Đề tài Nghiên cứu những tác động của việc gia nhập WTO đối với nền nông nghiệp Việt Nam

Hộp hổ phách: Đây là dạng trợ cấp được coi là bóp méo thương mại, bao gồm các trợ cấp trong nước mà các thành viên của WTO bị yêu cầu phải cắt giảm trong Hiệp định nông nghiệp trên cơ sở tính toán Tổng AMS. Các trợ cấp thuộc hộp hổ phách có thể dưới nhiều dạng nhưng tất cả đều thuộc dạng cung cấp trực tiếp cho sản xuất nông nghiệp theo quy định của Chính phủ (nó không nhất thiết là Chính phủ phải trực tiếp chi trả từ nguồn ngân sách của mình). Chúng có thể bao gồm các quy định nhằm giữ vững hay tăng giá đầu ra hay giảm giá đầu vào đối với sản xuất hoặc cố định giá lưu kho hoặc phân phối sản phẩm. Chúng có thể bao gồm bất kỳ một thanh toán trực tiếp đến các nông dân trên cơ sở các quyết định sản xuất của họ (các thanh toán có liên quan đến sản xuất).

doc95 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1178 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nghiên cứu những tác động của việc gia nhập WTO đối với nền nông nghiệp Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c nước xuất khẩu khác về ít nhất một trong các mặt sau: năng suất, phẩm chất hoặc giá thành. Nhóm có khả năng cạnh tranh cao ở Việt Nam gồm các sản phẩm: thuỷ sản, gạo, hạt tiêu, hạt điều, cà phê. - Nhóm sản phẩm có khả năng cạnh tranh trung bình: thể hiện lợi thế và điều kiện tự nhiên, nhưng kỹ thuật sản xuất nguyên liệu thô và công nghệ chế biến kém làm năng suất, chất lượng, giá thành không vượt trội hẳn so với các nước xuất khẩu khác. Khả năng xuất khẩu tuỳ thuộc vào biến động giá cả thị trường quốc tế, năm nào giá cao xuất khẩu có lợi, năm nào giá thấp chịu lỗ hoặc thu hẹp sản xuất, thị trường không ổn định. Các mặt hàng trong nhóm này gồm: cao su, chè, sản phẩm chế biến từ gỗ - Nhóm sản phẩm có khả năng cạnh tranh kém: có một số lợi thế về tự nhiên hoặc xã hội, nhưng có nhiều cản trở về kỹ thuật, tổ chức, kết cấu hạ tầng, chính sách cho sản xuất, chế biến và kinh doanh làm năng suất, chất lượng và giá thành đều thua kém các nước xuất khẩu khác, hiện chưa có thị trường rõ rệt, mặc dù có thị trường triển vọng trong tương lai. Xuất khẩu với số lượng hạn chế khi có điều kiện bán buôn thuận lợi, bị xâm nhập thị trường khi điều kiện bán buôn trở nên bất lợi, phải áp dụng các biện pháp bảo hộ mậu dịch để duy trì thị trường trong nước. Các mặt hàng thuộc nhóm này có: rau quả, đường, thịt lợn - Nhóm sản phẩm không có lợi thế cạnh tranh: điều kiện sản xuất không thích hợp hoặc điều kiện tự nhiên không thuận lợi bằng các nước xuất khẩu chính. Năng suất, chất lượng, giá thành sản phẩm nguyên liệu và sản phẩm qua chế biến đều cao hơn so với giá quốc tế. Hiện nay Việt Nam phải nhập khẩu các mặt hàng thuộc loại này như: bột mỳ, sữa, dầu ăn, nguyên liệu thuốc lá, nguyên liệu bia, bông 2. 1. Nhóm hàng nông sản có khả năng cạnh tranh * Mặt hàng thuỷ sản: Thuỷ sản là ngành có lợi thế lớn nhất của nền nông nghiệp Việt Nam, với 3.200 km bờ biển, có nguồn nguyên liệu phong phú và đa dạng. Mặt khác, giá lao động trong ngành này còn tương đối rẻ. Do đó, nhiều mặt hàng thuỷ sản có khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới. Kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản tăng liên tục, xuất khẩu thuỷ sản đã trở thành một trong số những thành viên câu lạc bộ xuất khẩu đạt kim ngạch triệu USD. Năm 2007, mặc dù gặp phải nhiều khó khăn do các vụ kiện nhưng kim ngạch xuất khẩu vẫn đạt 3,75 tỷ USD, tăng 14,2% so với năm 2006.Năm 2006, kim ngạch xuất khẩu đã đạt 4,27 tỷ USD, tăng 13,8% so với năm 2007.Việt Nam hiện đúng thứ 8 về giá trị xuất khẩu thuỷ sản trên thế giới. Danh mục sản phẩm xuất khẩu và hàm lượng chế biến của thuỷ hải sản không ngừng gia tăng trong thời gian qua, từ chỗ chủ yếu xuất khẩu sản phẩm đông lạnh đến nay đã sản xuất được nhiều loại sản phẩm ăn sẵn. Tuy nhiên, so với sản phẩm xuất khẩu của các nước xuất khẩu thuỷ sản trên thế giới hay so với các sản phẩm có nguồn gốc từ thủy sản bày bán trong các siêu thị ở các thị trường nước ngoài có thể thấy tiềm năng đẩy mạnh xuất khẩu thuỷ hải sản chế biến sâu còn rất lớn. Thị trường xuất khẩu thuỷ sản chủ yếu của Việt Nam vẫn là EU, Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc.Năm 2007,2008 cơ cấu xuất khẩu vào các thị trường này đều tăng, trong đó mức tăng nhiều nhất là thị trường EU với mức tăng năm 2007 so với 2006: 27,9%. Dự tính trong vài năm tới có thể hướng tới thị trường ASEAN, Trung Quốc và các nước Đông Âu cũ. Theo số thống kê,năm 2007 có những nhóm hàng sau là có lượng và kim ngạch tăng so với năm 2006: -Cá đông lạnh tăng 41,38% về lượng và 41,92% về kim ngạch -Mực đông lạnh tăng 43,49% về lượng và 70,65% về kim ngạch -Chả cá tăng 81,33% về lượng và 83,32% về kim ngạch -Cá khô tăng 164,65% về lượng và 102,19% so về kim ngạch Các mặt hàng có lượng và kim ngạch giảm so với năm 2006 là: -Nghêu đông lạnh giảm 21,80% về lượng và 28,28% về kim ngạch -Sò đông lạnh giảm 26,66% về lượng và 29,15% về kim ngạch -Cồi điệp giảm 79,72% về lượng và 77,36% về kim ngạch * Mặt hàng lúa gạo: Gạo luôn là cây trồng có tầm quan trọng hàng đầu trong cơ cấu sản xuất nông nghiệp Việt Nam. Diện tích gieo trồng lúa đạt 7,326 triệu ha, chiếm khoảng 90% diện tích trồng cây lương thực và 60% tổng diện tích canh tác. Năm 1990 cả nước xuất khẩu 1,62 triệu tấn gạo cho kim ngạch 304,6 triệu USD, thì năm 2007 đã đạt mức trên 5 triệu tấn, thu về cho đất nước hơn 1,45 tỷ USD. So với năm 2006 mặc dù sản lượng giảm nhẹ(gần 2%) nhưng kim ngạch xuất khẩu lại tăng 15%.Nguyên nhân chủ yếu do nhu cầu tiêu dùng gạo của thé giới tăng cao,nguồn cung hạn chế nên giá gạo xuất khẩu tăng mạnh.Trong năm 2007 bình quân giá gạo của Việt Nam đều đat 295 USD/tấn.tăng 41 USD/tấn so với năm 2006.