Mâu thuẫn cơ bản chủ yếu trong thời kì qua độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt nam có thể nói là mâu thuẫn giữ một bên là tư bản chủ ,với tư cách là một xu thế phát triển của cơ cấu kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, có sự tác đông của các thé lực phản động trong và ngoài nước, với một bên là xu thế xã hội chủ nghĩa đang hình thành và thể hiện từng bước trong quá trình đi lên từ một cơ sở kinh tế - xã hội còn thấp với nền sản xuất nhỏ là chủ yếu.
29 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1569 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nghiên cứu những mâu thuẫn chủ yếu trong việc phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta hiện nay và giải pháp giải quyết những mâu thuẫn đó, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ế như sự tăng trưởng chậm lại, sản phẩm trở nên khan hiếm, ngân sách thâm hụt nặng nề, thu nhập kinh tế không đủ tiêu dùng, tích luỹ coi như không, lạm phát tăng cao giá cả leo thang...
Việc áp dụng cơ chế tập trung kém hiệu quả ở nước ta là do nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân chủ yếu đó là áp dụng mô hình kinh tế chưa thích hợp với điều kiện của đất nước. Các Marx - Phớt Ănghen viết: Chỉ khi nền sản xuất xã hội hoá cao, lúc đó đòi hỏi khách quan phải quản lý toàn bộ nền kinh tế theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung thống nhất. Không phải tự nhiên giai cấp vô sản tăng lên nhanh chóng cả về chất lẫn về lượng trong một thời gian ngắn được, mà phải trải qua một thời kì lâu dài.
Trong tác phẩm, Những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản, Ăng ghen khi bàn về vấn đề xây dựng một nền kinh tế công hữu đã chỉ ra rằng: Không thể làm cho lực lượng sản xuất hiện có tăng lên ngay lập tức đến mức cần thiết để xây dựng một nền kinh tế công hữu, cho nên cuộc cách mạng của giai cấp vô sản sẽ chỉ có thể cải tạo xã hội hiện nay một cách dần dần và chỉ khi nào đã tạo nên một khối lượng tư liệu sản xuất cần thiết cho việc cải tạo đó thì khi ấy mới thủ tiêu được chế độ tư hữu. Nhưng trong thời gian ngắn, cả nước ta đã thay thế hoàn toàn chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất với chế độ công hữu, lực lượng sản xuất chưa đủ khả năng quản lý phương thức sản xuất mới đó đã dẫn đến hậu quả cả nước lâm vào tình trạng tồi tệ, kinh tế giảm sút, thất nghiệp, đói ngèo... Dõ dàng khi mà chế độ công hữu chưa thể trở thành một tất yếu kinh tế, khi lực lượng sản xuất chưa phát triển đến trình độ nhất định thì tất yếu vẫn tồn tại chế độ tư hữu. Chế độ tư hữu vẫn là hình thức chủ yếu trong thời kì quá độ ở nước ta hiện nay, chúng ta không thể xây dựng nhanh chóng chế độ công hữu mà phải trải qua thời kì lịch sử lâu dài, qua nhiều nấc trung gian, quá độ. Thông qua mỗi bước đi, mỗi hình thức quá độ để tạo điều kiện cho nhân tố xã hội chủ nghĩa ngày càng tăng lên .
Như vậy sự tồn tại và phát triển của kinh tế hàng hoá nhiều thành phần trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một tất yếu khách quan.
Bởi lẽ trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa ở nước ta, do lực lượng sản xuất chưa phát triển cao nên còn tồn tại nhiều hình thức sở hữu và chưa thể thủ tiêu hoàn toàn chế độ tư hữu và thiét lập chế độ công hữu, chúng ta cần phải có tác động tích cực đến lực lượng sản xuất. Những thành phần kinh tế của xã hội cũ chỉ có thể mất đi khi không còn tác dụng đối với phát triển của lực lượng sản xuất và những thành phần kinh tế mới đặc trưng cho phương thức sản xuất mới sẽ ngày càng phát triển và dẫn dắt, chuyển hoá các thành phần kinh tế khác hội nhập vào phương thức sản xuất mới.
Mặt khác, thực trạng cơ cấu hạ tầng vật chất xã hội nước ta còn thấp kém, trình độ vật chất trong các doanh nghiệp còn lạc hậu, không có khả năng cạnh tranh, sức mau của dân thấp, thu nhập theo đầu người còn nhỏ chưa đủ ăn và chi tiêu các nhu cầu khác. Đặc biệt chúng ta thiếu những người quản lý sản xất kinh doanh, có khả năng tham ra cạnh tranh trong nước cũng như ngoài nước.
Những năm qua do áp dụng máy móc vào nền kinh tế hàng hoá xã hội chủ nghĩa, vào nước ta đã làm sơ cứng các quy luật xưa nay vẫn nhậy cảm như quy luật cung - cầu, quy luật giá cả quy luật giá trị, quy luật phân phối ...Do những hạn chế và sai lầm trước kia đã xuất hiện một vấn đề cấp bách là thay đổi và phát triển nền kinh tế hàng hoán nhiều thành phần nhưng phải đặt dưới sự quản lý của nhà nước.
Đặc điểm của kinh tế hàng hoá nhiều thành phần của nước ta hiện nay.
Trước hết cơ sở của kinh tế hàng hoá nhiều thành phần đó là tồn tại nhiều hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất. Các thành phần kinh tế tiến hành sản xuất hàng hoá tuy có bản chất khác nhau nhưng chúng đều là những bộ phận hoạt động trong các quy luật và thống nhất với các quan hệ Cung - Cầu, Tiền tệ, giá cả chung ... Bởi vậy, chúng vừa hợp tác vừa cạnh tranh với nhau, chúng vừa phù hợp nhưng đồng thời các thành phần kinh tế ấy vừa mâu thuẫn với nhau. Tuy nhiên các thành phần kinh tế đều chịu tác động cuả các quy luật kinh tế khác, chính những tác động khác nhau đó đã tạo nên những mâu thuẫn cơ bản và không cơ bản, mâu thuẫn chủ yếu và không chủ yếu, đối kháng và không đối kháng giữa chúng,khiến cho nền xản xuất hàng hoá ở nước ta có xu thế phát triển đa hướng.
Tuy nhiên đứng trước thực tại, nước ta đang quá độ lên chủ nghĩa xã hội không thể để cho các thành phần kinh tế phát triển một cách tự phát. như kinh tế cá, thể kinh tế tư bản tư nhân có vai trò quan trọng trong việc phát triển sản xuất và vấn đề việc làm cho người lao động, mặt khác, đáp ứng nhu cầu về vốn, hàng hoá và dịch vụ cho xã hội. Nhưng vì dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sảm xuất, các thành phần kinh tế này hoạt động tự phát và chạy theo lợi nhuận đơn thuần, nẩy sinh hiện tượng tiêu cực làm tổn hại những thành tựu mà ta đã đạt được và tìm mọi cách để thủ tiêu, xoá bỏ nhà nước xã hội chủ nghĩa của Việt Nam. Do đó, nhà nước trong thời kỳ quá độ này buộc phải tồn tại để tồn tại chế độ tư bản chủ nghĩa, chế độ người bóc lột người nhưng ở mức độ kiểm soát được. Cần phải phát triển kinh tế nhà nước đủ mạnh để làm vai trò chủ đạo, định hướng các thành phần kinh tế khác đi theo con đường mà đảng và nhà nước ta đã lựa chọn, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Các loại hình cơ bản của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở Việt nam.
Nền kinh tế nước ta trước Đại hội VI gắn liền với việc thi hành chính sách công cộng hoá hiện vật hoá trong cơ chế quản lý ngày càng bộc lộ thêm nhiều khuyết tật. Vì vậy tại Đại hội VI nhà nước chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, kế thừa và phát huy Đại hội IX ngày 19/5/2001 vừa qua Đảng và nhà nước chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ ché thị trường có sự quản lý của nhà nướctheo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Kinh tế hàng hoá có nhiều hình thức sở hữu hay có nhiều thành phần kinh tế khác nhau, đảng chỉ ra có 6 loại hình kinh tế đó là:
Kinh tế nhà nước.
