Lời mở đầu
Tính cấp thiết của đề tài
Thị trường bất động sản là một trong những thị trường có vị trí và vai trò quan
trọng đối với nền kinh tế quốc dân. Phát triển và vận hành tốt thị trường này sẽ góp
phần to lớn vào quá trình thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, tạo khả năng thu hút đa
dạng các nguồn vốn đầu tư cho phát triển. Nhận thấy tầm quan trọng và khả năng sinh
lợi của thị trường bất động sản Việt Nam, các nhà đầu tư trong và ngoài nước đang
xúc tiến đầu tư mạnh vào thị trường này. Tuy nhiên, muốn nhận định và đưa ra cái
nhìn chính xác về thị trường bất động sản quả là không đơn giản trong bối cảnh thị
trường hiện nay.
Chúng ta đang đề cập đến vấn đề đầu tư tạo lập và kinh doanh bất động sản.
Thế giới đang ngày càng trở nên phẳng hơn, khả năng tiếp cận thông tin của nhân loại
càng phong phú hơn bao giờ hết. Hiện nay, chỉ bằng những cái nhấp chuột, cả thế giới
bất động sản mở ra trước mắt khách hàng với muôn vàn màu sắc, muôn vàn chủng loại
và hình thức khác nhau. Thế nên, nhà đầu tư không thể khoanh tay ngồi chờ khách
hàng tự tìm đến mình nữa. Họ phải vận động hết mình nhằm tiêu thụ sản phẩm. Nói
đến vấn đề tiêu thụ sản phẩm là kể đến vai trò quan trọng của chiến lược marketing.
Marketing chính là công cụ hỗ trợ nhà đầu tư trong suốt quá trình tạo lập dự án và tiêu
thụ sản phẩm, giúp tạo ra lợi nhuận gấp nhiều lần thông qua việc đưa sản phẩm đến
đúng khách hàng mục tiêu. Marketing bất động sản hiện nay đang dần thể hiện vai trò
nòng cốt của nó hơn bao giờ hết. Tuy nhiên không phải doanh nghiệp nào cũng nhận
thấy và khai thác triệt để lợi ích của marketing bất động sản. Hay chính xác hơn là nó
chưa thật sự cần thiết trong quá khứ và nhà đầu tư cũng không quá dồi dào về nguồn
vốn để thực hiện hoàn chỉnh một chiến lược nghiên cứu marketing. Nhưng hiện nay,
chúng ta nhận thấy rằng bất động sản chuyển nhượng sắp phải bước lên sàn giao dịch;
người môi giới từ sau ngày 01/01/2009 phải có Chứng chỉ hành nghề; Chính phủ đánh
thuế lũy tiến trên lợi nhuận đầu tư bất động sản; hạn mức về nhà ở, đất ở trên đầu
người và chính sách siết tín dụng đầu tư bất động sản; đặc biệt là tâm lý hoang mang
của người dân khi mua nhà trước tình hình giảm giá hiện nay. Tất cả nguyên nhân trên
đòi hỏi một thị trường bất động sản minh bạch hơn ra đời, một thị trường bất động sản
thể hiện bản chất cạnh tranh thật sự. Khi ấy, vai trò của nghiên cứu marketing bất động
sản được đề cao.
Một khi thị trường trở về đúng trạng thái cạnh tranh của nó, cung – cầu vận
hành theo đúng cơ chế thì việc tiêu thụ sản phẩm không còn đơn giản là sản xuất và
cung ứng mà cần có sự hỗ trợ của công cụ marketing. Markeing hiện nay tại các doanh
nghiệp bất động sản thường phát triển theo hướng 4P – marketing hỗn hợp. Tuy nhiên,
chiến lược được xem trọng nhất chỉ có chiến lược chiêu thị cổ động nhằm thu hút sự
chú ý của khách hàng. Giai đoạn nghiên cứu thị trường, nghiên cứu khách hàng mục
tiêu, nghiên cứu định vị sản phẩm tại doanh nghiệp vẫn chưa được quan tâm thực hiện
bài bản, trừ một số dự án cao cấp có vốn đầu tư lớn mới có sự hỗ trợ của các công ty
nghiên cứu thị trường thuê ngoài. Phần lớn các doanh nghiệp trong nước đều đầu tư
theo khả năng tài chính trong các phân khúc thị trường có khả năng sinh lợi cao.
Khi nghiên cứu marketing trong từng lĩnh vực riêng biệt cũng cần phải có sự
hiểu biết nhất định về tính chất sản phẩm và đặc điểm thị trường của hàng hóa chuyên
biệt đó. Ứng dụng nghiên cứu marketing trong lĩnh vực bất động sản tại Việt Nam tuy
đã đạt được một nhiều thành quả đáng kể, là công cụ hữu hiệu trong quản trị doanh nghiệp, giúp đẩy nhanh quá trình tiêu thụ sản phẩm. Nhưng vẫn tồn tại một số hạn chế
trong nghiên cứu marketing như: tiêu chí nhận dạng và đáp ứng nhu cầu, xác định các
phân khúc thị trường bất động sản, xác định các nhân tố ảnh hưởnng chuyên biệt đến
hành vi lựa vị trí cư trú và loại hình nhà ở, định hướng đầu tư và lợi nhuận đầu tư,
Trước bối cảnh đó chúng tôi thực hiện đề tài: “Nghiên cứu marketing bất
động sản ứng dụng lý thuyết vị thế - chất lượng trên địa bàn Tp. Hồ Chí Minh”.
Mục tiêu nghiên cứu:
Ứng dụng lý thuyết vị thế - chất lượng trong nghiên cứu marketing bất động sản
với mục tiêu phác họa bức tranh tổng thể của giai đoạn nghiên cứu marketing vĩ mô
làm tiền đề cho các bước nghiên cứu marketing vi mô tiếp theo. Nghiên cứu nhu cầu
nhà ở, phân khúc thị trường theo yếu tố văn hóa - xã hội và khoảng cách vị thế, phân
tích hành vi của người tiêu dùng trên thị trường bất động sản dựa trên sự khác biệt về
văn hóa – xã hội, đồng thời nghiên cứu tỷ suất lợi nhuận đầu tư trong các phân khúc
thị trường.
Khắc phục các hạn chế của hoạt động marketing hiện nay tại doanh nghiệp, đề
xuất hướng nghiên cứu tiếp theo nhằm hoàn thiện mô hình.
Đối tượng nghiên cứu:
Cơ sở hành vi lựa chọn nhà ở của người tiêu dùng và phương pháp nghiên cứu
marketing bất động sản.
Phạm vi nghiên cứu:
Do giới hạn về kiến thức và kinh nghiệm, cộng với sự khởi đầu của nghiên cứu
marketing bất động sản ứng dụng lý thuyết vị thế - chất lượng. Đề tài chỉ phác thảo các
bước cơ bản nghiên cứu marketing bất động sản trong phạm vi không gian và thời gian
hạn chế. Cụ thể đề tài giới hạn xây dựng cơ sở phương pháp luận nghiên cứu
marketing bất động sản ứng dụng lý thuyết vị thế - chất lượng cho phân khúc thị
trường nhà ở như đất nền, nhà phố, căn hộ chung cư. Đề tài chưa đề cập đến marketing
trong phân khúc thị trường khách sạn, văn phòng cho thuê và trung tâm thương mại.
Phạm vi không gian: Tìm hiểu nhu cầu nhà ở của người dân trên địa bàn một
vài quận thuộc thành phố Hồ Chí Minh.
Phạm vi thời gian: Số liệu được thu thập trong khoảng thời gian từ ngày 15/04
đến tháng 15/06 năm 2008.
Ý nghĩa thực tiển của đề tài:
Bước đầu xây dựng được những quan điểm phương pháp luận chung nhất của
nghiên cứu marketing bất động sản ứng dụng lý thuyết vị thế - chất lượng, khắc phục
các hạn chế của hoạt động marketing bất động sản hiện nay.
Có cái nhìn khái quát nhất về nhu cầu và phân khúc thị trường nhà ở, các nhân
tố tác động đến nhu cầu, lợi nhuận đầu tư trên các phân khúc.
29 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1854 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nghiên cứu marketing bất động sản ứng dụng lý thuyết vị thế - chất lượng trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g cầu, cạnh tranh và
giá trị. Trong quá trình đó, hành vi lựa chọn nhà ở là hành vi xã hội cơ sở của các mô
hình thị trường nhà ở đô thị11, đồng thời cũng chịu sự chi phối bởi chính các quy luật
kinh tế thị trường.
1.2. Tính dị biệt bất động sản và phân khúc thị trường nhà ở đô thị
1.2.1. Tính dị biệt của bất động sản
Bất động sản nếu hiểu theo sát nghĩa từ ngữ, thì đó là những tài sản bất động,
không thể di dời. Việc phân loại tài sản thành “động sản” và “bất động sản” có nguồn
gốc từ Luật cổ La Mã, theo đó bất động sản không chỉ là đất đai, của cải trong lòng đất
mà còn là tất cả những gì được tạo ra do sức lao động của con người trên mảnh đất.