Điều đáng nói là lần đầu tiên giá gạo Việt Nam tăng ngang bằng với Thái Lan cùng cấp các loại.Thậm chí đã có thời điểm giá gạo 25% tấm của Việt Nam đã trúng thầu cao hơn TháI Lan 8 USD/tấn. Các vùng sản xuất gạo của Việt Nam đã hình thành và phát triển theo hướng thâm canh. Việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và giống mới đã giúp nâng cao năng suất và chất lượng gạo. Tỷ lệ lúa chất lượng cao từ 15% (năm 2000) tăng lên 35% (năm 2007), riêng ở vùng xuất khẩu đạt tỷ lệ 50% diện tích, tỷ lệ lúa xuất khẩu chiếm 30% sản lượng (2007). Nét đặc biệt đánh dấu sự phát triển và tăng trưởng của xuất khẩu gạo Việt Nam là tính ổn định cao trong điều kiện có sự cạnh tranh quyết liệt trên thị trường thế giới. Xu hướng thời kỳ sau cao hơn thời kỳ trước về lượng gạo xuất khẩu. Năm 1989, năm đầu tiên Việt Nam chính thức tham gia thị trường xuất khẩu gạo với số lượng 1,42 triệu tấn, giá bình quân 204 USD/tấn va thu về cho đất nước 189 triệu USD. Thời kỳ 5 năm 1991-1995 là 1,734 triệu tấn/năm. Thời kỳ 1996-2000 với mức 3,663 triệu tấn/năm và giai đoạn 2001-2007 đạt mức xuất khẩu bình quân là 3,706 triệu tấn/năm, Như vậy nếu so với năm 1989 thì lượng gạo xuất khẩu năm 2007 gấp 3,57 lần, giá gạo tăng 63 USD/tấn và kim ngạch tăng gấp 7 lần [36, tr. 27]. Thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam đã được mở rộng ra 50 nước, chiếm 20% thị phần gạo thương mại thế giới. Những nước nhập khẩu lượng lớn gạo của Việt Nam là Indonesia, Phillipin, Singapore, Thuỵ Sỹ, Irắc, Hà Lan, Malaysia, Hồng Kông, Iran. Theo khu vực thì Châu á 55,2%, Trung Đông 28,5%, Châu Âu 13,3%, Châu Mỹ 1,8%, Châu úc 1%. Riêng Châu Phi là thị trường có nhu cầu lớn và tiêu thụ gạo phẩm cấp thấp là chủ yếu nhưng khả năng thanh toán thấp do vậy gạo của Việt Nam hầu như chưa được bán trực tiếp vào thị trường này mà chủ yếu là thông qua các chương trình viện trợ quốc tế viện trợ cho các nước Châu Phi [48, tr. 38]. Dự báo, thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam trong những năm tới chủ yếu vẫn là khu vực Châu á (chiếm khoảng gần 60% thị phần), thị trường Châu Âu sẽ không tăng do sự bảo hộ sản xuất trong nông nghiệp của các nước này, riêng thị trường Châu Phi sẽ tăng nhanh về gạo phẩm cấp thấp. * Mặt hàng cà phê: Cà phê là mặt hàng xuất khẩu được Chính phủ Việt Nam xếp vào nhóm ngành hàng có thế mạnh xuất khẩu, lịch trình cắt giảm thuế từ năm 1998, là mặt hàng sớm nhất trong số các mặt hàng nông sản của Việt Nam thực hiện cắt giảm thuế. Bảng 2.8: Thuế suất theo lịch trình đã được cam kết [40, tr. 4] Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 Cà phê sơ chế 15% 15% 10% 10% 10% 5% Cà phê thành phẩm 45% 35% 24% 20% 20% 20% 15% 10% 5% Nguồn: Viện Quản lý Kinh tế Trung ương (2005) Cà phê là mặt hàng nông sản xuất khẩu quan trọng thứ hai sau mặt hàng gạo. Sản xuất cà phê của Việt Nam chủ yếu để xuất khẩu, khoảng 90% sản lượng sản xuất ra, tiêu dùng trong nước chỉ chiếm 10%. Từ năm 2000, Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu cà phê đứng thứ hai thế giới (sau Braxin và tương đương với Côlômbia), đứng đầu về xuất khẩu cà phê Robusta. Lượng cà phê xuất khẩu tăng nhanh từ 482 nghìn tấn năm 1999 lên 931,2 nghìn tấn vào năm 2001, đạt 594 triệu USD năm 2005 và năm 2007 Việt Nam đã xuất khẩu 1,2 triệu tấn cà phê và đạt kim ngạch lên đên 1,8 tỷ USD tăng 22,3% về lượng và 50% về kim ngạch so với năm ngoái. Với mức tăng này đang là mặt hàng dẫn đầu về kim ngạch xuất khẩu trong nhóm hàng nông lâm sản và là 1 trong 10 mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu trên 1 ty$.Cà phê là một trong những mặt hàng nông sản có mức tăng trưởng xuất khẩu cao. Năm 2008 sản lượng xuất khẩu cà phê vẫn giảm nhẹ so với 2007 đạt 1 triệu tấn giảm 18,6%,nhưng kim ngạch xuất khẩu tăng 11% so với năm 2007 đạt mức 2triệu USD,giá cà phê đã tăng 7,2%.Trước tình hình này hiệp hội cà phê Việt Nam đang hướng tới tăng giá cà phê trên 1 đơn vị sản phẩm xuất khẩu do hiện nay chất lượng cà phê Việt Nam mới đang ở dạng hạt sơ chế. Bảng 2.9: Xuất khẩu cà phê của Việt Nam [40, tr. 4] Năm Lượng xuất khẩu Trị giá (triệu USD) Giá bình quân (USD/tấn) 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 482,5 733,9 931,2 718,6 749,2 1200 1000 585,2 501,4 391,3 322,3 504,8 1800 2000 1213 683 420 449 674 1500 2000 Nguồn: Tổng cục thống kê (2008) Thị trường tiêu thụ cà phê Việt Nam trong những năm trước 1990 là Liên Xô cũ và các nước Đông Âu. Giai đoạn 1990-1995 đã chuyển dịch sang thị trường Singapore (nơi trung chuyển). Từ năm 1995 đến nay Mỹ bỏ cấm vận với Việt Nam nên xuất khẩu cà phê của Việt Nam đã mở rộng tiêu thụ sang các thị trường khác. Khoảng 80% khối lượng xuất khẩu được xuất trực tiếp sang 30 nước, trong đó có các nước phát triển như Mỹ, Anh, Đức, Pháp, Bỉ. Italia, Thuỵ Điển, Phần Lan Hiện nay cùng với Đức, Mỹ đã và đang trở thành khách hàng lớn của cà phê Việt Nam [51]. So sánh trong tổng khối lượng cà phê buôn bán trên toàn thế giới thì cà phê Việt Nam chiếm khoảng 10% (400-500 ngàn tấn) cà phê nhân sơ chế. Mặc dù tỷ trọng chưa cao nhưng sự thay đổi khối lượng cà phê xuất khẩu của Việt Nam rõ ràng đã tác động đáng kể đến cung-cầu và giá cả cà phê thế giới. Năng suất cà phê Việt Nam đạt loại cao trên thế giới và tăng nhanh trong những năm vừa qua, trong khi năng suất cà phê của các nước khác tăng không nhiều. Tuy nhiên, chất lượng cà phê của Việt Nam không đồng đều do những yếu kém về khâu phơi sấy và sơ chế. Công nghiệp chế biến sâu (rang say, hoà tan) phát triển ở quy mô nhỏ do thị trường trong nước hạn chế và xuất khẩu không nhiều. Những dữ liệu phân tích về thực trạng sản xuất và xuất khẩu có thể đưa ra nhận định chung đó là, chiều hướng tác động của việc gia nhập WTO chủ yếu là tích cực, tức là khi gia nhập WTO ngành hàng nông sản có khả năng cạnh tranh cao có thể tiếp tục mở rộng sản xuất và tăng khối lượng xuất khẩu. Bởi những mặt hàng này khi chưa tự do hoá thương mại, bị chèn ép thông qua các chính sách bảo hộ có lựa chọn của các Nhà nước, khi hàng rào bảo hộ giảm và thương mại được tự do hoá, xuất khẩu của Việt Nam sẽ không bị bó hẹp trong các Hịêp định song phương do đó, ngành hàng nông sản xuất khẩu sẽ được mở ra trên thị trường rộng lớn, trên phạm vi toàn cầu. Mặt khác, theo những dự báo của FAO về nhu cầu tiêu thụ trên thị trường thế giới đến năm 2010 thì nhu cầu về những mặt hàng này vẫn tăng. Cụ thể, tổng nhu cầu thuỷ sản toàn cầu sẽ tăng trưởng bình quân 2,1%/năm trong giai đoạn 2006-2010. Trong đó, tổng nhu cầu thuỷ sản bình quân đầu người dự báo sẽ đạt 18,4kg/người vào năm 2010 so với mức 16,1 kg/người vào năm 2001 [10, tr. 38]. Cũng theo dự báo của FAO, giao dịch gạo toàn cầu dự báo đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 2,2%/năm trong giai đoạn 2001-2010 và đạt 31,4 triệu tấn vào năm 2010. Còn đối với cà phê dự báo sẽ đạt tốc độ tăng bình quân 0,2%/năm trong giai đoạn 2001-2010. Nhưng sẽ giảm đối với cà phê phẩm cấp thấp. Do đó, khi gia nhập WTO nhóm mặt hàng nông sản xuất khẩu này vẫn có thể gia tăng lượng xuất khẩu. Riêng mặt hàng gạo khi gia nhập WTO khả năng tăng xuất khẩu là không nhiều bởi các nước vì lý do an ninh lương thực của mình mà đều viện dẫn ra những lý do để bảo hộ. Mặt khác, những thị trường tiềm năng như các nước Trung Đông thì thị trường thường xuyên không ổn định còn thị trường