Kinh tế hợp tác xã.
Kinh tế tư bản nhà nước.
Kinh tế cá thể.
Kinh tế tư bản tư nhân.
Kinh tế 100% vốn đầu tư của nước ngòai.
II. Đặc trưng của các thành phần kinh tế.
Kinh tế nhà nước.
Kinh tế nhà nước là thành phần kinh tế bao gồm các doanh nghiệp nhà nước, các tài nguyên quốc gia và tài sản thuộc sở hữu nhà nước như đất đai, hầm mỏ, rừng biển, ngân sách, các quỹ dự trữ ngân hàng nhà nước, hệ thống bảo hiểm, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội; phần vốn nhà nước góp vào các doanh ngiệp thuộc các thành phần kinh tế khác.
Để từng bước xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa , với trình độ phát triển hiện nay và trong năm tới của lực lượng sản xuất ở nước ta, kinh tế nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo và là một công cụ quản lý vĩ mô của nhà nước, phải không ngừng được củng cố và phát triển trong những nghành, những lĩnh vực then chốt, nắm những doanh nghiệp trọng yếu, và được thể hiện thông qua các mặt:
Đi đầu về nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả, nhờ đó mà thúc đẩy sự tưng trưởng nhanh và bền vững của nèn kinh tế quốc dân.
Bằng nhiều hình thức hỗ trợ các thành phần kinh tế khác cùng phát triển theo đinh hướng xã hội chủ nghĩa.
Tăng cường sức mạnh vật chất làm chỗ dựa để nhà nước để nhà nước thực hiện có hiệu lực chức năng điều tiết, quản lý nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa..
Kinh tế tập thể.
Kinh tế tập thể mà thành phần trong nó có sự liên kết tự nguyện của những người lao động nhằm kết hợp sức mạnh của từng cá nhân với sức mạnh của tập thể và giải quyết có hiệu quả những vấn đề về sản xuất kinh doanh. Hợp tác xã được tổ chức trên cơ sở đóng góp cổ phần và tham gia lao động trực tiếp của xã viên, phân phối theo kết quả của cổ phần và lao động. Mỗi xã viên có quyền như nhau đối với công việc chung. Hợp tác xã được tổ chức theo nguyên tắc tự nguyện, bình dẳng, cùng có lợi, quản lý dân chủ.
ở Việt nam, hợp tác xã vẫn và sẽ tồn tại ở nhiều hình thức đa dạng, phong phú từ thấp đến cao. Chẳng hạn có những hợp tác xã trở thành hoạt động chính của nền sản xuất kinh doanh hoặc có những hợp tác xã chỉ sản xuất ra một loại sản phẩm nhất định và xã viên chỉ góp một phần vốn, một phần sức lao động nhất định. Hợp tác xã có thể là kết quả của liên kết theo chiều dọc, chiều ngang, hoặc hỗn hợp hoặc không hỗn hợp, không bị giới hạn bởi địa giới hành chính và hoạt động kinh doanh. Mỗi người hoặc mỗi gia đình có thể tham gia vào nhiều hợp tác xã khác nhau và hợp tác xã có thể huy động vốn từ bên ngoài vào tuỳ theo tình hình hiện thực của hợp tác xã đó.
Kinh tế tư bản nhà nước.
Kinh tế tư bản nhà nước là thành phần kinh tếbao gồm các hình thức hợp tác liên doanh giữa kinh tế nhà nước với tư bản tư nhân trong nước và tư bản tư nhân ngoài nước.
Đây là hình thức kinh tế có vai trò quan trọng trrong việc động viên tiềm năng về vốn, công nghệ, khả năng tổ chức quản lý, của các nhà tư bản vì lợi ích của chính bản thân họ cũng như công cuộc đổi mới và phát triển đất nước. Do vậy, sự phát triển thành phần kinh tế này là đòi hỏi khách quan, được đửng và nhà nước ta rất quan tâm và thực hiện một cách rộng dãi, lâu dài. Bước đầu đã thu được những thành tựu khả quan phục vụ cho mục tiêu phát triển của đảng trong những năm tới, nhất là Việtnam đang từng bước gia nhập vào khu vực tự do mậu dịch WTO với nhiều mục tiêu khác trong những năm (2001-2005) , (2001-2020).
Kinh tế cá thể tiểu chủ.
Là thành phần kinh tế nhỏ mà thu nhập hoàn toàn dựa vào sức lao động vốn có của bản thân người lao động và gia đình là chủ yếu. Kinh tế cá thể, tiểu chủ có thể thuê lao động nhưng quy mô không lớn và cơ bản vãn dựa vào vốn và của gia đình là chính.
Hiện nay kinh tế cá thể có vị trí quan trọng trong nhiều ngành nhiều nghể nông thôn và thành thị. Có điều kiện phát huy nhanh và hiệu quả tiềm năng về vốn, sức lao động và tay nghề của mỗi gia đình. đễ nhậy cảm và thay đổi theo cơ chế thị trường và dễ dàng phục vụ những nhu cầu trong xã hội. Do đó cần phải mở rộng và phát huy nền kinh tế này.
Tuy nhiên do nền kinh tế này có nguồn vốn không lớn, sản xuất chủ yếu bằng lao động thủ công, chân tay là chính. Không đáp ứng được nhu ccù to lớn của thị trường, nền kinh tế đó còn mang tính tự phát, mánh khoé. Trong cả nước đang tiến lên chủ nghĩa xã hội, vấn đề đặt ra cho các nhà chức trách một bài toán là càn phải phát triển nền kinh té này trong moọt khoảng thời gian và thời gian đó là như thế nào cho phù hợp với tình hình đất nước hiện nay và trong tương lai ra sao. Thứ nhất là cần phải kết hợp những gia đình này lại thành một hợp tác xã nhưng chỉ khoảng 5 - 5,5 gia đình mà thôi bởi lẽ nếu nhiều quá thì không kỉêm sóat được, nhằm tạo điều kiện hình thành một cơ sở có sự mở rộng về vốn và chất lượng cũng như số lượng, phát huy tính tự chủ trong quần chúng nhân dân, tận dụng những trang bị kĩ thuật tối tân trên thế giới hiện nay và sản xuất những mặt hàngđáp ứng thị trường trong lẫn như ngoài nước.
Kinh tế tư bản tư nhân .
Là thành phần kinh tế mà sản xuất dựa chủ yếu vào quá trình bóc lột sức lao động của giai cấp làm thuê và sự chiếm hữu về tư liệu sản xuất.
Trong thời kì quá độ do lực lượng sản xuất chưa có thể phát triển đến trình độ nhất định và chưa thể hoàn thành nhiệm vụ thủ tiêu chế độ xã hội cũ, xây dựng một xã hội mới tốt đẹp hơn. Do vậy kinh tế tư bản tư nhân, tư bản nhà nước cần phát triển và khuyến khích giai cấp tư sản bỏ vốn vào đầu tư những nghành kinh tế không mang tính chất chi phối quyết định với đời sống xã hội. Nhà nước đã và đang xây dựng sửa đổi và hoàn thiện hệ thống pháp luật, bảo họ quyền sở hữu, tạo điều kiện thuận lợi phát triển kinh tế này về tín dụng, khoa học kĩ thuật, công nghệ, thông tin, kinh tế tri thức.
Mặc dù nền kinh tế tư bản tư nhân có những thuận lợi nhưng không thể để cho chúng phát triển một cách tự phát, cần phải đinh hướng thành phần kinh tế này đi đúng hương mà nhà nước ta đã chọn lựa.
