Qui hoạch phát triển đô thị được thực hiện trên nguyên tắc bảo lưu, phục hồi các di sản văn hoá, gìn giữ các công trình mang đậm bản sắc văn hóa của dân tộc, phải có giải pháp hạn chế xây dựng các công trình cao tầng ở một số khu vực nội thị như: Khu phố cổ (12-16m), Khu phố cũ (được phép xây xen các nhà cao tầng có kiến trúc phù hợp với cảnh quan xung quanh), Khu phố mới và các khu phát triển đô thị (được phép xây theo ý tưởng của các chủ đầu tư). Hà Nội từng bước hình thành một đô thị vừa cổ kính vừa hiện đại, cải tạo và nâng cấp Sông Hồng trở thành một cảnh quan đẹp, hấp dẫn về du lịch và trở thành luồng trung tâm phân giải nối hai khu vực phía Bắc đô thị và phía Nam đô thị của Hà Nội, dự kiến sẽ xây dựng 6-10 chiếc cầu bắc qua sông Hồng để đáp ứng nhu cầu giao thông ngày càng tăng của đô thị. Tổng quan Hà Nội sẽ được định hình rõ nét các khu vực đô thị chuyên dụng như: Khu hành chính, khu thương mại, khu dịch vụ - vui chơi giải trí, khu tập trung dân cư, khu công nghiệp, .
76 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1275 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nghiên cứu thực trạng môi trường đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tại Hà Nội - Những giải pháp về xúc tiến và quản lý, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
05
III. ảnh hưởng của FDI đối với nền kinh tế:
1. Góp phần tăng trưởng GDP:
Suốt vài thập kỷ trước năm 1986, nền kinh tế Việt nam nói chung và Thủ đô Hà Nội nói riêng ở vào tình trạng kém phát triển, mức tăng trưởng kinh tế trong kế hoạch 5 năm 1976 -1980 bình quân mỗi năm là 1.4% và thu nhập quốc dân chỉ đạt mức tăng là 0.4% một năm, định hướng chiến lược phát triển kinh tế theo cơ chế bao cấp, kế hoạch hoá nền kinh tế. Tính chung từ năm 1976 đến năm 1985, tổng sản phẩm xã hội cũng chỉ tăng trung bình là 4.6% một năm. Sản xuất kinh doanh kém hiệu quả nên chi phí vật chất cao và không ngừng tăng lên, năm 1980 chi phí vật chất chiếm 41.9% tổng sản phẩm xã hội, năm 1985 tăng lên 44.1%. Trong khi đó mức tăng dân số trung bình của giai đoạn này là 2.3% để đảm bảo cho đời sống của nhân dân không bị giảm thì nền kinh tế ít nhất cũng phải đạt mức tăng trưởng trung bình 7% một năm (riêng Hà nội 11%).
Trên thực tế thì sản xuất trong nước luôn luôn không đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng tối thiểu của dân cư, thời kỳ từ 1976 - 1985 chỉ cung cấp được khoảng 80% thu nhập quốc dân sử dụng. Như vậy, toàn bộ tích luỹ (tuy rất nhỏ bé) và một phần quỹ tiêu dùng phải dựa vào nguồn nước ngoài đặc biệt là các nước XHCN.
