Đề tài Nghiên cứu mạng thế hệ tiếp theo và ứng dụng

Tháng 11/ 2006 dự án mở rộng NGN pha 4. VNPT đã triển khai NGN xuống các tổng đài và hệ thống truyền dẫn nội hạt. Cuối năm 2008 VNPT đã hoàn thành triển khai toàn bộ mạng lưới NGN, bao gồm: hoàn tất phần mạng lõi dựa trên công nghệ IP và mở rộng phần truy nhập tới mạng nội hạt. Việc hoàn tất triển khai NGN sẽ giúp cho VNPT giảm chi phí đầu tư mở rộng mạng lưới, giảm chi phí vận hành khai thác và bảo dưỡng. Đến nay VNPT đã hoàn tất xây dựng mạng NGN. VNPT đã sẵn sàng cung cấp tất cả các dịch vụ băng rộng vơi chất lượng dịch vụ có tiêu chuẩn quốc tế. Đây sẽ là lợi thế của VNPT khi mà xu hướng các dịch vụ băng rộng sẽ phát triển mạnh mẽ trong tương lai.

pdf74 trang | Chia sẻ: baoanh98 | Lượt xem: 970 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nghiên cứu mạng thế hệ tiếp theo và ứng dụng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ế cho chuyển mạch gói và có khả năng liên kết với mạng PSTN. Các tính chất khác biệt của một hệ thống chuyển mạch mềm bao gồm: - Là hệ thống có khả năng lập trình để xử lý cuộc gọi và hỗ trợ các giao thức của mạng PSTN, ATM và IP. - Hoạt động trên nên các máy tính và các hệ điều hành thương mại. - Điều khiển các Gateway trung kế ngoài (External Trunking Gateway), Gateway truy cập (Access Gateway) và các Server truy nhập từ xa RAS (Remote Access Server). - Nó tái sử dụng các dịch vụ IN thông qua giao diện danh bạ mở, mềm dẻo. - Cung cấp các giao diện lập trình ứng dụng mở API cho các nhà phát triển thứ 3 nhằm tạo ra các dịch vụ thế hệ sau. 39 - Nó có chức năng lập trình cho các hệ thống Back office. - Có hệ thống quản lý tiên tiến trên cơ sở máy chủ cho tất cả các module phần mềm. Một đặc điểm nữa của Softswitch là Softswitch không phải làm nhiệm vụ cung cấp kênh kết nối như tổng đài vì liên kết thông tin đã được cơ sở hạ tầng mạng NGN thực hiện theo các công nghệ chuyển mạch gói. Tức là công nghệ chuyển mạch mềm không thực hiện bất cứ “chuyển mạch” gì. Tất cả các công việc của Softswitch được thực hiện với một hệ thống các module phần mềm điều khiển và giao tiếp với các phần khác của mạng NGN, chạy trên một hệ thống máy chủ có hiệu năng, độ tin cậy và độ sẵn sàng ở cấp độ nhà cung cấp dịch vụ. 2.4.3 Vị trí của Softswitch Do có chức năng là xử lý cuộc gọi (Call control) nên vị trí tương ứng của Softswitch trong mô hình phân lớp chức năng của NGN là lớp điều khiển cuộc gọi và báo hiệu (Call control and Signaling Layer). Lớp truyền dẫn và truy nhập Lớp truyền thông Lớp điều khiển Lớp ứng dụng Softswitch Hình 2.10 Vị trí của Softswitch 40 2.4.4 Thành phần chính của Softswitch Thành phần chính của chuyển mạch mềm là bộ điều khiển cổng thiết bị Media Gateway Controller (MGC). Bên cạnh đó còn có các thành phần khác hỗ trợ hoạt động như: Signalling Gateway (SG), Media Gateway (MG), Media Server (MS), Application Server (AS)/Feature Server (FS) như hình 2.11. Hình 2.11 Thành phần chính của Softswitch 41 Và sơ đồ kết nối và giao thức sử dụng giữa các thành phần ở trên được mô tả như hình 2.12: Một Media Gateway Controller có thể quản lý nhiều Media Gateway. Hình trên chỉ minh họa 1 MGC quản lý 1 MG. Và một Media Gateway có thể nối đến nhiều loại mạng khác nhau. 2.4.5 Khái quát hoạt động của Softswitch Ở đây chỉ xét trường hợp thuê bao gọi đi là một thuê bao thuộc mạng cung cấp dịch vụ thoại truyền thống PSTN. Các trường hợp khác thì hoạt động của chuyển mạch mềm Softswitch cũng sẽ tương tự. Hoạt động của phần mềm này bao gồm các bước sau: 1. Khi có một thuê bao nhấc máy (thuộc PSTN) và chuẩn bị thực hiện cuộc gọi thì tổng đài nội hạt quản lý thuê bao đó sẽ nhận biết trạng thái MGCP Megaco SIGTRAN ENUM/TRIP MGCP SIP SIP SIP SIP Server tính năng/ ứng dụng Server phương tiện Cổng báo hiệu Bộ điều khiển cổng phương tiện Bộ điều khiển cổng phương tiện Bộ điều khiển cổng phương tiện Cổng phương tiện SS7 PSTN TDM/ATM Mạng IP Các mạng khác (Không phải IP) Hình 2.12 Kết nối MGC với các thành phần khác của NGN 42 off-hook của thuê bao. Và Signaling Gateway (SG) nối với tổng đài này thông qua mạng SS7 cũng nhận biết được trạng thái mới của thuê bao. 2. SG sẽ báo cho MGC trực tiếp quản lý mình thông qua CA-F đồng thời cung cấp tín hiệu dial-tone cho thêu bao. Ta gọi MGC này là Caller-MGC. 3. Caller-MGC gửi yêu cầu tạo kết nối đến Media Gateway (MG) nối với tổng đài nội hạt ban đầu nhờ MGC-F. 4. Các số do thuê bao nhấn sẽ được SG thu nhập và chuyển tới Caller- MGC. 5. Caller-MGC sử dụng những số này để quyết định công việc tiếp theo sẽ thực hiện. Các số này sẽ được chuyển tới chức năng R-F và R-F sử dụng thông tin lưu trữ của các server để có thể định tuyến cuộc gọi. Trường hợp đầu cuối đích cùng loại với đầu cuối gọi đi (nghĩa là cũng là một thuê bao của mạng PSTN): nếu thuê bao bị gọi cũng thuộc sự quản lý của Caller-MGC thì thực hiện bước 7. Nếu thuê bao này thuộc sự quản lý của một MGC khác thì thực hiện bước 6. Còn nếu thuê bao này là một đầu cuối khác loại thì MGC sẽ đồng thời kích hoạt chức năng IW-F để khởi động bộ điều khiển tương ứng và chuyển cuộc gọi đi. Lúc này thông tin báo hiệu sẽ được một loại Gateway khác xử lý. Và quá trình truyền thông tin sẽ diễn ra tương tự như kết nối giữa 2 thuê bao thoại thông thường. 6. Caller-MGC sẽ gởi yêu cầu thiết lập cuộc gọi đến một MGC khác. Nếu chưa đến đúng MGC của thuê bao bị gọi (ta gọi là Callee-MGC) thì MGC này sẽ tiếp tục chuyển yêu cầu thiết lập cuộc gọi đến MGC khác cho đến khi đến đúng Callee-MGC. Trong quá trình này, các MGC trung gian luôn phản hồi lại MGC đã gởi yêu cầu đến nó. Các công việc này được thực hiện bởi CA-F. 43 7. Callee-MGC (Caller-MGC) gởi yêu cầu tạo kết nối với MG nối với tổng đài nội hạt của thuê bao bị gọi (Callee-MG). 