6. Kinh tế 100% vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài vào Việt nam (FDI).
Đây là thành phần kinh tế mới và tồn tại ở nước ta trong những năm gần đây và dược quốc hội khẳng định trong lần họp đại hội đảng lần thứ IX ngày 19-4-2001 vừa qua. Thành phần kinh tế này được phát triển bởi lẽ, Việt nam cần hội nhập và tận dụng thông tin tri thức từ thế giới chúng ta cần phải mở rộng thị trường trong nước, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước cùng làm ăn hợp tác một cách bình dẳng, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt nam có điều kiện tiếp xúc với nền tri thức của nhân loại. Chúng ta không nên độc đoán trong việc mở rộng giao lưu với các nước trên thế giới đặc biệt là Mỹ và các nước khác trong phe tư bản chủ nghĩa.
Hướng tới mục tiêu trên, Việt Nam dần dần từng bước xoá bỏ hàng rào thuế quan cho một số các loại mặt hàng và dự tính đến cuối năm 2005 hàng rào thuế quan sẽ bị phá bỏ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nước ngoài có cơ hội tiếp xúc thị trừơng Việt Nam.
Nói chung nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần là dặc trưng cho thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam . các thành phần kinh tế này vừa tồn tại vừa phảt triển và có những mối liên hệ mật thiết, đan xen nhau, tác động, ảnh hưởng nhau, xâm nhập và chuyển hoá lẫn nhau. Dưới sự quản lý của nhà nước và hướng giải pháp cho những mâu thuẫn tồn tại do qua trình mở cửa nền kinh tế thị trường tạo ra, định hướng cho các thành phần kinh tế này đi đúng hướng xã hội chủ nghĩa.
III- lý luận chung về những mâu thuẫn
Mâu thuẫn theo quan điểm của Marxit là mâu thuẫn vốn có của bất kỳ sự vật, hiện tượng nào. Một sự vật chỉ tồn tại được, chỉ có sức sống chừng nào nó bao hàm mâu thuẫn, chứa đựng những mâu thuẫn, mâu thuẫn là khách quan là phổ biến.
Mâu thuẫn biện chứng không chỉ là sự phủ định, sự loại trừ lẫn nhau giữa các mặt đối lập mà nó là sự tác động qua lại giữa các mặt đối lập, vì vậy, nó bao hàm cả thống nhất giữa chúng. Thống nhất là điều kiện là cơ sở của đấu tranh, còn đấu tranh đi tới chuyển hoá.
Nội dung cơ bản của quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập dược làm sáng tỏ trong một loạt những phạm trù cơ bản: (mặt đối lập). Sự thống nhất, và đấu tranh của các mặt đối lập.
Mặt đối lập là những yếu tố, những thuộc tính có đặc điểm hay có khuynh hướng vận động ngược chiều nhau; chúng không phải chỉ thống nhất với nhau, đấu tranh với nhau mà còn chuyển hoá lẫn nhau. Hai mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn biện chứng luôn luôn tồn tại trong sự thống nhất với nhau, với nghĩa chúng nương tựa vào nhau, đòi hỏi có nhau, sự tồn tại của mặt này phải lấy sự tồn tại của mặt kia làm điều kiện làm tiền đề. Nói cách khác, sự thống nhất của hai mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn biện chứng là tính không thể tách rời của hai mặt đó. Thống nhất là sự liên kết với nhau, sự bổ xung cho nhau, là tiền đề, là cơ sở tồn tại của nhau. Sự thống nhất không thể tách rời các mặt đối lập trong cùng một sự vật, cấu thành mặt bản chất của sự vật đó. Sự thống nhất còn có ý nghĩa là là sự đồng nhất, sự phù hợp, sự tác động ngang qua nhau. Sự thống nhất ở những giai đoạn nhất định trong quá trình phát triển của sự vật
Với ý nghĩa đó : sự thống nhất giữa các mặt đối lập- còn bao hàm, sự đồng nhất của các mặt đối lập. Lê nin cho rằng sự thống nhất chỉ là tương đối, là tạm thời, là thoáng qua là có điều kiện.Tồn tại trong một thể thống nhất hai mặt đối lập luôn luôn ,đấu tranh, với nhau.
Đấu tranh giữa các mặt đối lập là sự bài trự sự phủ định lẫn nhau của các mặt đối lập. Đấu tranh còn là sự triển khai của những khuynh hướng khác biệt. Không nên quan niệm đấu tranh là sự đụng độ sự xung đột mà tuỳ thuộc vào sự vật cụ thể, các mâu thuẫn khác nhau, ở các giai đoạn phát triển khác nhau và trong những điều kiện khác nhau có những hình thức đấu tranh cụ thẻ khác nhau. Có thể nói đấu tranh là đa dạng, phong phú và mềm dẻo.
Đấu tranh giữa các mặt đối lập tạo thành các chất vô cơ khác hẳn cuộc đấu tranh giữa các thể sống. Đấu tranh trong lĩnh vực tự nhiên hoàn toàn khác đấu tranh trong xã hội. Đấu tranh trong thời kì man dã khác đấu tranh trong thời đại văn minh. Tuy nhiên, tính chất chung cơ bản của mọi cuộc đấu tranh là đưa đến xoá bỏ caí cũ, cái không phù hợp, cái lỗi thời để tạo thành những cái mới.
Đấu tranh là tuyệt đối, bởi đấu tranh tồn tại trong suốt quá trình tồn tại của sự vật và nó xuất phát từ sự khác biệt cuả các mặt đối lập. Vì vậy, đấu tranh là động lực thúc đẩy sự phát triển của các mặt đối lập vì chỉ có đấu tranh mới loại bỏ được cái cũ, cái không hợp thời để tạo điều kiện nẩy sinh cái mới, cái phù hợp.
Hai xu hướng khác nhau trong mối quan hệ qua lại giữa hai mặt đối lập của một mâu thuẫn biện chứng, thống nhất và đấu tranh có quan hệ biện chứng với nhau, không có thống nhất của các mặt đối lập thì không có đấu tranh giữa các mặt đối lập và ngược lại thống nhất là tương đối đấu tranh là tuyệt đối. Tính tương đối của sự thống nhất có quan hệ hữu cơ với sự đứng im ổn định tạm thời của sự vật, so với vận động đứng im chỉ là tương đối, tạm thời, đứng im là sự biểu hiện của sự vận động đang trong trạng thái cân bằng. Do đó thống nhất chỉ là tương đối, đấu tranh làm cho sự vật vận động và phát triển, mà sự vận động là tuyệt đối nên đấu tranh là tuyệt đối.
Các mặt đối lập không chỉ thống nhất và đấu tranh với nhau mà chúng còn chuyển hoá lẫn. Sự thống nhất bao hàm cả sự chuyển hoá của các mặt đối lập, chuyển hoá cũng hết sức đa dạng và phong phú, những chuyển hoá diễn ra dưới hai hình thức: Chuyển hoá từng phần và chuyển hoá toàn bộ. Sự chuyenr hoá từng phàn là sự di chyển của các nhân tố, những đặc điểm của các mặt đói lập này sang mặt đối lập khác, còn sự chuyển hoá toàn bộ là chuyển hoá toàn bộ mặt đối lập này sang mặt đối lập. Nói chung, các mặt đối lập luôn luôn tác động qua lại lẫn nhau và tác động qua lại gữa chúng tạo thành mâu thẫn giữa các mặt đối lập. Mọi sự vật đều là thể thống nhất của các mặt đối lập, cho nên sự vật nào cũng bao hàm mâu thuẫn hay sự vật nào cũng chứa đựng mâu thuẫn. Vị trí các mâu thuẫn không dống nhau có mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài, có mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản, có mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đói kháng. Mọi quá trình dều có phát sinh và phát triển, bến hoá không ngừng (Đồng nhất- khác nhau- mâu thuẫn).
Mâu thuẫn có vai trò rất lớn trong sự phát triển của sự vật mọi sự vật chỉ tồn tại chừng nào nó bao hàm mâu thuẫn. Mâu thuẫn là nguộn gốc của mọi sự vận động và phát triển. Chính và vậy phân tích đúng mâu thuẫn là điều kiện để nhận thức đúng sự vật.
