Đề tài Nghiên cứu thiết kế hệ thống năng lượng gió công suất nhỏ dùng máy phát đồng bộ nam châm Vĩnh Cửu

Trạm điện bằng sức gió có thể đặt ở những địa điểm và vị trí khác nhau, với những giải pháp rất linh hoạt và phong phú. Tuy nhiên nếu có thể ta nên đặt trạm ở những nơi có độ cao tự nhiên nhằm làm giảm chi phí xây dựng trụ đỡ như là những mỏm núi, trên các tòa nhà cao tầng. - Việc đưa vào sử dụng hệ thống năng lượng điện gió cũng cần phải quan tâm đến vấn đề an toàn, những lúc trời có mưa bão sức gió là rất lớn có thể làm hư hỏng thiết bị và gây nguy hiểm cho người dùng. Khi có gió bão, cách tốt nhất là nên tách cánh quạt và rô to của máy phát ra để tránh gây hư hỏng máy phát vì sức gió lớn có thể làm cho máy phát quay rất nhanh, dẫn đến tổn hại lớn cho các bộ phận bên trong do nhiệt và do dao động mạnh. Việc tách cánh quạt và rô to có thể thực hiện bằng các khớp bánh răng tác động bằng tay hay tự động

pdf62 trang | Chia sẻ: baoanh98 | Lượt xem: 974 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nghiên cứu thiết kế hệ thống năng lượng gió công suất nhỏ dùng máy phát đồng bộ nam châm Vĩnh Cửu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
việc làm cho hàng trăm ngàn lao động. Toàn bộ việc lắp dựng một trạm phong điện trục đứng 40 kW có thể hoàn thành trong 3 ngày, kể từ khi làm móng, dựng cột, lắp máy tới khi nghiệm thu và đưa vào hoạt động. Việc thi công các trạm phong điện trục ngang cần từ 15 tới 45 ngày, tùy theo loại trạm phong điện, chiều cao tháp và các điều kiện địa hình, địa chất, thủy văn nơi xây dựng. Không nhà máy điện nào có thể xây dựng nhanh như phong điện. Để xây dựng một nhà máy thủy điện cần có sự chuẩn bị rất lâu từ trước. Riêng các việc điều tra, quy hoạch, chọn phương án... có thể kéo dài hàng 20 chục năm. Đối với phong điện cũng cần thực hiện những bước này, nhưng nhanh hơn. Sau một thời gian sử dụng, nếu cần có thể rời trạm tới nơi khác. Nếu là trạm phong điện công suất nhỏ thì việc di chuyển càng không mấy khó khăn. Sau khi gia nhập WTO, nền kinh tế Việt Nam đứng trước những thử thách lớn. Để vượt qua được những thử thách đó cần có một nền công nghiệp điện năng phát triển. Xây dựng phong điện là một giải pháp hiện thực, có hiệu quả cao, có thể nhanh chóng đáp ứng nhu cầu điện năng của cả nước. Phong điện còn có thể phát huy tác dụng to lớn trong sự nghiệp tăng cường an ninh quốc phòng, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho đồng bào các vùng sâu, vùng xa, công cuộc xóa đói giảm nghèo, và tạo thêm việc làm cho hàng triệu người lao động ở mọi nơi, trong mọi lĩnh vực hoạt động của đất nước. 21 Chương 2. CÁC THIẾT BỊ TRONG HỆ THỐNGGIÓ – ĐIỆN CÔNG SUẤT NHỎ 2.1. ĐẶT VẤN ĐỀ Trong những năm gần đây, năng lượng gió trở thành một nguồn tiềm năng cho hệ thống máy phát điện với ảnh hưởng cho môi trường nhỏ. Tổng năng lượng của các máy phát sức gió (Wind Energy Conversion Systems - WECS) được lắp đặt trên thế giới được gia tăng một cách ngoạn mục. Sự tham gia của các máy phát sức gió trong các hệ thống phân phối điện cung cấp một lượng công suất đáng kể bên cạnh các máy phát cơ bản như các nhà máy nhiệt điện, nguyên tử và thủy điện... Các Tuabin gió hiện nay được chia thành 2 nhóm cơ bản: - Một loại theo trục đứng. - Một loại theo trục nằm ngang giống như máy bay trực thăng. Các loại Tuabin gió trục đứng là loại phổ biến có 2 hay 3 cánh quạt. Tuabin gió 3 cánh quạt hoạt động theo chiều gió với bờ mặt cánh quạt hướng vào chiều gió đang thổi. Ngày nay Tuabin gió 3 cánh quạt được sử dụng rộng rãi . 2.2. CẤU TRÚC CHUNG CỦA HỆ THỐNG ĐIỆN GIÓ CÔNG SUẤT NHỎ Các máy phát điện lợi dụng sức gió (dưới đây gọi tắt là trạm phong điện) đã được sử dụng nhiều ở các nước châu Âu, Mỹ và các nước công nghiệp phát triển khác. Nước Đức đang dẫn đầu thế giới về công nghệ phong điện. 22 Tới nay hầu hết vẫn là các trạm phong điện trục ngang, gồm một máy phát điện có trục quay nằm ngang, với rotor (phần quay) ở giữa, liên hệ với một tua bin 3 cánh đón gió. Máy phát điện được đặt trên một tháp cao hình côn. Trạm phát điện kiểu này mang dáng dấp những cối xay gió ở châu Âu từ những thế kỷ trước, nhưng rất thanh nhã và hiện đại. Các trạm phong điện trục đứng gồm một máy phát điện có trục quay thẳng đứng, rotor nằm ngoài được nối với các cánh đón gió đặt thẳng đứng. Trạm phong điện trục đứng có thể hoạt động bình đẳng với mọi hướng gió nên hiệu qủa cao hơn, lại có cấu tạo đơn giản, các bộ phận đều có kích thước không quá lớn nên vận chuyển và lắp ráp dễ dàng, độ bền cao, duy tu bảo dưỡng đơn giản. Loại này mới xuất hiện từ vài năm gần đây nhưng đã được nhiều nơi sử dụng. Hiện có các loại máy phát phong điện với công suất rất khác nhau, từ 1 kW tới hàng chục ngàn kW. Các trạm phong điện có thể hoạt động độc lập hoặc cũng có thể nối với mạng điện quốc gia. Các trạm độc lập cần có một bộ nạp, bộ ắc-quy và bộ đổi điện. Khi dùng không hết, điện được tích trữ vào ắc- quy. Khi không có gió sẽ sử dụng điện phát ra từ ắc-quy. Các trạm nối với mạng điện quốc gia thì không cần bộ nạp và ắc-quy. Các trạm phong điện có thể phát điện khi tốc độ gió từ 3 m/s (11 km/h), và tự ngừng phát điện khi tốc độ gió vượt quá 25 m/s (90 km/h). Tốc độ gió hiệu qủa từ 10 m/s tới 17 m/s, tùy theo từng thiết bị phong điện. Mô hình tham khảo của một hệ thống máy phát sức gió có thể gồm các thành phần cơ bản sau đây: 23 Hình 2.1. Mô hình tiêu biểu của trạm phát điện dùng năng lượng gió. - Cánh gió: Các Tuabin gió hiện đại thường có hai hoặc ba cánh gió. Gió thổi qua các cánh quạt và là nguyên nhân làm cho các cánh quạt chuyển động và quay. - Pitch: Cánh gió được lật hoặc xoay để điều chỉnh tốc độ của rôto. Cánh được tiện hoặc làm nghiêng một ít để giữ cho roto quay trong gió không quá cao hay quá thấp để tạo ra điện. - Thiết bị Yaw: Thiết bị yaw có hai chức năng. Khi tốc độ gió nhỏ hơn tốc độ giới hạn theo thiết kế, nó giữ cho roto đối diện với nguồn gió khi hướng gió thay đổi. Nhưng khi tốc độ gió vượt qua giới hạn theo thiết kế, đặc biệt là khi có gió bão, nó dịch rotor ra khỏi hướng bão. - Chong chóng gió (vane): Phát hiện hướng gió và kết hợp với thiết bị Yaw để giữ cho tuabin phản ứng phù hợp với tốc độ gió cụ thể. 24 - Bộ đo tốc độ gió (anemometer): Đo tốc độ gió rồi chuyển dữ liệu đến