Châu Phi mặc dù có nhu cầu lớn nhưng không có khả năng thanh toán. 2.2. Nhóm hàng nông sản có khả năng cạnh tranh trung bình * Mặt hàng chè: Chè là một mặt hàng xuất khẩu có kim ngạch khá nhỏ đối với Việt Nam. Kể từ đầu những năm 90, xuất khẩu chè đã tăng nhanh cả về mặt số lượng và giá trị, đạt 60.000 tấn trị giá 60 triệu USD, năm 2004 ước tính lượng xuất khẩu đạt 93.000 tấn, năm 2005 lượng xuất khẩu đạt 103.000 tấn, đạt trên 100 triệu USD và 80% lượng chè thành phẩm được xuất khẩu-đứng thứ 7 thế giới về xuất khẩu.Năm 2007,xuất khẩu chè cả nước đạt 91,6 nghìn tấn với trị giá 101,16 triệu USD tăng 6,9% về lượng và 12,21% về kim ngạch so với năm 2006. Hiẹn nay, Việt Nam đã chế biến được khoảng 15 loại chè khác nhau, phần lớn vẫn là chè đen (gần 60%), còn lại là chè xanh và một số ít các loại chè khác. Một số loại chè của Việt Nam được ưa chuộng trên thị trường thế giới là chè ô long, chè đen, chè lài. So với mức xuất khẩu chè trên thế giới, Việt Nam chiếm tỷ trọng nhỏ 4,4% (53000 tấn/1.2 triệu tấn). Thị trường xuất khẩu không ổn định, do chất lượng chè không cao và được bán dưới dạng nguyên liệu là chính. Nếu năm 2001, thị trường xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam là Irắc với hơn 30% tổng lượng chè xuất khẩu thì đến năm 2005 thị trường này giảm xuống còn 10%. Chè xuất khẩu sang Anh giảm 16,8%, Đức 3,2%, Đài Loan 2,7%, nhưng lại tăng 89,5% ở Trung Quốc, 88% ở Malaysia, 30,9% ở Nga, 18% ở Hà Lan * Ngành hàng cao su: Cao su là một trong những ngành hàng xuất khẩu nông sản quan trọng của Việt Nam trong một vài năm trở lại đây.Việt Nam đứng thứ tư thế giới về xuất khẩu cao su sau Thái Lan,Malayxia,Indonesia Với phần lớn cao su sản xuất ra để xuất khẩu (chiếm 85-90% sản lượng cao su sản xuất ra hàng năm). Năm 2006 kim ngạch xuất khẩu cao su là 564.000 tấn, đạt 772 triệu USD tăng gần 17% về lượng và tăng 29% về giá trị. 645.000 tấn.Năm 2007 xuất khẩu cao su của Việt Nam đạt 720 ngàn tấn,trị giá 1,4 tỉ USD tăng 1,7% về lượng và 8,9% về trị giá so với năm 2006.Năm 2008 lượng cao su xuất khẩu đạt 645.000 tấn kim ngạch xuất khẩu đạt 1,59 tỉ USD, giảmn 9,8% về lượng so vơí 2007 nhưng tăng 14,7% về trị giá và 27% về đơn giá. Hiện nay, Trung Quốc vẫn là thị trường nhập khẩu lớn nhất mặt hàng cao su của Việt Nam với 62% tổng lượng cao su xuất khẩu, tăng 18% so với năm trước. Cao su xuất khẩu sang Mỹ cũng tăng 23%, Nga tăng 20,9%, Đài Loan tăng 20,8%, Đức tăng 19,5%, Bỉ tăng 16%, Hàn Quốc tăng 9,6%, Nhật Bản tăng 6,2% [36, tr. 29]. Về cơ bản những tác động của việc gia nhập WTO đối với nhóm hàng nông sản này tích cực nhiều hơn tiêu cực. Nghĩa là những cơ hội mới, thị trường mới vẫn sẽ mở ra cho việc xuất khẩu. Bởi, nhu cầu tiêu thụ đối với nhóm mặt hàng này vẫn tăng trong những năm tới nghĩa là nhóm mặt hàng này vẫn có cơ hội tăng trưởng. Nhưng hạn chế lớn nhất của nhóm mặt hàng này bao gồm cả về số lượng và chất lượng. Do đó, nếu số lượng và chất lượng được tăng thêm, chẳng hạn, đối với sản phẩm chè, cần thay thế giống cũ bằng giống mới có năng suất, chất lượng cao, thì nhóm mặt hàng này vẫn có thể gia tăng số lượng xuất khẩu và giá trị xuất khẩu. 2.3. Nhóm hàng nông sản có khả năng cạnh tranh kém * Mặt hàng rau quả: Điều kiện tự nhiên và khí hậu của Việt Nam tương đối phù hợp để phát triển nhiều loại cây rau quả từ các loại rau, quả ôn đới đến cận nhiệt đới và quả nhiệt đới. Việt Nam hiện có khoảng 755 nghìn ha cây ăn quả và sản lượng năm 2008 ước đạt 6,5 triệu tấn. Trong tổng sản lượng cây ăn quả, chuối có sản lượng lớn nhất với khoảng 1,4 triệu tấn, tiếp đó là các loại cây có múi khoảng 800.000 tấn, nhãn khoảng 590.000 tấn [51]. Sản xuất cây ăn quả tập trung nhiều nhất tại khu vực đồng bằng sông Cửu Long với tổng diện tích ước tính 231.000 ha, chiếm khoảng 34% cả nước. Trong xu hướng chuyển dịch cơ cấu cây trồng, năm 2006 diện tích cây ăn quả toàn vùng này ước đạt khoảng 300.000 ha, sản lượng cho 3,3 triệu tấn và dự báo năm 2010 sẽ đạt 420.000 ha. Ngoài ra, các vùng sản xuất cây ăn quả có diện tích lớn tiếp theo là vùng Đông Bắc hiện chiếm tỷ trọng 19%, Đông Nam bộ 17% [51]. Xuất khẩu rau quả của Việt Nam đã tăng mạnh kể từ đầu những năm 90, lượng xuất khẩu năm 2008 đạt gần 283,9 triệu USD, tăng 26,13% so với năm 2007. Nhiều thị trường quốc tế nhập khẩu rau-quả của Việt Nam có mức tăng cao so với năm 2006 như: Pháp, Hàn Quốc, Nga, Nhật Bản, Hà Lan, Trung Quốc, Đài Loan.. có mức tăng cao nhất từ 40% đến 57%, trong đó thị trường Trung Quốc vẫn chiếm đến 42% kim ngạch xuất khẩu rau quả của Việt Nam So với sản lượng thế giới, sản lượng rau quả của Việt Nam thấp hơn một phần do một phần do canh tác và công nghệ sau thu hoạch thiếu hợp lý, phương tiện vận chuyển và bảo quản còn nhiều yếu kém gây ảnh hưởng đến chất lượng và tiêu chuẩn, không đáp ứng được nhu cầu thị trường. Ngành rau quả xuất khẩu trong hiện tại chưa thật cao nhưng rau quả của Việt Nam là ngành có nhiều tiềm năng phát triển. Đặc biệt nếu ta giải quyết được khâu giống và bảo quản, chế biến thì đây là ngành hoàn toàn có khả năng cạnh tranh. * Mặt hàng mía đường : Kể từ năm 1995, thực hiện “chương trình mía đường”, Việt Nam tiến hành đầu tư ồ ạt vào khu vực sản xuất đường. Hơn 1 tỷ USD đã được đầu tư cho việc nâng cao công suất chế biến và phát triển kết cấu hạ tầng ở các vùng trồng mía. Các dự án đầu tư diễn ra trong điều kiện tín dụng dễ dàng, được Chính phủ hỗ trợ, được bao cấp về xây dựng cơ sở hạ tầng, hàng rào thương mại thuế quan và phi thuế quan được duy trì ở mức cao. Theo Tổng cục Thống kê, năm 2008 diện tích trồng mía của cả nước ước tính đạt 266.400 ha, giảm 6,9% so với năm trước, sản lượng mía cây đạt 14,73 triệu tấn, giảm 5,9%. Nhu cầu tiêu thụ đường trong nước năm 2008 ước tính đạt 1,24-1,25 triệu tấn và cao hơn 150.000-160.000 so với sản lượng Ngành mía đường là ngành có điều kiện tự nhiên để phát triển, tuy nhiên năng lực của các nhà máy đường lại tương đối yếu, đặc biệt là các nhà máy đường nhỏ. Chi phí sản xuất đường khá cao, khoảng từ 340-360 USD/tấn đường loại 1, chi phí trên cao hơn khoảng 60% so với chi phí sản xuất ở các nước xuất khẩu đường chính trên thế giới như Brazil, úc. Giá đường trong nước sản xuất thường cao hơn giá đường trên thị trường quốc tế 150-200 USD/tấn. Mặt khác, việc xây dựng vùng nguyên liệu tăng chậm hơn tốc độ xây dựng nhà máy đường nên hầu hết các nhà máy không sử dụng hết công suất thiết kế, ít nhất là trong 1-2 năm đầu. Trong tương lai, khi gia nhập WTO, các khoản trợ cấp bị cắt giảm, thuế quan không còn duy trì ở mức cao, các biện pháp hạn chế định lượng bị bãi bỏ thì ngành mía đường khó có khả năng cạnh tranh. 