Đấu tranh của các mặt đối lập quy định một cách tất yếu những thay đổi tương ứng của các mặt đang tác động qua lại cũng như của sự vật nói chung làm cho sự chuyển hoá chuyển sang trạng thái khác về chất. Nói cách khác, đấu tranh của các mặt đối lập là nguồn gốc của sự phát triển và vận động là xung lực của cuộc sống. Mặt khác không có thống nhất của các mặt đối lập thì cũng không có đấu tranh giữa các mặt đối lập và do đó không có mâu thuẫn nói chung. Hơn nữa,sự vận động và phát triển bao giờ cũng là sự thống nhất giữa tính ổn định và tính thay đổi. Sự ổn định là điều kiện cho sự phân hoá cho sự phân hoá cho sự thay đổi và phát triển. Như vậy thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập quy định tính ổn định và tính thay đổi của sự vật.
Căn cứ vào quan hệ giữa các mặt đối lập với một sự vật cụ thể, các mâuthuẫn được chia thành mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài.
Những mâu thuẫn bên trong là sự tác động qua lại giữa các mặt, các khuynh hướng đối lập của cùng một sự vật. Mâu thuẫn bên ngoài là sự tác động qua lại giữa những mặt những khuynh hướng đối lập nhau của các sự vật khác nhau. Chẳng hạn mâu thuẫn giữa dân chủ hoá xã hội chủ nghĩa với chủ nghĩa quan liêu ở nước ta hiện nay. Mâu thuẫn giữa yêu cầu tất yếu thoả mãn những nhu cầu tối thiểu hợp lý của nhân dân với tình trạng thấp kém cuẩ nền kinh tế hiện nay là những mâu thuẫn bên trong. Còn mâu thuẫn giữa yêu cầu ổn định hoà bình để kiến thiết đất nước với những hành động thù địch của bọn phản động quốc tế đối với nước ta hiện nay là những mâu thuẫn bên ngoài. Song việc phân chia giữa mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài chỉ là tương đối. Có thể, một sự vật nào đó trong mối quan hệ này chúng là mâu thuẫn bên trong nhưng trong mối quan hệ kia chúng trở thành mâu thuẫn bên ngoài và ngược lại. Mâu thuẫn bên trong có vai trò quyết định đối với sự phát triển của sự vật, ngay cả khi mâu thuẫn bên ngoài đóng vai trò làm điểm suất phát với sự phát triển của một hệ thống. Mâu thuẫn bên ngoài có thể thúc đẩy mâu thuẫn bên trong phát triển hoặc có thể hạn chế mâu thuẫn bên trong, làm giảm bớt tác dụng của mâu thuẫn bên trong, tạo điều kiện lâu dài bền vững hơn của các sự vật.
Theo ý nghĩa đối với sự tồn tại và phát triển của sự vật, các mâu thuẫn được chia thành mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản.
Mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn xuất phát từ bản chất của sự vật, nó hoạt động và quy định sự phát triển ở tất cả các giai đoạn của sự vật, nó quy định nẩy sinh của các mâu thuẫn khác. Mâu thuẫn cơ bản chỉ có thể mất đi khi sự vật mất đi hoặc thay đổi căn bản về bản chất.Mâu thuẫn không cơ bản là mâu thuẫn đặc trưng cho phương diện nào đó của sự vật,nó quy định sự hoạt động và phát triển một mặt nào đó của sự vật.Trong lĩnh vực đời sống xã hội, việc phân tích mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản có ý nghĩa rất quan trọng trong công cục đổi mới ở nước ta hiện nay. Mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hoá của lực lượng sản xuất
Với tính chất chiếm hữu tư bản tư nhân về tư liệu sản xuất được biểu hiện là mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản, mâu thuẫn này chi phối các hoạt động khác trong xã hội tư bản chủ nghĩa.
Căn cứ vào vai trò của mâu thuẫn đối với sự tồn tại và phát triển của sự vật trong một giai đoạn nhất định các mâu thuẫn được chia thành mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn không chủ yếu.
Mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn nổi lên trong từng giai đoạn và khi nó được giải quyết thì nó tạo điều kiện giải quyết mâu thuẫn khác trong cùng giai đoạn, đó là mâu thẫn không chủ yếu. Mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn không chủ yếu có mối quan hệ hữu cơ với nhau. Sự phát triển cao hơn của sự vật và chuyển hoá của nó sang giai đoạn tồn tại khác phụ thuộc vào sự giải quyết mâu thuẫn mâu thuẫn chủ yếu.
Căn cứ vào tính chất mối quan hệ lợi ích giữa các giai cấp (lợi ích kinh tế là chủ yếu) mâu thuẫn trong xa hội được chia thành mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng.
Mâu thuẫn đối kháng là mâu thuẫn giữa những giai cấp, những tập đoàn người có những khuynh hướng xã hội đối lập nhau về lợi ích cơ bản (mâu thuẫn giữa Chủ nô - Nô lệ, Địa chủ - Nông nô, Tư sản - Vô sản). Như vậy nguồn gốc trực tiếp xuất hiện mâu thuẫn đối kháng là sự tồn tại lợi ích thù địch không thể điều hoà. Mâu thuẫn dối kháng không thể giải quyết được nếu không thủ tiêu chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất- cái đã sinh ra sự đối kháng lợi ích. Mâu thuẫn đối kháng là mâu thuẫn có khuynh hướng đấu tranh gay gắt nhất và chỉ khi đạt tới giới hạn độ mới giải quyết được. Mâu thuẫn không đối kháng là mâu thuẫn giữa các lực lượng xã hội có đối lập nhau về lợi ích không cơ bản cục bộ chỉ mang tính chất tạm thời. Do vậy, nó khôngnhát thiết phải dược giải quyết thông qua hình thức đấu tranh. Phân biệt mâu thuẫn đối kháng và mâu thuãn không đối kháng có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xác định giải pháp giải quyết mâu thuẫn. Song, cả hai loại mâu thuẫn dều phải được giải quyết thông qua hình thức đấu tranh chứ không thể là dung hoà giữa các mặt đối lập.
Chương ii
Những mâu thuẫn trong việc phát triển nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở việt nam hiện nay.
i. những mâu thuẫn cơ bản.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế. Bởi đường lối đó xuất phát từ trình độ và tính chất của lực lượng sản xuất ở nước ta vừa thấp, vừa không đồng đều. Đó là việc giải quyết mâu thuẫn biện chứng giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất.
Đã có thời kỳ chúng ta nóng vội, cải tạo quan hệ sản xuất xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, xây dựng hai hình thức sở hữu cơ bản là sở hữu công cộng và sở hữu tập thể. Hậu quả dẫn đến mâu thuẫn không được giải quyết, sản xuất đình trệ, kinh tế tụt hậu.
Ngày nay, Đảng ta đã nhận thức lại sự phù hợp và không phù hợp là biện chứng khách quan cho bất cứ một xã hội nào, cho nên sẽ là không đúng nếu quan niệm rằng chủ nghĩa tư bản luôn luôn không phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất cho nên dẫn đến khủng hoảng kinh tế và cũng sẽ không đúng nếu quan niệm dưới chủ nghĩa xã hội lúc nào cũng có sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất cho nên chủ nghĩa xã hội không có khủng hoảng kinh tế.
Sự phù hợp và không phù hợp của quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất có cả trong chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội. Chỉ khác nhau ở chỗ chủ quan nào phát hiện ra được mâu thuẫn sớm và giải quyết có hiệu quả mâu thuẫn đó thì kinh tế ở nước đó sớm phát triển.
Việc phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần là vận dụng đýng đắn quy luật giải quyết mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất.
Mỗi thành phần kinh tế có vị trí, vai trò nhất định, cần thiết cho sự phát triển của đất nước. Quan hệ sản xuất phù hợp làm cho việc sử dụng có hiệu quả tài nguyên, sử dụng hiệu quả lao động.
Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần nghĩa là chấp nhận một nền kinh tế đa hình thức sở hữu, và vì vậy, quá trình sản xuất, phân phối giữa các thành phần cũng có sự khác nhau do chế độ sở hữu quyết định. Mâu thuẫn lợi ích kinh tế giữa thành phần kinh tế Nhà nước với thành phần hợp tác, giữa thành phần kinh tế cá thể , tiểu chủ với thành phần kinh tế tư bản tư nhân.... Nhưng đây là mâu thuẫn không đối kháng, mâu thuẫn này là động lực và nguồn gốc của sự phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta.