Những tài sản gắn liền với đất đai sẽ được xem là bất động sản nếu như đó là những
vật thể tồn tại trên đất đai với một chức năng nhất định, chức năng này sẽ bị mất đi khi
tách rời khỏi đất đai. Bất động sản có những đặc điểm khác biệt so với các tài sản
khác, cụ thể là tính cố định về vị trí, tính khan hiếm, tính lâu bền về vật lý và kinh tế,
tính ảnh hưởng lẫn nhau, do đó bất động sản có tính dị biệt cao về vị trí, kết cấu, kiến
trúc, cảnh quan, các vật ngoại cảnh, môi trường văn hóa, xã hội, kinh tế và chính trị
địa phương.
11 David Meen and Geoffrey Meen, november 2002. Social Behaviour as a Basis for Modelling the Urban
Housing Market: A Review. The University of Reading.
Nghiên cứu marketing bất động sản TS. Trần Thanh Hùng
Trang 15
Tính dị biệt bất động sản, có thể nói, là đặc tính gây ra nhiều tranh luận và khó
khăn trong việc nghiên cứu thị trường hàng hóa bất động sản. Có hai quan điểm khác
nhau, đối nghịch nhau về tính dị biệt của bất động sản12 được phát biểu cụ thể như sau:
- Quan điểm tuyệt đối hóa tính dị biệt: các bất động sản khác nhau về bản
chất các yếu tố cấu thành bất động sản.
- Quan điểm tương đối hóa tính dị biệt: các bất động sản khác nhau về lượng
giá trị của các yếu tố thành phần, sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi
về chất.
Những quan điểm khác nhau về tính dị biệt của bất động sản sẽ dẫn đến những
hệ quả khác nhau trong việc nghiên cứu thị trường bất động sản. Theo lý thuyết kinh tế
truyền thống hàm cung cầu thị trường được xây dựng với điều kiện giả thiết về tính
đồng nhất của sản phẩm hàng hóa. Quan điểm tuyệt đối hóa tính dị biệt đồng nghĩa với
việc xem mỗi bất động sản là một loại hàng hóa riêng biệt, như vậy ứng với mỗi nhóm
bất động sản, chỉ có thể xây dựng được đường cung cầu cá biệt, mà không thể xác định
được đường cung cầu thị trường cho tất cả các loại bất động sản, từ đó dẫn đến việc
phủ định giá cả thị trường bất động sản – việc xác định giá cả thị trường bất động sản
như “đi tìm lá diêu bông”, chỉ công nhận giá cả cá biệt của từng bất động sản cụ thể.
Trước những khó khăn được ví như “đi tìm lá diêu bông” trong việc xác định
giá cả thị trường bất động sản, làm rõ các quy luật cung cầu thị trường bất động sản
mà quan điểm tuyệt đối hóa tính dị biệt không giải quyết được, quan điểm thứ hai –
quan điểm tương đối hóa tính dị biệt được tập trung chú ý hơn.
Theo quan điểm tương đối hóa tính dị biệt, tất cả các bất động sản đều có các
yếu tố thành phần như nhau, nhưng chỉ khác nhau về lượng giá trị của các yếu tố này.
Cũng theo quan điểm này, cung cầu trên thị trường chính là cung cầu về dịch vụ bất
động sản, là cung cầu về tổ hợp các yếu tố cấu thành bất động sản. Mối quan hệ giữa
bất động sản hiện vật và dịch vụ bất động sản cũng được xác định rõ ràng. Có thể nói,
với quan điểm tương đối hóa tính dị biệt đã mở ra một hướng đi mới cho những nhà
nghiên cứu có thể xác định được hàm cung cầu giá cả, tìm ra các quy luật thị trường và
mối liên hệ giữa chúng trong thị trường, giải quyết được những khó khăn do tính dị
biệt gây ra. Quan điểm tương đối hóa tính dị biệt cũng công nhận sự khác biệt giữa các
bất động sản, tính cá biệt của cung cầu và giá cả của từng bất động sản cụ thể, cũng
như tính phân khúc của thị trường bất động sản, nhưng không tuyệt đối hóa những tính
chất này, mà khẳng định tính dị biệt, tính cá biệt và tính phân khúc bất động sản chỉ là
tương đối. Có nghĩa là các bất động sản khác nhau và các phân khúc thị trường có mối
liên hệ chặt chẽ với nhau trong một không gian vị thế - chất lượng.
Thực tế, tính dị biệt của bất động sản là do vị thế xã hội và chất lượng vật lý
của nó tạo ra. Vị thế và chất lượng là hai yếu tố kết hợp với nhau theo một tỷ lệ nhất
định trong mỗi một bất động sản cụ thể tạo ra một khả năng đáp ứng các nhu cầu về
“physical” và “social” của con người; khả năng này được gọi là dịch vụ bất động sản.
Các đơn vị bất động sản hiện vật khác nhau về vị thế và chất lượng, nhưng có cùng
một mức độ đáp ứng các nhu cầu của con người như nhau thì chúng có cùng một
lượng đơn vị dịch vụ bất động sản. Điều này được minh họa trên đồ thị (Hình 1.6).
12 Trần Thanh Hùng, 2008. Phương pháp định giá bất động sản ứng dụng lý thuyết vị thế - chất lượng/Tạp chí
Địa chính số 3 tháng 6 năm 2008.
Nghiên cứu marketing bất động sản TS. Trần Thanh Hùng
Trang 16
Có thể thấy những bất động sản A, B, C trên đường cong đồng lượng không
hoàn toàn giống nhau. Chúng khác nhau về lượng giá trị của vị thế và chất lượng theo
hai trục 0-VN và 0-CL, mà chỉ giống nhau về sự khả năng thỏa mãn các nhu cầu của
con người về bất động sản.
Thực tế cũng cho thấy, không có người chỉ có nhu cầu về vị thế, hoặc về chất
lượng, tất cả mọi người đều có nhu cầu cả hai yếu tố thuộc tính này trong một tổ hợp
nhất định. Với một nguồn lực tài chính cho trước, giao điểm giữa đường ngân sách và
đường cong bàng quang – đường đồng mức thỏa dụng (đối với hành vi người tiêu
dùng); giao điểm giữa đường đẳng phí và đường đồng lượng (đối với hành vi nhà cung
cấp) là tổ hợp tiêu dùng tối ưu, hay tổ hợp sản xuất tối ưu. Quỹ tích các giao điểm này
tạo thành đường ngưỡng chất lượng nhà ở ứng với một vị thế nơi ở xác định. Trong
nền kinh tế thị trường, khi biểu hiện dưới hình thái tiền tệ thì các điểm thuộc đường
cong bàng quang/đường đẳng lượng có cùng giá trị thị trường, các đơn vị bất động sản
hiện vật có cùng một lượng dịch vụ bất động sản thì sẽ có giá trị thị trường như nhau,
bởi giá trị thị trường bất động sản là giá trị của một đơn vị dịch vụ bất động sản được
hình thành thông qua quan hệ cung cầu thị trường về dịch vụ bất động sản. Điều này sẽ
được làm rõ ở phần tiếp theo.
1.2.2. Phân khúc thị trường nhà ở đô thị
Thị trường bất động sản được hiểu như là “nơi” diễn ra các hoạt động mua bán,
chuyển nhượng, cho thuê, thế chấp, và các dịch vụ liên quan như môi giới, tư vấn giữa
các chủ thể trên thị trường, mà ở đó có vai trò quản lý của Nhà nước đối với thị trường
tác động thúc đẩy phát triển hay kìm hãm hoạt động kinh doanh bất động sản của các
chủ thể thị trường. Thị trường bất động sản không chỉ hiểu đơn giản là tổng thể các
quan hệ giao dịch về bất động sản được thực hiện thông qua quan hệ hàng hóa tiền tệ,
bởi nó có những đặc điểm khác biệt so với các thị trường hàng hóa khác, cụ thể là:
- Thị trường bất động sản là thị trường mang tính độc quyền bởi tính cố định,
tính khan hiếm và tính tăng trị của đất đai. Thị trường bất động sản là một dạng thị
trường không hoàn hảo do sự không đồng nhất về thông tin và các yếu tố cấu thành thị
trường13.
13 Lê Đình Thắng, 2000. Giáo trình Nguyên lý thị trường nhà đất. Nxb Chính trị quốc gia. Tr. 19.
HP
Hình 1.6. Mối liên hệ giữa đơn vị bất động sản và dịch vụ bất động sản
Ngưỡng mong muốn Đường đồng lượng
Đường đồng phí
0 VN
CL
A
B
C
Nghiên cứu marketing bất động sản TS. Trần Thanh Hùng
Trang 17
- Thị trường bất động sản mang tính vùng, tính khu vực, tính phân khúc sâu sắc.
Quan hệ cung cầu, giá cả bất động sản thường chỉ ảnh hưởng và được xác định trong
một khu vực nhất định, vì vậy khi nghiên cứu các quan hệ này phải gắn với các điều
kiện kinh tế - xã hội cụ thể14. Việc xác định tổng cung, tổng cầu và giá cả thị trường
bất động sản gặp nhiều khó khăn.