Bảng tham khảo - Thu nhập quốc dân sử dụng
(Giai đoạn 1976 - 1985)
Đơn vị tính: %
năm
thu nhập với
nguồn nước ngoài trong
thu nhập quốc dân sử dụng
quốc dân sx so
tổng số
trong đó
sử dụng
tích luỹ
bù tiêu dùng
1976
78.5
21.5
15.7
5.4
1977
79.1
20.9
16.4
3.8
1978
82.6
17.4
13.5
2.7
1979
81.2
18.8
11.4
1.1
1980
82.8
17.2
10
4.0
1981
89.3
10.7
7.8
0.5
1982
88.4
11.6
7.3
1.7
1983
92.1
7.9
8.0
-
1984
88.1
11.9
8.9
0.5
1985
89.8
10.2
11.5
-
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Từ năm 1987 các chính sách đổi mới kinh tế mới bắt đầu diễn ra một cách mạnh mẽ, trong đó việc mở rộng các quan hệ kinh tế đối ngoại, nhất là từ năm 1988, chúng ta đã bắt đầu thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt nam. Sau 10 năm thực hiện đường lối đổi mới, nền kinh tế Việt nam nói chung và Hà nội nói riêng đã có những bước chuyển biến quan trọng. Tốc độ tăng trưởng GDP thời kỳ 1987 - 1995 đạt xấp xỉ 7% một năm (thời kỳ 1991 - 1995 đạt mức tăng GDP trung bình 8.2% một năm). Đạt được kết quả tăng hàng năm GDP khá cao như trên phải kể đến phần đóng góp hết sức có ý nghĩa quan trọng của hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. Theo đánh giá của các nhà chuyên gia kinh tế, mức tăng GDP năm 1995 là 9.5 % (riêng Hà nội là 11.5%), nhưng nếu không có đầu tư trực tiếp nước ngoài thì mức tăng trưởng chỉ đạt 5.2% một năm, tức là đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tạo ra mức tăng GDP là 4.3% (Hà nội là 5.8%). Ước tính năm 1996 (trên phạm vi toàn quốc), nếu không có đầu tư nước ngoài thì tốc độ tăng trưởng chung chỉ đạt khoảng 5.9% thấp hơn 3.6% so với mức 9.5% như dự kiến sẽ đạt được vào khu vực đầu tư nước ngoài chiếm tỷ trọng khoảng 13% trong tổng GDP năm 1996. GDP tính theo đầu người ở Hà nội ngày càng được nâng cao:
Năm
1989
1990
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
2000
GDP/đầu người
100
120
150
200
250
320
400
500
650
900
Nguồn: Cục Thống kê Hà nội
2. FDI cùng với các nguồn vốn hỗ trợ cho phát triển kinh tế:
Tỷ lệ vốn tích luỹ từ trong nước còn ở mức thấp là một trở ngại lớn cho quá trình phát triển kinh tế, xã hội. Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài là một hình thức huy động vốn để hỗ trợ cho nhu cầu đầu tư của nền kinh tế. Hơn thế nữa, đầu tư trực tiếp của nước ngoài còn có những ưu thế hơn so với các hình thức huy động vốn khác. Nhưng việc vay vốn nước ngoài luôn đi cùng với một mức lãi suất nhất định và đôi khi trở thành gánh nặng cho nền kinh tế. Hoặc như các khoản viện trợ thường đi kèm với các điều kiện về chính trị can thiệp vào công việc nội bộ của đất nước.
Thực hiện liên doanh với nước ngoài là một hình thức khả dĩ nhất, việc bỏ vốn đầu tư của các doanh nghiệp trong nước có thể giảm được rủi ro về tài chính. Bởi vì khi liên doanh với một đối tác nước ngoài thì thứ nhất là đối tác nước ngoài có nhiều kinh nghiệm trong kinh doanh nên hạn chế và ngăn ngừa được rủi ro, thứ hai là trong tình huống xí nghiệp liên doanh giữa đối tác nước ngoài với chúng ta có nguy cơ đe doạ rủi ro thì các công ty mẹ sẽ có biện pháp cứu giúp như hỗ trợ sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, trợ giúp tài chính... để ít nhất họ phải thu về được vốn đã bỏ ra. Trong tình huống xấu nhất khi gặp rủi ro thì các đối tác nước ngoài cũng sẽ là người chia sẻ rủi ro với các công ty của nước sở tại.
Đầu tư trực tiếp của các công ty nước ngoài vào Việt nam sẽ tạo ra những tác động tích cực đối với việc huy động các nguồn vốn khác trong nước cũng như các nguồn ODA, NGO ... Nó tạo ra một hình ảnh đẹp, đáng tin cậy về Việt nam trong các tổ chức và cá nhân nước ngoài. Mặt khác, ngay trong quan hệ đối nội, đầu tư trực tiếp nước ngoài còn có tác dụng kích thích đối với việc thu hút vốn đầu tư trong nước.