Sự không thống nhất về lợi ích giữa các thành phần kinh tế; trong cơ chế thị trường dưới sự tác động của quy luật giá trị, các thành phần kinh tế phải tính toán: sản xuất cái gì, sản xuất cho ai, sản xuất bằng cách nào? và tính chất cạnh tranh, thương trường là vô cùng quyết liệt.
Phát triển kinh tế thị trường đó là một bước tiến để phát triển đất nước. Những mâu thuẫn cơ bản của nền kinh tế thị trường với định hướng xã hội chủ nghĩalà mâu thuẫn giữa xu hướng tự phát lên chủ nghĩa tư bản với xu hướng tự giác lên chủ nghĩa xã hội. Mâu thuẫn giữa quyền lực của nhân dân, quyền lực kinh tế, văn hoá, chính trị, xã hội với việc phân hoá trong cơ chế thị trường. Bởi vì, quyền lực sở hữu tư liệu sản xuất trong kinh tế, nhân dân đang có nguy cơ mất quyền lực kinh tế. Đa thành phần kinh tế, đa hình thức sở hữu. Kinh tế thị trường thì chấp nhân cạnh tranh, cạnh tranh thì có nguy cơ tập trung sở hữu vào tay một số người và làm ăn thua lỗ, phá sản, dần dần không có quyền sở hữu phải đi làm thuê.
Kinh tế hộ cá nhân, tiểu chủ thì việc sản xuất tự do mâu thuẫn với yêu cầu điều hành của ban quản lý hợp tác xã. Ban quản lý hợp tác xã không thể điều hành hộ được, yêu cầu của hộ là chỉ hướng dẫndịch vụ cho hộ thôi nên đòi hỏi phải thay đổi phương thức ăn chia, phân phối trong hợp tác xã. Đã là tự chủ thì phải tích luỹ cho tái sản xuất mở rộng, lại phải tích luỹ cho một ông chủ thứ hai là cho hợp tác xã làm quỹ dịch vụ cho Ban quảnlý. Hộ tự chủ đòi hỏi làm chủtư liẹu sản xuất, trong đó có ruộng đất, nhưng ruộng đất lại là sở hữu Nhà nước. Nên đòi hỏi giải quyết mâu thuẫn này phải giao quyền sử dụng đất lâu dài cho người nông dân.
Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nông thôn vẫn là con đường hợp tác nhưng là con đường hợp tác kiểu mới, hợp tác nhưng là hộ tự chủ, phát triển kinh tế hộlà xuất phát điểm của hợp tác kiểu mới.
Hợp tác trong môi trường kinh tế thị trường thì hình thức hợp tác cơ chế vận hành bên trong của hợp tác quan hệ sở hữu và quan hệ phân phối khác. Hợp tác là điểm tựa, là mắt khâu để đưa các hộ nông dân qua các công ty, các trung tâm khoa học kỹ thuật, để gắn sản xuất của họ với thị trường trong nước và quốc tế, gắn với tiến bộ xã hội.
Nông thôn đi lên bằng hợp tác, nếu đi con đường tư bản thì cũng có tư nhân và hợp tác, nhưng dòng chính là tư bản, nhưng đi theo con đường hợp tác hiện nay thì hợp tác là dòng chính, nhân dân có quyền lực kinh tế. Nông thôn đi theo con đường hợp tác thì Đảng mới lãnh đạo được nông thôn đi lên theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Kinh tế Nhà nước đường lối Đảng ta xác định là thành phần kinh tế giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước đang có nguy cơ mất vai trò chủ đạo, đó là một mâu thuẫn thực tế đang tồn tại. Đến nay, thành lập tổng công ty, công ty là người đại diện cho chủ sở hữu của nhà nước nhưng chủ sở hữu này không phải là chủ đích thực như chủ sở hữu tư nhân, nên nó hạn chế đến kinh doanh. Mâu thuẫn của nền kinh tế Nhà nước là không có động lực lợi ích trực tiếp. Giải quyết mâu thuẫn này Nhà nước đang tiến hành cổ phần hoá: cổ phần hoá Nhà nước cùng với cổ phần của người lao động trong doanh nghiệp (cổ phần hoà theo định hướng xã hội chủ nghĩa). Người lao động từng bước có quyền trong sở hữu, giai cấp công nhân có quyền lực trong kinh tế. Nhưg hiện nay, mâu thuẫn lớn nhất trong cổ phần hoá là định giá tài sản và bán cổ phần cho cá bộ, công nhânthì họ không có tiền vì vậy để giải quyết mâu thuẫn này, phải lấy phần lợi nhuận của doanh nghiệpbiến thành cổ phần của người lao động, có cổ phần, người lao động gắn bó với doanh nghiệp, công ty gắn bó với Đảng, gắn bó với chế độ.
Ii. những khuyết tật của nền kthh nhiều tp ở việt nam
Việt nam đang trong giai đoạn mở cửa nền kinh tế. Việc mở cửa nền kinh tế mang lại khả năng tiếp cận với thị trường đầu vào có chất lượng tốt hơn, bao gồm công nghệ mới đi kềm với hàng tư liệu sản xuất và đồng thời mở ra cho các nhà sản xuất nhập khẩu, tiếp cận các sản phẩm và chu trình sản xuất mới tạo ra từ sự tiến bộ vècông nghệ của thế giới, bằng việc mở rộng quy mô thị trường tiềm năng. Các nhà sản xuất có thể thu được nhiều lợi nhuận hơn do áp dụng các tiến bộ của thế giới trong việc phát triển hoặc sử dụng công nghệ mới.
Việc mở cửa còn tạo ra môi trường cạnh tranh giữa thị trường trong nước và thị trường nước ngoaì. Buộc người sản xuất phải tìm kiếm các phương thức sản xuất có hiệu quả hơn để có thể cạnh tranh được với đối thủ của mình và tăng lợi nhuận. Nhập khẩu làm tăng mức độ cạnh tranh của thị trường trong nước, một thị trường có thể chỉ do các nhà sản xuất trong nước nắm giữ. Cá chính sánh cho phép đầu tư vào lĩnh vực dịch vụ và có thể tăng mức độ cạnh tranh trong việc cung cấp các dịch vụ quan trọng như các dịch vụ tiện ích, tài chính và dịch vụ kinh doanh.
Tuy nhiên trong giai đoạn hiện nay nền kinh tế hàng hoá nhièu thành, mở cửa thị trường trong nước và quốc tế, mặc dù đã có nhiều thành công to lớn, nhưng không thể tránh khỏi những hạn chế, những khuyết tật của thị trường mang lại. Như do sự cạnh tranh mà buộc người sản xuất phải tìm kiếm đủ mọi phương pháp từ lành mạnh và không lành mạnh, từ đúng luật pháp và trái pháp luật, do đó rất có thể làm hạn chế sự phát triển của đất nước, làm trái những định hướng, hạn chế tầm nhìn và mục tiêu của đảng và nhà nước đã đề ra.
Mặt khác do mở cửa thị trường trong nước, hội nhập giao lưu thị trường quốc tế, nguồn vốn của ta còn hạn hẹp và trình độ quản lý nền kinh tế của đảng và nhà nước còn hạn chế, việc thèm khát tài nguyên thiên nhiên là rất lớn, dễ ràng dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi trường, tài nguyên thiên nhiễm bị phá hoại nặng nề, không thương tiếc. Như việc buôn bán động vật rừng hoang rã, cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên, mức độ ô nhiễm nguồn nước trong sinh hoạt và trong sản xuất ngày càng gia tăng.Như trong công nghiệp 82% những nhà máy gây ô nhiễm nhất nằm trong các khu dân cư và thành thị, 90% các nhà máy xây dựng trước năm 1995 không có phương tiện sử lý rác thải. Mức độ ô nhiễm trong khong khí vượt tiêu chuẩn từ 2 - 5 lần, đặc biệt là ô nhiễm bụi trì, tiéng ồn ngày càng gia tăng. Độ che phủ của rừng là 29% năm 1998 so với năm 1945 là 43%.