Những nhận định nêu trên về đặc điểm của thị trường bất động sản, mặc dù
được nhiều người đồng tình, nhưng vẫn chưa làm rõ tính chất độc quyền của thị trường
và nguyên nhân phân khúc thị trường. Phải chăng thị trường bất động sản là thị trường
cạnh tranh độc quyền do tính không thuần nhất của sản phẩm hàng hóa bất động sản?
Tính phân khúc, tính không tập trung, phân vùng của thị trường là do tính cố định và
tính không gian của đất đai tạo ra?
Các lý thuyết về thị trường bất động sản hiện nay vẫn còn một khoảng cách
nhất định so với thực tế thị trường, chỉ nói đến cung cầu chung chung, đường cung đi
lên và đường cầu đi xuống, cung cầu gặp nhau hình thành giá cả thị trường một đơn vị
bất động sản15. Với khái niệm cung cầu chung chung như vậy, không thể xác định
được tính phân khúc của thị trường theo nhóm đối tượng tiêu dùng, không thể xác định
các đặc điểm thị trường bất động sản là thị trường cạnh tranh hoàn hảo, độc quyền,
cạnh tranh độc quyền, hay độc quyền nhóm.
Nếu khẳng định thị trường bất động sản là thị trường cạnh tranh độc quyền do
tính dị biệt của hàng hóa bất động sản, thì dẫn đến hệ quả tuyệt đối hóa tính phân khúc
của thị trường và phủ định khả năng nhận thức những quy luật thị trường, do không
xác định được đường cầu thị trường cho tất cả mọi hàng hóa bất động sản16.
Theo quan điểm tương đối hóa tính dị biệt bất động sản, có thể khẳng định rằng,
thị trường bất động sản mang tính độc quyền nhóm với các phân khúc thị trường khác
nhau hình thành từ sự khác biệt về độ co giãn của cầu17, từ chính đặc tính của nhu cầu
về dịch vụ bất động sản. Thị trường bất động sản có tính độc quyền của người cung do
tính cố định và tính vị thế của đất đai, theo đó người cung ứng – nhà đầu tư phát triển
bất động sản có khả năng ấn định số lượng và giá cả bất động sản cho các nhóm khách
hàng có hàm số cầu khác nhau với mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận kinh doanh. Mô hình
của thị trường có thể được minh họa bởi đồ thị (Hình 1.7).
Trên đồ thị đó, trục tung thể hiện các mức giá dịch vụ bất động sản, trục hoành
là trục thể hiện các lượng dịch vụ bất động sản cung ứng trên thị trường; các đường
cung ngắn hạn SSA, SSB, SST là các đường cung trong các phân khúc A, B và toàn thị
trường; các đường cầu DA, DB, DT là các đường cầu trong các phân khúc A, B và toàn
thị trường; các đường MRA, MRB, MRT là các đường doanh thu biên trong các phân
khúc A, B và toàn thị trường; PA, PB, PT là các mức giá tương ứng với các lượng cung
YA, YB, YT trong các phân khúc A, B và toàn thị trường; P0 là chi phí bình quân tạo
lập một đơn vị dịch vụ bất động sản (hay giá thành). Nếu loại bỏ được tính độc quyền
của người cung, thì thị trường bất động sản trở nên cạnh tranh hơn thành thị trường
cạnh tranh hoàn hảo, thì các mức giá trong các phân khúc PA, PB, PT sẽ tiến tới P0.
14 Thái Bá Cẩn và Trần Nguyên Nam, 2003. Thị trường bất động sản – Những vấn đề lý luận và thực tiễn ở
Việt Nam. Nxb Tài chính. Tr. 18-19.
15 Thái Bá Cẩn và Trần Nguyên Nam, 2003. Thị trường bất động sản – Những vấn đề lý luận và thực tiễn ở
Việt Nam. Nxb Tài chính. Tr. 46-49.
16 Lê Bảo Lâm và ctv, 1999. Kinh tế vi mô. Nxb Thống kê. Tr. 172-173.
17 Lê Bảo Lâm và ctv, 1999. Kinh tế vi mô. Nxb Thống kê. Tr. 177-179.
Nghiên cứu marketing bất động sản TS. Trần Thanh Hùng
Trang 18
Tính phân khúc của thị trường nhà ở đô thị xuất phát từ chính đặc tính các nhu
cầu về nhà ở, các nhu cầu về “phyical” và “social”, liên quan mật thiết với hành vi lựa
chọn vị trí cư trú đô thị của các phân nhóm người tiêu dùng – các phân nhóm xã hội và
với sự hình thành các khu dân cư trong các thành phố với những nét văn hóa - xã hội
đặc trưng. Mỗi một khu dân cư được xem như là một phân khúc của thị trường với
thành phần dân cư có phong cách tiêu dùng đặc thù phù hợp với vị thế và thế đứng của
họ trong xã hội. Các khu dân cư trong thành phố tạo nên những vành đai đồng tâm
phần lớn liên tục và chờm nhau xung quanh một hay nhiều cực vị thế. Cấu trúc vành
đai là kết quả của một sự lựa chọn giữa vị thế mong muốn và một mức độ chất lượng
nhà ở chấp nhận được. Trong quá trình đó, các yếu tố văn hóa - xã hội dân cư đóng vai
trò định hướng hành vi người tiêu dùng, còn mức thu nhập – nguồn lực tài chính của
họ có vai trò quyết định trong việc lựa chọn và sử dụng nhà ở để đáp ứng các nhu cầu
vật chất và tinh thần, những đòi hỏi trong các lĩnh vực “physical” và “social” của bản
thân, các nhu cầu hòa nhập vào cộng đồng, nhu cầu khẳng định bản thân trong xã hội,
hay nhu cầu về vị thế mà xã hội tôn vinh…
Các phân khúc thị trường nhà ở đô thị nói riêng và bất động sản nói chung được
hình thành bởi tự tính co giãn nội tại của hàm cầu về bất động sản và biểu hiện trong
không gian đô thị là các khu dân cư với những nét văn hóa - xã hội đặc thù. Vì vậy,
không có căn cứ để khẳng định tính phân khúc, phân vùng của thị trường bất động sản
là do tính cố định và tính không gian của đất đai tạo ra, như một số người đã nói.
Thông thường, các phân khúc thị trường với độ co giãn của hàm cầu theo giá khác
nhau được phân bố trong không gian đô thị tại những khoảng cách vị thế khác nhau và
các vùng văn hóa - xã hội dân cư riêng biệt.
Nếu như theo khoảng cách vị thế thì sự lựa chọn vị trí cư trú có phạm vi bằng
chu vi vòng tròn có một bán kính vị thế nhất định, nhưng đặc trưng văn hóa - xã hội
dân cư lại là yếu tố hạn chế khả năng lựa chọn này. Có nghĩa là, mỗi một người có nhu
cầu về nhà ở – một nhóm dân cư đô thị nhất định không chỉ lựa chọn “sống ở đâu”, mà
còn phải tính đến “sống với ai” để đáp ứng các nhu cầu bản thân về lĩnh vực “social”
trong giới hạn mức thu nhập – nguồn lực tài chính của mình, (Hình 1.8).
Hình 1.7. Các phân khúc của thị trường bất động sản
P
PB
0 YA YT YB Y Y
PT
P0
PA SST
SSA
SSB
DT
MRT MRB MRA
DA
DB
IT
ΠA
ΠT ΠB
IA IB
Nghiên cứu marketing bất động sản TS. Trần Thanh Hùng
Trang 19
Do những đặc tính của nhu cầu về nhà ở và hành vi lựa chọn vị trí dân cư đô thị
nêu trên làm cho thị trường bất động sản có tính độc quyền của người cung – các nhà
đầu tư phát triển nhà ở đô thị tại các khu dân cư có vị thế xã hội mong muốn, tức có
khoảng cách vị thế và thuộc tính văn hóa - xã hội phù hợp với mong muốn của nhóm
người có nhu cầu. Tính độc quyền này được biểu hiện thông qua khả năng của người
cung – các nhà đầu tư ấn định số lượng và mức giá bất động sản cho từng phân khúc
thị trường, sao cho doanh thu biên giữa các thị trường phải bằng nhau và bằng doanh
thu biên chung, như đã mô tả ở đồ thị trên (Hình 1.7).
1.2.3. Giá trị bất động sản và lợi nhuận đầu tư trong các phân khúc thị trường
Giá trị bất động sản và lợi nhuận đầu tư có mối liên hệ chặt chẽ. Giá trị có thể
biểu hiện qua các hình thức như giá thành, giá cả thị trường sản phẩm. Với hình thức
giá thành sản phẩm giá trị bất động sản chính là chi phí đầu tư tạo lập bất động sản;
còn với hình thức giá cả thị trường sản phẩm giá trị bất động sản lại là thu nhập của
đầu tư phát triển bất động sản. Hiệu số giữa giá cả thị trường và giá thành là lợi nhuận
của đầu tư phát triển bất động sản. Với cái nhìn bề ngoài mọi việc xem ra có vẻ đơn
giản, nhưng khi phân tích chi tiết hơn, tính toán lợi nhuận cho tất cả mọi đối tượng
tham gia đầu tư phát triển bất động sản, xác định tỷ lệ đóng góp của các thành phần
cấu thành bất động sản như đất đai, nhà ở, công trình gắn liền với đất đai thì công việc
trở nên phức tạp hơn, bắt đầu từ phạm trù kinh tế “giá trị” bất động sản đến căn cứ
phân tích và phương pháp tính toán lợi nhuận của các bộ phận, các đối tượng tham gia
thị trường bất động sản.