2.4. Nhóm hàng nông sản không có khả năng cạnh tranh * Mặt hàng sữa: Sữa là ngành hàng Việt Nam chưa có truyền thống, chủ yếu chỉ mới phát triển trong thời gian gần đây. Tiêu dùng sữa trong nước được đáp ứng từ hai nguồn: sản xuất trong nước và nhập khẩu. Hai công ty sản xuất sữa lớn nhất của Việt Nam là Vinamilk và Foremost. Ngoài ra còn có Nestle và công ty cổ phần sữa Hà Nội đang trong quá trình xây dựng nhà máy với số vốn khoảng 5,5 triệu USD. ước tính có khoảng hơn 90 sản phẩm sữa sản xuất nội địa trên thị trường. Khoảng 52% tiêu thụ là sữa đặc, 25% là sữa bột, 16% sữa tiệt trùng và thanh trùng còn lại là sữa có hương vị. Sữa là mặt hàng thay thế nhập khẩu nhưng khả năng cạnh tranh hiện tại của mặt hàng sữa không cao bởi khó khăn lớn nhất hiện nay thiếu giống tốt, phù hợp với điều kiện tự nhiên của Việt Nam, quy mô sản xuất ở nước ta nhỏ, với hiệu quả kinh tế không cao, các cơ sở thú y, kiểm dịch đối với chăn nuôi bò sữa cũng chưa phát triển, ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm. Do đó, hiện nay ngành sữa là ngành không có khả năng cạnh tranh. Nhưng vẫn có thể phát triển được nếu của thiện được một số khâu như giống, thú y, chi phí thức ănvà vẫn có thể cạnh tranh được so với các nước trong khu vực. Theo nhận định của nhiều chuyên gia kinh tế, đối với mặt hàng nông sản có khả năng cạnh tranh yếu như rau quả cũng vẫn có thể gia tăng khối lượng xuất khẩu nếu giải quyết dứt điểm được khâu tạo giống, thu hoạch, bảo quản và chế biến. Do vậy, tác động của việc gia nhập WTO đối với ngành này không nhiều. Trước mắt, tác động của việc gia nhập WTO sẽ thấy rõ nhất đối với ngành mía đường bởi ngành mía đường hiện đang được bảo hộ ở mức cao và khả năng cạnh tranh kém. Tại phiên họp tháng 7 vừa qua, Việt Nam đã cam kết bãi bỏ trợ cấp xuất khẩu nông nghiệp kể từ thời điểm gia nhập WTO. Do đó, khi gia nhập WTO không còn duy trì bảo hộ đối với những ngành này rõ ràng tác động của việc gia nhập WTO theo chiều hướng tiêu cực. Mặt khác, khi gia nhập WTO hàng rào thuế quan sẽ giảm và tiến tới xoá bỏ, đồng thời những biện pháp phi thuế như việc hạn chế định lượng hay sử dụng giấy phép xuất nhập khẩu đều tiến tới được thay thế bằng biện pháp thuế quan. Như vậy, điều này đồng nghĩa với việc những hàng hoá nhập khẩu từ các nước thành viên của WTO sẽ có điều kiện thâm nhập vào thị trường Việt Nam và do đó khả năng hàng nhập khẩu thay thế cho những mặt hàng có sức cạnh tranh kém và không có sức cạnh tranh là không thể tránh khỏi. Như vậy, trong nhóm hàng nông sản được phân định theo khả năng cạnh tranh, bên cạnh những mặt hàng được đánh giá là có khả năng gia tăng được khối lượng xuất khẩu, cũng có những mặt hàng sẽ không gia tăng được khối lượng xuất khẩu và đồng thời có những mặt hàng sẽ được thay thế bởi hàng nhập khẩu.Tuy nhiên, ngay cả những mặt hàng được đánh giá là tác động theo chiều hướng tích cực khi gia nhập WTO cũng có thể bị thu hẹp sản xuất và bị đánh bại ngay trên thị trường nội địa nếu không có những giải pháp thích ứng kịp thời. Tổng hợp kết quả nghiên cứu của Trung tâm Thương mại quốc tế và Cục Xúc tiến Thương mại Việt Nam về tiềm năng xuất khẩu của ngành hàng nông sản như sau: Bảng 2.10: Tổng quan về tiềm năng xuất khẩu của ngành [47] Ngành hàng (xếp hạng trong từng nhóm theo kim ngạch xuất khẩu năm 2007) Đánh giá bởi ITC (chỉ số) Đánh giá bởi các chuyên gia tư vấn trong nước Chú thích Cà phê Cao Cao Việt Nam là nước sản xuất cà phê khá cạnh tranh với sản lượng cao và chi phí sản xuất thấp. Công nghệ sau thu hoạch, vấn đề lưu kho và chế biến còn lạc hậu Gạo Thấp Cao Ngành hàng quan trọng đối với vấn đề an ninh lương thực và tuyển dụng lao động. Tuy nhiên các khu vực sản xuất có quy mô nhỏ, tính chất phân đoạn cao nên ảnh hưởng tiêu cực đến năng suất, chi phí sản xuất và khả năng thu lợi. Thuế suất cao và phân biệt đối xử Hạt điều và các loại hạt khác Cao Cao Việt Nam là một trong số những nước xuất khẩu lớn nhất thế giới, nhưng nguồn cung hạt điều thô trong nước chưa đủ do lượng chế biến lớn Rau quả Thấp Trung bình Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu dưới hình thức chế biến, đặc biệt là sản phẩm đóng hộp có giá thấp. Nhưng nói chung số lượng nhỏ, sản lượng thấp Hạt tiêu và các loại gia vị khác Cao Cao Ngành hàng hướng chủ yếu vào xuất khẩu. Việt Nam là nước xuất khẩu hạt tiêu đen lớn nhất thế giới. Nhưng công nghệ chế biến còn lạc hậu và chất lượng sản phẩm vẫn thấp Chè Trung bình Trung bình Mức tăng trưởng xuất khẩu cao nhưng sản lượng và chất lượng vẫn thấp Nguồn: Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương(2007) Việc gia nhập WTO thúc đẩy xuất khẩu nông sản hay không còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: sự thay đổi các rào cản thương mại của các nước nhập khẩu, các nhà xuất khẩu hoặc là không nhận thấy hoặc là không có khả năng khai thác được lợi thế tiếp cận thị trường tốt hơn ở nước ngoài. Vì thế, chiều hướng tác động có thể của việc gia nhập WTO đến từng nhóm hàng nông sản xuất khẩu hay sự thay đổi khối lượng sản phẩm xuất khẩu dưới tác động của việc giảm thuế quan và tự do hoá thương mại đối với các ngành là không giống nhau. Những nhận định về tác động của việc gia nhập WTO đối với nhóm hàng nông sản là những dự báo mang tính chất xu hướng. Trên thực tế, kinh nghiệm của các nước thành viên mới gia nhập WTO cho thấy trong ngắn hạn tác động của việc gia nhập WTO tới ngành nông nghiệp không nhanh và mạnh như dự đoán của nhiều chuyên gia kinh tế và mức độ tác động đối với từng ngành kinh tế nhiều hay ít còn phụ thuộc lớn vào sự điều chỉnh chính sách thương mại của Nhà nước khi gia nhập và mức độ thuế quan cam kết thực hiện. Chương III: Những Giải pháp để nền nông nghiệp Việt Nam thích ứng khi gia nhập WTO Như ở trên đã nói, Việt Nam gia nhập WTO, nền nông nghiệp chịu sự tác động nhiều mặt bởi những quy định, những Hiệp định của WTO. Để thích ứng, nền nông nghiệp Việt Nam cần thực hiện một số giải pháp như sau: I. Chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng phát triển có trọng điểm những ngành nông nghiệp có lợi thế cạnh tranh trên thị trường Gia nhập WTO đồng nghĩa với việc chúng ta sẽ phải tham gia vào một cuộc cạnh tranh mà thực chất là cuộc cạnh tranh giữa nông nghiệp nhỏ và nông nghiệp lớn, giữa nông nghiệp truyền thống với nông nghiệp hiện đại, giữa nông nghiệp tập trung nhiều lao động với nông nghiệp có hàm lượng vốn và kỹ thuật cao. Đứng trước thực tế khi những công cụ thương mại