Nền kinh tế phát triển một cách không đồng đều, có ngành mạnh có nghành yếu, có nghành hiện đại nhưng đồng thời cũng có ngành còn trì trệ và lạc hậu, có doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả nhưng cũng có doanh nghiệp làm ăn thua lỗ thất thu, chưa đáp ứng được nhu cầu của xã hội, dễ dàng dẫn đến mâu thuẫn giữa các doanh nghiệp và các thành phần kinh tế với nhau, sự cạnh tranh đó là tất yếu. Nhưng nền kinh tế cạnh tranh tự do dễ dẫn đến trệch hướng xã hội chủ nghĩa và đi theo con đường tư bản chủ nghĩa.
Mặt khác, nhiều chính sách không được cải thiện cho phù hợp với tình hình mới như hàng rào thuế quan vẫn là đối tượng ngăn cản chủ yếu đối với các doanh nghiệp nước ngoài tìm kiếm thị trường Việt nam. Thâm hụt cán cân vãng lai giảm một cách đáng kể, từ mức 4,9% GDP vào năm 1998 xuống còn 0,2% vào năm 1999 nguyên nhân là do FDI giảm, xuất khẩu tăng, nhập khẩu vẫn bị kìm nén. Trong năm 2000 do FDI không tăng, xuát khẩu và nhập khẩu cùng tăng, và thâm hụt cán cân vãng lai lên đến khoảng 1% GDP.
Thị trường mở cửa, tạo điều kiện và cơ hội cho những phần tử phản động trong nước kết hợp với bọn phản động ngoài nước nhằm chống phá công cuộc thành quả của đảng ta. Bọn chúng tìm mọi phương thức, kế hoạch nhằm thủ tiêu chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta và bién Việt nam thành một tỉnh, một huyện của chúng. Việc phát triẻn kinh tế hàng hoá nhièu thành phần còn gây nên các hiện tượng như tham ô, hối lộ trong các quan chức cấp cao của nhà nước, tình trạng thất nghiệp ngày càng gia tăng.
iii. thành tựu đạt được
Tốc độ tăng trưởng GDP đã lên mức gần 6% vào năm 2000. Mặc dù gặp phải một loạt hiện tượng bất thường về thời tiết, từ lụt lội ở miền Nam và miền Trung cho tới hạn hán ở miền Bắc, sản xuất nông nghiệp vẫn đạt mức tăng trưởng 3,7% trong 9 tháng đầu năm 2000 và có thể đạt 4% cho cả năm. Ước tính chính thức mức tăng trưởng sản xuất công nghiệp trong GDP của năm 2000 là 9,9%. Tăng trưởng sản lượng công nghiệp - nhìn chung thường cao hơn mức tăng trưởng GDP do xu hướng thay đổi cơ cấu GDP theo hướng chuyển sang các hoạt động có giá trị gia tăng thấp hơn - dự kiến tăng lên mức 15,5%. Khu vực dịch vụ dự kiến tăng trưởng ở mức 4,4% vào các năm 2000. Sản lượng của từng ngành chính đã tăng trưởng nhanh chóng. Các ngành xi măng (tăng 29%), sản phẩm gồm sứ (tăng 30%) và dệt may và giày dép (tăng 16 - 19% ) đã đóng góp đáng kể cho sự tăng trưởng này. ngành xây dựng cũng bắt đầu hồi phục.
Giá trị xuất khẩu tăng mạnh mẽ trong hai năm 1999 và 2000 đã đóng vai trò then chồt đối với sự phục hồi này. Xuất khẩu đã bắt đầu phục hồi trở lại từ giữa năm 1999, với tổng mức xuất khẩu tăng 23% cho cả năm 1999, trong đó xuất khẩu sản phẩm chế tạo ( dặc biệt là hàng may mặc và giày dép ) tăng trên 30%. Xuất khẩu tăng ở mức 20% trong năm 2000 mặc dù tốc độ tăng trưởng xuất khẩu sản phảm chế tạo có chậm lại. Một lý do dẫn tới thu nhập từ hoạt động xuất xuát khẩu tăng lên là nhờ giá dầu thô cao và vẫn đang tiếp tục tăng lên. với dự đoán giá dầu giảm xuống vào một thời điểm nào đó trong năm 2001 thì Việt Nam khó có thể duy trì dược mức tăng trưởng trị giá uất khẩu vào khoảng 20% năm như hiện nay.
Tuy nhiên, tiến trình kinh tế của Việt nam vẫn còn bấp bênh và điều này được thể hiện trên hai thế mạnh quan trọng sau. Thứ nhất, tốc độ tăng trưởng này có thể hỗ trợ bởi chính sách kích cầu rát mạnh được thể hiện thông qua các chính sách ngân sách và tiền tệ mở rộng. Quyết định vè tăng 25% lương cho cán bộ viên chức nhà nước đã được đưa vào thực hiện đầu năm 2000 và thâm hụt ngân sách đang đứng ở mức 2,4% GDP. Kể từ năm 1999 ngân hàng nhà nước đã bắt đầu nới lỏng chính sách tiền tệ, tín dụng trong nước trong năm 1999 đạt mức tăng trưởng 20% và trong năm 2000 mức tăng trưởng này là trên 30%. Vấn đề chưa được xác định dõ ở đây là chương rình kích cầu đóng góp bao nhiêu vào quá trình hồi phục kinh tế và nền kinh tế sẽ như thế nào nếu như quá trình kích cầu không còn đáp ứng cho thị trường và không còn dược áp dụng trong năm tới. Thứ hai, tổng đầu tư tính theo tỉ trọng tren GDP hiện nay vẫn chưa tăng lên đã đạt được trong năm 1997. Mặc dù đầu tư khu vực tư nhân trong nước đã phần nào hồi phục, song vẫn chưa có dấu hiệu về sự hồi phục thực sự của đầu tư nước ngoài.
Dự đoán nhu cầu tài trợ vốn bên ngoài của Việt nam tăng trung bình khoảng 3,2 tỷ đô la Mĩ/1 năm trong giai đoạn 2001 - 2005 . Điều này không chỉ phản ánh nhu cầu cần cấp vốn bổ sung để nhập khẩu nhiều hơn nhằm phục vụ mức đầu tư và sản lượng tăng lên như dự đoán mà còn nhàm thanh toán các khoản nợ đang gia tăng, và cần cho dự trữ tích luỹ trong công nghiệp.
Dự đoán tổng lượng vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài vào Việt nam vẫn giữ ở mức trung bình khoảng 1 tỷ đô la Mỹ trong giai đọan 5 năm đầu 2001 - 2005. Mức này bao gồm cả dự án đường dẫn ống khí Nam Côn Sơn và các khoản FDI dự đoán sẽ đưa vào đầu tư xuất khẩu hàng may mặc, giầy dép và các sản phẩm công ngiệp nhẹ khác sang Mỹ sau khi đã ký kết hiệp định thương mại Việt - Mỹ. Tuy nhiên mức FDI có thể cao hưn trong những năm đầu nếu hai dự án điện dưới hai hình thức BOT hiện còn đang trong quá trình xem sét và nghiên cứu. Trong các năm tới các nguồn FDI sẽ tăng mạnh để đạt mức 2 tỷ đô la Mỹ. Hoàn toàn không có gì là phi thực tế khi nền kinh tế Việt Nam có 5 năm tăng trưởng tương đối cao với cơ chế thị trường thương mại và đầu tư thoáng, hoạt động của khu vực chế tạo tư nhân được mở rộng.
Chương iii
Một số giải pháp và kiến nghị nhằm giải quyết những mâu thuẫn nẩy sinh trong việc phát triển kthh nhiều thành phần ở việt nam.