Trong thị trường giá cả hàng hoá nói chung và bất động sản nói riêng được hình
thành thông qua quan hệ cung cầu. Khi có sự cân bằng cung cầu trên thị trường hình
thành giá cả cân bằng thị trường của hàng hoá. Giá cả cân bằng này sẽ thay đổi khi có
sự mất cân đối cung cầu: giá giảm khi cung lớn hơn cầu và tăng khi cung nhỏ hơn cầu
trong điều kiện các yếu tố khác không thay đổi.
Hình 1.8. Các khu dân cư văn hóa - xã hội khác nhau trong không gian đô thị
Nghiên cứu marketing bất động sản TS. Trần Thanh Hùng
Trang 20
Như đã nêu trên, trong thực tế cung cầu thị trường bất động sản là cung cầu về
dịch vụ bất động sản. Sự tương tác cung cầu về dịch vụ bất động sản xác định giá cả
thị trường của một đơn vị dịch vụ bất động sản PT. Giá cả của một bất động sản cụ thể
được xác định bằng công thức P = PT x Y, với Y = f(VT, CL). Điều này được nhiều
người dễ dàng chấp nhận. Tuy nhiên, khi tiếp tục làm rõ nội dung giá trị ẩn chứa bên
trong biểu hiện bằng tiền của giá cả thị trường thì lại gặp nhiều quan điểm khác nhau
về giá trị, như quan điểm kinh tế chính trị Mác xít, quan điểm kinh tế thị trường và
quan điểm marketing hiện đại.
Theo quan điểm kinh tế chính trị Mác xít, giá trị là lao động không phân biệt
nói chung của con người, lao động xã hội kết tinh trong hàng hóa. Nó là một trong hai
thuộc tính của hàng hóa: giá trị và giá trị sử dụng. Trong đó giá trị là thuộc tính xã hội
của hàng hóa, là lao động xã hội thể hiện trong hàng hóa. Trong mối quan hệ với giá
trị trao đổi thì giá trị là nội dung của giá trị trao đổi, giá trị trao đổi là hình thức biểu
hiện của giá trị và giá cả là hình thái biểu hiện bằng tiền của giá trị. Từ đó khẳng định
đất đai, thành phần cơ bản của bất động sản, không có giá trị vì đất đai không phải là
sản phẩm do con người làm ra, không có lao động kết tinh trong đất đai. Giá cả đất đai
(P) thực chất là địa tô tư bản hoá, xác định theo công thức: P = R/E, với R là địa tô và
E là tỷ suất vốn hóa18.
Sau này một số nhà kinh tế trường phái tân Mác xít cho rằng đất đai cũng có giá
trị, bởi vì hiện tại đất đai không còn ở trạng thái tự nhiên ban đầu, mà đã có lao động
xã hội (lao động sống và lao động vật hoá) kết tinh từ hoạt động đầu tư khai phá và
phát triển hạ tầng đất đai; được xác định theo công thức: W = C + V + M19. Nhưng
thực tế giá cả thị trường đất đai, đặc biệt đất đai đô thị, lớn hơn nhiều lần giá trị đầu tư
vào đất đai20. Như vậy giá trị đất đai không phải là giá trị đầu tư phát triển trên đất đai.
Sự lúng túng trong lý giải về giá trị đất đai theo quan điểm Mác xít bắt nguồn từ cụm
từ “lao động kết tinh trong hàng hóa” là nền tảng lý luận giá trị của Mác – là giá trị sức
lao động – một phạm trù mà các nhà kinh tế học nhanh chóng nhận ra là “một cuộn
dây chằng chịt không cách nào tháo gỡ được”.
Thận trọng hơn khi đưa ra khái niệm giá trị, các nhà kinh tế thị trường không đề
cập đến phạm trù giá trị sức lao động “kết tinh sức lao động”: Bất kỳ sản phẩm nào có
khả năng đáp ứng được mong muốn của con người đều được coi là có giá trị sử dụng.
Năng lực của giá trị sử dụng này trong việc trao đổi với các sản phẩm/hàng hóa/dịch
vụ khác được gọi là giá trị của nó. Giá cả là giá trị tiền tệ của sản phẩm khi nó được
giao dịch trên thị trường.
Theo quan điểm kinh tế thị trường, đất đai có giá trị sử dụng được trao đổi trên
thị trường, nên nó có giá trị trao đổi. Quan điểm này đơn giản, dễ hiểu, dễ chấp nhận,
nhưng không có sức mạnh mô tả bởi tính đơn giản của nó. Hơn nữa dễ dẫn đến sự
nhầm lẫn giá trị trao đổi là hình thức biểu hiện bằng tiền của giá trị sử dụng, giá trị sử
dụng lớn thì giá trị trao đổi lớn và ngược lại21.
Cũng là quan điểm giá trị trong lĩnh vực marketing hiện đại, xem xét ở một
mức độ khái quát hơn: giá trị trao đổi của sản phẩm bao gồm giá trị hữu hình và giá trị
18 Hội đồng trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn khoa học Mác – Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh, 1999. Giáo trình Kinh tế học chính trị. Nxb Chính trị quốc gia.
19 Xagaidak A. E., 1992. Thuế đất nông nghiệp, (tài liệu tiếng Nga). Nxb Kolox.
20 Nhiêu Hội Lâm, (Lê Quang Lâm biên dịch), 2004. Kinh tế học đô thị. Nxb Chính trị quốc gia.
21 Mã Khắc Vĩ, (Tôn Gia Huyên và ctv biên dịch), 1995. Định giá đất. Nxb Cải cách.
Nghiên cứu marketing bất động sản TS. Trần Thanh Hùng
Trang 21
vô hình. Giá trị hữu hình phụ thuộc vào giá trị đầu tư, chi phí, giá thành sản xuất hàng
hóa đó; giá trị vô hình phụ thuộc vào tâm lý, nhu cầu, thị hiếu của con người22.
Với quan điểm này thì phạm trù giá trị đất đai, bất động sản được giải thích một
cách thuyết phục hơn. Theo đó, giá trị hữu hình ứng với chất lượng nhà đất và giá trị
vô hình ứng với vị thế đất đai. Giá trị trao đổi bất động sản có hai thành phần: giá trị
sử dụng và giá trị.
Giá trị sử dụng là giá trị hữu hình là cơ sở không gian (diện tích bề mặt) có các
thuộc tính địa chất, địa hình, địa mạo và sinh thái cùng với các quá trình sinh lý hoá
tạo ra độ phì đất kết hợp với giá trị đầu tư trên đất đai tạo ra sản phẩm hàng hoá và
dịch vụ. Và trong kinh tế thị trường giá trị sử dụng được biểu hiện bằng đơn vị tiền tệ
thì đấy là giá cả hay giá thành của giá trị sử dụng.
Giá trị đất đai cũng như giá trị thương hiệu phụ thuộc vào vị thế của đất đai.
Giá trị là đại lượng vô hình phụ thuộc vào tâm lý, thị hiếu tiêu dùng của thị trường.
Bản chất “giá trị vô hình” của đất đai đến từ vị thế, mà nó “ngự trị” trong tâm tưởng -
nghĩa là trong tâm tư, nguyện vọng, tình cảm - của khách hàng nói riêng và xã hội nói
chung23. Quan điểm về giá trị vô hình của đất đai chắc chắn cũng được các nhà quản lý
đất đai thuộc trường phái Mác xít dễ dàng chấp nhận, khi công nhận tính siêu hình, phi
vật thể của giá trị vật chất tạo ra tư bản24.
Trong trường hợp vị thế đất đai không khác nhau do con người trong xã hội tất
cả đều như nhau thì giá trị trao đổi của hàng hóa đất đai phụ thuộc vào giá trị hữu hình,
tức là giá thành sản phẩm. Như vậy quan điểm này phù hợp với quan điểm kinh tế
chính trị Mác xít và kinh tế thị trường về giá trị. Những quan điểm này là trường hợp
đặc biệt của lý thuyết vị thế - chất lượng trong một môi trường đồng nhất về vị thế.
Như vậy, có thể khẳng định, giá trị trao đổi của bất động sản bao gồm: giá trị sử
dụng (do chất lượng tạo ra) và giá trị (do vị thế tạo ra). Vấn đề đặt ra, trong một đơn vị
hàng hoá bất động sản cụ thể tỷ lệ kết hợp giá trị sử dụng và giá trị trong cơ cấu giá trị
trao đổi có bị chi phối bởi quy luật nào không? Hay nói cách khác, giá trị của chất
lượng và giá trị vị thế có mối quan hệ với nhau như thế nào?
Như đã biết, hàng hóa bất động sản gồm có hai thuộc tính: chất lượng và vị thế.