góp phần bảo hộ sản xuất cho một nông sản nào đó không còn, cách tồn tại và phát triển tốt nhất là đối với những ngành sản xuất nhỏ lẻ, không có khả năng cạnh tranh nên thực hiện chuyển đổi cơ cấu sản xuất, chỉ tập trung phát triển những ngành, mặt hàng thực sự có lợi thế so sánh để tồn tại và phát triển. Sự chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp thành công hay thất bại phụ thuộc nhiều vào chủ trương chuyển đổi và tổ chức thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ đã xác định. ở đây, Nhà nước có vai trò quyết định trong việc hoạch định các chủ trương và chính sách. Để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, Đảng và Nhà nước ta cần có những định hướng về cơ cấu, quy mô và chủng loại sản phẩm của ngành nông nghiệp nhằm khai thác được lợi thế của cả nước và từng vùng, từng ngành, từng mặt hàng theo nhu cầu của thị trường trong nước và thế giới. Theo đó Nhà nước tiến hành quy hoạch và công khai hoá rộng rãi các vùng nuôi trồng, sản xuất tập trung trên địa bàn cả nước. Đối với những vùng, những mặt hàng hiện đang có thế mạnh trong cạnh tranh và vẫn có khả năng cạnh tranh được khi gia nhập WTO như thuỷ sản, lúa gạo, cà phê, cao su, hạt tiêu, điều Nhà nước tập trung hỗ trợ về mọi mặt cho phát triển sản xuất không trái với các quy định của WTO như các chính sách khuyến nông, chính sách đất đai, chính sách đầu tư Đối với những vùng, mặt hàng cạnh tranh không hiệu quả và không cần mở rộng thêm diện tích, Chính phủ có thể uỷ quyền cho ủy ban Nhân dân các tỉnh công bố rộng rãi để có thể sớm chuyển đổi sang các loại cây trồng khác. II. Điều chỉnh một số chính sách kinh tế liên quan * Chính sách thương mại: Gia nhập WTO cũng như thực hiện các cam kết hiệp định thương mại khu vực khác trong những năm qua cho thấy vẫn còn nhiều lĩnh vực mà Việt Nam phải hành động để tối đa hoá lợi ích từ việc tự do hoá thương mại mà WTO đem lại. Trong xu thế chung về tự do hoá thương mại nông sản của WTO, Việt Nam cần chuyển mạnh sang các biện pháp thuế quan đối với các mặt hàng nhập khẩu, áp dụng các biện pháp thuế quan thay cho các biện pháp phi thuế quan hiện đang được sử dụng như hạn chế định lượng, biện pháp sử dụng giấp phép nhập khẩu tự động Mặt khác, đi đôi với thực hiện thuế hoá các mặt hàng nhập khẩu thì cũng cần tận dụng các công cụ, biện pháp phù hợp với WTO: - Các biện pháp kiểm dịch động thực vật (SPS): Hiệp định cho phép các nước được sử dụng các quy định, tiêu chuẩn kỹ thuật, các biện pháp vệ sinh kiểm dịch mà nước đó cho là thích hợp hoặc cần thiết để bảo vệ sức khoẻ, đời sống của con người, động thực vật và bảo vệ môi trường và quyền lợi của người tiêu dùng với điều kiện là các biện pháp đó không được áp dụng theo cách thức tạo ra sự phân biệt đối xử tuỳ tiện hay hạn chế vô lý đối với thương mại quốc tế. Trên thực tế, các quốc gia thành viên của WTO đã sử dụng khá phổ biến phương pháp này. Trong đó từ năm 1995 đến năm 2003 các thành viên của WTO đã sử dụng 3700 biện pháp SPS để ngăn chặn hàng nhập khẩu, trong đó các nước OECD áp dụng 68% còn các nước đang phát triển Châu á-Thái bình dương chỉ chiếm 9%. Như vậy, xu hướng các nước phát triển sử dụng phổ biến các biện pháp này. Do đó, nếu khéo léo vận dụng dựa trên căn cứ thích hợp hoặc cần thiết thì Việt Nam có thể tận dụng biện pháp này để hạn chế xuất khẩu của nước ngoài vào Việt Nam trong khi vẫn biện minh được là không trái với quy định của WTO và trong chừng mực nhất định làm tăng lợi ích người tiêu dùng. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra đối với Việt Nam khi gia nhập WTO để có thể sử dụng được các biện pháp trên cũng cần phải cải thiện cả về tổ chức, khả năng giám sát và phổ biến kỹ thuật, công nghệ nhằm đáp ứng những yêu cầu về kỹ thuật và dịch tễ ngày càng cao từ phía các nước phát triển. Nếu không hàng nông sản của Việt Nam vẫn khó có chỗ đứng vững chắc trên thị trường của các nước phát triển. - Sử dụng công cụ “tự vệ đặc biệt”: Theo quy định của Điều V của Hiệp định nông nghiệp, nếu một sản phẩm của một nước đã được thuế hoá và bảo lưu được điều khoản tự vệ đặc biệt (SSG) trong biểu cam kết quốc gia thì khi lượng nhập khẩu vượt quá số lượng giới hạn hoặc giá nhập khẩu giảm xuống dưới mức giá giới hạn nước nhập khẩu có quyền sử dụng quyền tự vệ đặc biệt. Trên thực tế, Việt Nam đã và đang áp dụng biện pháp tự vệ để bảo vệ một số ngành sản xuất trong nước, giúp các ngành này đỡ bị tổn thương do hàng nhập khẩu gia tăng số lượng quá lớn. Tuy nhiên Việt Nam chưa có văn bản pháp luật làm cơ sở làm cơ sở pháp lý cho việc áp dụng các biện pháp này. Trong khi đó, biện pháp tự vệ là một công cụ được WTO thừa nhận để hạn chế định lượng hàng nhập khẩu trong một thời gian nhất định nhằm bảo vệ ngành sản xuất trong nước bị thiệt hại hay có nguy cơ bị thiệt hại nghiêm trọng. Nhưng đòi hỏi phải nâng cao năng lực thể chế pháp lý và năng lực con người thì mới có thể tự bảo vệ các ngành sản xuất trong nước một cách có hiệu quả và kịp thời. - Trợ cấp và các biện pháp đối kháng: WTO cho phép các nước thành viên duy trì các hình thức trợ cấp không gây bóp méo thương mại hoặc gây tổn hại tới lợi ích của các nước thành viên khác. Đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp, WTO cũng thừa nhận trợ cấp là một công cụ phát triển hợp pháp và quan trọng của các thành viên đang phát triển. Do đó, xét về khía cạnh pháp lý nếu Việt Nam trở thành thành viên của WTO thì có thể được hưởng những đãi ngộ đặc biệt và khác biệt liên quan đến vấn đề trợ cấp dành cho các nước đang phát triển. Việc trợ cấp có thể thực hiện trực tiếp cho ngành sản xuất nội địa hoặc gián tiếp thông qua hỗ trợ cung cấp đầu vào cho ngành đó để nâng cao lợi thế cạnh tranh cho sản phẩm nội địa so với sản phẩm nhập khẩu. Mặc dù các quy định về trợ cấp tại Hiệp định nông nghiệp của WTO khá chi tiết nhưng một số hình thức trợ cấp liên quan tới tín dụng xuất khẩu, bảo lãnh tín dụng xuất khẩu, bảo hiểm xuất khẩu đến nay vẫn chưa được điều chỉnh cụ thể bởi bất kỳ quy tắc quốc tế thống nhất nào, do đó vẫn được các nước vận dụng để né tránh các cam kết về cắt giảm trợ cấp xuất khẩu. Như vậy, xét từ những khía cạnh trên Việt Nam có thể nghiên cứu kinh nghiệm của các nước để sử dụng hiệu quả biện pháp trợ cấp này nhằm bảo hộ cho các doanh nghiệp trong nước hoặc cải thiện khả năng cạnh tranh của hàng hóa nông sản xuất khẩu. - Sử dụng các biện pháp liên quan tới môi trường: Ngoài những biện pháp bảo hộ mới như trên, vấn đề bảo vệ môi trường đang trở thành chủ đề nổi bật liên quan tới nhiều lĩnh vực của quan