I. những giải pháp nhằm giải quyết mâu thuẫn trong kthh ở việt nam.
Để có thể giải quyết được những mâu thuẫn chủ yếu trong việc phát triển kinh tế hàng hoá nhiêù thành phần với những mâu thuãn nẩy sinh như mâu thuẫn giữa các thành phần kinh tế với nhau, mâu thuãn giữa trình độ lực lượng sản xuất với quan hệ sản suất, mâu thuấn lợi ích kinh tế trong xã hội, mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản, để có thể giải quyết được những mâu thuẫn này chúng ta cần phải có những chính sách và mục tiêu chính để có thể phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, theo tôi chúng ta cần phải:
Đảm bảo khả năng tiếp cận rộng hơn với hệ thống tư pháp.
Hơn một thế kỷ qua, Việt nam đã cố gắng xay dựng một nhà nước pháp quyền như quy định trong Hiến pháp 1992 và triển khai phát triển hệ thống pháp luật như phát triển hệ thống thông tin pháp luật, thể chế hoá chương trình chương trình pháp luật thông tin đại chúng cho người dân. Để bổ xung các khoản đầu tư lớn của Việt nam vào phát triển hệ thống pháp luật. Việt nam lại muốn nhanh chóng hội nhập vào hệ thống kinh tế thế giới và khu vực đẻ trở thành một nước công nghiệp hiẹn đại vào năm 2010. Do đó, một chiến lược phát triển hệ thống pháp luật dài hạn và toàn diện sẽ giúp là hệ thống pháp luật hoàn chỉnh và thống nhất, thực hiện tốt các chức năng trong một thời gian ngắn. Và thực hiện tốt 6 yêu cầu và định hướng chính cần tập trungkhi phát triển hệ thống pháp luật.
Trước hết, cần hoàn thiện khuân khổ pháp luật cho sự phát triển của xã hội dân sự và nền kinh tế. Mặc dù còn nhiều thách thức, song đã đạt được nhiều tiến bộ lớn. Các mục tiêu ưu tiên bao gồmdự thảo, sửa đổi luật để thúc đảy sự hội nhập của Việt nam vào nền kinh tế quốc tế và nâng cao vị thế cạnh tranh của các doanh nghiệp, cải cách thuế, và thống nhất các quy định về đăng kí kinh doanh.
Thứ hai, cần tăng cường hệ thống thông tin, cần xây dựng một nguyên tắc là việc tuyên truyền pháp luật cũng quan trọng như việc thông qua pháp luật, cùng với khả năng dự đoán được hậu quả pháp luật, điều này có ý nghĩa vô cùng quan trọng để đảm bảo sự vận hành có hiệu quả của xã hội và của nền kinh tế.
Thứ ba, càn tạo ra hoặc hoàn thiện các thể chế pháp luật để thực hiện và nâng cao sự tuân thủ theo pháp luật
Thứ tư, các trình tự làm luật và thể ché cần được tăng cường, cải thiện nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế. Các hoạt động cần được ưu tiên như thể chế hoá cơ chế các kì tham khảo ý kiến.đào tạo cho nhân viên và các nhà lập pháp Quốc hội về tổ chức thương mại quốc tế (WTO), về thoả thuận thương mại song phương giữa Mỹ – Việt nam và các bản luật quốc tế khác.
Thứ năm, cần giáo dục và đào tạo chuyên môn pháp luật cho đội ngũ các luật sư, thẩm phán, kiểm soát viên và các trọng tài kinh tế cho phù hợp với thế kỷ 21.
Cuối cùng, cần giải quyết vấn đề hỗ trợ pháp lý và khả năng tiếp cận hệ thống tư pháp cho người nghèo.
Tạo ra sân chơi bình đẳng.
Việt nam đã có nhiều bước tiến quan trọng khi chuyển từ nền kinh tế kế hoạch tập trung sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó khu vực kinh tế tư nhân có vai trò ngày càng tăng. Phù hợp với đường lối đó, Hiến pháp Việt nam 1992 thừa nhận quyền tự do kinh doanh và bình đẳng trước pháp luật của các thành phần kinh tế và quy định: “ Mục tiêu của các chính sách kinh tế của nhà nước là làm cho dân giầu, nước mạnh trên cơ sở giải phóng mọi năng lực sản xuất, phát huy mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế dưới nhiều hình thức”.
Chưa có sự rõ ràng về vai trò của các khu vực quốc doanh, khu vực tư nhân và khu vực ngoài quốc doanh. Sự can thiệp của chính phủ vào thị trường là rất lớn. Những thủ tục hành chính phức tạp và quá nhiều cơ hội cho tình trạng lạm quyền và tham nhũng .Một số lượng lớn các quy định chính phủ ở đủ mọi cấp đã được ban hành theo hướng dẫn việc thực hiện các lệnh và các pháp lệnh .Tuy nhiên ,các quy định này không nhất quán với luật và sự giải thích và việc áp dụng của chúng lại khác nhau trên cả nước .Bên cạnh đó ,các quy định này thường xuyên bị thay đổi trong khi công htác tuyên truyền và khả năng tiếp cận các văn bản pháp luật còn yếu kém .Tình trạng này đang làm xuy yếu lòng tin vào nhà nước đầu tư trong nước và tạo ra môi trường đầu tư sản xuát dài dạn đầy rủi ro .
Một số vấn đề có liên quan đang cản trở sự phát triển của khu vực tư nhân ở Việt Nam là vẫn có phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp tư nhân với các đối thủ cạnh tranh của của họ trong khu vực quốc doanh và tập thể . Thực tế là giữa chính sách coi mọi doanh nghiệp đều bình đẳng với nhau trước pháp luật và thực tiễn còn có khoảng cách . Khuôn khổ pháp luật cũng có sự phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước . Thay vì có luật doanh nghiệp thống nhất , hiện nay có 5 luật khác nhau đều tiết hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tư nhân và hộ gia đình : Luật hợp tác xã , áp dụng cho các doanh nghiệp tập thể : luật ĐTNN, được áp dụng cho doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài , và luật khuyến khích Đầu tư trong nước áp dụng cho cấc doanh nghiệp.
Cùng với sự tự do hơn của khu vực tư nhân, trách nhiệm quản trị công ty cần được tăng cường. Trong những năm tới, việc áp dụng khuân khổ bảo đảm cho các doanh nghiệp hoạt động minh bạch, có trách nhiệm giải trình và không được độc quyền. Tăng cường đối thoại giữa chính phủ và khu vực hoạt động tư nhân để có thể đạt được điều này.
Cần có chính sách đối thoại thường xuyên giữa các cơ quan chính phủ với cộng đồng doanh nghiệp để giải quyết những tồn tại và khó khăn để cải thiện hơn nữa môi trường đầu tư và kinh doanh tại Việt nam. Những nỗ lực như thế rất quan trọng trong việc Việt nam tham gia vào thị trường thế giới và ký kết hiệp định thương mại với Mỹ.
Cần phỉ có một chương trình hành động chống lãng phí và tham nhũng ở Việt nam. Hạn chế tối đa quan liêu cửa quyền, bằng cách giảm đáng kể các hoạt động đòi hỏi phải có sự phê duyệt của cơ quan nhà nước, và giảm các bước cần thiết để có thể phê duyệt. Tăng cường thông bố thông tin, bằng việc tăng cường công khai thông tin đại chúng; khuyến khích các người dân tham gia chống tham nhũng; cải các cơ chế đấu thầu,bằng việc công bố thông tin về người thắng và hoàn thiện cơ chế đấu thầu, có thể áp dụng mô hình UNCITRAL; tăng cường cải cách thủ tục hành chính.
Cải cách DNNN trong thập kỷ tới.