bộ điều khiển. - Phanh hãm (brake): Phanh dạng đĩa, được dùng như phanh cơ khí, phanh điện hoặc phanh thủy lực để dừng roto trong các tình huống khẩn cấp bằng điện, bằng sức nước hoặc bằng động cơ. - Hộp số (gear box): Hộp số được đặt giữa trục tốc độ thấp và trục tốc độ cao để gia tăng tốc độ quay từ khoảng 20 đến 60 vòng/phút lên khoảng 1200 đến 1500 vòng/phút, đây là tốc độ quay mà hầu hết các máy phát cần để sản sinh ra điện năng. Tốc độ quay là yêu cầu của hầu hết các máy phát để sản xuất ra điện. Bộ bánh răng này rất đắt tiền nó là một phần của động cơ và Tuabin gió. Các máy phát có tốc độ thấp hơn thì không cần bộ này. - Máy phát (generator): Thường dùng các máy phát tự cảm ứng để phát điện năng xoay chiều. - Tháp (tower): Tháp được làm từ thép phiến hoặc các thanh thép bắt chéo nhau với kết cấu vững vàng và chịu va đập cơ học, ăn mòn, và có tính đàn hồi hợp lý. Vì tốc độ gió tỷ lệ với độ cao nên tháp càng cao thì tuabin càng lấy được nhiều năng lượng và sản sinh ra được càng nhiều điện năng.Tốc độ gió tăng ở trên cao nên tuabin được gắn trên tháp cao giúp cho tuabin sản xuất được nhiều điện. Tháp cũng đưa tuabin lên cao trên các luồng xoáy không khí có thể có gần mặt đất do các vật cản trở không khí như đồi núi , nhà, cây cối. Một nguyên tắc chung là lắp đặt một tuabin gió trên tháp với đáy của cánh rotor cách các vật cản trở tối thiểu 9m, nằm trong phạm vi đường kính 90m của tháp. Số tiền đầu tư tương đối ít trong việc tăng chiều cao của tháp có thể đem lại lợi ích lớn trong sản xuất điện. Ví dụ, để tăng chiều cao tháp từ 18m lên 33m cho máy phát 10kW sẽ tăng tổng chi phí cho hệ thống 10%, nhưng có thể tăng lượng điện sản xuất 29%. Có 2 loại tháp cơ bản: loại tự đứng và loại giăng cáp. Hầu hết hệ thống điện gió cho hộ gia đình thường sử dụng loại giăng cáp. Tháp loại giăng cáp 25 có giá rẻ hơn, có thể bao gồm các phần giàn khung, ống và cáp. Các hệ thống treo dễ lắp đặt hơn hệ thống tự đứng. Tuy nhiên do bán kính treo phải bằng ½ hoặc ¾ chiều cao tháp nên hệ thống treo cần đủ chỗ trống để lắp đặt. Mặc dù loại tháp có thể nghiêng xuống được có giá đắt hơn, nhưng chúng giúp cho khách hàng dễ bảo trì trong trường hợp các tuabin nhẹ, thường là 5kW hoặc nhỏ hơn. Hệ thống tháp có thể nghiêng xuống được cũng có thể hạ tháp xuống mặt đất khi thời tiết xấu như bão. Tháp nhôm dễ bị gãy và nên tránh sử dụng. Không khuyến khích gắn tuabin trên nóc mái nhà. Tất cả các tuabin đều rung và chuyển lực rung đến kết cấu mà tuabin gắn vào. Điều này có thể tạo ra tiếng ồn và ảnh hưởng đến kết cấu nhà và mái nhà có thể tạo ra luồng xoáy lớn làm ảnh hưởng đến tuổi thọ của tuabin. 2.3. TUABIN – CÁNH QUẠT Hiện nay, thực tế có rất nhiều loại tuabin gió và mỗi loại có nhiều kích thước khác nhau. Thông thường người ta chia làm hai dạng chính: 1. Tuabin có trục nằm ngang. 2. Tuabin có trục nằm dọc. Hầu hết các tuabin gió hiện nay đang được sử dụng có dạng trục nằm ngang. Kích thước của tuabin gió có quan hệ trực tiếp với công suất của tuabin. Hệ thống cánh của tuabin gió: Được thiết kế để bắt nhiều năng lượng hơn từ gió. Chúng được làm từ nguyên liệu tổng hợp cho phép chúng có thể chịu được những cơn gió lớn, có cường độ cao, hướng gió có thể thay đổi tức thời hoặc gió xoáy, hình dáng được thiết kế dạng khí động học phù hợp với các quá trình quay, chuyển động và dừng khẩn cấp trong các trường hợp đặc biệt nhờ một hệ thống phanh hãm thông qua các hệ thống điều khiển. 26 2.4. TRẠM ĐIỀU KHIỂN Hệ thống giúp cho điều khiển tuabin thay đổi theo những điều kiện gió, liên tục tối ưu hóa sức mạnh sản sinh trong khi tối giản làm hư hại. Hệ thống điều khiển thực hiện việc điều khiển góc cánh bằng bánh răng đây là hệ thống điều khiển công suất, hệ thống này thực hiện việc so sánh công suất của máy phát ra và năng lượng thực có của gió tại thời điểm đó để điều chỉnh góc của cánh nhằm tận dụng được tối đa năng lượng gió cho việc phát điện. Bánh răng quay góc cánh thường được điều khiển bằng hệ thống điều khiển điện – thủy lực. Hệ thống này có nhiều ưu điểm : chính xác, mạnh, đơn giản. Việc điều chỉnh chính xác góc cánh mang lại hiệu quả cao về khai thác, tốt về kỹ thuật và an toàn trong sử dụng. Bộ điều chỉnh góc cánh bằng bánh răng còn sử dụng như là một hệ thống phanh hãm thông thường, các van khuếch đại sẽ quay cánh đến 88o ( vị trí quay ngửa ra) với tốc độ 5,7o/s, ở chế độ hãm khẩn cấp, hệ thống thủy lực này sẽ sử dụng thêm các van khuếch đại khác để quay cánh đến vị trí cánh quay ngửa ra với tốc độ 15o/s. Các tuabin gió truyền thống thường vận hành theo chế độ “ dừng – điều khiển”, và làm việc ở tốc độ hoặc gần tốc độ quay cố định của gió. Giống như tất cả các tuabin, các cánh quạt cần một tốc độ gió tối thiểu để sản xuất điện năng và dừng ngay nếu tốc độ gió vượt quá giá trị giới hạn. Ví dụ đối với động cơ gió 150 kW, tốc độ gió tại đó cánh quạt có thể vận hành vào khoảng 5 – 25 m/s. 2.5. ROTOR TUABIN Roto loại trục ngang có 3 cánh, công suất phát được điều khiển bằng bộ điều khiển góc cánh hướng, bánh răng và bộ biến đổi tốc độ vô cấp cho phép roto máy phát điện quay luôn luôn ở tốc độ tối ưu cho phát điện. 27 Việc kết nối giữa cánh và may ơ bằng gối cầu cho phép các cánh tự quay quanh trục của chúng. Mặt trong của gối đỡ được cố định vào cánh và mặt ngoài là vào may ơ. Bộ điều khiển góc cánh bằng bánh răng sẽ điều chỉnh cánh quay trên trục của chúng từ góc 00 đến 900 để thu nhận năng lượng của gió tốc độ từ 12 đến 25 m/s và khởi động cũng như ngừng tuabin một cách có hiệu quả. Trục roto hướng lên trên so với phương nằm ngang một góc là 50 và góc với hướng gió là 00 . Chiều quay của roto nhìn theo hướng gió là theo chiều kim đồng hồ. 2.6. MÁY PHÁT Chức năng của máy phát điện là chuyển đổi từ cơ năng sang điện năng. Nó được nối với hộp số thông qua khớp giãn nở. Nó được lắp trên khung vỏ có nệm cao su giãn nở và được gắn nối cơ học bằng bulong – ecu. 2.7. HỆ THỐNG ĐỊNH HƯỚNG Tuabin gió có hệ thống định vị chủ động để định hướng roto tuabin gió trên đỉnh tháp. Hệ thống định vị trên gối đỡ này nối tháp với kết cấu vỏ của tuabin gió. Mặt ngoài của gối đỡ được bắt chặt vào vào tháp bằng bulong độc lập với bánh răng ở vị trí mà động cơ bánh răng định hướng có tác dụng. Mặt trong của tháp có một đĩa trên đó