có đủ vốn tự có nhưng không đủ tài sản thế chấp để vay vốn ngân hàng. - Chính quyền các cấp cần tạo điều kiện giúp đỡ các doanh nghiệp về đất đai, thủ tục xây dựng cơ bản để các dự án được thực hiện một cách thuận lợi. 3.2.2. Mở rộng cho vay đối với các thành phần kinh tế, điều chỉnh cơ cấu đầu tư phục vụ mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước. 1. Mở rộng cho vay đối với các thành phần kinh tế. Thích ứng với nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, nội dung và phương thức hoạt động của ngân hàng đã có sự đổi mới căn bản: Từ ngân hàng đơn nhất của các doanh nghiệp Nhà nước chuyển sang hệ thống ngân hàng của các thành phần kinh tế. Trong những năm qua, Ngân hàng công thương Ba đình đã mở rộng đầu tư vốn cho các DNVVN ngoài quốc doanh. Song nhìn chung việc đầu tư cho lĩnh vực này còn theo yêu cầu, có tính chất dàn đều, chưa tập trung cho vay có trọng điểm, chưa khai thác được thế mạnh và điều kiện thuận lợi về nguồn nguyên liệu, về lao động tại chỗ của thế mạnh của từng vùng kinh tế, ngành kinh tế. Để khắc phục những tồn tại nói trên trong những năm tới theo chúng tôi tín dụng ngân hàng cần tập trung đầu tư vào các ngành kinh tế sau: - Ngành sản xuất vật liệu xây dựng như gạch, ngói, vôi, các loại cửa gỗ, cửa sắt.... để phục vụ xây dựng các công trình Nhà nước và tư nhân. - Ngành sản xuất thủ công mỹ nghệ truyền thống như gốm, sứ, mây tre, thảm đay, thảm len, chiếu cói để xuất khẩu và phục vụ cho tiêu dùng của nhân dân. - Ngành may, thêu xuất khẩu là ngành phát triển với nhiều triển vọng, sản phẩm chủ yếu xuất cho thị trường EC. - Ngành sản xuất da giầy, đồ nhựa và ngành chế biến nông, lâm, hải sản và thực phẩm. Đó là những ngành rất phù hợp với các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ. 2. Điều chỉnh cơ cấu đầu tư một cách cân đối hợp lý giữa các ngành sản xuất với các ngành thương mại- dịch vụ khuyến khích đầu tư cho xuất khẩu. Hiện nay chúng ta chưa có cơ chế khuyến khích cho các ngành sản xuất. Hơn nữa do tình hình sản xuất nhất là sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp gặp nhiều khó khăn nên việc đầu tư vốn của ngân hàng vào khu vực sản xuất còn chiếm tỷ trọng thấp hơn so với khu vực lưu thông. Để thực hiện mục tiêu đẩy mạnh phát triển sản xuất, khuyến khích cho các doanh nghiệp sản xuất nhất là sản xuất hàng xuất khẩu, tín dụng ngân hàng cần phải có cơ chế ưu tiên về cung ứng vốn và ưu đãi về lãi suất. Chúng tôi cho rằng: - Cần đảm bảo kịp thời nhu cầu vốn hợp pháp, hợp lý cho các doanh nghiệp sản xuất. Tập trung vốn cho các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu và sử dụng nhiều lao động, và làm ăn có hiệu quả. - Cần có chính sách lãi suất tín dụng ưu đãi đối với các doanh nghiệp sản xuất, nhất là doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu. Mức độ ưu đãi tuỳ theo mức chênh lệch bình quân giữa lãi suất đầu vào đầu ra của từng ngân hàng mà quy định. Nhưng ít ra phải thấp hơn so với cho vay để kinh doanh thương mại và dịch vụ từ 0,1% đến 0,2%/tháng. Tóm lại tất cả các chính sách tín dụng nói trên phải được cụ thể hoá trong cơ chế, biện pháp cho vay, kiểm tra kiểm soát sử dụng tiền vay nhất là phải thể hiện trong chính sách lãi suất ngân hàng. 3.2.3. Nâng cao chất lượng tín dụng ngân hàng bảo đảm an toàn vốn và hạn chế rủi ro. Chất lượng tín dụng ngân hàng luôn là vấn đề quan tâm hàng đầu của hoạt động ngân hàng. Song hiện nay chất lượng tín dụng ngân hàng ở nước ta đang là vấn đề đặc biệt quan tâm của nhiều người. Đó là tình trạng nợ quá hạn và rủi ro tín dụng phát sinh ngày càng tăng, Mặc dù thời gian qua một số ngân hàng thương mại đã thực hiện những biện pháp bảo đảm an toàn vốn vay và hạn chế đến mức thấp nhất rủi ro tín đụng như: - Ban hành một số cơ chế tín dụng với điều kiện cho vay chặt chẽ hơn. - Thành lập một hội đồng tín dụng, xem xét lại việc phân cấp uỷ quyền xét duyệt cho vay. - Ban hành chính sách khách hàng, phân loại khách hàng khi cho vay, quy định khách hàng chỉ được vay ở một ngân hàng, - Thực hiện biện pháp đồng tài trợ. - Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát, thông tin rủi ro, nâng cao trình độ quản lý, chuyên môn nghiệp vụ cho cán bố công nhân viên ngân hàng. Nhìn chung chất lượng tín dụng chưa được nâng lên, nhất là từ đầu năm 2000 tới nay tình trạng nợ qua hạn phát sinh ngày một tăng. Do đó, việc nghiên cứu và kiến nghị các giải pháp để nâng chất lượng tín dụng ở nước ta hiện nay là một vấn đề hết sức cấp bách. Dưới đây chúng tôi xin nêu lên một số giải pháp chủ yếu qua thực tiễn hoạt động trong ngành ngân hàng và kinh nghiệm cho vay DNVVN ở ngân hàng Bangkok (Thái Lan): 1. Tăng