8. Đồng thời Callee-MGC gởi thông tin đến Callee-SG, thông qua mạng SS7 sẽ làm rung chuông thuê bao bị gọi. 9. Khi Callee-SG nhận được bản tin báo trạng thái của thuê bao bị gọi (giả sử là rỗi) thì nó sẽ gởi ngược thông tin này trở về Callee-MGC. 10. Và Callee-MGC sẽ phản hồi về Callee-MGC để báo mình đang liên lạc với người được gọi. 11. Callee-MGC gởi thông tin để cung cấp tín hiệu Ring-back-tone cho Callee-MGC, qua Callee-SG đến người gọi. 12. Khi thuê bao bị gọi nhấc máy thì quá trình thông báo tương tự các bước trên xảy ra: qua nút báo hiệu số 7, thông tin nhấc máy qua Callee- SG đến Callee-MGC, rồi đến Caller-MGC, qua Caller-SG rồi đến thuê bao thực hiện cuộc gọi. 13. Kết nối giữa thuê bao gọi đi và thuê bao bị gọi được hình thành thông qua Caller-MG và Callee-MG. 14. Khi chấm dứt cuộc gọi thì quá trình sẽ diễn ra tương tự như lúc thiết lập 44 Hình 2.13 Quá trình thực hiện một cuộc gọi khi sử dụng chuyển mạch mềm 45 Các mã bản tin báo hiệu: IAM: (Initial Address Message): Bản tin địa chỉ khởi đầu chứa các thông tin cần thiết cho việc định tuyến và chiếm kênh đến tổng đài kết cuối. Bản tin này thường chứa số thuê bao bị gọi. ACM: (Address Complete Message): Bản tin địa chỉ hoàn thành, được gửi từ tổng đài kết cuối để xác nhận hoàn thành việc nhận các thông tin địa chỉ từ phía tổng đài chủ gọi. ANM:( Answer Message): Bản tin trả lời, thông báo cho tổng đài chủ biết rằng thêu bao bị gọi đã nhấc máy, và sau bản tin này tổng đài chủ gọi bắt đầu tính cước cuộc gọi. CRCX: (Create Connection): Là lệnh từ MGC truyền đến MG yêu cầu tạo kết nối giữa các đầu cuối. MDCX: (Modify Connection): Lệnh truyền từ MGC đến MG. Lệnh này được sử dụng khi đặc tính kết nối cần thay đổi (thay đổi các tham số trong một kết nối đã được mở trước đó). INVITE: Thiết lập phiên. 18x: Phản hồi chuông cho thuê bao chủ gọi. 200: Đáp ứng thành công cho một yêu cầu bản tin INVITE. ACK: Những yêu cầu này tương ứng với một yêu cầu INVITE. Chúng là sự xác nhận cuối cùng từ một hệ thống cuối và chấm dứt một giao dịch được khởi tạo bởi INVITE. 2.5 CÁC CÔNG NGHỆ LÀM NỀN CHO NGN Các công nghệ phổ biến như: IP, ATM, IP/ATM, MPLS. 2.5.1 IP (Internet Protocol – giao thức liên mạng) IP là giao thức chuyển tiếp gói tin. Việc chuyển tiếp gói tin thực hiện theo cơ chế phi kết nối không sử dụng các bản tin báo hiệu để thiết lập kết nối, phương thức chuyển tin là chuyển theo từng chặng một. 46 IP định nghĩa cơ cấu đánh số, cơ cấu chuyển tin, cơ cấu định tuyến và các chức năng điều khiển ở mức thấp (ICMP). Gói tin IP gồm địa chỉ của bên nhận, địa chỉ là số duy nhất trong toàn mạng và mang đầy đủ thông tin cần cho việc chuyển gói tới đích. Cơ cấu định tuyến có nhiệm vụ tính toán đường đi tới các nút trong mạng. Do vậy, cơ cấu định tuyến phải được cập nhập các thông tin về topo mạng, thông tin về nguyên tắc chuyển tin và nó phải có khả năng hoạt động trong môi trường mạng gồm nhiều nút. Kết quả tính toán của cơ cấu định tuyến được lưu trong các bảng chuyển tin chứa thông tin về chặng tiếp theo để có thể gửi gói tin tới hướng đích. Tất cả các gói tin được chuyển đi dựa trên các giao thức định tuyến lớp mạng (như giao thức tìm đường dẫn ngắn nhất [OSPF] hay giao thức cổng biên [BGP], hay định tuyến tĩnh. Các router xử lý tất cả các gói tin như nhau và có quyền hủy bỏ các gói tin mà không cần bất kỳ thông báo nào cho cả bên gửi và bên nhận. Chính vì vậy, giao thức IP cung cấp một dịch vụ gửi dữ liệu không đảm bảo (còn gọi là cố gắng cao nhất) nghĩa là nó hầu như không đảm bảo gì về gói dữ liệu. Cơ chế phi kết nối gây khó khăn trong việc điều khiển luồng và phân bổ lưu lượng mạng, làm tắc nghẽn tại các nút mạng. Các nhà cung cấp dịch vụ Internet (ISP) xử lý bằng cách tăng dung lượng các kết nối và nâng cấp router nhưng hiện tượng nghẽn mạch vẫn xảy ra. Lý do là các định tuyến Internet thường hướng lưu lượng vào cùng một số các kết nối nhất định dẫn tới các kết nối này bị quá tải trong khi một số khu vực khác tài nguyên không được sử dụng. Đây là tình trạng phân bổ không đồng đều và sử dụng lãng phí tài nguyên mạng. Tuy nhiên, bên cạnh hạn chế như vậy, mô hình phi kết nối cũng có những ưu điểm, đó là: - Khả năng định tuyến gói tin một cách độc lập. 47 - Cơ cấu định tuyến và chuyển tin đơn giản, hiệu quả, nên mô hình phi kết nối rất phù hợp với các luồng có thời gian kết nối chậm. 2.5.2 ATM (Asynchronous Transfer Mode – Chế độ truyền không đồng bộ) ATM hoạt động ở lớp 2 của OSI. ATM là hệ thống chuyển mạch gói tiên tiến, có thể truyền đồng thời dữ liệu, âm thanh và hình ảnh số hoá trên cả mạng LAN và mạng WAN. Đây là một trong những phương pháp kết nối mạng WAN tốc độ lớn, tốc độ đạt từ 155 Mbit/s đến 622 Mbit/s. Trên thực tế, theo lý thuyết nó có thể hỗ trợ tốc độ cao hơn khả năng hiện thời của các phương tiện truyền dẫn hiện nay. Tuy nhiên, tốc độ cao có nghĩa là chi phí cũng cao hơn. ATM là công nghệ chuyển mạch hướng kết nối, tức là kết nối từ điểm đầu đến điểm cuối phải được thiết lập trước khi thông tin được gửi đi. Việc tạo kết nối mạch ảo có thể đạt hiệu quả trong mạng nhỏ, nhưng đối với mạng lớn thì những vấn đề có thể xảy ra: Mỗi khi một router mới đưa vào mạng lõi WAN thì mạch ảo phải được thiết lập giữa router này với các router còn lại để đảm bảo việc định tuyến tối ưu. Điều này làm cho lưu lượng định tuyến trong mạng tăng. Thông thường việc thiết lập kết nối này được thực hiện bởi giao thức báo hiệu. Giao thức này cung cấp các thông tin trạng thái liên quan đến việc kết nối cho các chuyển mạch nằm trên đường đã định tuyến. Chức năng điều khiển chấp nhận kết nối CAC (Connection Admission Control) đảm bảo rằng các tài nguyên liên quan đến kết nối hiện tại sẽ không được đưa vào để sử dụng cho các kết nối mới. Điều này buộc mạng phải duy trì trạng thái của từng kết nối (bao gồm thông tin về sự tồn tại của kết nối và tài nguyên mà kết nối đó sử dụng) tại các nude có dữ liệu đi qua. Nhờ đó mà môi trường hướng kết nối có thể đảm bảo chất lượng cho từng luồng thông tin. Mạng sẽ giám sát 48 từng kết nối, thực hiện định tuyến lại trong trường hợp có sự cố và việc thực hiện định tuyến lại này cũng phải thông qua báo hiệu. Từ cơ chế truyền tin ta thấy mạng hướng kết nối thích hợp với: - Các ứng dụng yêu cầu phải đảm bảo QoS một cách nghiêm ngặt. - Các ứng dụng có thời gian kết nối lớn. Đối với các ứng dụng có thời gian kết nối ngắn thì môi trường hướng kết nối dường như lại không thích hợp do thời gian để thiết lập kết nối cũng như tỉ lệ phần thông tin header lại quá lớn. Với các loại lưu lượng như vậy thì môi trường phi kết nối với phương thức định tuyến đơn giản, tránh phải sử dụng các giao thức báo hiệu phức tạp sẽ phù hợp hơn. Như