có lắp đặt các hệ thống hãm phanh vòng ngoài được cố định vào mặt trong của gối đỡ và tự nó sẽ cố định vào kết cấu vỏ của tuabin gió. Các con quay gió được đặt ở vỏ sẽ cung cấp điều khiển bằng các tín hiệu. Chúng sẽ chỉ ra hướng của tuabin gió là trực tuyến với hướng gió hoặc không. Định vị sao cho tần số của cánh gió là 70 – 120 vòng/phút. Nếu không trực tuyến với hướng gió, 5 bộ phanh vị trí sẽ được mở ra một phần cho phép hai động cơ bánh răng định vị vị trí vỏ của tuabin gió. Mô men xoắn cục bộ sẽ 28 được triệt tiêu bởi hệ thống phanh hãm định hướng, vì vậy hẹ thống đó sẽ linh hoạt và an toàn hơn. 2.8. CÔNG SUẤT CÁC LOẠI TUABIN GIÓ Dãy công suất tuabin gió thuận lợi từ 50kW tới công suất lớn hơn cỡ vài MW. Để có những Tuabin lớn hơn thì tập hợp một nhóm các Tuabin gió với nhau trong một trại gió và nó sẽ cung cấp năng lượng lớn hơn cho lưới điện. Các Tuabin gió loại nhỏ có công suất dưới 50kW được sử dụng cho gia đình, viễn thông hoặc bơm nước đôi khi cũng dùng để nối với máy phát diêzen, pin và hệ thống quang điện. Các hệ thống này được gọi là hệ thông lai gió và điển hình là sử dụng cho các vùng sâu vùng xa, những địa phương chưa có lưới điện, những nơi mà mà mạng điện không thể nối tới các khu vực này. 2.9. NGUYÊN LÝ LÀM VIỆC CỦA MỘT TUABIN GIÓ Các tuabin hoạt động theo một nguyên lý rất dơn giản. Năng lượng của gió làm cho cánh quạt quay quanh một roto. Mà roto được nối với trục chính và trục chính sẽ chuyển động làm quay trục quay của máy phát để tạo ra năng lượng điện. Các tuabin gió được đặt trên trụ cao để thu hầu hết năng lượng gió. Ở độ cao 30 mét trên mét trên mặt đất thì các Tuabin gió thuận lợi: tốc độ nhanh hơn và ít bị các luồng gió bất thường. Các Tuabin gió có thể sử dụng cung cấp điện cho nhà cửa hoặc xây dựng, chúng có thể nối tới một mạng điện để phân phối mạng điện ra rộng hơn. Điện được truyền qua dây dẫn phân phối tới các nhà, các cơ sở kinh doanh, các trường học 29 2.10. NHỮNG THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN CỦA VIỆC SỬ DỤNG NĂNG LƯỢNG GIÓ  Những thuận lợi - Năng lượng gió là nhiên liệu sinh ra bởi gió, vì vậy nó là nguồn nhiên liệu sạch. Năng lượng gió không gây ô nhiễm không khí so với các nhà máy nhiệt điện dựa vào sự đốt cháy nhiên liệu than hoặc khí ga. - Năng lượng gió là 1 dạng nguồn năng lượng trong nước, năng lượng gió có ở nhiều vùng. Do đó nguồn cung cấp năng lượng gió của đất nước thì rất phong phú. - Năng lượng gió là một dạng năng lượng có thể tái tạo lại được mà giá cả lại thấp do công nghệ khoa học tiên tiến ngày nay, giá khoảng 4÷6 cent/kWh, điều đó còn tuỳ thuộc vào nguồn gió, tài chính của công trình và đặc điểm công trình. - Tuabin gió có thể xây dựng trên các nông trại, vì vậy đó là một điều kiện kinh tế cho các vùng nông thôn, là nơi tốt nhất về gió mà có thể tìm thấy. Những người nông dân và các chủ trang trại có thể tiếp tục công việc trên đất của họ bởi vì Tuabin gió chỉ sử dụng một phần nhỏ đất trồng của họ. Chủ đầu tư năng lượng gió phải trả tiền bồi thường cho những nông dân và chủ các trang trại mà có đất sử dụng cho việc lắp đặt các Tuabin gió.  Những khó khăn - Năng lượng gió phải cạnh tranh với các nguồn phát sinh thông thường ở một giá cơ bản. Điều đó còn tuỳ thuộc vào nơi có gió mãnh liệt như thế nào. Vì thế nó đòi hỏi vốn đầu tư ban đầu cao hơn các máy phát chạy bằng nhiên liệu khác. - Năng lượng gió là một nguồn năng lượng không liên tục và nó không luôn luôn có khi cần có điện. Năng lượng gió không thể giữ trữ được và không phải tất cả năng lượng gió có thể khai thác được tại thời điểm mà có nhu cầu về điện. 30 - Những nơi có năng lượng gió tốt thường ở những vị trí xa xôi cách thành phố nhưng những nơi đó lại cần điện. - Mặc dù năng lượng gió ít ảnh hưởng tới môi trường so với các dạng năng lượng khác nhưng lại có thể ồn do cánh quạt gây ra, mỹ quan bị ảnh hưởng, đôi khi chim chóc bị chết do bị dính vào roto. 31 Chương 3. MÁY PHÁT ĐỒNG BỘ NAM CHÂM VĨNH CỬU CÔNG SUẤT NHỎ 3.1. ĐẶT VẤN ĐỀ Năng lượng gió đã được sử dụng từ hằng trăm năm nay. Con người đã dùng năng lượng gió để di chuyển thuyền buồm hay khinh khí cầu, ngoài ra năng lượng gió còn được sử dụng để tạo công cơ học nhờ vào các cối xay gió. Ý tưởng dùng năng lượng gió để sản xuất điện hình thành ngay sau các phát minh ra điện và máy phát điện. Lúc đầu nguyên tắc của cối xay gió chỉ được biến đổi nhỏ và thay vì là chuyển đổi động năng của gió thành năng lượng cơ học thì dùng máy phát điện để sản xuất năng lượng điện. Khi bộ môn cơ học dòng chảy tiếp tục phát triển thì các thiết bị xây dựng và hình dáng của các cánh quạt cũng được chế tạo đặc biệt hơn. Ngày nay người ta gọi đó tuốc bin gió, khái niệm cối xay gió không còn phù hợp nữa vì chúng không còn có thiết bị nghiền. Từ sau những cuộc khủng hoảng dầu trong thập niên 1970 việc nghiên cứu sản xuất năng lượng từ các nguồn khác được đẩy mạnh trên toàn thế giới. Năng lượng điện phát ra từ các tuabin gió trong hộ gia đình là sự hiện diện của việc biến đổi nhanh công suất đặt phân bố rộng rãi trên thế giới. Sự tương tác giữa hệ thống năng lượng gió gia đình và lưới điện sẽ là một khía cạnh quan trọng trong kế hoạch phát triển hệ thống năng lượng gió gia đình trong tương lai. Đó là điều cần thiết để đảm bảo rằng lưới điện có khả năng làm việc trong giới hạn hoạt động của tần số và điện áp, phù hợp cho các dự kiến kết hợp việc sản xuất năng lượng điện từ gió và việc tiêu thụ điện của người tiêu dùng, đồng thời để đảm bảo duy trì thời gian lưới điện hoạt động ổn định. Vì vậy một tuabin gió khi hòa vào lưới điện cần thiết không làm chất 32 lượng điện năng xấu đi hay không làm xáo trộn tần số của lưới điện. Các tuabin gió hỗ trợ các nhà cung cấp và điều hành hệ thống điện để nâng cao chất lượng điện năng, đó là vấn đề cung cấp các dịch vụ phụ trợ điện năng. Trong tất cả các máy phát điện được sử dụng trong hệ thống tuabin gió thì máy phát điện đồng bộ nam châm vĩnh cửu ( PMSG) là máy phát có ưu điểm cao nhất vì nó ổn định và an toàn trong quá trình hoạt động, đồng thời không cần nguồn điện một chiều để kích từ. Do có nhiều lợi thế nên máy phát điện đồng bộ nam châm vĩnh cửu đã được sử dụng rộng rãi hơn thay vì ban đầu chỉ được ứng dụng trong một bộ phận nho nhỏ các máy phát chạy bằng