cường các biện pháp quản lý tín dụng, trước hết cần nâng chất lượng thẩm định khi cho vay, chú trọng thẩm định các điều kiện vay vốn, tư cách người vay, thẩm định tính khả thi của dự án nhất là thẩm định kỹ về phương diện thị trường, hợp đồng mua, bán, khả năng thanh toán của người mua hàng. Khi giải quyết một món vay không nên coi tài sản thế chấp là điều kiện tiên quyết xét duyệt cho vay, vấn đề cơ bản là khả năng tài chính của người vay, tính khả thi của dự án. Nếu tài sản thế chấp đầy đủ, bảo đảm tính pháp lý, gấp nhiều lần số tiền cho vay nhưng dự án cho vay không chắc chắn, khả năng hoàn trả từ hiệu quả của món vay không đảm bảo thì cần phải xem xét kỹ. Khi cho vay phải chấp hành đúng cơ chế, quy chế, chấp hành đúng qui trình cho vay. Đặc biệt chú ý tính pháp lý của tài sản thế chấp. Tài sản thế chấp nhất thiết phải thông qua công chứng, qua UBND quận, huyện, phường, xã xác nhận. Tăng cường kiểm tra sử dụng vốn vay để ngăn ngừa tình trạng người vay sử dụng vốn vay sai mục đích như lấy vốn lưu động ra sử dụng cho xây dựng cơ bản. Quy định thời hạn cho vay phải sát, phân ra từng thời hạn ngắn để thu nợ. 2. Từng bước tiêu chuẩn hoá cán bộ tín dụng và cán bộ lãnh đạo điều hành trực tiếp. Đội ngũ cán bộ tín dụng ngày nay chủ yếu được đào tạo trong thời kỳ bao cấp, kiến thức và năng lực nhất là sự hiểu biết về kinh tế thị trường về các nghiệp vụ ngân hàng còn nhiều hạn chế, do đó việc đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ tín dụng nhất là vấn đề bức xúc hiện nay. Cần ban hành ngay qui chế cán bộ tín dụng. Quy địng rõ tiêu chuẩn của từng chức danh cán bộ tín dung, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn phải được xác định một cách rõ ràng. Ai không đủ năng lực và phẩm chất thì nhất thiết không nên để họ tiếp tục làm cán bộ tín dụng nữa. 3. Nâng cao chất lượng công tác thông tin phòng ngừa rủi ro. Hiện nay ngân hàng Nhà nước có hệ thống các trung tâm phòng ngừa rủi ro, các ngân hàng thương mại đều có phòng chuyên trách thông tin phòng ngừa rủi ro, đáp ứng được một phần những thông tin về khách hàng, về hoạt động của thị trường tín dụng, có tác dụng tốt cho việc nâng cao chất lượng tín dụng, bảo đảm an toàn vốn. Song việc thông tin còn chậm, chưa đầy đủ, hình thức còn đơn điệu. Thời gian tới cần phải có những hình thức thông tin nhanh, đầy đủ và kịp thời hơn. Thông tin khách hàng vay vốn các ngân hàng trên địa bàn là cần thiết nhất để bảo đảm một khách hàng không được vay vốn ở nhiều ngân hàng. 4. Tăng cường kiểm tra giám sát khách hàng vay vốn theo dõi rủi ro có thể xảy ra đối với các khoản vay: Công tác kiểm tra và giám sát có thể tiến hành theo hình thức: - Kiểm tra thường xuyên, đột xuất tại cơ sở sản xuất kinh doanh của khách hàng. - Kiểm tra việc đánh giá tài sản thế chấp, bảo quản tài sản thế chấp, cầm cố. - Kiểm tra các thông tin thu thập được từ các nguồn khác nhau về khách hàng. - Kiểm tra tình hình sử dụng tiền vay, đôn đốc các khách hàng trả nợ các khoản gốc và lãi đến hạn. Thông qua các hình thức kiểm tra nói trên, cho phép chúng ta phát hiện sớm những vụ việc tiêu cực để ngăn ngừa và xử lý kịp thời, hạn chế tối đa những rủi ro có thể xảy ra trong tín dụng ngân hàng. 3.3. Đổi mới cơ chế tín dụng ngân hàng phù hợp với đặc điểm các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đặc điểm nổi bật của DNVVN ở Việt Nam là vốn tự có bé, toàn bộ vốn sản xuất kinh doanh chủ yếu là phải vay ngân hàng; mặt khác do những yếu kém trong sản xuất kinh doanh nên tính rủi ro trong cho vay đối với DNVVN, nhất là đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh rất cao. Do vậy nếu cơ chế cho vay của ngân hàng quy định chặt chẽ thì dẫn đến tình trạng ngân hàng không cho vay đưocj, tái lại nếu quy định không chặt chẽ sẽ dẫn đến rủi ro, thất thoát vốn. Để thực hiện chính sách hỗ trợ vốn cho DNVVN phát triển nhưng vẫn bảo toàn được vốn tín dụng, theo tôi cần phải tiếp tục đổi mới cơ chế tín dụng ngân hàng đối với các DNVVN trên một số mặt chủ yếu như: thể lệ cho vay, hình thức tín dụng và chính sách lãi suất. 3.3.1. Sửa đổi và bổ sung thể lệ cho vay. Trong việc sửa đổi và bổ sung thể lệ chó vay của tín dụng ngân hàng đối với các DNVVN, cần quán triệt những quan điểm cơ bản sau đây: - Các nguyên tắc và điều kiện tín dụng đối với các DNVVN không thể tách rời các nguyên tác về điều kiện cho vay đối với nền kinh tế, nhưng do tính đặc thù của DNVVN cần phải quy định phù hợp hơn. - Phải giới hạn mức tín dụng, giới hạn kỳ trả nợ và giới hạn về mặt xử lý khi cho vay. - Phải đổi mới phương thức cho vay đa dạng hoá các hình thứ tín dụng và mở rộng các đối tượng cho vay. - Thực hiện lãi suất cho