vậy cần tìm một phương thức chuyển mạch có thể phù hợp ưu điểm của IP (như cơ cấu định tuyến) và của ATM (như phương thức chuyển mạch) và để thực sự phù hợp với mạng đa dịch vụ cả hai công nghệ ATM và IP đều phải có những thay đổi cụ thể là đưa thêm khả năng phi kết nối vào công nghệ ATM, và khả năng hướng kết nối vào công nghệ IP. 2.5.3 IP/ATM IP over ATM truyền thống là một loại kỹ thuật kiểu xếp chồng, nó xếp IP (kỹ thuật lớp 3) lên ATM (kỹ thuật lớp 2); giao thức của hai tầng hoàn toàn độc lập với nhau; giữa chúng phải nhờ một loạt giao thức (như NHRP, ARP,) nữa mới đảm bảo nối thông. Tuy nhiên, IP và ATM là hai công nghệ hoàn toàn khác nhau, được thiết kế cho những môi trường mạng khác nhau, khác nhau về giao thức, cách đánh địa chỉ, định tuyến, báo hiệu, phân bổ tài nguyên. Khi các ISP càng mở rộng mạng theo hướng IP over ATM, họ càng nhận rõ nhược điểm của mô hình này, đó là sự phức tạp của mạng lưới do phải duy trì hoạt động của hai hệ thống thiết bị cụ thể: - Do áp dụng phương pháp xếp chồng nên phải thiết lập các liên kết PVC tại N điểm nút, tức là cần thiết lập mạng liên kết. Như thế có thể sẽ gây 49 nên vấn đề bình phương N, rất phiền phức, tức là khi thiết lập, bảo dưỡng, gỡ bỏ sự liên kết giữa các điểm nút, số việc phải làm đều có cấp số nhân bình phương của N điểm nút. Khi mà mạng lưới ngày càng rộng lớn, chi phối kiểu đó sẽ làm mạng quá tải. - Phương thức xếp chồng sẽ cắt cả mạng lưới IP over ATM ra làm nhiều mạng logic nhỏ (LIS), các LIS trên thực tế đều ở trong một mạng vật lý. Giữa các LIS dùng bộ định tuyến trung gian để liên để liên kết, điều này sẽ ảnh hưởng đến việc truyền nhóm gói tin giữa các LIS khác nhau. Mặt khác, khi lưu lượng rất lớn, những bộ định tuyến này sẽ gây hiện tượng nghẽn cổ chai đối với băng rộng. - Trong phương thức xếp chồng, IP over ATM vẫn không có cách nào đảm bảo QoS thực sự. Từ những nhược điểm trên làm cho IP over ATM chỉ có thể dùng thích hợp cho mạng tương đối nhỏ, như mạng xí nghiệp,nhưng không thể đáp ứng được nhu cầu của mạng đường trục Internet trong tương lai. Sự bùng nổ của mạng Internet dẫn tới xu hướng hội tụ các mạng viễn thông khác như mạng thoại, truyền hình dựa trên Internet, giao thức IP trở thành giao thức chủ đạo trong lĩnh vực mạng. Xu hướng của các ISP là thiết kế và sử dụng các bộ định tuyến chuyên dụng, dung lượng chuyển tải lớn, hỗ trợ các giải pháp tích hợp, chuyển mạch đa lớp cho mạng trục Internet. Nhu cầu cấp thiết trong bối cảnh này là phải ra đời một công nghệ có khả năng kết hợp những đặc điểm tốt của chuyển mạch kênh ATM và chuyển mạch gói IP. Công nghệ MPLS (Multiprotocol Label Switching) ra đời trong bối cảnh này đáp ứng được nhu cầu của thị trường đúng theo tiêu chí phát triển của Internet đã mang lại những lợi ích thiết thực, đánh dấu một bước phát triển mới của mạng Internet trước xu thế tích hợp công nghệ thông tin và viễn thông (ICT - Information Communication Technology) trong thời kỳ mới. 50 2.5.4 MPLS (Multi Protocol Label Switching – Chuyển mạch nhãn đa giao thức) Chuyển mạch nhãn đa giao thức (MPLS) là kết quả của quá trình phát triển nhiều giải pháp chuyển mạch IP, được chuẩn hoá bởi IETF. Tên gọi của nó bắt nguồn từ thực tế đó là hoán đổi nhãn được sử dụng như là kỹ thuật chuyển tiếp nằm ở bên dưới. Sự sử dụng từ “đa giao thức” trong tên của nó có nghĩa là nó có thể hỗ trợ nhiều giao thức lớp mạng, không chỉ riêng IP. Ngoài ra các nhà cung cấp mạng có thể cấu hình và chạy MPLS trên các công nghệ lớp 2 khác nhau như PPP, Fram Relay chứ không chỉ riêng ATM. Về mặt kiến trúc điều này là đúng, nhưng trong thực tế MPLS thường tập trung vào việc vận chuyển các dịch vụ IP trên ATM. MPLS là giải pháp nhằm liên kết định tuyến lớp mạng và cơ chế hoán đổi nhãn thành một giải pháp đơn nhất để đạt được các mục tiêu sau: - Cải thiện hiệu năng định tuyến; - Cải thiện tính mềm dẻo của định tuyến trên các mô hình xếp chồng truyền thống; - Tăng tính mềm dẻo trong quá trình đưa vào ứng dụng và phát triển các loại hình dịch vụ mới. Mạng MPLS có khả năng chuyển các gói tin tại lớp 3 bằng việc xử lý từng gói và chuyển tiếp gói tin tại lớp 2 sử dụng cơ chế hoán đổi nhãn. MPLS dựa trên mô hình ngang cấp, vì vậy mỗi một thiết bị MPLS chạy một giao thức định tuyến IP, trao đổi thông tin định tuyến với các thiết bị lân cận, và chỉ duy trì một không gian cấu hình mạng và một không gian địa chỉ. MPLS chia bộ định tuyến làm hai phần riêng biệt: chức năng chuyển gói tin và chức năng điều khiển. Phần chức năng chuyển gói tin sử dụng cơ chế hoán đổi nhãn. Kỹ thuật hoán đổi nhãn về bản chất là việc tìm chặng kế tiếp của gói tin trong một bảng chuyển tiếp nhãn, sau đó thay thế giá trị nhãn của gói rồi chuyển ra cổng ra của bộ định tuyến. Việc này đơn giản hơn nhiều 51 so với việc xử lý gói tin thông thường và do vậy tăng cường khả năng của thiết bị. Các bộ định tuyến sử dụng thiết bị này gọi là bộ định tuyến chuyển mạch nhãn (LSR – Label Switch Router). Phần chức năng điều khiển của MPLS bao gồm các giao thức định tuyến lớp mạng với nhiệm vụ phân phối thông tin định tuyến giữa các LSR, và thủ tục gán nhãn để chuyển thông tin định tuyến thành bảng định tuyến chuyển mạch nhãn. MPLS có thể hoạt động được với các giao thức định tuyến Internet như OSPF và BGP hay PNNI của ATM. Do MPLS hỗ trợ việc điều khiển lưu lượng và cho phép thiết lập tuyến cố định nên việc đảm bảo chất lượng dịch vụ là hoàn toàn khả thi. Đây là chức năng vượt chội của MPLS so với các giao thức định tuyến khác. Tuy nhiên, do MPLS là công nghệ chuyển mạch định hướng kết nối nên khả năng bị ảnh hưởng bởi lỗi đường truyền là cao hơn các công nghệ khác. Bên cạch độ tin cậy, công nghệ MPLS cũng khiến việc quản lý mạng dễ dàng hơn. Do MPLS quản lý việc truyền tin theo các luồng tin, các gói tin thuộc một lớp chuyển tiếp tương đương FEC có thể được xác định bởi giá trị của nhãn. Do vậy trong miền MPLS các thiết bị đo lưu lượng mạng có thể dựa trên nhãn để phân loại gói tin. Bằng cách giám sát lưu lượng tại các LSR, nghẽn lưu lượng sẽ được phát hiện và vị trí xảy ra nghẽn có thể được xác định nhanh chóng, đây là một trong những điều kiện đảm bảo cho mạng MPLS có khả năng hỗ trợ QoS tốt nhất, vì vậy MPLS