Chất lượng bất động sản tạo ra giá trị sử dụng, giá trị hữu hình, còn vị thế bất động sản
quyết định giá trị, giá trị vô hình của nó. Cung cầu thị trường bất động sản là cung cầu
về dịch vụ bất động sản, tức về tổ hợp chất lượng và vị thế, kết hợp với nhau theo một
tỷ lệ nhất định, cân bằng cung cầu trên thị trường hình thành giá trị trao đổi của đơn vị
dịch vụ bất động sản.
Giá trị trao đổi bất động sản = {giá trị sử dụng của chất lượng; giá trị vị thế}.
Tỷ lệ kết hợp giữa chất lượng và vị thế trong một đơn vị bất động sản cụ thể bị
chi phối bởi quy luật hữu ích biên giảm dần, tương tự như tỷ lệ kết hợp giữa hai nhân
tố sản xuất đầu vào tư bản (K) và lao động (L) trong một quy trình sản xuất xác định.
Quỹ tích các điểm kết hợp tối ưu giữa chất lượng và vị thế tạo thành đường ngưỡng
chất lượng bất động sản ứng với một vị thế đất đai cho trước25, đường ngưỡng này
22 Tôn Thất Nguyễn Thiêm, 2005. Dấu ấn thương hiệu: Tài sản & giá trị, tập 1. Nxb Trẻ.
23 Tôn Thất Nguyễn Thiêm, 2005. Dấu ấn thương hiệu: Tài sản & giá trị, tập 1. Nxb Trẻ.
24 Tôn Gia Huyên, Nguyễn Đình Bồng, 2006. Quản lý đất đai và thị trường bất động sản. Nxb Bản đồ. Tr. 17.
25 Hoàng Hữu Phê và Patrick Wakely, 2000. Vị thế, chất lượng và sự lựa chọn khác: Tiến tới một lý thuyết mới
về vị trí dân cư đô thị/Tạp chí Đô thị học xuất bản tại Vương quốc Anh. Vol 37, No 1, January 2000.
Nghiên cứu marketing bất động sản TS. Trần Thanh Hùng
Trang 22
chính là đường giá trị trao đổi. Chỉ những bất động sản nhà ở nằm trên đường ngưỡng
mới có giá trị trao đổi bằng tổng giá trị sử dụng của chất lượng và giá trị của vị thế
tính theo đơn vị tiền tệ.
Căn cứ trên quan điểm nhận thức mới về giá trị bất động sản, có thể phân tích
lợi nhuận đầu tư bất động sản theo hai nhánh: lợi nhuận đầu tư tạo lập chất lượng và
lợi nhuận đầu tư phát triển vị thế bất động sản, với nhiều đối tượng tham gia tạo lập
các bộ phận khác nhau cấu thành bất động sản trong các công đoạn khác nhau của quá
trình đầu tư phát triển, như phát triển hạ tầng đất đai, xây dựng nhà ở và công trình,
quảng cáo tiếp thị và phân phối sản phẩm bất động sản, v.v… kể cả hoạt động quản lý
nhà nước về thị trường bất động sản. Có thể phân biệt và xác định tỷ suất lợi nhuận
của các đối tượng tham gia thị trường bất động sản qua các loại giá cả đất đai và nhà ở
đô thị như sau:
Giá đất nông nghiệp: xác định theo công thức: P = R/E, với R là địa tô thu được
trong nông nghiệp, E là tỷ suất vốn hóa (hay tỷ lệ lãi suất tiêu chuẩn).
Giá đất trưng dụng: là giá đất mà nhà nước hay đơn vị phát triển quỹ đất trưng
mua đất nông nghiệp để chuyển đổi sang mục đích phát triển đô thị. Trong nền kinh tế
thị trường, nhà nước khó có thể trưng mua đất đai của người nông dân theo giá gốc
nông nghiệp, bởi người nông dân sẽ đòi hỏi thêm một khoản tăng thêm và giá đất đai
trưng dụng được tính theo công thức: P1 = (R1+R1)/E, với R1 là địa tô nông nghiệp,
R1 là phần địa tô tăng thêm.
Giá đất xuất nhượng: sau khi trưng dụng đất đai, đơn vị phát triển quỹ đất sẽ
đầu tư thêm một khoản P1 để xây dựng cơ sở hạ tầng đất đai và sau đó tiến hành xuất
nhượng đất đai cho các nhà đầu tư kinh doanh nhà đất. Trước tiên là phải thực hiện giá
thành đất đai bằng (P1+P1)(1+λ), với λ là tỷ suất lợi nhuận bình quân của tư bản, tuy
nhiên, đơn vị phát triển quỹ đất cũng không dừng tại đấy mà đòi hỏi một khoản tăng
thêm gọi là địa tô mới tăng thêm R2, được định nghĩa là mức tăng trưởng lợi nhuận
siêu ngạch dự kiến sau khi xuất nhượng đất đai. Mức tăng trưởng này do thị trường
điều tiết thông qua quan hệ cung cầu. Vì vậy, giá đai đai xuất nhượng hoàn chỉnh sẽ là:
P2 = (P1+P1)(1+λ)+R2/E; nếu đặt R2 = E(P1+P1)(1+λ), thì có P2 = (R2+R2)/E.
Giá nhà đất chuyển nhượng: sau khi mua đất đai từ đơn vị phát triển quỹ đất
các nhà kinh doanh nhà đất sẽ tiếp tục đầu tư thêm một khoản P2 để xây dựng nhà ở
và công trình. Sau đó tiến hành chuyển nhượng nhà đất, trước tiên họ phải nghĩ đến
việc thực hiện giá thành nhà đất bằng (P2+P2)(1+λ), tuy nhiên các nhà kinh doanh sẽ
không dừng lại ở đấy mà đòi tăng thêm một khoản R3, được định nghĩa là hạn ngạch
tăng trưởng lợi nhuận siêu ngạch dự kiến sau khi chuyển nhượng nhà đất. Mức tăng
trưởng này cũng do thị trường điều tiết thông qua quan hệ cung cầu. Do đó, giá nhà đất
chuyển nhượng thực tế sẽ là: P3 = (P2+P2)(1+λ)+R3/E; nếu đặt R3 = E(P2+P2)(1+λ),
thì có P3 = (R3+R3)/E. Nếu như tiếp tục chuyển nhượng nhà đất thì có công thức tổng
quát: Pi = (Ri+Ri)/E, với i = 1n là số thứ tự lần chuyển nhượng nhà đất.
Từ sự phân tích trên đây, có thể dễ dàng nhận thấy rằng, sự hình thành giá đất
đô thị luôn luôn gắn liền với địa tô ban đầu và sự tích luỹ địa tô tăng thêm; sự tăng
trưởng của địa tô và giá đất cũng không tách rời với tăng trưởng của đầu tư vào đất
đai, cái sau là điều kiện và môi giới giới thiệu cái trước, giá cả đất đai đô thị thực tế
bao gồm hai bộ phận tổ thành: địa tô thật sự và lợi ích vốn, không thể phân biệt rạch
ròi hai phần này.
Nghiên cứu marketing bất động sản TS. Trần Thanh Hùng
Trang 23
Với các loại giá cả nhà đất nêu trên, dễ dàng phân biệt lợi nhuận của tất cả mọi
đối tượng tham gia thị trường bất động sản: thu nhập của người sở hữu đất đai nông
nghiệp (R1), lợi nhuận kinh doanh của các nhà đầu tư bất động sản (R1, R2,… Rn)
và lợi tức của chủ sở hữu vốn tư bản (λP). Nếu như thu nhập từ địa tô nông nghiệp
(R1) và lợi tức tư bản (λP) có thể xác định bằng tỷ lệ lãi suất bình quân26 là hệ quả của
tính cạnh tranh tương đối hoàn hảo của thị trường hàng hóa nông nghiệp và thị trường
tài chính tiền tệ, thì mức lợi nhuận kinh doanh (Ri) lại không thể xác định chính xác
do tính độc quyền các đối tượng tham gia thị trường đất đai và nhà ở, nó phụ thuộc vào
thế độc quyền của từng chủ thể, của người sở hữu đất đai, đơn vị phát triển quỹ đất và
các nhà đầu tư kinh doanh bất động sản. Điều này phần nào lý giải được sự mâu thuẫn
về lợi ích ngày càng gia tăng giữa các chủ thể tham gia thị trường đất đai hiện nay ở
Việt Nam, giữa người sử dụng đất, nhà nước và chủ đầu tư. Mà trong việc giải quyết
những mâu thuẫn phát sinh đó nhà nước phải đóng vai trò chủ đạo bằng việc xác định
giá đất phù hợp theo định hướng thị trường, nhưng lại chưa có được sự quan tâm đúng
mực từ phía các nhà quản lý.