sức gió. 3.2. MÁY PHÁT ĐỒNG BỘ NAM CHÂM VĨNH CỬU Máy điện đồng bộ : Máy điện đồng bộ là các máy điện xoay chiều có tốc độ của roto bằng với tốc độ của từ trường quay. Dây quấn stato được nối với lưới điện xoay chiều, dây quấn rotor được kích từ bằng dòng điện một chiều. Ở chế độ xác lập, máy điện đồng bộ có tốc độ quay của rotor luôn không đổi khi tải thay đổi. Máy điện đồng bộ thường được dùng làm máy phát trong hệ thống điện với cơ năng được cung cấp bằng một động cơ sơ cấp ( các loại tuabin, động cơ kéo...). Công suất của máy phát có thể lên đến 1000MVA hay lớn hơn, và các máy phát thường làm việc song song với nhau trong hệ thống. Động cơ đồng bộ được sử dụng khi cần công suất truyền động lớn, có thể đến hàng chục MW. Ngoài ra, động cơ đồng bộ còn được dùng làm các máy bù đồng bộ ( động cơ đồng bộ làm việc ở chế độ không tải), dùng để cải thiện hệ số công suất và ổn định điện áp cho lưới điện. Cấu tạo phần tĩnh : Nếu phần cảm nằm ở stato thì lá thép có dạng như ở hình 3.1, cuộn dây kích từ được quấn quanh cực từ. 33 Hình 3.1. Lõi thép phần cảm ở stato Còn nếu stato đóng vai trò làm phần ứng thì mạch từ gồm các lá thép điện kỹ thuật ghép lại với nhau, phía trong có đặt các rãnh để đặt cuộn dây. Nếu rô to là phần cảm thì chia làm hai loại: - Rô to cực ẩn : lõi thép là một khối thép rèn hình trụ, mặt ngoài phay thành các rãnh để đặt cuộn dây kích từ. Cực từ rô to của máy cực ẩn không lộ ra rõ rệt. Cuộn dây kích từ đặt đều trên 2/3 chu vi rô to. Với cấu tạo như trên, rô to cực ẩn có độ bền cơ học rất cao, dây quấn kích từ rất vững chắc do đó các loại máy đồng bộ có tốc độ từ 1500v/ph trở lên đều được chế tạo với rô to cực ẩn, mặc dù chế tạo phức tạp và khó khăn hơn rô to cực lồi. - Rô to cực hiện : Lõi thép gồm những lá thép điện kỹ thuật ghép với nhau, các cực từ hiện ra rõ rệt. Phía ngoài cực từ là mỏm cực, có tác dụng làm cho cường độ từ cảm phân bổ dọc theo stato rất giống hình sin. Dây quấn kích thích quấn trên các cực từ hai đầu cuộn dây nối với hai vành trượt qua 2 chổi than tới nguồn điện một chiều bên ngoài. 34 Hình 3.2. Rô to cực ẩn Hình 3.3. Rô to cực hiện Do tốc độ của gió nằm trong khoảng 70 – 120 v/ph nên số đôi cực của máy phát gió phải nhỏ (p= 1) và số bin càng nhỏ thì điện áp càng lớn. Máy phát điện đồng bộ nam châm vĩnh cửu: Hình 3.4. Mặt cắt ngang của máy phát đồng bộ nam châm vĩnh cửu. Các máy phát điện đồng bộ nam châm vĩnh cửu có bốn cực từ, phần cắt ngang của nó được mô tả trong hình 3.4. Các nam châm được gắn chặt trên 35 lõi thép rô to. Không gian giữa các nam châm được lấp đầy bằng các lá thép hình đặc biệt, các bộ phận đó tạo ra một dòng điện đóng cho từ trường. Nam châm vĩnh cửu đã được sử dụng rộng rãi để thay thế các cuộn kích từ trong các máy đồng bộ, với những ưu điểm là thiết kế rô to không cần cuộn dây kích thích, vành trượt và bộ kích từ máy phát có thể giúp tránh gây nhiệt trong các cánh quạt và cung cấp hiệu quả tổng thể của hệ thống cao hơn. Nguyên lý làm việc của máy phát : Nguyên lý hoạt động của máy phát đồng bộ nam châm vĩnh cửu cũng giống như nguyên lý hoạt động của máy điện đồng bộ, chỉ khác nhau ở chỗ ở máy phát đồng bộ nam châm vĩnh cửu thì cuôn kích từ trên rô to được thay thế bằng nam châm vĩnh cửu. Hình 3.5. Nguyên lý làm việc cơ bản Khi ta đưa dòng điện kích thích một chiều it vào dây quấn kích thích đặt trên cực từ, dòng điện it sẽ tạo nên một từ thông t. Nếu ta quay rô to lên đến tốc độ n (v/ph) , thì từ trường kích thích t sẽ quét qua dây quấn phần ứng và cảm ứng nên trong dây quấn đó suất điện động và dòng điện phần ứng biến thiên với tần số f1 = p.n/60. Trong đó p là số đôi cực của máy. 36 Với máy điện đồng bộ 3 pha, dây quấn phần ứng nối sao (Y) hoặc nối tam giác (Δ) . Khi máy làm việc dòng điện phần ứng Iư chạy trong dây quấn 3 pha sẽ tạo nên một từ trường quay. Từ trường này quay với tốc độ đồng bộ n1 = 60.f1/p. * Cấu trúc một máy phát đồng bộ nam châm vĩnh cửu đơn giản : Hình 3.6. Mô hình của một PMSG đơn giản. Các kích thước hình học của mô hình: - bt = 5 mm, hc = 20 mm, D = 120 mm, De = 195 mm, = 0,5 mm, am = 38 mm, = 3 mm. Đặc tính từ của phần cảm rô to ( phần tạo ra từ trường chính ) và phần ứng stato được mô tả trong hình 3.7. Phần nam châm vĩnh cửu được chế tạo bằng vật liệu NdFeB và có những đặc điểm sau : độ kháng từ Hc = 979.000 37 A/m; hằng số từ thẩm tương đối r = 1.049; năng lượng từ tối đa B.Hmax = 40 MGOe; độ dẫn điện = 0,667 MS/m. Trục bằng thép không gỉ của máy phát có các thông số sau: độ thẩm từ tương đối r = 1 và độ dẫn điện = 1,35 MS/m. Hình 3.7. Đặc tính từ. * Ảnh hưởng của chiều dài nam châm vĩnh cửu đến dòng kích thích máy phát: Nhiều nghiên cứu đã phân tích ảnh hưởng của kích thước hình học của rô to lên thông lượng từ tính của máy phát điện ( thông lượng liên kết, thông lượng tương hỗ và thông lượng rò rỉ ). Đường kính D của rô to đã được giữ không đổi, các kích thước được thay đổi trong quá trình nghiên cứu là chiều dài của các nam châm vĩnh cửu bm và khe hở rô to b0. Vì vậy nếu bm có giá trị cao thì các chi tiết thép hình tạo ra đường đóng cho từ trường sẽ có kích thước nhỏ hơn do đường kính D của rô to được giữ không đổi. 38 Giải pháp tối ưu cho vấn đề chiều dài của nam châm vĩnh cửu có thể tìm thấy bằng cách chọn ra một tập hợp các kích thước bm và hm ( chiều cao của các nam châm vĩnh cửu ) sao cho các đại lượng như thông lượng liên kết, thông lượng tương hỗ và thông lượng rò rỉ đã được tính toán phù hợp với sự trợ giúp của phần mềm chuyên dụng. Chiều dài bm rất đa dạng, chiều cao hm được tính toán bằng công thức sau: ( 3.1) Mục tiêu để tối ưu hóa thông lượng tương hỗ và thông lượng liên kết, vì trong những năm qua, giá cả nam châm vĩnh cửu giảm mạnh làm kéo theo chất lượng suy giảm nên dung lượng của nam châm đã không được đưa vào phân tích. Tuy nhiên độ dài của nam châm vĩnh cửu đã được giữ trong một phạm vi cụ thể dựa trên công suất của máy phát đã được tính toán. Nếu dung lượng của nam châm quá nhỏ thì thông lượng từ tính kích thích sẽ không đủ cho mức công suất tính toán của máy phát. Mặt khác nếu dung lượng của nam châm quá lớn thì các chi phí tổng thể của máy phát cũng sẽ không hợp lý. Chiều dài mỗi đơn vị của nam châm vĩnh cửu được cho bởi công thức: (3.2) Trong đó là độ chênh lệch giữa các khe không khí giữa các cực. Đối với máy phát được phân tích trong trường hợp này thì = 94,25 mm tương ứng với rô to có đường kính D = 120 mm. Thông lượng từ tính của máy phát điện ( thông lượng liên kết, thông lượng tương hỗ, thông lượng rò rỉ ) được tính bằng cách có tính đến mỗi đơn vị chiều dài k của nam châm vĩnh cửu ( dùng công thức 2 ) và giữ tất cả các kích thước hình học khác của nam châm vĩnh cửu không đổi : bt , hc , D, De , , am ,b0 và . 