tạo ra các lợi ích cho các nhà cung cấp dịch vụ để quản lý lưu lượng và hỗ trợ những dịch vụ mới. MPLS có thể được nhìn nhận như một mặt bằng điều khiển trên ATM cho phép mở rộng phương pháp định tuyến và điều khiển lưu lượng IP. Có thể coi như là một phương pháp xây dựng các VC ATM, ngoại trừ các cuộc gọi MPLS là đường dẫn chuyển mạch nhãn LSP. Khi chạy trên phần cứng ATM, cả MPLS và forum ATM đều sử dụng cùng một khuôn dạng gói tin (53 byte), cùng nhãn (VPI/VCI), cùng một kỹ thuật dán nhãn cho tế bào chuyển mạch, cùng chức năng trên các thiết bị gờ mạng. Cả MPLS và ATM đều yêu cầu 52 giao thức thiết lập kết nối (ví dụ giao thức phân bổ nhãn LDP cho MPLS, UNI/PNNI cho ATM). Bên cạch đó có một số điểm khác nhau cơ bản: MPLS không sử dụng địa chỉ ATM, định tuyến ATM và các giao thức trong forum ATM. Thay vào đó, MPLS sử dụng địa chỉ IP, định tuyến IP động, thêm vào đó là các giao thức điều khiển phân bổ nhãn LDP để sắp xếp các FEC vào trong LSP. Tóm lại công nghệ MPLS ra đời đáp ứng được nhu cầu của thị trường đúng theo tiêu chí phát triển của Internet, kết hợp những đặc điểm tốt nhất giữa định tuyến lớp thứ 3 và chuyển mạch lớp thứ 2 cho phép chuyển các gói rất nhanh trong mạng lõi và định tuyến tốt ở các mạng biên bằng cách dựa vào nhãn. 2.6 ỨNG DỤNG CỦA NGN Như đã trình đã trình bày mạng NGN là sự tập trung của ba loại mạng chính: Mạng PSTN, mạng di động và mạng chuyển mạch gói (mạng Internet) vào một kết cấu thống nhất để hình thành một mạng chung, thông minh, hiệu quả cho phép truy xuất toàn cầu, tích hợp nhiều công nghệ mới, ứng dụng mới. Từ đó tạo ra nhiều dịch vụ mới, nhờ đó mà các nhà cung cấp cũng có thể nhanh chóng tạo ra các nguồn thu mới. Xây dựng trên các thành phần mở và được module hóa, trên các giao thức chuẩn và các giao diện mở, NGN đã trở thành một phương tiện cho phép kết nối giữa con người và máy móc ở bất cứ khoảng cách nào. Nói cách khác, NGN có khả năng cung cấp các yêu cầu đặc biệt của tất cả khách hàng công ty, văn phòng ở xa, văn phòng nhỏ, nhà riêng,Nó hợp nhất thoại hữu tuyến và vô tuyến, dữ liệu, video, bằng cách sử dụng chung một lớp truyền tải gói. Các lớp dịch vụ của NGN linh hoạt, chi phí hiệu quả và có khả năng mở rộng hơn đối với các dịch vụ trước đây. Mục tiêu chính của dịch vụ NGN là cho phép khách hàng có thể lấy thông tin mà họ muốn ở bất kỳ dạng nào, trong bất kỳ điều kiện nào, tại mọi nơi và dung lượng tùy ý. 53 Dưới đây là một số dịch vụ trong môi trường NGN : Hình 2.14 Một số dịch vụ NGN điển hình  Dịch vụ thoại (voice Telephony) Vẫn cung cấp các dịch vụ đã tồn tại như: chờ cuộc gọi, chuyển cuộc gọi, gọi ba bên, nhưng với công nghệ mới.  Dịch vụ dữ liệu (Data Service) Các dịch vụ dữ liệu có khả năng thiết lập kết nối theo băng thông và chất lượng dịch vụ QoS theo yêu cầu.  Dịch vụ đa phương tiện (Multimedia Service) Cho phép nhiều người tham gia tương tác với nhau qua thoại, video, dữ liệu. Các dịch vụ này cho phép khách hàng vừa nói chuyện vừa hiển thị thông tin. Ngoài ra, các máy tính còn có thể cộng tác với nhau.  Dịch vụ sử dụng mạng riêng ảo (VPN) Mạng riêng ảo hay VPN (viết tắt cho Virtual Private Network) là một mạng dành riêng để kết nối các máy tính của các công ty, tập đoàn hay các tổ chức với nhau thông qua mạng Internet công cộng. Sự ra đời của công nghệ mạng riêng ảo trên nền NGN đã cho phép các tổ chức doanh nghiệp có thêm sự lựa chọn mới, có được nhiều ứng dụng, giải pháp hữu ích trên mạng diện rộng WAN, với ưu điểm đơn giản chi phí thấp. 54  Thương mại điện tử (E-commerce) Cho phép khách hàng mua hàng hóa, dịch vụ được xử lý bằng điện tử trên mạng, bao gồm: việc xử lý tiến trình, kiểm tra thông tin thanh toán tiền, bảo mật, ngân hàng tại nhà, đi chợ tại nhà. Dịch vụ thương mại điện tử còn được mở rộng sang lĩnh vực di động. Đó chính là dịch vụ thương mại điện tử di động (M-commerce tức là Mobile commerce). Đây là loại dịch vụ cho phép người sử dụng tham gia vào thị trường thương mại điện tử (mua và bán) qua các thiết bị di động cầm tay.  Bản tin hợp nhất (Unified Messaging) Hỗ trợ cung cấp các dịch vụ voice mail, email, fax mail, pages qua các giao diện chung. Thông qua các giao diện này, người sử dụng sẽ truy nhập (cũng như được thông báo) tất cả các loại tin nhắn trên, không phụ thuộc vào hình thức truy nhập (hữu tuyến hay vô tuyến, máy tính, thiết bị dữ liệu vô tuyến). Đặc biệt kỹ thuật chuyển đổi lời nói sang file văn bản và ngược lại được thực hiện ở Server ứng dụng cần phải được sử dụng ở dịch vụ này.  Môi giới thông tin (Information Brokering) Bao gồm quảng cáo, tìm kiếm và cung cấp thông tin đến khách hàng tương ứng với nhà cung cấp  Các dịch vụ chuyển cuộc gọi (Call Center Service) Một thuê bao có thể chuyển một cuộc gọi thông thường đến trung tâm phân phối cuộc gọi bằng cách kích chuột trên một trang web. Cuộc gọi có thể xác định đường đến một Agent thích hợp, mà nó có thể nằm bất cứ đâu thậm chí cả ở nhà (như trung tâm cuộc gọi ảo – Vitual Call Centrel). Các cuộc gọi thoại cũng như các tin nhắn email có thể được xếp hàng giống nhau đến các Agent. Các Agent có các truy nhập điện tử đến các khách hàng, danh mục, nguồn cung cấp và thông tin yêu cầu đến, có thể được truyền qua lại giữa các khách hàng và Agent. 55  Trò chơi tương tác trên mạng (Interactive Gaming) Cung cấp cho khách hàng một phương thức gặp nhau trực tuyến và tạo ra các trò chơi tương tác (chẳng hạn như Video Games)  Quản lý tại nhà (Home Manager) Với sự ra đời của các thiết bị mạng thông minh, các dịch vụ này có thể giám sát và điều khiển các hệ thống bảo vệ tại nhà, các hệ thống đang hoạt động, các hệ thống giải trí, và các công cụ khác tại nhà. Giả sử như chúng ta đang xem ti vi và có chuông cửa, không vấn đề gì cả, ta chỉ việc sử dụng điều khiển ti vi từ xa để xem được trên màn hình ai đang đứng trước cửa nhà mình. Hoặc chẳng hạn như chúng ta có thể quan sát được ngôi nhà của mình trong khi đang đi xa,  Dịch vụ hội nghị truyền hình Dịch vụ truyền hình hội nghị là dịch vụ truyền dẫn tín hiệu, hình ảnh, âm thanh, giữa hai hoặc nhiều điểm khác nhau. Dịch vụ cho phép nhiều người tham dự tại các địa điểm có thể trao đổi trực tiếp bằng âm thanh, hình ảnh qua màn hình và loa. Hệ thống truyền hình