vay có phân biệt theo từng ngành và theo từng mục đích sử dụng vốn, áp dụng khung lãi suất tối đa và tối thiểu để có chính sách ưu đãi về lãi suất. Trên cơ sở những quan điểm trên, chúng tôi đề nghị cơ chế tín dụng ngân hàng cần phải chỉnh sửa theo hướng sau: 1. Nguyên tắc tín dụng: Tín dụng là quan hệ vay trả, nguồn vốn của tín dụng là nguồn vốn huy động có thời hạn, do đó việc cho vay vốn phải đảm bảo nguyên tắc hoàn trả gốc và lãi đúng thời hạn. Trong thời kỳ bao cấp tín dụng có ba nguyên tắc đó là: - Cho vay có mục đích, có kế hoạch. - Có vật tư hàng hoá tương đương làm bảo đảm. - Hoàn trả gốc và lãi đúng thời hạn. Trong ba nguyên tắc trên suy cho cùng để thực hiện nguyên tắc duy nhất đói là nguyên tắc hoàn trả. Hiện nay các ngân hàng đã chuyển sang hạch toán kinh doanh, tín dụng ngân hàng không còn tình trạng bao cấp, nguyên tắc tín dụng ngân hàng trong cơ chế thị trường phải có một nội dung mới. Đó là phải đáp ứng yêu cầu hạch toán kinh doanh của ngân hàng và phải tôn trọng quyền tự chủ tài chính của khách hàng trong việc sử dụng vốn vay đúng mục đích, linh hoạt, chủ động và phù hợp với cơ chế thị trường. Nghiên cứu các thể lệ chế độ tín dụng của ngân hàng Nhà nước ban hành trong những năm gần đây, chúng tôi chưa thấy thể hiện được yêu cầu nói trên. Đề nghị ngân hàng Nhà nước nghiên cứu làm rõ các nguyên tắc tín dụng trong cơ chế thị trường ở nước ta hiện nay. Và từ nguyên tắc này mà cụ thể hoá trong nghiệp vụ sử dụng vốn vay của khách hàng, tín dụng ngân hàng sao cho vừa đảm bảo tính hiệu quả trong việc sử dụng vốn vay của khách hàng vừa bảo đảm hạch toán kinh doanh của ngân hàng. 2. Mở rộng đối tượng tín dụng: Nghiên cứu cho vay DNVVN ở ngân hàng Bangkok và một số ngân hàng các nước trong khu vực, chúng tôi thấy đối tượng cho vay của ngân hàng rất đa dạng và thích hợp với cơ chế thị trường. Vì đứng trên phương diện kinh doanh của ngân hàng nơi nào có cầu về tín dụng thì ngân hàng cho vay. Do mục đích của tín dụng ngân hàng không những chỉ đầu tư vào sản xuất, kinh doanh mà còn đầu tư vào cả trong lĩnh vực tiêu dùng cá nhân. Cơ chế tín dụng của các nước không phân biệt đối tượng cho vay ngắn hạn là đầu tư vào khâu dự trữ vật tư hàng hoá, cho vay trung hạn là đầu tư vào tài sản cố định như Việt Nam. Để mở rộng đối tượng đầu tư đáp ứng yêu cầu về tín dụng, ngày 21/02/1998 Thống đốc ngân hàng Nhà nước đã có thông tư số 02- TT- NH5 “Hướng dẫn thi hành cho vay vốn phát triển kinh tế gia đình và cho vay tiêu dùng”. Nhưng theo chúng tôi các điều kiện quy định còn hạn hẹp, nhất là cho vay tiêu dùng. Để thích hợp với nhu cầu vay vốn của các DNVVN và để đảm bảo mối quan hệ giữa tích luỹ và tiêu dùng thúc đẩy nền kinh tế phát triển, cơ chế tín dụng ngân hàng cần phải sửa đổi và mở rộng đối tượng cho vay. - Cho vay ngắn hạn không nhất thiết chỉ đầu tư vào tài sản lưu động, mà có thể đầu tư cả vào lĩnh vực mua sắm công cụ sản xuất, máy móc thiết bị, trang thiết bị nội thất, phương tiện vận tải.... (thuộc tài sản cố định) nếu phương án vay vốn của khách hàng đảm bảo trả nợ trong vòng 12 tháng, hoặc khách hàng có nguồn vốn khác cam kết trả nợ trong vòng 12 tháng thì ngân hàng có thể xét cho vay ngắn hạn để đầu tư vào các đối tượng làm tài sản cố định. Giải pháp này nhằm tháo gỡ cho các doanh nghiệp không phải làm các thủ tục xin vay vốn trung và dài hạn, không bị lệ thuộc vào nguồn vốn và mức phán quyết của ngân hàng cơ sở. - Đối tượng cho vay tiêu dùng cá nhân cần được mở rộng và cho vay vào các mục đích sử dụng sau: + Cho vay mua, xây dựng và sửa chữa nhà ở. + Cho vay mua sắm các phương tiện đi lại, nghe nhìn. + Cho vay đi du lịch. + Cho vay đóng học phí, đi học nghề, du học nước ngoài. + Cho vay hiếu, hỷ, chữa bệnh. Tất nhiên việc cho vay này phải được xem xét khả năng hiện thực của người vay trong việc đảm bảo hoàn trả đúng kỳ hạn. 5. Đổi mới phương thức cho vay. Phương thức cho vay tuy là biện pháp kỹ thuật nghiệp vụ của ngân hàng để đảm bảo cho vay đúng nguyên tắc đúng đối tượng, quản lý được khoản cho vay. Nhưng nó là những vấn đề quy định về thủ tục có liên quan đến khách hàng vay vốn. Nếu một phương thức cho vay đề ra qua nhiều thủ tục rườm rà sẽ gây khó khăn phiền phức cho người vay. Trái lại, nếu phương hướng cho vay, quy trình cho vay không chặt chẽ sẽ dẫn tới không an toàn. Việc đổi mới phương thức cho vay phải chặt chẽ về pháp lý, an toàn về tài sản, đơn giản về thủ tục, linh hoạt chủ động về sử dụng vốn. ở Việt Nam hiện nay vẫn tồn tại hai phương thức cho vay được hướng dẫn trong cơ chế hiện hành, đó là cho vay luân chuyển và cho vay từng món. Song phương thức cho vay luân chuyển không phù hợp với cơ chế thị trường nên hầu như các ngân hàng cơ sở đều không vận dụng. Phương thức cho vay phổ biến hiện nay là cho vay từng món, song về thủ tục cho vay quy định quá phức tạp, không phù hợp với trình độ của các doanh nghiệp Việt Nam. Theo tôi cần phải đơn giản một số biểu mẫu, bỏ bớt một số thủ tục không cần thiết. Ví dụ: phương án kinh doanh không nhất thiết mỗi món vay phải xây dựng một phương án. Tờ trình xin vay vốn chỉ cần làm lần đầu thay thế đơn xin vay, giấy nhận nợ, cam kết thế chấp hoặc hợp đồng thế chấp bằng một hợp đồng tín dụng. Để phù hợp với cơ chế tín dụng trong nền kinh tế thị trường cần nghiên cứu hướng dẫn một số phương thức tín dụng mà các nước đang áp dụng một cách phổ biến như: - Cho vay theo số dư (thấu chi) khách hàng có số dư tiền gửi và số dư tiết kiệm tại ngân hàng trên một năm thì được ngân hàng cho vay thấu chi, tức là khách hàng được rút tiền để chi tiêu hoặc thanh toán vượt quá mức dư tiền gửi của khách hàng hoặc vượt quá số dư tiết kiệm gửi tại ngân hàng. Chênh lệch giữa số tiền gửi và số tiền rút là số tiền ngân hàng cho vay thấu chi. Nhưng mức rút tiền phải có giới hạn do ngân hàng xác định. - Chiết khấu chứng từ. Khi mà thị trường chứng khoán ở nước ta phát triển, các luật về lưu thông hối phiếu và kỳ phiếu được ban hành thì nghiệp vụ chiết khấu chứng từ là nghiệp vụ được áp dụng phổ biến. Hiện nay một số ngân hàng thương mại có cơ chế hướng dẫn nghiệp vụ này nhưng thực tế các ngân hàng cơ sở chỉ cho vay thế chấp bộ chứng từ xuất. 3.3.2. Đa dạng hoá các hình thức tín dụng. Những năm tới các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng nước ta sẽ áp dụng một số hình thức tín dụng mới thích ứng với sự hoạt động ngày càng đa dạng của các doanh nghiệp cũng như những tiến bộ về công nghệ ngân hàng. Những hình thức tín dụng đã và sẽ được thực hiện ở Việt Nam là: - Tín dụng bảo lãnh. - Tín dụng thuê mua. - Tín dụng hợp vốn (đồng tài trợ). - Nghiệp vụ cầm đồ, môi giới, chứng khoán. Các hình thức tín dụng này ở Việt Nam hiện nay đã có các văn bản hướng dẫn nhưng thời gian qua hoạt động còn kém chưa phát triển. Do quan điểm chỉ đạo chưa nhất quan, do các cơ chế pháp luật chưa được ban hành để tạo điều kiện cho các hình thức tín dụng mới phát triển.- 1. Về nghiệp vụ bảo lãnh: Ngân hàng Nhà nước đã ban hành quyết định 196 - QĐ - NH14 ngày 16/09/1998 về “Quy chế nghiệp vụ bảo lãnh của ngân hàng “ đây là một hình thức tín dụng tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tranh thủ được nguồn vốn nước ngoài dưới hình thức nhập vật tư, thiết bị trả chậm có sự bảo lãnh của ngân hàng. Hình thức này khá phát triển trong những năm gần đây, giải quyết được nhu cầu vốn, nhất là vốn ngoại tệ để nhập thiết bị, vật tư hàng hoá. Nhiều dự án nhập thiết bị đồng bộ một nhà máy với công nghệ và kỹ thuật hiện đại hàng chục triệu USD được ngân hàng bảo lãnh đã phát huy hiệu quả. Nhưng cũng có nhiều ngân hàng, nhiều trường hợp bảo lãnh một cách vô tội vạ, không chấp hành đúng chế độ bảo lãnh đã dẫn đến tình trạng doanh nghiệp được bảo lãnh nhập những thiết bị về không tiêu thụ được hoặc kinh doanh thua lỗ, ngân hàng không quản lý được vốn hàng trả chậm, đến thời hạn thanh toán doanh nghiệp không có khả năng thanh toán, ngân hàng phải trả thay. Hiện nay có nhiều quan điểm đề nghị hạn chế hoặc cấm hẳn việc cho mở L/C trả chậm. Theo quan điểm của tôi việc bảo lãnh mở L/C trả chậm là một loại hình tín dụng phổ biến và phù hợp với cơ chế thị trường, nhất là đối với nước ta hiện nay đang thiếu vốn. Do vậy việc bảo lãnh tín dụng cần được phát triển. Song để đảm bảo an toàn vốn, ngân hàng Nhà nước cần nghiên cứu ban hành quy chế bảo lãnh chặt chẽ. Về chủ trương nên mở rộng hình thức bảo lãnh để nhập thiết bị đồng bộ, hiện đại để thực hiện các dự án đã được các cấp có thẩm quyền thẩm định và phê duyệt. Cấm nhập vật tư, hàng hoá trong nước có khả năng cung ứng để bảo vệ hàng nội địa. 2. Tín dụng thuê mua: Tín dụng thuê mua là hoạt động cho thuê máy móc, thiết bị và các động sản khác phục vụ cho sản xuất kinh doanh được các tổ chức tín dụng mua theo yêu cầu của bên thuê. Bên thuê thanh toán tiền cho tổ chức tín dụng trong suốt thời hạn thuê đã được hai bên thoả thuận và không được huỷ bỏ khi kết thúc thời hạn thuê. Bên thuê được quyền quản lý, sử dụng tài sản thuê, hoặc mua lại tài sản thuê, hay tiếp tục thuê tài sản thuê theo các điều kiện đã thoả thuận trong hợp đồng thuê mua. Do đặc điểm của DNVVN là vốn ít, các điều kiện để được vay vốn ngân hàng không đảm bảo, đặc biệt là không có tài sản thế chấp để vay vốn ngân hàng, tín dụng thuê mua, nhất là thuê mua thiết bị phát triển sẽ tạo điều kiện rất thuận lợi cho các DNVVN. ở các nước công nghiệp phát triển nhiều công ty thuê mua quốc tế. Ngày 27/05/1999 Thống đốc ngân hàng Nhà nước đã có quyết định số 149 - QĐ - NH5 “về việc ban hành thể lệ tín dụng thuê mua” các ngân hàng thương mại đã có các văn bản hướng dẫn, nhưng việc triển khai thực hiện hết sức khó khăn. Một số ngân hàng thương mại vận dụng tín dụng thuê mua bằng hình thức bắt nợ, chủ yếu là nhà và đất để sử dụng vào nghiệp vụ kinh doanh của mình, chưa triển khai việc cho thuê thiết bị, máy móc, gần đây đã có một số tổ chức liên doanh thành lập công ty thuê mua ra đời nhưng chưa hoạt động. 3. Tín dụng hợp vốn: Là hình thức tín dụng đồng tài trợ vào một dự án. Do nhu cầu đổi mới thiết bị công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh có những dự án đòi hỏi quy mô vốn đầu tư rất lớn. Nếu chỉ một ngân hàng đứng ra đầu tư sẽ khó khăn về nguồn vôn, về nguy cơ rủi ro. Hình thức tín dụng hợp vốn hay nói cách khác là nhiều ngân hàng cùng tham gia đầu tư vào một dự án sẽ giải quyết được những khó khăn trên. ở Việt Nam hình thức tín dụng này đã và đang áp dụng có hiệu quả. Song để có thể mở rộng hình thức tín dụng này ngân hàng Nhà nước cần ban hành một thể lệ cho vay vốn đồng tài trợ. 3.3.3. Thực hiện chính sách lãi suất hỗ trợ cho các DNVVN. Để lãi suất trở thành công cụ điều hành chính sách tiền tệ, ngân hàng Nhà nước đã thực hiện một bước quan trọng là chuyển từ lãi suất âm sang lãi suất dương, việc chuyển này có ý nghĩa quan trọng trong việc sử dụng lãi suất làm công cụ điều hành vĩ mô. Từ chỗ Nhà nước quy định rất cụ thể mức lãi suất đối với các ngành, các thành phần kinh tế, các đối tượng đầu tư và dược áp dụng thống nhất đối với các ngân hàng thương mại. Hiện nay ngân hàng Nhà nước chỉ quy định một trần lãi suất, trên cơ sở trần đó các ngân hàng, tổ chức tín dụng tự xác định mức lãi suất cụ thể của mình. Đã thu hẹp dần khoảng cách giữa lãi suất ngoại tệ và nội tệ, và đã xử lý được sự bất hợp lý về lãi suất dài hạn và ngắn hạn. Những chủ trương về đổi mới cơ chế lãi suất ở tầm vĩ mô của ngân hàng Nhà nước là rất phù hợp với cơ chế thị trường.Song về cơ chế lãi suất cụ thể cũng cần được nghiên cứu có những chế độ ưu đãi, kích thích một số ngành sản xuất phát triển theo đường lối chính sách của Đảng. Hiện nay trong các văn bản hướng dẫn về lãi suất các ngân hàng chỉ quy định một mức lãi suất áp dụng cho các ngành, các thành phần kinh tế. Ngoài ra có chính sách ưu đãi đối với một số dự án cho vay vốn với lãi suất thấp như cho vay sinh viên, cho vay tạo việc làm, Việt Đức, tài trợ xuất khẩu và cho vay đối với vùng hải đảo, vùng núi cao được thấp hơn 15% lãi suất cùng loại. Bỏ chế độ ưu đãi lãi suất đối với ngành sản xuất, và chưa có ưu đãi về lãi suất đối với DNVVN. Nghiên cứu cơ chế lãi suất ngân hàng ở một số nước chúng tôi thấy, ví dụ ở Thái Lan năm 1996 ngân hàng Nhà nước quy định lãi suất cho các ngân hàng thương mại áp dụng mức lãi suất tối đa và tối thiểu. Khách hàng thường xuyên có tín nhiệm, vay nhiều, kinh doanh vào mục đích ưu tiên, bảo đảm về yêu cầu tài sản thế chấp, báo cáo tốt thì được hưởng lãi suất tối thiểu là 12,5%/năm. Những khách hàng không thuộc diện ưu tiên, những đối tượng cho vay cần hạn chế tín dụng thì áp dụng lãi suất tối đa là 19%/năm. ở Việt Nam theo chúng tôi nên áp dụng lãi suất tối đa, tối thiểu để phân biệt chính sách tín dụng đối với từng ngành kinh tế, từng mục đích sử dụng vốn. Những ngành cần khuyến khich đầu tư, những loại hình doanh nghiệp cần khuyến khích phát triển thì được hưởng lãi suất ưu đãi với mức lãi suất tối thiểu và ngược lại áp dụng lãi suất tối đa. Lãi suất tối thiểu còn được ưu đãi đối với khách hàng vay nhiều vốn, vay trả ngân hàng sòng phẳng, không vi phạm quy chế tín dụng để thực hiện chính sách khách hàng. 3.4. Xác lập và hoàn thiện điều kiện và môi trường cho tín dụng ngân hàng hỗ trợ DNVVN phát triển. Tại cuộc hội thảo về phát triển DNVVN ở Việt Nam năm 1999 nhiều tham luận sau khi phân tích vai trò, đặc điểm, những khó khăn và thuận lợi của các DNVVN ở Việt Nam đều đi đến thống nhất: để đẩy mạnh phát triển các DNVVN ở Việt Nam cần xem xét giải quyết các vấn đề như: tạo vốn để phát triển DNVVN; nâng cao trình độ công nghệ áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật tạo điều kiện để các DNVVN thâm nhập vào thị trường trong nước và nước ngoài; hỗ trợ và xử lý các thông tin cần thiết cho các DNVVN; đào tạo và đào tạo lại cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật, nghiệp vụ và công nhân cho các DNVVN; tạo hành lang pháp lý bảo đảm cho các DNVVN được tự do hoạt động sản xuất kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật của Nhà nước. Kết luận 1. ở nước ta hiện nay, DNVVN chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số doanh nghiệp của cả nước, bao gồm hầu hết các DNNN do địa phương quản lý và các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Do đó, nó có khả năng to lớn trong việc mở rộng sản xuất, phát triển ngành nghề, tạo việc làm, tăng thu nhập cho hàng chục triệu lao động trong các thành phần kinh tế. DNVVN đã sản xuất chế biến và lưu thông một khối lượng hàng hoá, dịch vụ lớn đáp ứng kịp thời mọi nhu cầu cho tiêu dùng sản xuất và tiêu dùng cá nhân của toàn xã hội ngày càng đa dạng và phong phú. DNVVN do phân bố rộng khắp trên mọi vùng đất nước nên nó có vai trò tích cực trong việc khai thác có hiệu quả tiềm năng và thế mạnh của mỗi vùng, thúc đẩy kinh tế địa phương phát triển, góp thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Tuy nhiên trong quá trình phát triển của mình, DNNN còn gặp không ít khó khăn, Trong đó có khó khăn về vốn để đổi mới thiết bị công nghệ, tăng năng suất lao động tạo thế đứng trong cơ chế thị trường là khó khăn lớn nhất, cần phải có sự hỗ trợ của tín dụng ngân hàng. 2. Tín dụng ngân hàng có chức năng huy động mọi nguồn vốn nhà rỗi trong nền kinh tế để cho vay, nên nó là công cụ tích tụ và tập trung vốn để hỗ trợ các DNVVN, thực hiện tái sản xuất mở rộng theo chiều rộng và chiều sâu, thực hiện việc tự do di chuyển vốn từ ngành có tỷ suất lợi nhuận thấp sang ngành có tỷ suất lợi nhuận cao (đó là sự phân phối lại vốn giữa các ngành một cách hợp lý), là công cụ hút tiền từ lưu thông và đẩy tiền ra lưu thông, góp phần chống lạm phát, ổn định tiền tệ giá cả, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho các DNVVN. Để đáp ứng yêu cầu vốn cho các DNVVN phát triển, trước hết tín dụng ngân hàng phải có những giải pháp tạo vốn thích hợp để huy động nguồn vốn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn trong các tổ chức kinh tế, xã hội và các tầng lớp dân cư; phát triển thị trường vốn trong nước, mở rộng quan hệ vay vốn ODA, tiến tới phát hành trái phiếu vay vốn của nước ngoài, thu hút có hiệu quả nguồn vốn FDI. 3. Tín dụng ngân hàng cần mở rộng hình thức cho vay vốn trung và dài hạn để các DNVVN thực hiện từng bước việc đổi mới thiết bị và công nghệ; mở rộng cho vay đối với mọi thành phần kinh tế nhằm thúc đẩy nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần phát triển mạnh mẽ theo định hướng XHCN; đồng thời nâng cao chất lượng, nghiệp vụ tín dụng ngân hàng, bảo đảm an toàn vốn cho vay, hạn chế đến mức thấp nhất những rủi ro thiệt hại có thể xảy ra. Cơ chế tín dụng ngân hàng cần phải tiếp tục đổi mới, bổ sung và hoàn thiện hơn nữa. Đó là việc sửa đổi và bổ sung các nguyên tắc cho vay, điều kiện cho vay, thể lệ thế chấp, cầm cố và bảo lãnh tài sản khi vay vốn ngân hàng, và đổi mới phương thức cho vay. Đó là việc đa dạng hoá các hình thức tín dụng ngân hàng bằng việc mở rộng nghiệp vụ bảo lãnh của ngân hàng, phát triển hình thức tín dụng thuê mua, tín dụng hợp vốn. Đó là việc đổi mới cơ chế chính sách ngân hàng theo hướng áp dụng mức lãi suất tối đa và tối thiểu cho từng loại khách hàng, cho từng ngành kinh tế trong từng lĩnh vực kinh tế, từng mục đích sử dụng nhằm phục vụ tốt mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước. 4. Để giúp đỡ các DNVVN phát triển mạnh mẽ, đúng hướng và có hiệu quả kinh tế xã hội cao, cần thành lập các tổ chức tư vấn giúp cho các DNVVN xây dựng phương án sản xuất kinh doanh, lựa chọn công nghệ, hoàn thiện Maketing, cung cấp thông tin đào tạo cán bộ, thành lập hiệp hội các DNVVN, hệ thống ngân hàng đầu tư phát triển cho các DNVVN, và cuối cùng cần tăng cường các biện pháp quản lý Nhà nước để các DNVVN phát triển sản xuất kinh doanh theo đúng pháp luật hiện hành. Danh mục tài liệu tham khảo 1. Lê Ngọc Châu: Doanh nghiệp vừa và nhỏ với việc chuyển giao đổi mới công nghệ kỹ thuật- tài liệu Hội thảo DNVVN 1999 do Phong thương mại và công nghiệp Việt Nam tổ chức. 2.Học viện chính trị quốc gia Hồ CHí Minh - Kinh tế chính trị giáo trình cao cấp tập I - Hà Nội năm 1999 3.Xí nghiệp vừa và nhỏ ở Nhật Bản 4.Làm thế nào để vận dụng kinh nghiệm Đài Loan nhằm phát triển quan hệ mậu dịch giữa Đài Loan và Việt Nam 5.Báo cáo chính trị của ban chấp hành trung ương đảng tại đại hội đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ của đảng năm 2000 6.Niên giám thống kê năm 2000 7.Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII(Tháng 6 - 2000) 8.Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (Tháng 12 - 1990) 9. Phạm Bá Cửu: Cơ hội đầu tư và chuyển giao công nghệ của các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại thành phố Hồ Chí Minh, tài liệu hội thảo DNVVN 1999 do Phòng thương mại và công nghiệp tổ chức. 10. Trần Tiến Cường- Trần Kim Bảo: Một số vấn đề phát triển DNVVN thế giới và Việt Nam, tài liệu hội thảo DNVVN 1999 do Phòng thương mại và công nghiệp tổ chức. 11. Chính sách tiền tệ của ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2000- 2005, Tài liệu hội thảo khoa học NHNN Hà Nội tháng 8 năm 2000 do Ngân hàng Nhà nước tổ chức. 12. Các thị trường trái phiếu quốc tế BNP, Hà Nội 1995. 13. Nguyễn Sinh Cúc: Tổng quản lý kinh tế công nghiệp sau năm 5 xây dựng và phát triển 1945- 1955, TCCS số 11 tháng 9 năm 1999. 14. Đảng cộng sản Việt Nam- Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI, tháng 12 năm 1990, NXB Sự thật, Hà Nội năm 1991. 15. Đảng cộng sản Việt Nam- Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII, tháng 6 năm 1995, NXB Sự thật, Hà Nội năm 1995. 16. Đảng cộng sản Việt Nam- Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, NXB Sự thật, Hà Nội 1995. 17. Đảng cộng sản Việt Nam- Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế o xã hội đến năm 2005, NXB Sự thật, Hà Nội 1995. 18. Đảng cộng sản Việt Nam- Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, tháng 6 năm 2000, NXB CTQG, Hà Nội năm 2000. 19. Phương Hà- Nghệ thuật điều hành DNVVN, NXB Thành phố Hồ Chí Minh năm 2000. 20. Nguyễn Thục Hoát- Những giải pháp chủ yếu để mở rộng và nâng cao hiệu quả tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh, Luận án PTS năm 1997. 21. Hoàng Ngọc Hoà- Tín dụng ngân hàng trong kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, Luận án PTS, Hà Nội 1996. 22. Thái Hà- Những sự kiện quan trọng trong hoạt động đổi mới Ngân hàng, Báo Hà Nội mới ngày 18 tháng 6 năm 2000. 23. Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh- Kinh tế chính trị, giáo trình cao cấp, Tập I- Hà Nội năm 1999. 24. Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh- Kinh tế chính trị, giáo trình cao cấp, Tập II- Hà Nội năm 1999. 25. Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh- Một số vấn đề quản lý kinh tế vĩ mô nền kinh tế thị trường ở nước ta, NXB CTQG, Hà Nội năm 1997. 26. Xuân Hoành- Sự biến động giá cả thị trường và hiện tượng đọng vốn ở các ngân hàng thương mại, TCCS số 18 tháng 9 năm 2000. 27. Cao Sỹ Khiêm- Chính sách tiền tệ quốc gia giai đoạn 2000- 2005, Tạp chí Cộng sản số 9 tháng 5 năm 2000. 28. Cao Sỹ Khiêm- Chiến lược vốn phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Thời báo ngân hàng số đặc biệt kỷ niệm 45 năm ngày thành lập Ngân hàng Nhà nước TW. 29. Nguyễn Ngọc Lê- Thực trạng doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn thành phố Hà Nội, tài liệu hội thảo DNVVN 1999 do Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam chủ trì. 30. Luật DNNN, NXB CTQG, Hà Nội 1999. 31. Nguyễn Đại Lai- Lãi suất một điều hành tất yếu trong điều hành kinh tế vĩ mô, Tạp chí thông tin giá cả tháng 3 năm 2000. Lời mở đầu 1 Chương I 3 Tín dụng ngân hàng và vai trò của nó đối với việc phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ 3 1.1 Doanh nghiệp vừa và nhỏ vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường. 3 1.1.1 Những ý kiến khác nhau về định nghĩa doanh nghiệp vừa và nhỏ. 3 1.1.2. Những đặc điểm chủ yếu của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. 4 1.1.3. Vai trò của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế thị trường. 7 1. Doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm tỷ lệ cao về doanh nghiệp, về thu hút lao động và đóng góp thu nhập quốc dân cho đất nước. 7 2. Doanh nghiệp vừa và nhỏ đáp ứng tích cực nhu cầu tiêu dùng xã hội ngày càng phong phú, đa dạng mà các doanh nghiệp lớn không thể làm được. 8 3. Doanh nghiệp vừa và nhỏ có vai trò quan trọng trong lĩnh vực phân phối lưu thông và trong sản xuất, chế biến hàng hoá xuất khẩu. 8 4. Doanh nghiệp vừa và nhỏ có vai trò tích cực đối với sự phát triển kinh tế địa phương, khai thác tiềm năng thế mạnh của từng vùng. 10 1.1.4. Một số khó khăn và hạn chế của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. 12 1. Khó khăn về vốn. 12 2. Khó khăn trong việc ứng dụng kỹ thuật và công nghệ mới. 13 3. Khó khăn trong việc thâm nhập vào thị trường thế giới. 14 4. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ có mức độ rủi ro cao hơn so với các doanh nghiệp lớn. 15 1.2. Đặc điểm của tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta. 16 1.2.1. Tín dụng ngân hàng hoạt động đan xen đối với các loại hình tín dụng khác. 17 1.2.2 Tính chất đa dạng hoá các hoạt động tín dụng ngân hàng. 18 1.3. Vai trò của tín dung ngân hàng đối với sự hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. 