39 Hình 3.8. Bản đồ từ trường cho máy phát có các kích thước bm = 28,3 mm (k = 0,297 ) và b0 =15 mm. Hình 3.8 cho thấy bản đồ quang phổ từ trường với các thông số bm = 28 mm (k = 0,297 ) và b0 = 15 mm. Có thể thấy rằng một phần của phần ứng stato có từ trường thấp hơn so với phần nằm trên trục của nam châm vĩnh cửu trên rô to. Ảnh hưởng của chiều dài nam châm vĩnh cửu trên thông lượng từ tính của máy phát điện: Thông lượng liên kết t ( được xác định bởi các phân đoạn MN trên bề mặt và chiều dài của các máy ( Hình 3.6) ), thông lượng tương hỗ ( được xác định bởi các phân đoạn PQ và chiều dài của máy) và thông lượng rò rỉ được nghiên cứu với mỗi độ dài của nam châm vĩnh cửu cho bởi : K1 = 0,19 ( bm1 = 18 mm); k2 = 0,243 ( bm2 = 23 mm); k3 = 0,297 ( bm3 = 28 mm); k4 = 0,35 ( bm4 = 33 mm) và k5 = 0,403 ( bm5 = 38 mm). Đối với những giá trị như chiều cao hm của nam châm vĩnh cửu, dung lượng Vm của 40 nam châm vĩnh cửu, các thông lượng liên kết, thông lượng tương hỗ, thông lượng rò rỉ đã được tính toán đã được liệt kê trong bảng 3.1. Bảng 3.1. Giá trị thông lượng từ tính của máy phát. bm [mm] hm [mm] Vm [mm 3 ] t [Wb] u [Wb] [Wb] 18 37.5 8100 1.415. 10 -3 1.312. 10 -3 1.031. 10 -4 23 37 102120 1.445. 10 -3 1.326. 10 -3 1.181. 10 -4 28 36.5 122640 1.457. 10 -3 1.329. 10 -3 1.274. 10 -4 33 36 142560 1.456. 10 -3 1.326. 10 -3 1.333. 10 -4 38 35 159600 1.443.10 -3 1.301. 10 -3 1.317. 10 -4 Tất cả các kết quả hiển thị trong bảng trên được tính toán với giá trị khe hở rô to là b0 = 15 mm. Có thể thấy rằng các thông lượng liên kết và thông lượng tương hỗ đạt giá trị tối đa, những giá trị tối đa này tuy không hoàn toàn giống nhau nhưng chúng có giá trị tương đối gần nhau. Các thông lượng tương hỗ có tầm quan trọng cao vì nó tạo ra lực điện động ( e.m.f ) trong cuộn dây stato. Nhìn vào bảng kết quả 3.1 ta có thể thấy rằng chế độ hoạt động tối ưu của máy phát điện nam châm vĩnh cửu đạt hiệu suất cao nhất nếu đơn vị chiều dài của nam châm vĩnh cửu thay đổi trong khoảng giữa 0,25 và 0,35 (k (0,25...0.35) ). Hình 3.9 mô tả mối quan hệ giữa thông lượng tương hỗ và chiều dài bm của nam châm vĩnh cửu. 41 Hình 3.9. Sự biến thiên của thông lượng tương hỗ với chiều dài nam châm. * Sự ảnh hưởng của từ trường máy phát điện qua khe hở rô to : Nghiên cứu này thực hiện cho mô hình máy phát điện nam châm vĩnh cửu bằng cách chọn các đơn vị chiều dài của nam châm như sau : k = 0,297 ( bm = 28 mm), cho giá trị thông lượng tương hỗ đạt đến tối đa ( bảng 3.1 ), lựa chọn bốn giá trị cho khe hở rô to : b0 = 5 mm, b0 = 10 mm, b0 = 15 mm và b0 = 20 mm. Đối với mỗi giá trị của thông lượng liên kết, các giá trị thông lượng tương hỗ và thông lượng rò rỉ được tính toán và được ghi kết quả trong bảng 3.2. 42 Bảng 3.2. Giá trị thông lượng từ tính khi thay đổi khe hở rô to. B0 [mm] t [Wb] u [Wb] [Wb] 5 1.4679. 10 -3 1.1902. 10 -3 2.7771. 10 -4 10 1.4586. 10 -3 1.2905. 10 -3 1.6806. 10 -4 15 1.4532. 10 -3 1.3283. 10 -3 1.2489. 10 -4 20 1.4474. 10 -3 1.3468. 10 -3 1.0059. 10 -4 Có thể thấy rằng khi các khe hở rô to tăng thì các thông lượng liên kết sụt giảm khoảng 1,4 % trong khi thông lượng tương hỗ tăng lên 12,5 %. Hiện tượng này xảy ra do trên thực tế các khe hở này chứa đầy không khí và các từ trở tương đương với không khí này tăng lên ( khi khe hở rô to tăng ) dẫn đến làm giảm thông lượng rò rỉ. Sự gia tăng lớn nhất của thông lượng tương đương ( khoảng 8,4 % ) diễn ra khi các khe hở rô to tăng từ 5 mm đến 10 mm. Hình 3.10 cho thấy sự thay đổi của thông lượng tương hỗ với kích thước b0 của khe hở rô to. Điều đó cho thấy khi thiết kế một máy phát điện nam châm vĩnh cửu cần quan tâm đến sự gia tăng của khe hở rô to ( nam châm có cùng chiều dài bm) bởi vì sự gia tăng của thông lượng tương hỗ dẫn đến sự gia tăng của lực điện động (EMF) trong cuộn dây stato. 43 Hình 3.10. Sự biến thiên của thông lượng tương hỗ với kích thước khe hở rô to. Hình 3.10. Sự biến thiên của thông lượng rò rỉ với kích thước khe hở rô to. 44 Như đã đề cập ở trên, thông lượng rò rỉ giảm với sự gia tăng kích thước khe hở rô to. Hình 3.10 cho thấy sự thay đổi này, có thể thấy rằng thông lượng rò rỉ giảm nhiều nhất khi khe hở rô to tăng từ 5 mm đến 10 mm. Nhận xét chung, máy phát điện đồng bộ nam châm vĩnh cửu PMSG sẽ được sử dụng rông khắp trên thế giới do lợi ích từ chính nó đem lại như là độ ổn định, quá trình hoạt động an toàn, có kích thước tổng thể nhỏ gọn hơn so với các máy phát điện thông thường và nó không cần nguồn cung cấp một chiều để kích từ. Việc tối ưu hóa phần hình học của máy phát có thể được thực hiện bằng cách thay đổi chiều dài nam châm vĩnh cửu bm và các khe hở rô to b0. Trong nghiên cứu thiết kế này, ta có thể thấy thông lượng tương hỗ của máy phát có giá trị tối đa tùy theo chiều dài nam châm vĩnh cửu và khe hở rô to. Như vậy, thiết kế tối ưu hình học của máy phát có thông số chiều dài của nam châm vĩnh cửu nằm trong khoảng giữa 0,25 và 0,35 ( k (0,25...0,35)) và khe hở rô to đủ lớn vào khoảng 10 đến 20 mm ( b0 (10...20)mm) dẫn đến thông lượng tương hỗ tăng khoảng 8,4 %. 