Chương trình cải cách DNNN trong 2 năm rưỡi qua được thể hiện như tiến trình cổ phần hoá được tăng nhanh với 450 DNNN hoàn thành các thủ tục cổ phần hoá, gần 1/3 trong số đó bán ra thị trường trên 65% cổ phần. Thông qua nguyên văn dự thảo Chiến lược Phát triển Kinh tế Xã hội của Chính phủ: Chính phủ dặt kế hoạch phấn đẩutong khoảng 5 năm căn bản hoàn thiện việc sắp xếp, chuyển đổi cơ cấu, đổi mới quản lý và nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước. Chương trình này bao gồm cổ phần hoá các doanh nghiệp mà nhà nước không cần giữ cổ phần chi phối nhằm tạo thêm động lực thúc đẩy các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả. Trong quá trình cổ phần hoá cần ưu tiên cho người lao động mua cổ phần và mử rộng bán cho các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài. Thực hiện các chính sách bán, khoán, cho thuê các DNNN loại nhỏ mà nhà nước không cần nắm giữ. Hầu hết các doanh nghiệp nhà nước được chọn để cổ phần hoá và giải thể có mức vốn dưới 10 tỷ VND hay 700 ngàn USD (chỉ có hơn 10% trong số này cao hơn mức đã nêu), tốc độ cổ phần hoá các doanh nghịêp còn chậm. Để thực hiện mục tiêu “ giữ lại các DNNN lớn và nhượng bán các DN nhỏ và vừa” nhằm nâng cao tính cạnh tranh thị trường trong nước với chương trình trung hạn bao gồm 4 biện pháp chính sau:
. Đa dạnh hoá sở hữu thông qua cổ phần hoá các doanh nghiệp (tức là bán cổ phần của nhà nước) và chuyển đổi sở hữu các DNNN.
. Giải thể các DNNN đã được xếp vào nhóm không có khả năng tồn tại.
. Cơ cấu lại các DN được chính phủ giữ lại.
. Xây dựng mạng lưới an ninh xã hội đầy đủ và có hiệu quả.
Để thực hiện những kế hoạch và mục tiêu trên chúng ta cần phải:
Giải thể các doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả
Cơ cấu lại các DN lớn dược nhà nước giữ lại, nhằm hạn chế thua lỗ, giảm nợ chồng chéo không có khả năngtrả và nâng cao cạnh tranh
Buộc các DNNN ứng sử theo quy luật thi trường và cơ cấu lạinhằm tối đa lợi nhuận thông qua giảm chi phí và tăng sản lượng bán ra.
Củng cố hệ thống ngân hàng.
Đa dạng hoá các dịch vụ ngân hàng- huy động vốn và cho vay, cung ứng ccs dịch vụ ngân hàng ngân hàng thuận lợi và thông thoángtới mọi loại hình kinh doanh và dân cư, cung cấp tín dụng kịp thời cho sản suất, kinh doanh và các hoạt động khác trong nông nghiệp và khu vực nông thôn - là mục đích chính của hệ thống ngân hàng, áp dụng công nghệ thông tin, mở rộng nhanh các hình thức thanh toán khong dùng tiền mặt, mở các dich vụ ngân hàng tự động, xây dựng một hệ thống pháp lý tổng hợp bao gồm các nguyên tắc và tiêu chuẩn quốc tế của hẹ thống ngân hàng, nâng cao công tác thanh tra giám sát về chất lượng của các tín dụng, là biện pháp cần phải thực hiện. Giải quyết nợ tồn đọng đi đôi với tăng cường những định chế pháp lý và hành chính về nghĩa vụ trả nợ của người đi vay và quyền hạn của người cho vay để tránh tình trạng đổ vỡ tín dụng.
Xây dựng thứ tự ưu tiên các kế hoạch đầu tư cơ sở hạ tầng.
Cần ngiên cứu chiến lược giao thông vận tải quốc gia Việt nam, cần một số vốn là 11,6 tỷ đô la Mỹ,tương đương khoảng 2,5% GDP tích luỹ, ngành giao thông vận tải ước tính cần 1,4 tỷ đô la Mỹ hàng năm. trong thập kỷ tới nhu cầu về vốn cho việc phát triển cơ sở hạ tầng này lên tới mức khoảng 6-7% GDP, tương đương với quy mô toàn bộ chương trình đầu tư trước đây
Nếu không ưu tiên xây dựng cơ sở hạ tầng một cách cẩn thận để phù hợp với tình hình tài chính sẵn có, thì sẽ xẩy ra tình trạng nguy hiểm là một số khoản đầu tư cơ sở hạ tầng có mức ưu tiên thấp lại có nguồn tài chính đáng ra là phải được dành cho những đầu tư có mức ưu tiên cao.
kết luận
Mâu thuẫn cơ bản chủ yếu trong thời kì qua độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt nam có thể nói là mâu thuẫn giữ một bên là tư bản chủ ,với tư cách là một xu thế phát triển của cơ cấu kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, có sự tác đông của các thé lực phản động trong và ngoài nước, với một bên là xu thế xã hội chủ nghĩa đang hình thành và thể hiện từng bước trong quá trình đi lên từ một cơ sở kinh tế - xã hội còn thấp với nền sản xuất nhỏ là chủ yếu.
Trong công cuộc đổi mới nhằm hội nhập được thị trường thế giới, chúng ta cần phải xác định những mâu thuẫn cơ bản và giải quyết những mâu thuẫn đó, vì mâu thuẫn cơ bản làm nẩy sinh những mâu thuẫn khác trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, những mâu thuẫn trong đối nội cũng như mâu thuẫn ngoài đối nội. Chúng ta đi vào nền kinh tế thị trường có nhiều thử thách nhưng cũng có không ít thời cơ và cơ hội tốt.
Hiện tại sự khác biệt trong nền kinh tế nước ta giữa các tầng lớp dân cư không quá lớn. Nhiều yếu tố xã hội tuy ở trình độ thấp nhưng đã có trong quá trình xây dựng chủ nghĩa ở nước ta. Theo sự phát triển của nền kinh tế thị trường sẽ có khoảng cách giữa người giầu và người nghèo, nhưng chúng ta không thể để cho khoảng cách đó khá xa. Mọi người cần lao động, cần làm giầu. Nhưng sự giầu sang phải bắt nguồn từ lao động sáng tạo và phải ngăn cấm sự làm giầu phi đạo đức như lừa gạt cướp bóc và phá hoại môi trường, ảnh hưởng tới đời sống toàn xã hội.
Để thực hiện được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh và tạo nên cơ chế thị trường Xã hội Chủ nghĩa, chúng ta cần nghiên cứu lại những mâu thuẫn đã nẩy sinh trong thời kỳ quá độ. Chỉ khi giải quyết được những mâu thuẫn thì những mục tiêu mà Đảng và nhà nước đề ra mới thực hiện tốt được.
Tài liệu tham khảo
Giáo trình Kinh tế Chính trị Marx - Lênin toàn tập.
(Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia – 1999).
Giáo trình Triết học Marx – Lênin toàn tập.
(Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia – 1999).
3. Tạp chí cộng sản các số: 18/1998; 1 – 14/1998; 5,6 ,9, 10/1997.
Chuyên chính vô sản và cuộc đấu tranh giữa hai con đường.
(Nhà xuất bản Sự thật – 1995).
Hai mặt của cơ chế thị trường.
(Tạp chí thương mại số 10/5/1996.
Để giữ vững định hướng Xã hội ở nước ta.
(Thông tin lý luận, số 8/1996).
V. I. Lênin với vấn đề đấu tranh chống tham nhũng.
(Báo cáo quân đội nhân dân, ngày 22/4/1993).
Dự báo xu hướng biến động cơ cấu giai cấp Công nhân trong thời kỳ quá độ lên CNXH.
(Tạp chí Xã hội học số 3/1998).
Ngân hàng thế giới (1999) “ Triển vọng Kinh tế toàn cầu và các nước đang phát triển” (“ Global Economic Prospects and Developing Countries”). Washington D. C.
Warner, Bob (2000), “Triển vọng của dự thảo chiến lược kinh tế- xã hội” (“Perpestives on the Draft Socio- Economic Strategy”) Hà Nội.
Văn kiện, Nghị quyết của Đảng cộng sản Việt Nam.
* Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng cộng sản Việt nam.
Văn kiện đại hội, đại biểu toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII.
(Nhà xuất bản Sự Thật).
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35087.doc