hội nghị còn cung cấp nhiều tiện ích khác cho người sử dụng như: kết nối với máy tính để trình chiếu văn bản, kết nối với hệ thống âm thanh ngoài, các thiết bị lưu trữ (đầu ghi băng từ, đĩa quang VCD, DVD hoặc ổ cứng) để lưu trữ những phiên hội thảo quan trọng. Dịch vụ truyền hình hội nghị là công cụ hiệu quả, hữu ích trong công tác đào tạo, giảng dạy hoặc trợ giúp y tế từ xa. 56 Chƣơng 3 CHIẾN LƢỢC PHÁT TRIỂN NGN CỦA NGÀNH VIỄN THÔNG VIỆT NAM 3.1 CHIẾN LƢỢC PHÁT TRIỂN NGN CỦA NGÀNH VIỄN THÔNG VIỆT NAM Trong các chương trước đã trình bày về mạng viễn thông thế hệ sau NGN và việc chuyển đổi từ mạng hiện tại lên mạng NGN là một điều tất yếu. Chương này sẽ trình bày chiến lược phát triển mạng NGN của chính ngành viễn thông Việt Nam. Việc xây dựng tùy thuộc vào tình hình mạng cụ thể và quan điểm của nhà khai thác. Ở đây ta xét 2 quan điểm: xây dựng trên cơ sở mạng hiện tại và xây dựng hoàn toàn mới. Tùy vào hiện trạng của mạng hiện tại và quan điểm của nhà khai thác mà giải pháp thích hợp sẽ được ứng dụng. Trước hết sẽ xét 2 quan điểm trên dựa vào yếu tố sự phát triển mạng và phát triển dịch vụ qua các hình sau: Hình 3.1 Xu hướng phát triển mạng và dịch vụ theo quan điểm dựa trên cơ sở mạng hiện tại S ự p h át t ri ển d ịc h v ụ Sự phát triển mạng Các dịch vụ phát triển tiếp theo của mạng thế hệ sau Các dịch vụ phát triển tiếp theo của mạng hiện tại Các dịch vụ hiện nay của mạng hiện tại 57 Ở Việt Nam, việc xây dựng mạng NGN được nhìn dưới 2 góc độ của 2 nhà khai thác dịch vụ khác nhau: các nhà cung cấp dịch vụ truyền thống (chủ yếu là thoại) còn gọi là các nhà cung cấp dịch vụ cố định ESP – Established Service Provider, và các nhà cung cấp dịch vụ mới (các dịch vụ số liệu, Internet,) còn có tên gọi là các nhà cung cấp dịch vụ Internet: ISP – Internet Service Provider hoặc các nhà cung cấp dịch vụ ứng dụng: ASP – Application Service Provider. Các nhà khai thác dịch vụ truyền thống bao gồm Tập đoàn bưu chính viễn thông Việt Nam (VNPT), công ty viễn thông quân đội (Vietel), công ty cổ phần viễn thông Sài Gòn (SPT), công ty viễn thông điện lực (ETC). Các nhà khai thác dịch vụ mới bao gồm FPT, SPT, Netnam, Hình 3.2 Xu hướng phát triển mạng và dịch vụ theo quan điểm xây dựng một mạng hoàn toàn mới Các dịch vụ phát triển tiếp theo của mạng thế hệ sau Các dịch vụ hiện nay của mạng hiện tại Các dịch vụ của mạng thế hệ sau Sự phát triển mạng S ự p h át t ri ển d ịc h v ụ 58 Các ESP có xu hướng xây dựng mạng thế hệ sau theo quan điểm dựa trên cơ sở mạng hiện tại và các ISP/ASP theo quan điểm xây dựng một mạng hoàn toàn mới. 3.1.1 Giải pháp xây dựng NGN trên cơ sở mạng hiện tại Nội dung của giải pháp: Cơ sở hạ tầng của mạng hiện tại được tổ chức lại và phát triển dần lên. Nâng cấp các thiết bị chuyển mạch hiện có (công nghệ TDM) để hỗ trợ các dịch vụ mới chất lượng cao như video, số liệu. Đồng thời có thể bổ sung một số chuyển mạch mềm tại một số nút mạng chính, đặc biệt là trung tâm điều khiển và ứng dụng của các vùng lưu lượng. Giải pháp này có 2 phương án: Phƣơng án 1: áp dụng cho các nhà khai thác mạng có yêu cầu hiện đại hóa và mở rộng mạng trong thời gian ngắn. Gồm 4 bước: Bước 1: Đối với mạng thoại TDM thì triển khai mạng truyền dẫn SDH, mạch chuyển mạch ATM đồng thời bổ xung thiết bị Telephony Server để quản lý thoại. Đối với mạng số liệu thì giữ nguyên kỹ thuật IP/MPLS hoặc ATM/FR và trang bị thêm các cổng Gateway, thực hiện kết nối giữa mạng thoại và mạng số liệu ở các nút ở biên mạng. Bước 2: tiếp tục phát triển kỹ thuật SDH, ATM cho mạng thoại. Với mạng số liệu thì phát triển thành mạng đa dịch vụ IP/MPLS và tăng cường khả năng của các cổng giao tiếp ở các nút biên mạng (chúng có nhiệm vụ kết nối giữa mạng đa dịch vụ và mạng thoại). Trang bị thêm IP Telephone Server cho quản lý mạng đa dịch vụ. Bước 3: xây dựng chỉ còn một mạng thống nhất cho thoại và dữ liệu nhưng lúc này chưa phải mạng tích hợp đa dịch vụ hoàn toàn. Mạng PSTN sử dụng TDM sẽ không còn tồn tại riêng biệt. Tiếp tục tích hợp và phát triển mạng đa dịch vụ IP/MPLS. 59 Bước 4: hình thành mạng tích hợp đa dịch vụ hoàn toàn. Lúc này chỉ còn mạng đa dịch vụ IP/MPLS tồn tại và phát triển. Và Telephony Server và IP Telephone Server sẽ quản lý mạng đa dịch vụ. Phƣơng án 2: Áp dụng cho những nhà khai thác mạng có yêu cầu hiện đại hóa và mở rộng mạng trong thời gian dài. Phương án này cũng gồm 4 bước: Bước 1: không phát triển thêm mạng thoại TDM từ đây về sau. Với mạng số liệu thì giữ nguyên mạng chuyển mạch gói IP/MPLS hoặc ATM/FR và trang bị thêm các cổng Gateway. Bước 2 đến bước 4 giống các bước 2, 3,4 ở phương án 1. Ưu điểm: - Giá thành đầu tư ban đầu thấp. - Có khả năng cung cấp dịch vụ mới, dịch vụ truy nhập băng rộng. - Bảo vệ tối đa nguồn vốn đã đầu tư trên mạng hiện tại. Nhược điểm: - Việc nâng cấp các chuyển mạch hiện có từ TDM sang IP/ATM chỉ là bước đệm mà không thay đổi được về cơ bản công nghệ chuyển mạch phục vụ cho các dịch vụ mới. Điều này có nghĩa là không giải quyết được vấn đề cơ bản là khả năng tạo dịch vụ mới cũng như nguyên tắc tổ chức mạng thế hệ mới. Và nó sẽ làm phát sinh nhiều vấn đề chuyển tiếp và làm tăng chi phí về sau. - Chi phí đầu tư ban đầu thấp nhưng chi phí vận hành và khai thác sẽ cao hơn so với mạng hiện tại do không có được sự quản lý thống nhất trong toàn mạng. - Khả năng cạnh tranh kém khi xuất hiện các nhà khai thác thế hệ mới vì họ có cơ sở hạ tầng mạng NGN hoàn toàn mới. 60 3.1.2 Giải pháp xây dựng NGN hoàn toàn mới Nội dung giải pháp: Giải pháp này chủ trương giữ nguyên mạng hiện tại và không đầu tư tiếp tục phát triển. Tập trung nhân lực và tài lực vào việc triển khai các tổng đài đa dịch vụ thế hệ sau. Mạng NGN được xây dựng trước hết phải có khả năng cung cấp các nhu cầu về dịch vụ của mạng hiện tại đã quen thuộc với khách hàng. Sau đó triển khai một số nhu cầu dịch vụ mới. Kế tiếp triển khai thêm nhiều dịch vụ mới trên nền NGN nhưng phải cân bằng giữa cung và cầu. Các nút chuyển mạch của hai mạng này sẽ liên hệ với nhau rất ít (chủ yếu phục vụ cho các dịch vụ IP) thông qua các cổng giao tiếp Media Gateway. Ưu điểm: - Thay đổi hoàn toàn cấu trúc mạng, tăng khả năng cạnh tranh. - Hoàn toàn sẵn sàng cung cấp các dịch vụ mới, dịch vụ truy nhập. - Thời gian triển khai nhanh chóng. - Độ tương thích cao. - Quản lý thống nhất, tập trung. Nhược điểm: - Giá thành đầu tư ban đầu cao. - Rủi ro do dự báo nhu cầu vượt ngưỡng dẫn đến hậu quả đầu tư thấp, thời gian hoàn vốn lâu. - Tăng chi phí do phải tăng cường lực lượng lao động kỹ thuật mới. Nhận xét: Có nhiều giải pháp được đưa ra nhằm đáp ứng nhu cầu của các nhà khai thác muốn chuyển từ mạng truyền thống sang mạng thế hệ sau. Tùy vào hiện trạng mạng, quan điểm của chính nhà khai thác mà giải pháp thích hợp được lựa chọn. Và việc xây dựng mạng phải dựa vào nhu cầu mới của khách hàng 61 để thu hút và giữ khách hàng. Điều này cũng có nghĩa là các nhà khai thác sẽ triển khai mạng NGN theo hướng để đáp ứng cho nhu cầu phát triển dịch vụ của khách hàng. 3.2 TÌNH HÌNH TRIỂN KHAI MẠNG NGN TẠI VIỆT NAM Sự phát triển mạng NGN tại Việt Nam là một xu thế tất yếu, phù hợp với quá trình phát triển NGN trên thế giới. Không nằm ngoài xu hướng chung đó, Việt Nam cũng đang có những bước phát triển mạng NGN của riêng mình. Hiện nay có 6 doanh nghiệp được phép của Bộ bưu chính, viễn thông cho phép cung cấp các dịch vụ viễn thông là Tập đoàn bưu chính viễn thông Việt Nam (VNPT), Công ty điện tử viễn thông quân đội (Vietel), Công ty viễn thông điện lực, Công ty cổ phần dịch vụ Bưu chính viễn thông Sài Gòn (STP), Hà Nội Telecom, Công ty viễn thông Hàng hải. Trong đó ngoại trừ công ty viễn thông Hàng hải, các công ty khác đều đang cung cấp dịch vụ gọi VoIP đường dài trong nước và quốc tế. Trong phần này sẽ nêu ra tình hình triển khai mạng NGN của VNPT. 3.2.1 Mục tiêu phát triển Như ta biết mạng viễn thông hiện tại là sự hoạt động của các mạng riêng lẻ: mạng thoại cố định chuyển mạch kênh TDM, mạng điện thoại di động công nghệ truy nhập GSM, CDMA, mạng Internet chuyển mạch gói IP. Để đáp ứng việc phát triển cơ sở hạ tầng mạng viễn thông Việt Nam, việc xây dựng cấu trúc mạng viễn thông thế hệ mới NGN được định hướng tới các mục tiêu cụ thể sau đây: Đáp ứng nhu cầu cung cấp các dịch vụ viễn thông hiện nay và các loại dịch vụ viễn thông thế hệ mới bao gồm: - Các dịch vụ cơ bản. - Các dịch vụ gia tăng. - Các dịch vụ truyền số liệu, Internet và công nghệ thông tin. 62 - Các dịch vụ đa phương tiện. Mạng có cấu trúc đơn giản: - Giảm thiểu đa số cấp chuyển mạch và chuyển tiếp truyền dẫn. - Nâng cao hiệu quả sử dụng, chất lượng mạng lưới và giảm thiểu chi phí khai thác bảo dưỡng. Độ linh hoạt và tính sẵn sàng cao, năng lực tồn tại mạnh: - Tiến tới tích hợp mạng thoại và mạng số liệu trên mạng đường trục băng rộng. - Cấu trúc mạng phải có độ linh hoạt cao, đảm bảo an toàn mạng lưới và chất lượng dịch vụ. - Dễ dàng mở rộng dung lượng, triển khai dịch vụ mới. Việc thay đổi cấu trúc mạng hiện tại được tiến hành từng bước theo điều kiện thực tế cho phép. Tận dụng tối đa các thiết bị trên mạng ISDN, PSTN hiện có để phát triển dịch vụ N-ISDN, đáp ứng nhu cầu dịch vụ Internet, ATM, FR, Triển khai hoàn thiện hệ thống quản lý mạng, quản lý dịch vụ. Tăng cường khả năng cạnh tranh trong môi trường hội nhập và mở cửa. 3.2.2 Nguyên tắc tổ chức xây dựng mạng thế hệ mới Các nhu cầu về dịch vụ mới nằm chủ yếu ở các tỉnh và thành phố lớn có nền kình tế, văn hóa, xã hội phát triển, các dịch vụ mới đáp ứng cho việc phát triển kinh tế, giáo dục, giải trí như: thương mại điện tử, giáo dục từ xa, chăm sóc sức khỏe qua mạng, trò chơi trên mạng thời gian thực,Còn phần đông các địa phương nhất là vùng sâu, vùng xa thì mật độ thuê bao thấp, nhu cầu chủ yếu là điện thoại dùng để liên lạc, và không có những yêu cầu về dịch vụ mới. Ngoại trừ một số thành phố lớn thì còn lại một số lượng lớn các tỉnh có số lượng thuê bao và lưu lượng không lớn nhưng vẫn hình thành mạng riêng theo địa bàn hành chính. Đặc biệt một số tỉnh sau khi tiến hành tách tỉnh theo 63 địa bàn hành chính thì cũng hình thành mạng mới với các tổng đài Host nội hạt mới tạo nên một số vấn đề phức tạp trong việc cung cấp dịch vụ, ví dụ: hai thuê bao trước đây thuộc một tỉnh khi thực hiện cuộc gọi thì lưu lượng cuộc gọi chỉ cần đi qua hai tổng đài vệ tinh và một tổng đài Host, giá cước được tính theo cước nội hạt. Khi tách tỉnh, hai thuê bao này ở hai tỉnh kề nhau, khi thực hiện cuộc gọi thì lưu lượng cuộc gọi sẽ phải đi qua hai tổng đài Host và vòng qua tổng đài Toll chuyển mạch liên tỉnh và giá cước tính theo cước đường dài. Do đó chất lượng dịch vụ viễn thông được cung cấp sẽ bị ảnh hưởng rất nhiều bởi cấu hình và cách thức tổ chức khai thác này. Mặt khác nếu xét ở góc độ kinh tế thì cách tổ chức khai thác, cung cấp dịch vụ như vậy hiệu quả không cao, không khai thác được hết lưu lượng ở tất cả các vùng, mà chỉ khai thác hiệu quả được ở các thành phố lớn. Do đó cấu trúc mạng thế hệ sau được xây dựng dựa trên phân bố thuê bao theo vùng địa lý, không tổ chức theo địa bàn hành chính mà phân theo vùng lưu lượng. Cụ thể mạng viễn thông Việt Nam được tổ chức thành các vùng lưu lượng như sau: - Vùng lưu lượng 1: bao gồm các tỉnh phía Bắc từ Hà Giang đến Hà Tĩnh (trừ các tỉnh/thành phố thuộc vùng 2). - Vùng lưu lượng 2: bao gồm Hà Nội và một số tỉnh lân cận. - Vùng lưu lượng 3: bao gồm toàn bộ thuê bao thuộc 15 tỉnh miền Trung và Tây Nguyên từ Quảng Bình đến Lâm Đồng. - Vùng lưu lượng 4: bao gồm TP.Hồ Chí Minh và một số tỉnh lân cận. - Vùng lưu lượng 5: bao gồm các tỉnh/thành phố phía Nam và đồng bằng sông Cửu Long (trừ các tỉnh/thành phố thuộc vùng 4). 