20 1.3.1. Tín dụng ngân hàng là một công cụ tích tụ và tập trung vốn để hỗ trợ cho các doanh nghiệp tái sản xuất mở rộng theo chiều rộng và theo chiều sâu. 20 1.3.2. Tín dụng ngân hàng là một công cụ để Nhà nước điều tiết kinh tế vĩ mô, góp phần chống lạm phát, ổn định tiền tệ và giá cả, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp. 22 1.3.3. Tín dụng ngân hàng hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong việc tự do di chuyển vốn từ ngành này sang ngành khác. 24 1.3.4. Lãi suất tín dụng ngân hàng là đòn bẩy mạnh mẽ đối với việc huy động vốn và cho vay vốn của ngân hàng. 25 1. Mức lãi suất nhận gửi của tín dụng ngân hàng phải đủ bảo tồn vốn và có lãi cho người gửi. Hay nói cách khác lãi suất nhận gửi của tín dụng ngân hàng phải bằng chỉ số trượt giá cộng với lãi suất cơ bản. Nguyên tắc này nhằm khuyến khích những người có tiền chưa dùng đến đem gửi vào ngân hàng. Vì đây là việc làm “vừa ích nước vừa lợi nhà”. 26 0 < z’ Ê 28 Chương 2: 30 THực trạng tín dụng tại ngân hàng công thương Ba Đình trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta 30 2.1.Thực trạng các doanh nghiệp vừa và nhỏ 30 2.1.1. Sự hoạt động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ - thành tựu và hạn chế. 30 1. Những thành tựu đạt được của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. 30 2. Những hạn chế và yếu kém của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. 34 2.2. Sự hỗ trợ của tín dụng ngân hàng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. 38 2.2.1. Những thành tựu đạt được của tín dụng ngân hàng trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ. 39 1. Nguồn vốn huy động tăng trưởng khá, đáp ứng được nhu cầu vốn ngày càng tăng của nền kinh tế nói chung và cho sự phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng. 39 2. Tín dụng ngân hàng đã góp phần thực hiện chính sách phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, phát triển các loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ ngoài quốc doanh. 41 3. Cơ cấu tín dụng đã thay đổi theo hướng nâng dần tỷ trọng cho vay vốn trung hạn, dài hạn đáp ứng nhu cầu mở rộng sản xuất kinh doanh đổi mới thiết bị theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. 42 1. Tín dụng ngân hàng chưa bảo đảm được yêu cầu vốn dài hạn cho sự nghiệp công nghiệp hoá nói chung, cho doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng. 43 2. Lãi suất tín dụng chưa hợp lý hạn chế vai trò thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. 44 3. Hiệu quả tín dụng chưa cao, nợ khê đọng khó đòi và nợ quá hạn lãi treo phát sinh ngày một tăng. 45 Chương 3 54 Những giải pháp chủ yếu để mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng ngân hàng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta 54 3.1. Tạo vốn để phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ. 54 3.1.1. Tăng cường huy động vốn ngắn hạn, dài hạn trong các tổ chức kinh tế và dân cư. 55 1. Hoàn thiện các hình thức tiền gửi tiết kiệm của dân cư: 55 2. Đa dạng hoá các công cụ huy động vốn của ngân hàng. 55 3. Thực hiện chính sách ưu đãi với khách hàng. 56 4. Đẩy mạnh việc mở tài khoản tiền gửi thanh toán của các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế . 56 5. Mở rộng các dịch vụ ngân hàng, . 57 3.1.2 Phát triển thị trường vốn để thu hút vốn. 57 3.1.3. Khuyến khích các hộ tư nhân bỏ vốn ra đầu tư phát triển. 58 3.2. Mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. 58 3.2.1. Mở rộng cho vay vốn trung hạn và dài hạn để giúp cho các DNVVN đổi mới công nghệ thiết bị. 59 3.2.2. Mở rộng cho vay đối với các thành phần kinh tế, điều chỉnh cơ cấu đầu tư phục vụ mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước. 60 1. Mở rộng cho vay đối với các thành phần kinh tế. 60 2. Điều chỉnh cơ cấu đầu tư một cách cân đối hợp lý giữa các ngành sản xuất với các ngành thương mại- dịch vụ khuyến khích đầu tư cho xuất khẩu. 61 3.2.3. Nâng cao chất lượng tín dụng ngân hàng bảo đảm an toàn vốn và hạn chế rủi ro. 62 3.3. Đổi mới cơ chế tín dụng ngân hàng phù hợp với đặc điểm các doanh nghiệp vừa và nhỏ. 64 3.3.1. Sửa đổi và bổ sung thể lệ cho vay. 65 1. Nguyên tắc tín dụng: 65 2. Mở rộng đối tượng tín dụng: 66 3.3.2. Đa dạng hoá các hình thức tín dụng. 68 1. Về nghiệp vụ bảo lãnh: 69 2. Tín dụng thuê mua: 70 3. Tín dụng hợp vốn: 70 3.3.3. Thực hiện chính sách lãi suất hỗ trợ cho các DNVVN. 71 3.4. Xác lập và hoàn thiện điều kiện và môi trường cho tín dụng ngân hàng hỗ trợ DNVVN phát triển. 72 Kết luận 72 Danh mục tài liệu tham khảo 75

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0238.doc
Tài liệu liên quan