3.3. CHIẾN LƯỢC ĐIỀU KHIỂN TẦN SỐ VÀ ĐIỆN ÁP Một vài kỹ thuật đã được sử dụng để chuyển đổi năng lượng gió nhưng phổ biến được dùng là dựa trên cơ sở phát điện cảm ứng (IG) , hệ thống này tương đối đơn giản và không ảnh hưởng lớn đến lưới điện, nó cung cấp nhiều lợi ích cho việc trao đổi năng lượng hiệu quả với các hệ thống lưới. Ngày nay nam châm vĩnh cửu dùng trong máy phát đồng bộ có thể sản sinh ra năng lượng được đánh giá cao nhất vào khoảng 6 MW. Máy phát đồng bộ dùng nam châm vĩnh cửu có nhiều hiệu quả hơn máy đồng bộ thông thường và đơn giản vì bộ kích từ trong máy là không cần thiết. Để chuyển đổi năng lượng gió vào lưới điện, nhiều công nghệ chuyển đổi đã được tìm tòi nghiên cứu, và 45 cách đơn giản nhất là máy phát điện cỡ nhỏ dùng nam châm vĩnh cửu được gắn với bộ chỉnh lưu diode. Nhiều loại biến tần cũng được sử dụng trong các hệ thống biến đổi phát điện bằng tuabin gió. Chúng bao gồm biến tần tự đảo chiều hay biến tần đảo chiều trong mạng. Biến tần tự đảo chiều gồm biến tần nguồn dòng hay biến tần nguồn áp có công suất cao trong khoảng 200 kW đến 1MW. Biến tần tự đảo chiều : biến tần tự đảo chiều có thể làm cho mạng giảm nhiễu xuống đến mức thấp nhất có thể, bằng cách sử dụng chuyển đổi tần số cao, lên đến vài kHz, những sóng hài có thể được lọc dễ dàng hơn trong mạng tự đảo chiều dùng biến tần thyristor. Biến tần tự đảo chiều sử dụng kỹ thuật điều chế xung để giảm sóng hài, để làm cho các sóng tồn tại có bậc thấp hay loại bỏ chúng, các tần số chuyển mạch có thể lên 3kHz hoặc cao hơn. Biến tần tự đảo chiều thường được chế tạo bằng các bóng bán dẫn, GTOs hay sử dụng điều khiển đóng mở các van của thyristor. Các biến tần dùng GTOs không có khả năng chuyển mạch với những tần số cao hơn 1 kHz, và không thể đủ để làm giảm các sóng hài bậc cao. Do đó, biến tần dùng GTOs không được coi là sự lựa chọn cho tương lai, nó đã trở lên lỗi thời vì chỉ dùng trong phạm vi công suất 100 – 200 kW. Ngày nay, loại bóng bán dẫn được ứng dụng phổ biến nhất là transistor lưỡng cực có cổng cách điện IGBT. Nó có khả năng điều khiển rộng các dòng cùng pha , và ngày nay được sử dụng chuyển đổi điện áp xoay chiều được đánh giá cao nhất lên đến 1700 V. Một biến tần tự đảo chiều có thể là một biến tần nguồn áp hay nguồn dòng, nhưng ngày nay loại nguồn áp là loại thông dụng nhất. Nếu nó sử dụng nguồn năng lượng từ mang lưới thì bộ tụ phải có hiệu điện thế cao hơn điện áp đỉnh của mạng. Máy phát điện không có khả năng phát ra điện áp có hằng số cao ở tốc độ thấp do đó một bộ chuyển đổi DC – DC phải được sử dụng để nâng cao điện áp của diode chỉnh lưu. Các hệ thống năng lượng gió sử dụng bộ chuyển 46 đổi này được gọi là “hệ thống điều khiển trực tiếp máy phát đồng bộ nam châm vĩnh cửu “ được biểu diễn trên hình 3.6, nó bao gồm một máy phát đồng bộ nam châm vĩnh cửu ba pha kết nối với mạch chỉnh lưu PWM cho phép chiết xuất điện năng tối ưu bằng cách sử dụng thuật toán M.P.P.T( bộ điều khiển cánh gió). Một biến tần PWM đảm bảo điện năng sản xuất ra được đưa vào lưới xoay chiều. Giữa hai bộ chuyển đổi, một tụ điện được sử dụng như một đường dẫn điện áp một chiều, hệ thống được kết nối với lưới điện thông qua một bộ lọc để nâng cao chất lượng dòng điện. C bus Grid PWM Rectifier PWM Inverter Inverter Control Wind Tuabin Super Visior Rectifier Control P,f,Q,V F.R.T G.C.R - T.S.O P.M.S.M Power ControlDC bus control generator control Pitch Control M.P.P.T Hình 3.6. Sơ đồ khối hệ thống điều khiển chuyển đổi năng lượng trực tiếp với thuật toán điều khiển GCR. Ưu điểm chính của cấu trúc này là chi tiết tách hoàn toàn giữa hai biến tần, trong thực tế, khi lưới điện bị rối loạn, bộ chuyển đổi một bên sẽ được điều khiển, lưới điện vì vậy có thể được hỗ trợ phục hồi điện áp bằng cách 47 cung cấp công suất phản kháng và đảm bảo lưới điện ổn định trong khoảng thời gian chuyển tiếp. Các hệ thống chuyển đổi năng lượng gió được điều khiển bằng cơ cấu gồm hệ thống điều khiển ( TSO ), các hệ thống phân phối ( DSO ) tùy thuộc vào vị trí của các khớp nối ( PCC ) của các hệ thống gió. Thiết bị giám sát nhận được tín hiệu điện phù hợp với tín hiệu của thiết bị kiểm tra điều kiện kết nối lưới ( GCR ) phát ra từ hệ thống gió và phát tín hiệu điều khiển ngược lại các bộ biến tần, thiết bị pitch được điều chỉnh cho phù hợp. 48 Chương 4. THIẾT KẾ HỆ THỐNG ĐIỆN GIÓ NHỎ PHỤC VỤ ĐỜI SỐNG. 4.1. CẤU TRÚC CHUNG Hình 4.1. Cấu trúc chung của hệ thống gió điện công suất nhỏ. Do tốc độ của gió luôn luôn thay đổi nên lưới điện sẽ không mang lại đặc tính kỹ thuật cũng như yêu cầu sử dụng, vì tại thời điểm không có gió hoặc có gió bão, cánh quạt tuabin không quay, nghĩa là máy phát không hoạt động dẫn đến phụ tải mất điện. Do đó, hệ thống này chỉ để sử dụng cho tải dân dụng, quy mô nhỏ và nạp ắc quy với chất lượng không cao. Hệ thống bao gồm các phần chính: - Blade : cánh quạt tuabin, hấp thụ động năng của gió thành cơ năng quay máy phát. - PMSG : máy phát đồng bộ nam châm vĩnh cửu. - Converter : bộ chỉnh lưu điốt biến đổi AC – DC cho hệ thống nạp ắc quy. 49 - Battery : ắc quy lưu điện. - Inverter : bộ nghịch lưu biến đổi DC – AC cung cấp cho tải. Ở đây, việc cấp điện cho thiết bị tiêu thụ là hoàn toàn liên tục khi có sự cố về nguồn cấp điện. Phân tích sơ đồ như sau: Gió làm quay cánh quạt, máy phát điện hoạt động năng lượng điện tạo ra lúc này không cung cấp điện trực tiếp cho các thiết bị, mà chúng được biến đổi thành dòng điện một chiều nhờ bộ Converter, điện áp đầu ra của bộ Converter là 12 VDC tương ứng với điện áp của ắc quy. Trong mạch đã thể hiện sự cung cấp điện từ ắc quy và từ bộ Converter đến bộ inverter để biến đổi thành điện áp đầu ra phù hợp với thiết bị sử dụng. Như vậy, có thể thấy rằng trong bất kỳ sự cố nào về nguồn điện thì hệ thống cũng có thể cung cấp điện cho thiết bị sử dụng mà không có một thời gian trễ nào. Điều này làm cho thời gian máy phát trong trạng thái không hoạt động ngắn, thiết bị sử dụng điện được an toàn, và ổn định. 4.2. THIẾT KẾ KỸ THUẬT 4.2.1. Đặt vấn đề Hiện nay có rất nhiều phương pháp thiết kế kỹ thuật trong vấn đề chuyển đổi động năng của gió thành điện năng sử dụng cho các thiết bị sử dụng điện trong các nhà máy hay trong các trang trại, hộ gia đình. Tuy nhiên, được sử dụng nhiều nhất vẫn là phương án biến đổi điện năng từ máy phát xoay chiều sang điện áp một chiều rồi chỉnh lưu thành điện áp xoay chiều phù hợp. 50 4.2.2. Mô hình đề xuất Hình 4.2. Mô hình đề xuất thiết kế kỹ thuật cho hệ thống 51 * Giải thích sơ đồ: Gió làm quay máy phát điện đồng bộ nam châm vĩnh cửu sinh ra điện năng, khi đóng cầu dao điện áp xoay chiều 3 pha được đưa vào cuộn sơ cấp biến áp TR1 và được biến đổi từ điện áp 380V sang điện áp 12V. Dòng điện xoay chiều 12VAC từ cuộn thứ cấp máy biến áp TR1 được chỉnh lưu nhờ cầu chỉnh lưu 3 pha đi ốt thành dòng 12VDC cấp điện cho bộ ắc quy và biến tần. Bộ biến tần sử dụng IC 4047 để biến đổi điện áp 12VDC thành điện áp 12VAC, tần số 50Hz, sau đó điện áp 12VAC/50Hz đưa vào cuộn sơ cấp biến áp TR2 và được biến đổi thành điện áp 230VAC/50Hz cung cấp cho tải tiêu thụ. Khi mất điện lưới, để sử dụng năng lượng điện của hệ thống thì phải thực hiện chuyển mạch cầu dao CD. 4.2.3. Tính toán phụ tải chung của một hộ gia đình Điển hình trong một hộ gia đình có các thiết bị sử dụng điện như là tivi, tủ lạnh, điều hòa, quạt... Danh sách các thiết bị và công suất của chúng để tính chọn các thiết bị trong hệ thống phong điện công suất nhỏ được liệt kê trong bảng sau: Bảng 4.1. Danh sách các thiết bị và công suất của chúng Tên thiết bị Số lượng Công suất(W) Tivi 2 200 Tủ lạnh 1 150 Quạt 4 250 Bóng đèn các loại 5 200 Máy bơm 1 100 Điều hòa 1 2000 52 Công suất tổng ∑P = 2900 W. Điện áp dùng trong gia đình là điện áp 220V/50Hz. - Tính dòng điện định mức : Iđm = (4.1) Chọn hệ số cosφ = 0,8. Với Tủ lạnh, quạt, máy bơm và điều hòa sử dụng động cơ xoay chiều nên ta tính dòng mở máy và dòng quá tải : - Dòng mở máy : Imm = kmm.Iđm (4.2) - Dòng quá tải : Iqt = 1,3.Iđm (4.3) Kết quả cho ở bảng 4.2 Bảng 4.2. Kết quả tính toán dòng điện cho các thiết bị Tên thiết bị Dòng định mức (A) Dòng khởi động (A) Dòng quá tải (A) Tivi 0,56 Tủ lạnh 0,85 4,25 1,105 Quạt 0,35 1,75 0,46 Bóng đèn các loại 0,227 Máy bơm 0,57 2,85 0,71 Điều hòa 11,37 56,85 14,78 4.2.4. Lựa chọn thiết bị 4.2.4.1. Chọn hệ thống thu nhận và biến đổi gió * Cánh quạt hứng gió : 53 Động năng lớn nhất mà cánh tua bin có thể nhận được chỉ bằng 0.593 lần động năng mà gió có thể sinh ra. Năng lượng của gió được phân chia làm 2 phần khi tương tác với cánh tuabin, một là động năng làm quay tuabin và một là áp suất tác dụng lên bề mặt cánh tua bin, do đó khi thiết kế cánh quạt quay tuabin phải hướng tới chỉ tiêu thu được động năng nhiều nhất từ gió, giảm bớt năng lượng áp suất tác dụng lên bề mặt. * Máy phát : Thông thường, công suất định mức của máy phát được tính toán ở các điều kiện tiêu chuẩn. Trong thực tế, các điều kiện vận hành của thiết bị có thể không đúng với điều kiện tiêu chuẩn. Vì thế công suất khả dụng thường thấp hơn công suất định mức. Các điều kiện ảnh hưởng đến công suất khả dụng của máy là: - Nhiệt độ môi trường - Sự thay đổi chế độ làm mát của máy phát - Sự lão hóa của chất cách điện, làm cho nhiệt độ chịu đựng của máy phải giảm xuống - Những giới hạn của động cơ sơ cấp kéo nó - Những giới hạn của các thiết bị lắp phía sau nó: máy cắt, máy biến áp, đường dây... Do công suất của tải tiêu thụ là 2900W nên chọn máy phát đồng bộ nam châm vĩnh cửu 3 pha có công suất 3kW. 4.2.4.2. Chọn ắc quy dự trữ Là bộ lưu trữ điện năng dưới dạng điện áp một chiều (DC) - “Lu” chứa điện. Hiện nay có rất nhiều loại với những chất lượng, tính năng và giá thành rất khác nhau. (axit chì, kín khí, chì khô, cadium, niken, Lithium.) Với mỗi loại ắc quy của mỗi hãng đều có những qui định chặt chẽ về cách sử dụng, bảo quản và chế độ nạp điện khác nhau. Yêu cầu khi mua và sử dụng chúng ta đều phải có những hiểu biết đầy đủ về ắc quy đã lựa chọn. 54 Trên thị trường, nên chọn mua những loại ắc quy tốt có chất lượng cao. Tránh mua những loại ắc quy có chất lượng thấp tuy có giá thành rẻ ban đầu nhưng do mau hư hỏng và gây ra các rắc rối khác trong quá trình sử dụng nên thực ra phải trả chi phí cao. Chế độ nạp điện : - Việc chọn dòng nạp thích hợp cho ắc quy là một yếu tố đặc biệt quan trọng. Đảm bảo ắc quy vừa bền vừa thực sự đầy. - Thông thường dòng nạp tiêu chuẩn phải được ổn định từ 1/10 đến 1/5 dung lượng ắc quy. Thời gian tiêu chuẩn để nạp một ắc quy thường từ 8-12 giờ. - Nếu chọn dòng nạp nhỏ (so với dung lượng) thì ắc quy sẽ lâu đầy tuy nhiên dòng sạc càng nhỏ thì ắc quy càng bền và càng được no thực sự. - Ngược lại nếu chọn dòng nạp quá lớn (so với dung lượng) thì ắc quy sẽ chóng đầy nhưng sẽ nhanh bị hỏng và hiện tượng đầy thường là giả tạo. Thậm chí có thể bị nổ khi nạp quá mạnh. - Khi ắc quy đầy cần phải ngắt nạp hoặc chuyển sang chế độ nạp duy trì trong một khoảng thời gian tiếp theo để ắc quy thực sự đầy. - Đặc biệt với một số loại ắc quy trong quá trình sạc cần phải có sự giám sát nhiệt độ chặt chẽ. Tùy theo thời gian sử dụng khi bị mất điện dài hay ngắn mà ta chọn dung lượng ắc quy theo công thức sau : (4.4) Trong đó: - P là công suất tiêu thụ - watt. - T là thời gian hoạt động – h. - 0,7 là hệ số sử dụng. 55 - U là điện áp của ắc quy- volt. Đối với hệ thống năng lượng gió công suất 2900 W, dùng nguồn điện 12VDC, dùng trong phục vụ hộ gia đình nên ta chọn thời gian sử dụng là trong 2 giờ đồng hồ, vậy ta có thể áp dụng công thức trên để tính dung lượng ắc quy: Dung lượng ắc quy = = 690 Ah Như vậy dung lượng ắc quy là rất lớn, để đáp ứng được yêu cầu có thể chọn ắc quy của hãng Pinaco như sau: Bảng 4.2. Chọn ắc quy cho hệ thống Loại Số lượng Điện Thế (V) Dung Lượng (Ah) N100 1 12 100 N200 3 12 200 4.2.4.3. Chọn bộ chỉnh lưu và nghịch lưu * Bộ nghịch lưu : Bộ nghịch lưu là bộ biến đổi tĩnh đảm bảo biến đổi một chiều thành xoay chiều. Nguồn cung cấp là một chiều, nhờ các khóa chuyển mạch làm thay đổi cách nối đầu vào và ra một cách chu kỳ để tạo nên đầu ra xoay chiều. Khác với bộ biến tần trực tiếp, việc chuyển mạch được thực hiện nhờ lưới xoay chiều, trong bộ nghịch lưu cũng như trong bộ điều áp một chiều, hoạt động của chúng phụ thuộc vào loại nguồn và tải. Trên thị trường hiện nay có nhiều loại như là Hồ Điện, Aquasonic, MaxQ, Eltek, Power Master, Incosys, AST có nhiều loại công suất khác nhau và giá cũng khác nhau, tuy nhiên nên dùng các loại inverter có điện ra dòng sine chuẩn. 56 Với các thông số: - Công suất tải tiêu thụ 2900 W - Điện áp ra 220V/50Hz Vậy chọn bộ inverter có đầu vào điện áp một chiều bằng với điện áp nạp ắc quy là 12 VDC, đầu ra 220VAC/50Hz. Do hiệu suất của các bộ inverter chỉ vào 80% nên chọn công suất của bộ inverter cần dùng là: Pinverter = =3635 W Hệ số máy biến áp TR2 : = = 0.052 Dòng thứ cấp là I2 = 11,37 A. Biên độ dòng sơ cấp là I1m = = 218 A Dòng hiệu dụng sơ cấp là I1 = = = 154 A. Công suất thứ cấp biến áp: S2 = U2.I2 = 230.11,37 = 2615,1 VA Bộ biến tần với các thông số: VR1 = 100K; R2 = 390K; R3= 330Ω; R5=R6= 220Ω; D5 1N4007; C1 = 2200 ; C2 = C3= 0,01 ; C4 = 22 ; Zene Diode 240V/20A. Dòng sơ cấp biến áp TR2 là 154A, chọn transistor IGBT loại GA200SA60 với thông số 200A/600V/15kHz. 57 * IC dùng trong bộ nghịch lưu là IC4047 : Hình 4.3. Các chân của IC CD4047 . Hình 4.4. Tín hiệu xung điều khiển mở IGBT * Bộ chỉnh lưu : Bộ chỉnh lưu biến đổi điện năng xoay chiều thành một chiều cung cấp cho các tải một chiều như : động cơ điện một chiều, kích từ cho máy phát đồng bộ và cuộn dây hút của các khí cụ điện, công nghệ điện hóa: mạ, đúc điện, nạp ắc quy... Đây là sơ đồ chỉnh lưu cầu 3 pha dùng đi ốt. Để giảm tiết diện dây quấn và ngăn chặn các thành phần sóng hài và sóng thứ tự không chạy ngược về máy phát gây ảnh hưởng đến máy phát thì phía sơ cấp biến áp đấu tam giác, phía thứ cấp đấu sao (Δ/Y). 