64 3.2.3 Cấu trúc mạng viễn thông thế hệ mới của Việt Nam Lớp ứng dụng và dịch vụ Lớp ứng dụng có chức năng cung cấp các dịch vụ thoại, phi thoại, dịch vụ đa phương tiện, các dịch vụ giá trị gia tăng, dịch vụ băng rộng, Được tổ chức thành một cấp trong toàn mạng nhằm cung cấp dịch vụ đến tận thuê bao một cách thống nhất và đồng bộ. Cấp vùng >2.5 Gb/s >2.5 Gb/s KV TP. HCM Lớp truy nhập ATM+IP ATM+IP ATM+IP ATM+IP ATM+IP KV phía Bắc (trừ Hà Nội) KV Hà Nội KV Miền Trung và Tây Nguyên Khu vực phía Nam Lớp ứng dụng và dịch vụ Hà Nội TP. HCM Lớp điều khiển L ớ p q u ả n lý Lớp truyền tải Mặt A Mặt B >155 Mb/s >155 Mb/s ATM+IP ATM+IP ATM+IP ATM+IP ATM+IP ATM+IP ATM+IP ATM+IP ATM+IP ATM+IP Cấp đường trục Hình 3.3 Cấu trúc mạng NGN của Việt Nam 65 Số lượng nút ứng dụng và dịch vụ phụ thuộc vào lưu lượng dịch vụ, số lượng và loại hình dịch vụ của từng vùng. Nút ứng dụng và dịch vụ được kết nối ở mức Gigabit Ethernet 1+1 với nút điều khiển và được đặt tại các trung tâm mạng NGN tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh cùng với các nút điều khiển. Lớp điều khiển Lớp điều khiển có chức năng điều khiển lớp chuyển tải/lõi và lớp truy nhập cung cấp các dịch vụ mạng với bất kỳ loại giao thức báo hiệu nào. Lớp điều khiển được tổ chức thành một cấp cho toàn mạng và được phân theo vùng lưu lượng nhằm giảm tối đa cấp mạng. Số lượng nút điều khiển phụ thuộc vào lưu lượng của từng vùng và được tổ chức thành từng cặp (mặt A và B) nhằm đảm bảo tính an toàn mạng lưới khi xảy ra sự cố. Mỗi một nút điều khiển được kết nối đến một cặp nút chuyển mạch ATM/IP đường trục. Lớp điều khiển Lớp truyền tải Lớp ứng dụng và dịch vụ Hà Nội TP HCM H à N ộ i M . B ắ c M . T ru n g M . N a m T P H C M Hình 3.4 Cấu hình kết nối lớp điều khiển và ứng dụng mạng NGN 66 Lớp điều khiển gồm nhiều module như module điều khiển kết nối ATM, điều khiển định tuyến kết nối IP, điều khiển kết nối cuộc gọi thoại, báo hiệu số 7, các bộ điều khiển này sẽ được đặt tương ứng với vị trí của các nút chuyển mạch ATM/IP Core tại 5 vùng lưu lượng. Lớp truyền tải Lớp truyền tải phải có khả năng truyền tải cả hai loại lưu lượng ATM và IP được tổ chức thành hai cấp: Cấp đường trục quốc gia và cấp vùng thay vì 4 cấp như hiện nay: Cấp đường trục quốc gia: Gồm toàn bộ các nút chuyển mạch đường trục (Core ATM+IP) và các tuyến truyền dẫn đường trục được tổ chức thành hai mặt: Plane A&B, kết nối chéo giữa các nút đường trục ở mức ít nhất là 2.5 Gbps nhằm đảm bảo độ an toàn mạng, có nhiệm vụ chuyển mạch cuộc gọi giữa các vùng lưu lượng. Số lượng và quy mô nút chuyển mạch đường trục quốc gia phụ thuộc vào lưu lượng phát sinh trên mạng đường trục. Trong giai đoạn đầu, các nút chuyển mạch đường trục được trang bị với khả năng chuyển mạch ATM < 20 Gbps và khả năng định tuyến tối đa là 300 triệu gói/giây. Các nút này được đặt tại các trung tâm truyền dẫn liên tỉnh VTN. Cấp vùng: Các thành phần ở cấp vùng là các nút chuyển mạch nội vùng ATM+IP và các bộ tập trung nội vùng. Nhiệm vụ chính của chúng là đảm bảo cho việc chuyển mạch cuộc gọi trong một vùng và sang vùng khác. Các nút chuyển mạch nội vùng được kết nối ở mức tối thiểu là 155 Mbps. Và chúng được đặt tại các vị trí các tổng đài chủ Host hiện nay và được kết nối trực tiếp với nhau theo dạng vòng ring. Hơn thế nữa, chúng được nối đến các nút chuyển mạch đường trục ở cả 2 mặt phẳng bằng các tuyến truyền dẫn nội vùng (155 Mbps). 67 Một điều cần lưu ý là các nút chuyển mạch nội vùng phải tích hợp tính năng “máy chủ” truy nhập băng rộng từ xa BRAS (Broadband Remote Access Server) nhằm thực hiện chức năng điểm truy nhập IP POP băng rộng cho các thuê bao xDSL. Số lượng và quy mô các nút chuyển mạch của một vùng trong giai đoạn đầu phụ thuộc vào nhu cầu dịch vụ tại vùng đó. Trong giai đoạn ban đầu, các nút chuyển mạch có khả năng chuyển mạch tối đa 2.5 Gbps và khả năng định tuyến không lớn hơn 500 ngàn gói/giây. Các bộ tập trung ATM/IP cũng được kết nối với các nút chuyển mạch nội vùng bằng các tuyến dẫn tối thiểu 155 Mbps. Ngoài ra các bộ tập trung này được kết nối đến các bộ truy nhập ở lớp truy nhập bằng các tuyến n*E1. Nhiệm vụ của các bộ tập trung này là tập trung các luồng E1 thành luồng ATM. Và chúng được đặt tại các điểm truyền dẫn nội tỉnh hiện nay. Số lượng và quy mô các bộ tập trung phụ thuộc vào số nút truy nhập và số thuê bao của các nút truy nhập. Lớp truy nhập Lớp truy nhập gồm các nút truy nhập hữu tuyến và vô tuyến được tổ chức không phụ thuộc theo địa giới hành chính. Các nút truy nhập của các vùng lưu lượng sẽ được nối tới các nút chuyển mạch đường trục của vùng tương ứng (thông qua nút chuyển mạch nội vùng) mà không kết nối tới các nút chuyển mạch đường trục của vùng khác. Nút truy nhập kết nối với nút chuyển mạch nội vùng bằng các kênh có tốc độ phụ thuộc vào số lượng thuê bao tại nút truy nhập đó (n*E1). Các thiết bị truy nhập thế hệ mới phải có khả năng cung cấp cổng dịch vụ POST, ATM, IP, FR, IP VPN, xDSL, VoIP, VoATM, 68 3.2.4 Triển khai mạng NGN của VNPT 3.2.4.1 Giải pháp SURPASS của Siemens Hiện nay NGN của VNPT đang được triển khai dựa trên giải pháp SURPASS của Siemens. Đây là mạng có hạ tầng thông tin duy nhất dựa trên công nghệ chuyển mạch gói được VNPT lựa chọn để thay thế cho mạng chuyển mạch kênh truyền thống. Hệ thống SURPASS hướng tới những mục tiêu sau:  Tách biệt điều khiển cuộc gọi/dịch vụ với môi trường truyền thông tin để cho phép các nhà cung cấp dịch vụ giữ được các khoản đầu tư phát triển dịch vụ của họ và đồng thời tận dụng những công nghệ mới nhất trong lĩnh vực truyền dẫn và chuyển tải thông tin.  Hướng tới mạng hội tụ đa dịch vụ, nhiều loại hình truy nhập dịch vụ.  Tận dụng các đầu tư đã có trong hệ thống chuyển mạch TDM truyền thống, nơi mà Siemens có nhiều năm kinh nghiệm phát triển các ứng dụng, dịch vụ thoại và các tính năng thông minh của tổng đài EWSD, bằng việc đưa ra các giải pháp nâng cấp thuận lợi sang môi trường mạng đa dịch vụ chuyển mạch gói. Giải pháp này gồm 4 vấn đề: - Mạng chuyển mạch thế hệ mới - Mạng truy nhập thế hệ mới - Mạng truyền tải thế hệ mới - Mạng quản lý thế hệ mới Mạng chuyển mạch thế hệ mới: Cấu trúc chuyển mạch của SURPASS dựa trên mô hình do MSF (Multiservice Switching Forum – Diễn đàn chuyển mạch đa dịch vụ) đưa ra. 69 Đối với VoIP đang triển khai thì vấn đề cần quan tâm nhất trong chuyển mạch thế hệ mới là trung kế ảo (VT - Virtual Trunking). Trung kế ảo là khái niệm chỉ đường trung kế được thiết lập một cách logic trong Softswitch để quản lý đường trung kế tương ứng đối với cổng phương tiện. Trung kế ảo cho phép tích hợp các dạng dữ liệu khác nhau trên cùng một mạng và cung cấp khả năng mở rộng mạng một cách linh hoạt. Sử dụng trung kế ảo cho phép tính toán các thông số mạng: số kết nối tối đa, đặc tính của từng thuê bao, băng thông cung cấp cho từng dịch vụ, báo hiệu, khả năng xử lý và QoS tối ưu theo yêu cầu. Giải pháp SURPASS của Siemens sử dụng báo hiệu SS7. Mạng truy nhập thế hệ mới: SIEMENS đưa ra giải pháp SURPASS Next Generation Access bao gồm các thành phần: - SURPASS Evolving Voice Access: Cho phép kết nối tất cả các loại giao diện của các thuê bao hiện tại tới mạng lõi NGN, hỗ trợ các dịch vụ chuyển mạch lớp 5 một cách đầy đủ thông qua các giao diện mở và các giao diện này có thể giao tiếp với mạng hiện tại TDM hay mạng IP. Quan trọng nhất là giải pháp này cho phép việc tiến lên mạng thế hệ sau có thể thực hiện nhanh chóng tại bất kỳ thời điểm nào. - Truy nhập băn rộng SURPASS DSL: Cho phép sử dụng truy nhập băng rộng (ở đây là công nghệ DSL). - Truy nhập đa dịch vụ SURPASS: cho phép truy nhập tất cả các dịch vụ băng hẹp cũng như băng rộng trên cùng một platform. SIEMENS cũng đưa ra một giải pháp cho quá trình phát triển quá độ. Các mạng PSTN, ATM/ IP cùng tồn tại và mạng ATM/ IP chưa xử lý ứng dụng thoại. Các sản phẩm tương ứng cho giải pháp này là hiA (hiA7100, hiA7300). 