Trên thực tế, không kể đến những bất cập trong việc xác định và phân phối các
phần địa tô tăng thêm (Ri), sự gia tăng địa tô có nguồn gốc từ hiệu quả kinh tế tụ hội
đô thị27, tức do sự gia tăng của vị thế đất đai là kết quả của hoạt động đầu tư phát triển
cơ sở hạ tầng đất đai và marketing bất động sản. Tại một thời điểm ứng với một tình
trạng thị trường bất động sản nhất định tỷ lệ đóng góp của các hoạt động đầu tư này
vào tổng lượng tăng trưởng của địa tô và giá cả đất đai như đã nói ở trên có thể được
xác định bằng phương pháp phân tích hồi quy hedonic với giá cả nhà đất là biến số
phụ thuộc vào các biến số độc lập được tổ chức thành hai nhóm liên quan tới vị thế và
chất lượng nhà đất cho mỗi vùng đô thị28. Cũng bằng phương pháp này mặt bằng giá
đất đô thị do yếu tố khách quan vị thế tạo thành tại một thời điểm cụ thể được xác định
với độ chính xác mang tính chất thống kê, loại bỏ được các yếu tố ảo của giá do đầu cơ
hay ảnh hưởng của quy hoạch đất đai…
Như vậy, khi hệ thống dịch vụ cung cấp thông tin hỗ trợ hoạt động thị trường
bất động sản phát triển đến một mức độ nhất định thì những mâu thuẫn tồn tại trong
việc xác định và phân phối địa tô đô thị – lợi nhuận kinh doanh giữa các chủ thể tham
gia thị trường được giảm thiểu, thị trường trở lên cạnh tranh hơn nhờ tính thông suốt
của thông tin. Khi đó, có thể nói rằng, lợi nhuận đầu tư phát triển bất động sản phụ
thuộc vào vị thế của đất đai, mà động thái tăng giảm của vị thế có liên quan chặt chẽ
với sự thay đổi trong các khu dân cư đô thị – sự trưởng giả hóa hay sự bỏ hoang tại các
thành phố29. Thông thường, khi cầu về nhà ở tại một phân khúc thị trường tăng lên gắn
liền với sự trưởng giả hóa tại một khu dân cư nhất định kéo theo sự tăng giá của các
bất động sản trong khu vực, làm cho đường ngưỡng chất lượng nhà ở là đường giá trị
trao đổi bất động sản như đã nói ở trên dịch chuyển sang trái, được minh họa bởi đồ thị
(Hình 1.9).
26 Hội đồng trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn khoa học Mác – Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh, 1999. Giáo trình Kinh tế học chính trị. Nxb Chính trị quốc gia.
27 Nhiêu Hội Lâm, (Lê Quang Lâm biên dịch), 2004. Kinh tế học đô thị. Nxb Chính trị quốc gia.
28 Trần Thanh Hùng, 2008. Phương pháp định giá bất động sản ứng dụng lý thuyết vị thế - chất lượng/Tạp chí
Địa chính số 3 tháng 6 năm 2008.
29 Hoàng Hữu Phê và Patrick Wakely, 2000. Vị thế, chất lượng và sự lựa chọn khác: Tiến tới một lý thuyết mới
về vị trí dân cư đô thị/Tạp chí Đô thị học xuất bản tại Vương quốc Anh. Vol 37, No 1, January 2000.
Nghiên cứu marketing bất động sản TS. Trần Thanh Hùng
Trang 24
Sự dịch chuyển của đường ngưỡng chất lượng nhà ở – đường giá trị trao đổi và
sự gia tăng vị thế đất đai do sự trưởng giả hóa khu dân cư là tín hiệu thị trường cho
hoạt động đầu tư chỉnh trang nâng cấp hay xây dựng mới nhà ở để phù hợp với vị thế
mới của khu dân cư đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về nhà ở. Trên đồ thị minh họa,
có thể trực quan nhận thấy rằng, lợi nhuận kinh doanh đầu tư phát triển bất động sản
bao gồm hai bộ phận tổ thành: lợi nhuận do đầu tư xây dựng nhà ở mới và lợi nhuận
do vị thế mới tăng lên. Trong đó, lợi nhuận từ đầu tư xây dựng được xác định bằng
hiệu số giữa giá cả thị trường đơn vị chất lượng nhà ở mới và chi phí tạo lập nhà ở
mới, kể cả giá trị còn lại của nhà cũ đã dỡ bỏ; còn lợi nhuận do vị thế mới tăng lên
bằng lượng giá trị thị trường của chính lượng vị thế mới tăng thêm đó, hay có thể được
xác định bằng hiệu số giữa giá cả thị trường của đơn vị diện tích đất đai sau khi đầu tư
và trước khi đầu tư.
Theo trục 0-CL tổng chi phí đầu tư xây dựng bao gồm các chi phí của các đối
tượng, như nhà thiết kế kết cấu công trình, nhà thầu xây dựng, nhà giám sát công trình,
nhà quản lý xây dựng. Theo trục 0-VN tổng chi phí đầu tư phát triển vị thế đất đai bao
gồm các chi phí của nhà thiết kế kiến trúc nhà ở và cảnh quan, nhà marketing, nhà
kinh doanh bất động sản, nhà quản lý bất động sản, nhà đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng
đất đai và các cơ quan quản lý nhà nước về thị trường bất động sản...
Trên thực tế, tỷ suất lợi nhuận đầu tư kinh doanh bất động sản không đồng đều
như nhau tại các phân khúc thị trường khác nhau do tính độc quyền của người cung
ứng – nhà đầu tư phát triển bất động sản tại các khu dân cư có vị thế khác nhau ứng
với các hàm cầu nhà ở có độ co giãn theo giá khác nhau phụ thuộc vào thu nhập của
người cầu về nhà ở. Tại những nơi có vị thế dân cư cao thì tỷ suất lợi nhuận đầu tư
cũng tương đối lớn hơn so với những nơi có vị thế thấp, bởi vị thế và thu nhập dân cư
có tương quan chặt chẽ với nhau, sự giàu nghèo là dấu hiệu của vị thế. Mức lợi nhuận
đầu tư bất động sản ΠA, ΠB và ΠT trong các phân khúc A, B và toàn bộ thị trường,
được minh họa trên đồ thị (Hình 1.7), có thể xác định theo các công thức sau:
ΠA = (PA-P0)YA; ΠB = (PB-P0)YB; ΠT = (PT-P0)YT.
Tại những lần đầu tư tiếp theo, do sự tăng lên của giá cả đất đai, nguyên vật liệu
xây dựng, v.v… cùng với sự tăng lên của lượng cung dịch vụ nhà ở, đường cung dịch
chuyển sang phải làm cho giá cả thị trường đơn vị dịch vụ nhà ở giảm xuống từ mức
Hình 1.9. Sự dịch chuyển đường ngưỡng do sự thay đổi cầu thị trường nhà ở
CL CL’
VN 0 0’ VN0
Nghiên cứu marketing bất động sản TS. Trần Thanh Hùng
Trang 25
giá P01 đến mức P1, hệ quả là lợi nhuận kinh doanh bất động sản trong các phân khúc
sẽ giảm dần, có thể đến điểm hòa vốn, tức lợi nhuận kinh tế sẽ bằng 0 trong điều kiện
thị trường cạnh tranh hoàn hảo và chi phí đầu tư bằng giá cả thị trường đơn vị dịch vụ
nhà ở, MC1 = AC1 = P1, được minh họa bởi đồ thị (Hình 1.10) với giả thiết năng suất
không đổi theo quy mô kết hợp vị thế và chất lượng trong một đơn vị nhà ở.
Giá cả các nhân tố sản xuất thường được xác định suy ra từ giá cả thị trường
sản phẩm. Theo đồ thị (Hình 1.10) chi phí bình quân tạo lập đơn vị dịch vụ nhà ở được
xác định từ giá cả thị trường hình thành thông qua quan hệ cung cầu về dịch vụ nhà ở
của nó. Nếu như thị trường bất động sản là thị trường cạnh tranh hoàn hảo, thì chi phí
bình quân/đơn vị dịch vụ nhà ở (AC) sẽ bằng giá cả thị trường của nó (P0). Tuy nhiên,
trên thực tế thị trường bất động sản là thị trường mang tính độc quyền nhóm với các
phân khúc có hàm cầu khác nhau, giá cả thị trường đơn vị dịch vụ nhà ở hình thành tại
mức giá PT > P0, do đó có thể xuất hiện trường hợp lợi nhuận đầu tư phát triển nhà ở
trong một phân khúc nào đó sẽ nhỏ hơn 0, như được minh họa trên đồ thị (Hình 1.7).
Theo đó, tại phân khúc B của thị trường, mức lợi nhuận đầu tư được xác định bằng
công thức: ΠB = (PB-PT)YB, do PB < PT nên ΠB < 0.
Hệ quả rút ra được bằng phép suy luận logic từ các quan điểm thống nhất về
tính chất của thị trường bất động sản cần phải được kiểm chứng bằng các bộ số liệu
điều tra thực tiễn trong các nghiên cứu tiếp theo. Nhưng dường như nó lại mô tả khá
chính xác thực trạng thị trường bất động sản hiện nay ở Việt Nam, phân khúc B ứng
với phân khúc thị trường nhà ở xã hội dành cho các đối tượng có thu nhập thấp.