58 Điện áp ngược mỗi đi ốt phải chịu : Unm = . = 12. = 29,39 V Chọn đi ốt chịu được điện áp ngược ku.Unm = 1,6. 29,39 = 47,024 V. Vậy chọn 6 đi ốt MR2000 Un = 50V, Imax = 20 A. Tính máy biến áp : Dòng chỉnh lưu định mức Id = 154 A Trị hiệu dụng của dòng chảy trong mỗi pha thứ cấp máy biến áp : I2 = . Id = 125,7 A Trị hiệu dụng của dòng chảy trong mỗi pha phía sơ cấp : I1 = . I2 = . 125,7 = 3,97 A Công suất biểu kiến máy biến áp : S1 = 3.U1.I1 = 3.380.3,97 = 4525,8 VA S2 = 3.U2.I2 = 3.12.125,7 = 4525,2 VA Vậy STR1 = 4525,5 VA. 4.2.4.4. Thiết bị đo, đếm, bảo vệ : * Thiết bị bảo vệ : Trong sơ đồ có thiết bị bảo vệ như áp tô mát, cầu dao, cầu chì. - Tính chọn áp tô mát : Áp tô mát CB1 được chọn theo điều kiện : UđmA ≥ UđmLĐ = 380 V IđmA ≥ Itt = 3,97 A Vậy chọn áp tô mát loại EA53-G do Nhật chế tạo có thông số : Bảng 4.3. Chọn áp tô mát CB1. Uđm (V) Iđm(A) IN(kA) 380 10 5 59 Áp tô mát CB2 được chọn theo điều kiện : UđmA ≥ UđmLĐ = 230 V IđmA ≥ Itt = 11,37 A Vậy chọn áp tô mát loại EA53-G do Nhật chế tạo có thông số : Bảng 4.3. Chọn áp tô mát CB2. Uđm (V) Iđm(A) IN(kA) 380 20 5 4.3. KHAI THÁC VÀ SỬ DỤNG HỆ THỐNG GIÓ CÔNG SUẤT NHỎ TRONG HỘ GIA ĐÌNH Ngày nay, nhu cầu sử dụng điện năng là rất lớn và đang trong tình trạng thường xuyên bị cắt điện do quá tải. Trước một thực tế bức xúc hiện nay là các nhà máy thủy điện và nhiệt điện ở nước ta đang ngày càng chưa đáp ứng nổi nhu cầu và tốc độ phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Đặc biệt là trong các năm gần đây, tình hình thời tiết biến động phức tạp liên tục, nguồn nước ngầm đang bị cạn kiệt, các sông ngòi bị trơ đáy vào mùa khô. Do đó, để đảm bảo nhu cầu về sử dụng điện năng cũng như thực hiện chính sách sử dụng điện tiết kiệm của chính phủ, hệ thống năng lượng gió công suất nhỏ dùng trong hộ gia đình là sự lựa chọn phù hợp với các hộ gia đình, các trang trại cũng như các nhà máy, xí nghiệp. Khi đưa vào sử dụng hệ thống này cần chú ý : - Trạm phong điện sử dụng động năng của gió làm quay tuabin nên phải được ưu tiên đặt ở những nơi có nhiều gió để hiệu suất hoạt động được cao nhất. - Trạm điện bằng sức gió nên đặt gần nơi tiêu thụ điện, như vậy sẽ tránh được chi phí cho việc xây dựng đường dây tải điện. 60 - Trạm điện bằng sức gió có thể đặt ở những địa điểm và vị trí khác nhau, với những giải pháp rất linh hoạt và phong phú. Tuy nhiên nếu có thể ta nên đặt trạm ở những nơi có độ cao tự nhiên nhằm làm giảm chi phí xây dựng trụ đỡ như là những mỏm núi, trên các tòa nhà cao tầng. - Việc đưa vào sử dụng hệ thống năng lượng điện gió cũng cần phải quan tâm đến vấn đề an toàn, những lúc trời có mưa bão sức gió là rất lớn có thể làm hư hỏng thiết bị và gây nguy hiểm cho người dùng. Khi có gió bão, cách tốt nhất là nên tách cánh quạt và rô to của máy phát ra để tránh gây hư hỏng máy phát vì sức gió lớn có thể làm cho máy phát quay rất nhanh, dẫn đến tổn hại lớn cho các bộ phận bên trong do nhiệt và do dao động mạnh. Việc tách cánh quạt và rô to có thể thực hiện bằng các khớp bánh răng tác động bằng tay hay tự động. Với những nơi xa nguồn điện lưới quốc gia như các khu vực miền núi, hải đảo, việc truyền tải điện năng luôn là vấn đề khó khăn, tuy nhiên với ứng dụng trạm điện năng lượng gió công suất nhỏ cho các khu vực này là giải pháp mang tính cấp thiết để đem lại cuộc sống đầy đủ cho người dân. Với ưu điểm là chủ động được nguồn điện, nguồn năng lượng tái tạo, không gây ô nhiễm, chất lượng ngang bằng với chất lượng điện lưới quốc gia. Nếu xét tới những nguy cơ hiện nay về sự cạn kiệt của năng lượng hóa thạch và tình trạng ô nhiễm môi trường, cùng với tiềm năng to lớn của điện gió ở Việt Nam, xu hướng sử dụng nguồn năng lượng mới này là tất yếu. 61 KẾT LUẬN Trong quá trình thực hiện đồ án em đã nhận được sự hướng dẫn tận tình, hiệu quả của thầy giáo – TS Nguyễn Tiến Ban và các thầy cô giáo trong bộ môn cùng sự giúp đỡ của các bạn đồng nghiệp giúp cho em hoàn thành bản đồ án. Trong bản đồ án này em tìm hiểu và giải quyết được những vấn đề sau : - Tìm hiểu về gió, nguồn năng lượng gió và ứng dụng của chúng trong sản xuất và trong sinh hoạt. - Nghiên cứu cấu trúc chung của hệ thống phát điện năng lượng gió nói chung và hệ thống năng lượng gió sử dụng máy phát đồng bộ nam châm vĩnh cửu. - Thiết kế sơ bộ hệ thống năng lượng gió công suất nhỏ dùng trong hộ gia đình. Trong thời gian làm đề tài, mặc dù đã bản thân đã cố gắng nghiên cứu học hỏi nhưng do vốn kiến thức còn hạn hẹp, thời gian thực hiện còn hạn chế nên đồ án không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em kính mong nhận được sự góp ý phê bình của các thầy cô trong bộ môn và các bạn đông nghiệp để đồ án được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn ! Nguyễn Hồng Quân 62 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. PGS- TSKH Thân Ngọc Hoàn (2005), Máy điện, Nhà xuất bản xây dựng. 2. Cao Xuân Tuyển - Nguyễn Phùng Quang (2007), Điều khiển máy điện dị bộ nguồn kép trong hệ thống phát điện chạy sức gió với bộ điều khiển dòng thích nghi bền vững trên cơ sở kỹ thuật Backstepping, Tạp chí Khoa học và Công nghệ - Đại học Thái Nguyên, 1(3),115-120. 3. Nguyễn Bính ( 2000), Điện tử công suất, Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật. 4. Ngô Hồng Quang - Vũ Văn Tẩm ( 2006), Thiết kế cấp điện, Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật. 5. Phạm Quốc Hải – Dương Văn Nghi (2003), Phân tích và giải mạch điện tử công suất, Nhà xuất bản khoa học và kỹ thuật. 6. Nguyễn Bính (1982), Kỹ thuật biến đổi điện năng, Đại học Bách Khoa Hà Nội.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf40.NguyenHongQuan_DC1001.pdf
Tài liệu liên quan