70 Mạng truyền tải thế hệ mới: Truyền tải thế hệ sau sử dụng công nghệ truyền dẫn quang (SDH, DWDM) và truyền dẫn vi ba. Mạng quản lý thế hệ mới: Next Generation Management giúp tối ưu cấu hình và hoạt động, bảo mật cho các thành phần tạo thành NGN trong SURPASS. Nguyên lý của giải pháp này là dựa trên quản lý phần tử, quản lý miền và các ứng dụng. Phần quản lý mạng hỗ trợ chức năng OAM (quản lý, vận hành, bảo dưỡng) phát hiện xử lý lỗi, định dạng cấu hình, tính cước và quản lý hoạt động cũng như bảo mật mạng. Hệ thống quản lý mạng viễn thông TNMS quản lý từ các phần tử đến các miền hoạt động sử dụng công nghệ quang. Các miền hoạt động có thể là PDH, SDH, DWDM,.... Bộ tích hợp truy nhập quản lý truy nhập thế hệ sau, có cấu trúc mở theo mô hình client/ server, có tính module và linh hoạt. 3.2.4.2 Tình hình triển khai mạng NGN của VNPT Tháng 12/2003, Tổng Công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT) đã lắp đặt xong giai đoạn 1 mạng viễn thông thế hệ mới - New Generation Network (NGN), chủ yếu tập trung lắp đặt mạng lõi của NGN. Mạng NGN với hai Softswitch hiQ9200 đặt tại Hà Nội và TP.HCM. Ba Router lõi: Hà Nội, TP.HCM, Đà Nẵng có khả năng chuyển mạch là 160 Gbps. Có 24 PoP đặt tại 24 tỉnh và thành phố, mỗi PoP bao gồm một Media Gateway kết nối với mạng PSTN phục vụ cho dịch vụ VoIP, và có thể có bộ BRAS kết nối trực tiếp với thiết bị DSLAM – HUB có khả năng chuyển mạch 10 Gbps, có thể hỗ trợ các kết nối ADSL, SHDSL. 71 Các đường truyền kết nối giữa các Router lõi với nhau, cũng như Router lõi và Router vùng là 155 Mbps. Lớp truyền vận của NGN sử dụng công nghệ IP/MPLS. Hình 3.5 Mô hình NGN của VNPT Để nâng cao hơn nữa năng lực của mạng lưới, VNPT quyết định đầu tư tiếp pha 2. Đến ngày 15/08/2004 đã hoàn thành và đưa vào sử dụng. VNPT đã hoàn tất triển khai một mạng NGN phục vụ cho truyền dẫn liên tỉnh. Hiện tại đơn vị quản lý và khai thác mạng lưới NGN này là công ty Viễn Thông Liên Tỉnh - VTN. Các dịch vụ do mạng NGN mang lại hiện tại có thể thấy đó là: dịch vụ giải trí bình chọn 1900, 1800; các dịch vụ mạng riêng ảo nội hạt và liên tỉnh. 72 Năm 2005: tăng số nút điều khiển ATM+IP nhằm mở rộng vùng phục vụ của mạng NGN tới các tỉnh và thành phố còn lại, bảo đảm cung cấp dịch vụ xDSL tại 61 tỉnh thành. Tháng 11/ 2006 dự án mở rộng NGN pha 4. VNPT đã triển khai NGN xuống các tổng đài và hệ thống truyền dẫn nội hạt. Cuối năm 2008 VNPT đã hoàn thành triển khai toàn bộ mạng lưới NGN, bao gồm: hoàn tất phần mạng lõi dựa trên công nghệ IP và mở rộng phần truy nhập tới mạng nội hạt. Việc hoàn tất triển khai NGN sẽ giúp cho VNPT giảm chi phí đầu tư mở rộng mạng lưới, giảm chi phí vận hành khai thác và bảo dưỡng. Đến nay VNPT đã hoàn tất xây dựng mạng NGN. VNPT đã sẵn sàng cung cấp tất cả các dịch vụ băng rộng vơi chất lượng dịch vụ có tiêu chuẩn quốc tế. Đây sẽ là lợi thế của VNPT khi mà xu hướng các dịch vụ băng rộng sẽ phát triển mạnh mẽ trong tương lai. Tóm lại việc triển khai chuyển đổi từ mạng thế hệ cũ sang thế hệ mới (NGN) với c 1, 2, 3, 4 IP/MPLS . Trong giai đoạn 2010 - 2015, mục tiêu phát triển cốt lõi của mạng viễn thông liên tỉnh là nhằm vào khả năng đa dạng hóa dịch vụ, vào tính hội tụ giữa thoại và số liệu, vào tính thống nhất giữa cố định và di động, vào tính tích hợp giữa mạng viễn thông và mạng máy tính và vào tính tự động hóa trong quá trình quản lý và điều hành mạng lưới với khẩu hiệu viễn thông quốc tế “Thông tin mọi nơi, mọi lúc, bất cứ hình thức nào”. Các dịch vụ viễn thông của xu hướng sự hội tụ này có thể kể đến các dịch vụ IPTV, truyền hình hội nghị, các dịch vụ cho 3G 73 KẾT LUẬN Mạng thế hệ sau NGN đang được nghiên cứu, chuẩn hoá bởi các tổ chức viễn thông lớn trên thế giới nhằm đáp ứng nhu cầu càng tăng về tính mở, sự tương thích và linh hoạt để cung cấp đa dịch vụ, đa phương tiện với các tính năng ngày càng mở rộng. Qua ba tháng làm đồ án tốt nghiệp với đề tài “Nghiên cứu NGN và ứng dụng” em đã tìm hiểu được những vấn đề sau:  Tổng quan về mạng NGN.  Cấu trúc mạng NGN cùng với các giao thức báo hiệu và điều khiển, và những dịch vụ chủ yếu trong mạng thế hệ mới.  Tình hình triển khai NGN tại Việt Nam. Trong quá trình làm đồ án, do trình độ, kiến thức thực tế còn hạn chế, nên đồ án không tránh khỏi những thiếu sót và chưa thật sự sâu sắc. Em rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô và các bạn để hoàn thiện và phát triển đề tài này. Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong bộ môn Điện tử Viễn thông – Trường Đại Học Dân Lập Hải Phòng, đặc biệt là thầy giáo Th.s Mai Văn Lập đã nhiệt tình giúp đỡ em hoàn thành cuốn đồ án này. Hải Phòng, ngàythángnăm 2010 Sinh viên thực hiện Đỗ Thị Huyền 74 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Mạng viễn thông thế hệ sau – TS Nguyễn Quý Minh Hiền, Viện khoa học kỹ thuật bưu điện. 2. Đề tài: “Nghiên cứu chuyển mạch mềm” Phòng công nghệ, Công ty Thông tin Viễn thông Điện lực, 2000. 3. Đồ án tốt nghiệp – Nguyễn Anh Quân trường ĐHBK Hà Nội – người hướng dẫn Giáo viên Đỗ Hoàng Tiến (Đề tài: Mạng NGN và các giao thức báo hiệu và điều khiển). 4. Đồ án tốt nghiệp – Bùi Quốc Nam Học Viện CN Bưu chính Viễn Thông – người hướng dẫn Th.s Dương Văn Thành (Đề tài: NGN và ứng dụng).

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf4.DoThiHuyen_DT1001.pdf