hệ quốc tế, trong đó có thương mại. Mỗi quốc gia đều có chính sách riêng liên quan tới bảo vệ môi trường phù hợp với đặc thù riêng. Nghiên cứu “hàng rào xanh” của Trung Quốc là một ví dụ điển hình. Như vậy, khi gia nhập WTO Việt Nam có thể nghiên cứu để khai thác tốt biện pháp này khi cần bảo hộ sản xuất trong nước, đồng thời cũng là căn cứ để buộc các đối tác loại bỏ những biện pháp nhất định viện lý do bảo vệ môi trường để hạn chế nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam. * Chính sách trợ cấp xuất khẩu: Trong những năm qua, chính sách tín dụng hỗ trợ xuất khẩu của Nhà nước đã phát huy tác dụng tích cực. Tuy vậy, theo đánh giá của các cơ quan liên quan cũng như các doanh nghiệp, chính sách này còn nhiều điều hạn chế, đặc biệt trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam đang thực hiện hội nhập sâu rộng với kinh tế quốc tế và đang phấn đấu gia nhập WTO trong năm 2006 này. Nhiều chính sách trợ cấp xuất khẩu của Việt Nam như thưởng xuất khẩu, trợ cấp thay thế nhập khẩu, hay chính sách tín dụng ngắn hạn hỗ trợ xuất khẩu do Quỹ hỗ trợ xuất khẩu thực hiện từ năm 2001 dưới hình thức cho vay với lói suất ưu đãi sẽ không thể thực hiện được do vi phạm các quy định của WTO. Việc đánh giá hiệu quả chính sách tín dụng hỗ trợ xuất khẩu, xem xét lại những khó khăn vướng mắc và đưa ra những đề xuất hoàn thiện chính sách tín dụng hỗ trợ xuất khẩu nhằm hỗ trợ tốt hơn cho doanh nghiệp và đáp ứng yêu cầu hội nhập là rất cần thiết. Theo đó, Nhà nước: Thứ nhất, thực hiện đa dạng hoá các hình thức hỗ trợ, bao gồm: mở rộng hoạt động cho vay đối với người bán với những phương thức cho vay linh hoạt hơn, hình thức cho vay đa dạng hơn, bổ sung hoạt động cho vay đối với người mua để hỗ trợ việc bán hàng của doanh nghiệp trong nước. Đây là hình thức cho vay đối với nhà nhập khẩu để thanh toán cho nhà xuất khẩu của Việt Nam, trong đó nguồn vốn cho vay đối với nhà nhập khẩu nước ngoài được trả trực tiếp cho doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam. Thứ hai, là chủ động áp dụng các thông lệ quốc tế trong lĩnh vực tín dụng xuất khẩu để tránh vi phạm các nguyên tắc cơ bản của WTO. Hiện nay, hoạt động cung cấp dịch vụ tín dụng xuất khẩu chịu sự điều chỉnh của 2 hiệp định quốc tế bao gồm hiệp định của OECD về tín dụng xuất khẩu chính thức và Hiệp định của WTO về trợ cấp và các biện pháp đối kháng (SCM). Thứ ba, ổn định danh mục các mặt hàng thuộc đối tượng được hưởng chính sách. Việc ban hành danh mục thường chậm hơn so với yêu cầu hàng năm. Chính vì vậy đã tạo nên sự bất ổn về tâm lý đối với người vay vốn tại quỹ hỗ trợ phát triển. III. Đổi mới phương thức quản lý nông nghiệp của Nhà nước * Đổi mới quản lý, ổn định thị trường sản xuất và xuất khẩu nông sản: Đổi mới và nâng cao vai trò quản lý của nhà nước trong việc ổn định thị trường, hỗ trợ cho sản xuất và xuất khẩu nông sản hàng hoá là vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng hiện nay. Theo đó: + Nhà nước định hướng thị trường xuất khẩu thông qua các hiệp định song phương và đa phương với các nước. Đồng thời nhà nước có sự trợ giúp nhất định về các thông tin cập nhật liên quan đến thị trường các nước, các khu vực trên thế giới. + Tạo điều kiện cho các nhà sản xuất, các nhà kinh doanh trực tiếp tiếp cận với thị trường. + Đẩy mạnh xúc tiến thương mại nông sản hàng hoá thông qua triển lãm, hội trợ, các trung tâm giới thiệu sản phẩm nông sản hàng hoá trong và ngoài nước. * Đầu tư nghiên cứu ứng dụng khoa học, công nghệ mới vào sản xuất nông sản hàng hoá: Để khoa học công nghệ góp phần tích cực vào phát triển nền nông nghiệp hàng hoá, trong những năm trước mắt cần chú trọng tập trung nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ vào việc chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp, khai thác lợi thế của từng vùng sinh thái vừa đảm bảo phát triển bền vững, vừa nâng cao năng suất, chất lượng, giảm giá thành, nâng cao sức cạnh tranh của hàng nông sản, tăng giá trị kinh tế trên một đơn vị diện tích. Với từng vùng, từng loại cây trồng, vật nuôi cần chú ý đổi mới công nghệ đồng bộ ở các khâu trước, trong và sau sản xuất theo hướng hiện đai. Đẩy mạnh phát triển công nghệ sinh học trong nông nghiệp bằng việc thay thế các giống cây trồng và vật nuôi có năng suất, chất lượng thấp, không phù hợp với yêu cầu của thị trường bằng các loại giống mới có năng suất, chất lượng cao, bảo đảm được những tiêu chuẩn vệ sinh thực phẩm nghiêm ngặt nhất theo tiêu chuẩn trong nước và tiêu chuẩn của WTO. Cùng với việc ứng dụng kỹ thuật canh tác và những giống cây trồng, vật nuôi mới cần chú trọng nghiên cứu và ứng dụng khoa học và công nghệ vào khâu sau thu hoạch - khâu có vai trò đặc biệt quan trọng để giảm tổn thất, nâng cao hiệu quả sản xuất và đảm bảo đáp ứng tốt nhu cầu của người tiêu dùng. Ngoài việc hiện đại hoá kỹ thuật phơi sấy, cần chú trọng nghiên cứu các phương pháp bảo quản nông sản để đảm bảo tính hấp dẫn không chỉ ở màu sắc mà còn đảm bảo tuyệt đối khâu vệ sinh an toàn thực phẩm. * Phát triển công nghiệp chế biến nông sản: Hiện nay, mức độ cạnh tranh ngày càng gay gắt với nông sản nhập khẩu chế biến cũng như chưa chế biến với chất lượng cao và giá tương đối rẻ sẽ khiến cho các nhà sản xuất trong nước mất dần thị phần với ngay cả những nông sản truyền thống và có thị trường tương đối ổn định. Phát triển công nghiệp chế biến là cách thức nâng cao giá trị, vừa tạo đầu ra ổn định hơn cho ngành nông sản xuất khẩu, nâng cao sức cạnh tranh của nông sản hàng hoá. Việc chế biến nông sản đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng đang thay đổi của thế giới sẽ giúp ta giành được thị phần lớn cho hàng hoá nông sản trên thị trường quốc tế. Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng khi thị trường thế giới có những biến động về giá cả và sản lượng. Thực hiện điều này, Việt Nam cần làm tốt một số vấn đề sau: + Quy hoạch xây dựng các vùng sản xuất nông sản quy mô lớn theo định hướng chiến lược xuất khẩu. Từ đó tập trung thâm canh và ứng dụng công nghệ tiên tiến trong chế biến + Gắn chế biến với sản xuất nông sản hàng hoá theo hướng: xây dựng các cơ sở chế biến gắn liền với nơi sản xuất nông sản, từng khu vực xây dựng các nhà máy chế biến với kỹ thuật tiên tiến trên cơ sở quy hoạch các vùng nguyên liệu là vệ tinh cho các nhà máy. + Về mặt tổ chức quản lý, cần thiết lập quan hệ chặt chẽ và lâu bền giữa các cơ sở công nghiệp chế biến với các cơ sở sản xuất nông sản. Đồng thời cũng cần có chế định pháp lý để đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho nông dân cũng như các nhà máy chế biến. IV. Chú trọng xây dựng thương hiệu cho các mặt hàng nông sản xuất khẩu Trong bối cảnh hiện nay khi giá cả các mặt hàng nông sản thô, chưa qua chế biến trên thị trường quốc tế giá cả thường xuyên biến động, khó dự đoán thì giá cả của hàng nông sản đã qua chế biến lại ổn định. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất và đời sống của người nông dân, trong khi đó những người kinh doanh lại không bị ảnh hưởng. Theo dự đoán, trên 90% sản phẩm nông nghiệp của Việt Nam xuất khẩu ra thị trường nước ngoài không có thương hiệu do các doanh nghiệp thiếu thông tin về thị trường xuất khẩu, không nhận thức được tầm quan trọng của thương hiệu và không quen với thủ tục và chi phí đăng ký thương hiệu, tên thương mại và nhãn hiệu thương mại. Thực tế đó đặt ra phải cần thiết xây dựng thương hiệu cho từng mặt hàng. Tuy nhiên, từ trước đến nay Việt Nam mới chỉ tập trung vào phát triển các sản phẩm thô mà ít chú ý đến việc nâng cao chất lượng sản phẩm chế biến và xây dựng thương hiệu riêng cho sản phẩm nông nghiệp của mình. Chính vì vậy, mặc dù có nhiều tiềm năng trong việc phát triển các sản phẩm nông nghiệp nhưng khả năng cạnh tranh của nhiều sản phẩm nông nghiệp của Việt Nam không cao. Do vậy, cùng với việc hỗ trợ hoạt động phát triển thương hiệu của các công ty, doanh nghiệp, cũng cần tận dụng uy tín của các khu vực vốn có các sản phẩm nông nghiệp đặc sản để dùng làm các chỉ dẫn địa lý, tăng thêm sức thu hút của sản phẩm nông nghiệp. Đồng thời, Nhà nước cần khuyến khích các doanh nghiệp đăng ký thương hiệu ở thị trường trong và ngoài nước, điều đó cho phép nhà nước can thiệp được trong việc bảo vệ thương hiệu cho các doanh nghiệp. Trong giai đoạn đầu khi mức tích luỹ trong nông nghiệp chưa đủ lớn để xây dựng thương hiệu riêng, Nhà nước cần có các biện pháp hỗ trợ cho các doanh nghiệp dưới dạng chi phí quảng cáo, xúc tiến thương mại. Kết luận chương 2 Quá trình hội nhập kinh tế, trong đó có việc thực hiện Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ và CEPT/AFTA là bước thử nghiệm quan trọng cho ngành nông nghiệp Việt Nam khi gia nhập WTO. - Việc thực hiện Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ tác động hai chiều đến ngành nông nghiệp Việt Nam. Một mặt nó tạo ra một thị trường rộng lớn cho những ngành hàng có khả năng cạnh tranh. Nhưng mặt khác, khi hàng rào thuế quan được cắt giảm và tiến tới loại bỏ sẽ là nguy cơ đối với những mặt hàng Việt Nam có khả năng cạnh tranh trung bình và yếu. - Thực hiện CEPT/AFTA cũng tác động hai chiều tới ngành nông nghiệp Việt Nam. Đối với những ngành được đánh giá là thế mạnh trong cạnh tranh của Việt Nam sẽ sớm tận dụng được những ưu đãi về thuế quan mà các nước trong khu vực dành cho. Nhưng mặt khác ngành nông nghiệp Việt Nam cũng sẽ phải đối mặt với thách thức khi hàng rào thuế quan giảm xuống bởi Việt Nam có nhiều điểm tương đồng trong sản xuất hàng nông sản xuất khẩu của ASEAN. - Gia nhập WTO tác động đến ngành nông nghiệp Việt Nam trên cả hai khía cạnh chính sách thương mại nông nghiệp và hàng nông sản xuất khẩu. + Đối với chính sách nông nghiệp còn một số điểm chưa hoàn toàn phù hợp với các quy định của WTO cần phải điều chỉnh. Tuy nhiên khoảng cách phải điều chỉnh không phải là nhiều, tập trung chủ yếu vào những hỗ trợ của Nhà nước đối với ngành mía đường. + Đối với nhóm hàng nông sản xuất khẩu, phân tích theo tiêu chí khả năng cạnh tranh, một số mặt hàng được đánh giá có khả năng cạnh tranh cao, một số mặt hàng có khả năng cạnh tranh trung bình và yếu và tác động của việc gia nhập WTO theo những chiều hướng khác nhau. Để giảm thiểu những tác động tiêu cực khi gia nhập WTO, đồng thời tận dụng được những lợi thế của việc gia nhập tổ chức này mang lại, ngành nông nghiệp Việt Nam cần thực hiện một số giải pháp thích ứng. Kết Luận Những nghiên cứu của chuyên đề đã phân tích bức tranh khái quát về tổ chức Thương mại thế giới (WTO) về mục tiêu, chức năng, nguyên tắc hoạt động, cũng như kinh nghiệm của một số nước trong giải quyết vấn đề nông nghiệp khi gia nhập WTO. Trên cơ sở về những vấn đề cơ bản của WTO, các hiệp định của WTO trong lĩnh vực nông nghiệp.Chuyên đề phân tích những tác động có thể của việc gia nhập WTO trên hai khía cạnh chính sách và một số hàng hoá nông sản xuất khẩu. Nền nông nghiệp Việt Nam đã chuyển biến hết sức tích cực trong 2 năm đầu gia nhập WTO do thị trường xuất khẩu được mở rộng,kim ngạch xuất khẩu tăng cao,tiếp xúc với nhưng tư duy sản xuất và kinh doanh tiên bộ điều nay đã thể hiện khá rõ trên tăng trưởng GDP trong nông nghiệp tăng 6,54%,xuất khẩu hàng hoá nông sản tăng 10,7%.Nền nông nghiệp Việt Nam đang bứt phá mạnh mẽ. Tuy nhiên,Việt Nam cũng đang phảI đối măt với những vấn đề hết sức khó khăn khi gia nhập WTO như một số ngành gặp khó khăn trong việc điều chỉnh theo áp lực cạnh tranh ngày càng tăng phát sinh từ những cam kết khi gia nhập WTO.Cụ thể đã có những thời kì sản lượng nông sản xuất khẩu Việt Nam sụt giảm so với trươc khi gia nhập WTO (mặc dù có sự tác động lớn của thiên tai). Từ kinh nghiệm thực tiễn sau 2 năm gia nhập WTO chuyên đề cũng đã đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao những tác động tích cực đồng thời hạn chế những tác động tiêu cực đến nên nông nghiệp Việt Nam khi gia nhập WTO để nền nông nghiệp Việt Nam có thể vững bước tiến trên con đường hội nhập kinh tế quốc tế. Nhận thức được phạm vi nghiên cứu của chuyên đề là rộng,với kiến thức của một sinh viên và những nghiên cứu về tác động của gia nhập WTO là vấn đề còn mới mẻ. Do vậy,e rất cảm ơn và mong nhận được sự góp ý khách quan và khoa học của giáo viên hướng dẫn để tiếp tục hoàn thiện chuyên đề của mình. Em xin chân thành cám ơn TS: Vũ Thị Tuyết Mai đã giúp đỡ em thực hiện chuyên đề này! Danh mục từ viết tắt -WTO: Tổ chức thương mại thế giới - GATT: Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại 1994 -AOA: Hiệp định về nông nghiệp -AMS: Mức tổng các biện pháp hỗ trợ gộp -TBTs: Hiệp định về hàng rào kỹ thuật trong thương mại -TRIPS: Hiệp định về các khía cạnh thương mại của Quyền sở hữu trí tuệ -ILP: Hiệp định về thủ tục cấp phép xuất nhập khẩu - AFTA: Hiệp định khu vực mậu dịch tự do ASEAN Danh mục bảng biểu Bảng 2.1: Một số mặt hàng nông sản của Việt Nam xuất khẩu sang các thị trường EU,Nhật Bản và Mỹ năm 2002 Bảng 2.2: Thuế nhập khẩu các mặt hàng nông sản của Mỹ vào Việt Nam trước và sau khi Hiệp định Thương mại được thực thi Bảng 2.3: Lịch trình giảm thuế suất theo CEPT/AFTA của Việt Nam đối với các sản phẩm nông, lâm nghiệp chính Bảng 2.4: Một số mặt hàng nông sản chính được nhập khẩu thường xuyên hiện nay từ các nước ASEAN Bảng 2.5: Đánh giá tổng hợp khả năng cạnh tranh của một số hàng hoá nông sản chính của Việt Nam khi thực hiện CEPT- AFTA Bảng 2.6: Mô hình hoá tác động của việc gia nhập WTO đến ngành nông nghiệp Bảng 2.7: Bảng Kết quả xu hướng tăng sản lượng theo ngành Bảng 2.8: Thuế suất theo lịch trình đã được cam kết Bảng 2.9: Xuất khẩu cà phê của Việt Nam Bảng 2.10: Tổng quan về tiềm năng xuất khẩu của ngành Danh mục Tài liệu tham khảo 1. Đỗ Đức Bình (2004), Quá trình đàm phán gia nhập WTO của Việt Nam, Kinh tế và phát triển (12), tr 10-13 2. Bộ Kế hoạch Đầu tư (Viện Quản lý kinh tế Trung ương)(2004), Đề tài khoa học cấp Bộ: “Phân tích định lượng về ảnh hưởng của quá trình gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) tới sản xuất nông nghiệp của Việt Nam, sử dụng mô hình cân bằng tổng thể”, Hà Nội. 3. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế trung ương) (10/2002), Đề tài khoa học cấp Bộ: “Cơ sở khoa học của điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp trong quá trình hội nhập khu vực mậu dịch tự do ASEAN-AFTA”, Hà Nội. 4. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Trung tâm Tin học) (3/2003), Đề tài “Nghiên cứu khả năng thâm nhập hàng nông sản Việt Nam vào thị trường Mỹ: các mặt hàng hồ tiêu, cà phê, dứa”, Hà Nội. 5. Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn (2004), Tăng cường năng lực hội nhập quốc tế cho ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn - Lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế của ngành nông nghiệp Việt Nam, Hà Nội. 6. Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn (2004), Tăng cường năng lực hội nhập quốc tế cho ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn-Tác động của tự do hóa thương mại đến ngành chăn nuôi Việt Nam, Hà Nội. 7. Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn (2004), Tăng cường năng lực hội nhập quốc tế cho ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn - nghiên cứu điều kiện hình thành sàn giao dịch nông sản tại Việt Nam, Hà Nội. 8. Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn (2005), WTO và ngành nông nghiệp Việt Nam, Hà Nội. 9. Bộ Thương mại (2/2006), Đề án phát triển xuất khẩu giai đoạn 2006-2010, Hà Nội. 10. Phạm Quang Diệu (2002), “Nông nghiệp, nông thôn Trung Quốc với việc gia nhập WTO”, Những vấn đề kinh tế thế giới (2), tr 41-50 11. Bình Dương (2003), “Cơ hội và thách thức đối với Việt Nam trong tiến trình gia nhập WTO”, Thương nghiệp - Thị trường Việt Nam (10), tr 19,27. 12. Gia nhập WTO Việt Nam kiên định con đường đã chọn (2004), Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà nội. 13. Phạm Lan Hương (2005), “Đánh giá tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đến Việt Nam, sử dụng mô hình cân bằng tổng thể”, Tạp chí Quản lý Kinh tế (3), tr18-27. 14. Học viện CTQG Hồ Chí Minh (2006) - Tổng quan khoa học, đề tài khoa học cấp Bộ: “Nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay”, Tr 60-61. 15. Nguyễn Hữu Khải (2004), “Nâng cao khả năng xuất khẩu chè Việt Nam”, Lao động và Xã hội (247), tr16-19. 16. Hoàng Thị Ngọc Loan (2006), “Xuất khẩu nông lâm sản Việt Nam năm 2005 và những vấn đề đặt ra”, Tạp chí Khoa học chính trị (1) tr 15-21. 17.Bùi Xuân Lưu (2004), Bảo hộ hợp lý nông nghiệp Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Nhà xuất bản Thống kê, Hà nội. 18. Lý Hoàng Mai (2005), “Lộ trình quan hệ thương mại Việt-Mỹ”, Nghiên cứu Kinh tế (327), tr34-40. 19. Nguyễn Thượng Minh(2004), “Việt Nam: Đường vào WTO”, Phát triển kinh tế (134), tr40. 20. Trần Hồng Minh (2005), “WTO và việc đem lại lợi ích cho các nước đang phát triển”, Tạp chí Tài chính (12), tr 48-49. 21. Nguyễn Duy Nghĩa (2004), “Cây chè: từ sản xuất đến xuất khẩu”, (42). tr16-17. 22. Nông nghiệp Việt Nam trong những năm đổi mới (2003), Tư liệu chuyên đề -Viện Thông tin khoa học số 3. 23. Nông nghiệp và đàm phán thương mại (2001), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà nội. 24. Phạm Gia Sơn (2004), “Việt Nam gia nhập WTO cơ hội và thách thức”, Lao động và Công đoàn (309), tr8-9,26 25. Chu Ngọc Sơn (2005), “Chính sách thương mại nông nghiệp trong quá trình Việt Nam gia nhập WTO”, Tạp chí Lý luận chính trị (6), Tr 40-44 26. Đặng Kim Sơn - Phạm Quang Diệu (2001), “Tác động của Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ đến ngành nông nghiệp Việt Nam”, Nghiên cứu kinh tế (277), tr15-24. 27. Hoàng Đức Thân (2003), Tổ chức và kinh doanh trên thị trường hàng hoá và dịch vụ ở Việt Nam, Nxb Thống Kê, Hà Nội. 28. Đinh Trọng Thịnh (2004), “Hội nhập tổ chức thương mại thế giới của Việt Nam: Vấn đề và giải pháp”, Ngân hàng (2), tr7-10 29. Đinh Trọng Thịnh (2004), “WTO và các nền kinh tế yếu”, Nghiên cứu kinh tế (3), tr57-61 30. Thời báo Kinh tế Việt Nam, Kinh tế 2005-2006 Việt Nam và Thế giới. 31. Đặng Quốc Tuấn (2004), “Tác động khi tham gia WTO tới nền kinh tế Việt Nam”, Tạp chí Thương mại (39), tr4-5 32. Nguyễn Kế Tuấn (2004), “Nông sản xuất khẩu Việt Nam và một số giải pháp phát triển”, Tạp chí Lao động và Xã hội (247), tr 10-14. 33. Vũ Trí Tuệ (2005), “Giải pháp nâng cao hiệu quả xuất khẩu cà phê”, Tạp chí Thương mại (30), tr4-5, 10. 34. Lương Văn Tự (2004), “Tiến trình gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) và những thuận lợi, khó khăn khi Việt Nam trở thành thành viên của WTO”, Tạp chí Cộng Sản (24), tr22-26 35. Từ diễn đàn Siatơn toàn cầu hóa và tổ chức thương mại thế giới (WTO) (2000), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà nội. 36. Viện Quản lý Kinh tế Trung ương (2003), Đánh giá tác động kinh tế của Hiệp định Thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 37. Ngân hàng Thế giới (2004), Sổ tay về: Phát triển thương mại và WTO, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 38. Trung tâm Thương mại quốc tế UNCTAD/WTO (ITC) và Cục Xúc tiến Thương mại Việt Nam (VIETRADE) (tháng 8/2005), Đánh giá tiềm năng xuất khẩu của Việt Nam. 39. Viện Quản lý Kinh tế Trung ương (11/2001), Đề tài khoa học cấp Nhà nước, Chuyên đề: Chính sách và giải pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá nông sản ở nước ta, Hà Nội. 40. Viện Quản lý Kinh tế Trung ương (2005), Kinh tế Việt Nam 2008, Nxb Khoa học và Kỹ thuật. Mục lục XÁC NHẬN ĐƠN VỊ THỰC TẬP Tờn SV: Hà Sơn Lõm Lớp: KTPT A-K47-QN Chuyờn đề : “Tỏc động của việc gia nhập WTO đến nền nụng nghiệp Việt Nam”

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTH2607.doc
Tài liệu liên quan