Tại một thời điểm trong quá trình phát triển đi lên của thị trường bất động sản
giá cả các nhân tố đầu vào được cố định tại một mức giá nhất định, theo đó chi phí
bình quân/đơn vị dịch vụ nhà ở được xác định là P0, chiếu theo mức chi phí này các
nhà đầu tư phát triển sẽ ấn định lượng cung nhà ở trong các phân khúc khác nhau phụ
thuộc vào độ co giãn của hàm cầu về dịch vụ nhà ở của mỗi nhóm xã hội tương ứng,
và như thế mức giá mới về dịch vụ nhà ở được thiết lập trên thị trường là PT.
Với những lần đầu tư tiếp theo trong cùng một giai đoạn phát triển thị trường
chi phí bình quân tạo lập một đơn vị dịch vụ nhà ở không thể còn ở mức giá P0, mà sẽ
tăng lên tiệm cận tới mức giá PT, giá cả của các nhân tố vị thế và chất lượng sẽ được
xác định tham chiếu theo mức giá thị trường này. Trong bối cảnh thu nhập của các
nhóm xã hội không tăng lên, không có sự dịch chuyển tăng của các đường cầu thì mức
giá thị trường đơn vị dịch vụ nhà ở trong phân khúc thu nhập thấp hơn sẽ bằng hoặc
P
0 Y Y0 Y1 Y01
P1
P0
P01
LMC1
LAC1
SAC1 SMC1
P
0 y0
P0
P1
y1
Hình 1.10. Đường cung cầu cá biệt và thị trường nhà ở
E0
E01
E1
D1
D0
SS1 SS0
LS
SAC0
LAC0
SMC0
LMC0
Nghiên cứu marketing bất động sản TS. Trần Thanh Hùng
Trang 26
nhỏ hơn chi phí bình quân/đơn vị dịch vụ nhà ở, do đó lợi nhuận đầu tư sẽ bằng hoặc
nhỏ hơn 0. Hơn nữa, trong quá trình phát triển đi lên của thị trường bất động sản,
không phải tất cả mọi phân khúc đều có tốc độ phát triển như nhau, mà trong quá trình
đó phân khúc thị trường của nhóm xã hội thu nhập thấp có tốc độ phát triển thấp nhất
do sự phân phối sản phẩm xã hội không đồng đều, khoảng cách phân hóa giàu nghèo
ngày càng gia tăng, vì vậy mà khả năng tiếp cận dịch vụ nhà ở của nhóm xã hội này
ngày càng hạn chế.
Vấn đề đặt ra là, làm thế nào có thể cố định được mặt bằng giá cả bất động sản,
xác định chính xác mức giá của các nhân tố đầu vào vị thế và chất lượng, dự báo các
xu hướng phát triển của thị trường để bình ổn lợi nhuận và thúc đẩy hoạt động đầu tư
phát triển nhà ở?... Giải quyết các vấn đề nêu ra là nhiệm vụ cấp thiết và vai trò của
nghiên cứu thị trường bất động sản trong việc hoạch định các chính sách hỗ trợ bình
ổn hoạt động của thị trường và bảo vệ các nhóm xã hội chịu thiệt thòi.
1.3. Nội dung, phương pháp và quy trình nghiên cứu marketing bất động sản ứng
dụng lý thuyết vị thế - chất lượng
1.3.1. Một số hạn chế của marketing truyền thống trong lĩnh vực bất động sản
Với tinh thần “Cung phải theo cầu” hoạt động của ngành marketing nói chung
đặt trọng tâm vào việc xác định phân khúc thị trường, lựa chọn thị trường mục tiêu và
định vị sản phẩm. Những nội dung này trở thành nguyên tắc định hướng cho các hoạt
động marketing chuyên ngành, nghiên cứu thị trường và phát triển sản phẩm trong các
lĩnh vực khác nhau. Tuy nhiên, khi nghiên cứu marketing trong từng lĩnh vực riêng
biệt cũng cần phải có sự hiểu biết về tính chất sản phẩm và đặc điểm thị trường hàng
hóa chuyên biệt đó.
Hoạt động marketing bất động sản tại Việt Nam, tuy đã đạt được một số kết quả
đáng kể, là công cụ hữu hiệu trong quản trị doanh nghiệp, nhưng vẫn còn một số hạn
chế trong nghiên cứu marketing: nhận dạng các nhu cầu, xác định các phân khúc thị
trường bất động sản, chưa có khả năng đưa ra các dự báo tin cậy về nhu cầu nhà ở
trong việc hoạch các chính sách phát triển nhà ở và chỉnh trang đô thị cho các chính
quyền địa phương và các tổ chức kinh doanh, mà một số nhà nghiên cứu đã chỉ ra cụ
thể như sau:
- Khi hoạch định các chính sách vĩ mô về phát triển nhà ở trong các thành phố
các nhà quản lý thường dựa trên các số liệu dự báo về tổng nhu cầu nhà ở trên thị
trường địa phương trong một giai đoạn xác định. Các kết quả dự báo được đưa ra căn
cứ vào các tham số về tốc độ gia tăng dân số, làn sóng di cư, thị trường lao động và
định mức sàn sử dụng trung bình/người,… Chúng có một giá trị nhất định, nhưng chỉ
là những số liệu tổng hợp, mà chưa xác định được các phân nhóm xã hội theo các đặc
tính khác nhau của các nhu cầu về nhà ở và đặc biệt sự phân bố của các nhóm xã hội
này trong không gian đô thị30.
- Trong quy hoạch đô thị các nhà quy hoạch chỉ tập trung chú ý vào ba chiều
không gian thực, mà chưa có sự quan tâm cần thiết đến chiều thứ tư văn hóa - xã hội
trong không gian đô thị31. Vì vậy, công tác quy hoạch chỉnh trang đô thị, nâng cấp các
30 Lê Xuân Bá, Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế trung ương, 2003. Sự hình thành và phát triển thị trường bất
động sản trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam. Nxb Khoa học và Kỹ thuật. Tr. 163-167.
31 Lê Chí Hiếu, 2004. Đi tìm chiều thứ tư cho mô hình thiết kế đô thị/Văn hóa truyền thống trong phát triển đô
thị. Nxb Đại học quốc gia Tp.HCM. Tr. 231-234.
Nghiên cứu marketing bất động sản TS. Trần Thanh Hùng
Trang 27
khu ở cũ không những không phát huy được hiệu quả, mà còn gây ảnh hưởng xáo trộn
đến đời sống kinh tế xã hội của người dân và làm mất đi nét văn hóa đặc thù của các
khu dân cư đô thị32.
- Ở cấp độ vi mô, nghiên cứu marketing bất động sản, phục vụ hoạch định chiến
lược kinh doanh của các tổ chức kinh tế, do những hạn chế nêu trên được thực hiện
tách rời khỏi bối cảnh thị trường vĩ mô và phần lớn chỉ tập trung vào phân khúc thị
trường thu nhập cao, vào thành phần khách hàng cơ động nhất trong xã hội, vào những
khu “đất vàng” ở trung tâm thành phố hay những khu đô thị mới33. Các doanh nghiệp
ít quan tâm đến phát triển, nâng cấp nhà ở cho phân khúc thu nhập trung bình thấp và
thấp trong các khu đô thị cũ, khu xập xệ trong thành phố bởi sự phức tạp về thành
phần xã hội dân cư của các phân nhóm này và sự không chắc chắn về tỷ suất lợi nhuận
đầu tư, mặc dù nhu cầu về nhà ở trong các phân khúc thị trường này là rất lớn34.
- Trong các nghiên cứu marketing nhận diện khách hàng mục tiêu và định vị
sản phẩm nhà ở, thường phân nhóm khách hàng mục tiêu theo các tiêu chí về tuổi tác,
giới tính, tình trạng hôn nhân, gia đình, nghề nghiệp, thu nhập và đồng thời nghiên cứu
các yếu tố quan tâm trong việc ra quyết định chọn mua nhà ở của các phân nhóm này.
Cụ thể, các yếu tố mà người mua quan tâm được đề xuất nghiên cứu gồm 3 nhóm tiêu
chí về vị trí nơi ở, chất lượng và mức giá nhà ở35. Có thể khẳng định những nghiên cứu
này chỉ làm rõ được mong muốn “sống ở đâu”, nhưng vẫn chưa đề cập đến vấn đề
“sống với ai”, mà vai trò của mối quan hệ láng giềng (neighbourhood) này trong việc
ra quyết định vị trí cư trú đã được chứng minh36.
Từ những hạn chế nêu trên, cho thấy hiện nay chưa có một phương pháp luận
khúc triết trong nghiên cứu marketing bất động sản có khả năng tích hợp nghiên cứu
marketing vĩ mô với marketing vi mô, tiếp cận thị trường từ tổng thể đến từng phân
khúc với các sản phẩm nhà ở có tính dị biệt cao về các thuộc tính thỏa mãn các nhu
cầu “physical” và “social” của người tiêu dùng.
Trước khi đề cập đến nội dung nghiên cứu marketing bất động sản ứng dụng lý
thuyết vị thế - chất lượng nhất thiết phải làm rõ sự khác biệt cơ bản giữa nghiên cứu
marketing truyền thống và marketing ứng dụng lý thuyết vị thế - chất lượng trong lĩnh
vực bất động sản. Với một mức độ đơn giản hóa, có thể nói rằng, với những lý giải
thuyết phục về động học các khu dân cư đô thị, lý thuyết vị thế - chất lượng là một bổ
sung chiến lược thay thế lý thuyết lựa chọn chi phí đi lại/chi phí nhà ở (hay các lý
thuyết khác có thể) trong nghiên cứu hành vi lựa chọn vị trí cư trú đô thị - hành vi xã
hội cơ sở của các mô hình thị trường nhà ở đô thị, khắc phục được những hạn chế
trong nghiên cứu marketing bất động sản hiện nay như đã nêu ở trên.
32 Nguyễn Trọng Hòa và Tôn Nữ Quỳnh Trân, 2004. Bảo tồn và phát triển các tiểu văn hóa trong quá trình nâng
cấp, chỉnh trang và cải tạo các hẻm ở thành phố Hồ Chí Minh/Văn hóa truyền thống trong phát triển đô thị. Nxb
Đại học quốc gia Tp.HCM. Tr. 215-223.
33 Công ty Nghiên cứu thị trường FTA, tháng 5 năm 2007. Nhận diện khách hàng mục tiêu thị trường nhà ở/căn
hộ quy hoạch tại Tp.HCM.
34 Nhà ở cho người thu nhập thấp: Sẽ được thuê mua. Nguồn thông tin từ Bộ Xây dựng đăng trên website
DanTri.com.vn, ngày 23/6/2008.
35 Công ty Nghiên cứu thị trường FTA, tháng 5 năm 2007. Nhận diện khách hàng mục tiêu thị trường nhà ở/căn
hộ quy hoạch tại Tp.HCM.
36 David Meen and Geoffrey Meen, november 2002. Social Behaviour as a Basis for Modelling the Urban
Housing Market: A Review. The University of Reading.
Nghiên cứu marketing bất động sản TS. Trần Thanh Hùng
Trang 28
1.3.2. Nội dung và phương pháp nghiên cứu marketing bất động sản ứng dụng
lý thuyết vị thế -chất lượng
Nghiên cứu marketing bất động sản được thực hiện theo các nội dung chính
như sau:
Thứ nhất: Nghiên cứu tình tình phát triển thị trường bất động sản trên địa
bàn thành phố Hồ Chí Minh và dự báo nhu cầu nhà trong thời gian sắp tới.
Nội dung này được thực hiện bằng 2 phương pháp chủ yếu sau:
Phương pháp nghiên cứu tài liệu: sưu tập các nghiên cứu trước đó từ các sách
đã xuất bản liên quan đến lĩnh vực bất động sản, các nghiên cứu này được thực hiện
chủ yếu dựa trên nhận định của các chuyên gia cùng ngành, dựa trên quan sát thực tế
thị trường của người nghiên cứu, tham khảo các số liệu thống kê của Sở Tài nguyên và
Môi trường Thành phố, các văn bản luật liên quan đến quá trình hình thành và phát
triển thị trường bất động sản. Về dự báo nhu cầu nhà ở, tham khảo các nghiên cứu của
Viện Nghiên kinh tế Tp. Hồ Chí Minh, Cục thống kê Tp. Hồ Chí Minh, các số liệu
thống kê về dân số qua các năm.
Phương pháp chuyên gia: thực hiện các cuộc trò chuyện và phỏng vấn chuyên
sâu với các cá nhân, chuyên viên trong lĩnh vực bất động sản. Qua đó thu thập các
thông tin và nhận định liên quan đến diễn biến thị trường bất động sản.
Thứ hai: Phân nhóm khách hàng có nhu cầu nhà ở trên địa bàn thành phố
theo đặc thù văn hóa – xã hội. Phân nhóm này được xác định theo các tiêu chí:
- Nguồn gốc, dân tộc, tôn giáo của dân cư.
- Nghề nghiệp, thu nhập của dân cư.
Và được thực hiện chủ yếu bằng các phương pháp:
Phương pháp nghiên cứu tài liệu: sưu tập các nghiên cứu từ các sách đã suất
bản, các bài báo có liên quan đến nguồn gốc dân tộc và dân cư của Tp. Hồ Chí Minh.
Phương pháp kế thừa: Kế thừa những số liệu của Sở Lao động - Thương binh
và Xã hội Tp. Hồ Chí Minh về nghề nghiệp và thu nhập của dân cư Thành phố, một số
kết quả nghiên cứu của các đề tài nghiên cứu thực hiện tại Khoa Quản lý Đất đai &
Bất động sản có liên quan.
Thứ ba: Xác định các phân khúc thị trường nhà ở trên địa bàn thành phố
Hồ Chí Minh, cụ thể được phân thành hai nhóm phân khúc chính là:
- Phân khúc thị trường nhà ở theo khoảng cách vị thế.
- Phân khúc thị trường nhà ở theo các yếu tố văn hóa – xã hội.
Nội dung nghiên cứu này được thực hiện cụ thể bằng các phương pháp:
Phương pháp nghiên cứu tài liệu: nghiên cứu các tài liệu về văn hóa – xã hội
của các dân tộc, tôn giáo, thành phần dân cư của thành phố.
Phương pháp kế thừa: Kế thừa những nhân định và kết quả nghiên cứu tại các
diễn đàn liên quan đến vấn đề phát triển đô thị bền vững.
Phương pháp điều tra thực địa: Kết hợp quan sát trực tiếp thực địa các khu vực
đã hoạch định trong đề tài để xác định rõ hơn về nội dung và kết quả nghiên cứu.
Thứ tư: Phân tích ảnh hưởng của yếu tố văn hóa – xã hội đến hành vi lựa
chọn nhà ở đô thị của từng nhóm xã hội.
- Ảnh hưởng của yếu tố văn hóa – xã hội đến việc lựa chọn vị trí cư trú đô thị.
- Ảnh hưởng của yếu tố văn hóa – xã hội đến hành vi lựa chọn loại nhà ở.
Nghiên cứu marketing bất động sản TS. Trần Thanh Hùng
Trang 29
Nội dung này được thực hiện bằng các phương pháp:
Phương pháp thu thập số liệu: số liệu thực nghiệm là một trong những thành
phần quan trọng trong nghiên cứu khoa học nên việc thu thập được tiến hành một cách
cẩn thận, tỉ mỉ nhằm mang lại những con số có ý nghĩa cao.
Phương pháp điều tra chọn mẫu ngẫu nhiên: được thực hiện trên 90 hộ gia đình
tại quận Bình Thạnh – Tp. Hồ Chí Minh nhằm nhận biết nhu cầu và thị hiếu chọn mua
loại nhà của người dân tại địa bàn nghiên cứu.
Phương pháp kế thừa: kế thừa kết quả nghiên cứu của các tác giả đi trước đã
thực hiện liên quan đến việc lựa chọn vị trí cư trú trong đô thị của người dân kết hợp
với phân tích, tính toán tổng hợp, nghiên cứu thực tế địa bàn nhằm xác minh chính xác
ảnh hưởng của văn hóa đến lựa chọn vị trí cư trú của người dân thành phố.
Thứ năm: Định hướng đầu tư phát triển nhà ở và tỷ suất lợi nhuận đầu tư.
Nội dung nghiên cứu này được thực hiện bao gồm:
- Định hướng phát triển thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2025.
- Phân tích lợi nhuận đầu tư trong các phân khúc thị trường.
Phương pháp nghiên cứu tài liệu: tham khảo các tài liệu về định hướng quy
hoạch chung của Tp. Hồ Chí Minh qua các năm, các nhận định của chuyên gia trong
ngành về định hướng quy hoạch của thành phố.
Phương pháp thu thập số liệu: số liệu thực nghiệm liên quan đến định hướng
phát triển thành phố. Số liều về lợi nhuận đầu tư của ba dự án từ công ty đầu tư trực
tiếp thực hiện dự án, các số liệu liên quan đến lợi nhuận đầu tư bất động sản.
Phương pháp phân tích chi phí – lợi ích: từ số liệu thu thập được về dự án,
được tiến hành phân tích, xử lý, tính toán theo mục tiêu định sẵn.
1.3.3. Quy trình thực hiện
Quy trình nghiên cứu được chia thành 4 giai đoạn và được thể hiện cụ thể trên
sơ đồ sau:
Sơ đồ 1.1. Quy trình thực hiện nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu và các
nguồn dữ kiện nghiên cứu
Xác định
vấn đề cần nghiên cứu
Phân tích, xử lý dữ kiện
Trình bày
kết quả nghiên cứu
- Xác định vấn đề marketing.
- Xác định các căn cứ luận dùng
cho nghiên cứu marketing.
- Liệt kê và thu nhập các số liệu
liêu quan.
- Lên kế hoạch nghiên cứu theo
trình tự thời gian.
- Chọn lọc và phân tích các dữ
kiện.
- Kết hợp phương pháp marketing
- Hệ thống hóa các phân tích về
lý luận và thông số.
- Trình bày kết quả nghiên cứu
theo mục tiêu đã định trước.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- marketingbds_6253.pdf