cơ cấu các nguồn vốn đầu tư xã hội
ảnh hưởng đến tăng trưởng GDP của thành phố hà nội
(Nguồn Sở KHĐT Hà Nội)
Chỉ tiêu
Đơn vị
TH 1996
TH 1997
(13%)
(12,5%)
GDP
Tổng đầu tư xã hội
Tỷ trọng ĐTXH/GDP (%)
I/ Vốn trong nước
% so tổng vốn đầu tư
a. Vốn NS Nhà nước
- NSTƯ đầu tư qua ĐT
- NSTƯ đầu tư qua bộ, ngành
- Vốn sự nghiệp có tính chất XD
- NSĐP được để lại
b. Vốn tín dụng
- Vốn tín dụng Nhà nước
- Vốn vay ngân hàng
c. Vốn ĐT của DNNN
d. Vốn huy động trong dân & DN khác
II/ Vốn nước ngoài
% so tổng vốn đầu tư
- ODA
- FDI
tỷ đồng
17292
10880
62.92
4880
44.85%
1138
223
600
208
107
890
32
858
1680
1172
6000
55.15%
320 (3.15%)
5680 (52%)
20306
11397
56.13
4817
42.27%
1633
223
900
260
250
1020
100
920
1150
1014
6580
57.73%
260 (1.73%
6374 (56%)
Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà nội
3.Chuyển giao công nghệ mới:
Khoảng cách về phát triển khoa học công nghệ giữa các nước đang phát triển nói chung và Việt nam nói riêng với các nước công nghiệp phát triển là rất lớn. Trong khi phần lớn những kỹ thuật mới được phát minh trên thế giới vẫn xuất phát từ những nước công nghiệp phát triển, do đó để "đuổi kịp" các nước công nghiệp phát triển, các nước đang phát triển cần nhanh chóng tiếp cận với các kỹ thuật mới này. Tuỳ vào hoàn cảnh cụ thể của mình, mỗi nước phải đối mặt và tìm ra cách đi riêng để vượt qua những thách thức trong nước và quốc tế trong bối cảnh luôn thay đổi theo thời gian. Đối với những nước đã ở trình độ công nghệ cao hơn, thể hiện năng lực công nghệ nội sinh đã khá mạnh và đang chuyển từ kỹ thuật cải tiến sang công nghệ tiên tiến, thậm chí chuyển từ bắt kịp công nghệ sang đột phá công nghệ trong một số lĩnh vực công nghệ có lợi thế. Các nước khác còn đang ở mức thang công nghệ thấp, do năng lực công nghệ trong nước còn nhỏ bé thì phải dựa nhiều vào nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài, coi đó là nguồn chuyển giao công nghệ chủ yếu.
Các cơ chế, hình thức chuyển tải, chuyển giao công nghệ chính thức như: Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI); Chế tạo thiết bị mang nhãn hiệu nước ngoài (Original Equipment Manufacturing - OEM); Hợp đồng (Licence); Tự thiết kế và sản xuất (Own Design And Manufacturing - ODM) theo bản thiết kế tổng thể do bên nước ngoài cung cấp (thường là
do các công ty Đa quốc gia - MNC - Multinational Company). Ngoài ra cung tồn tại nhiều kênh chuyển giao phi chính thức, bao gồm việc thuê các kỹ sư nước ngoài và thu hút các nhân viên bản xứ đã từng được đào tạo trong các MNC ở nước ngoài.
Trên thực tế, các kênh chuyển giao công nghệ chủ yếu vẫn là đầu tư trực tiếp của nước ngoài, nhập khẩu máy móc thiết bị (patent licence), các thoả thuận trợ giúp kỹ thuật, các dịch vụ tư vấn, các liên doanh nhãn hiệu hàng hoá và các hợp đồng "chìa khoá trao tay" ... Trong điều kiện hiện nay của Việt nam Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một kênh chuyển giao công nghệ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Qua hợp tác với nước ngoài thời gian qua chúng ta đã tiếp nhận được một số công nghệ, kỹ thuật tiên tiến trong nhiều ngành kinh tế quan trọng như viễn thông, thăm dò dầu khí, xi măng, sắt thép điện tử, sản xuất ôtô, hóa chất, nông nghiệp (Chế biến, đường, trồng chuối, nấm, rau theo phương pháp công nghệ sinh học tiên tiến ...), xây dựng khách sạn quốc tế, sản xuất hàng tiêu dùng chế biến thực phẩm ... Đặc biệt các công nghệ viễn thông, khai thác dầu khí, sản xuất lắp ráp thiết bị điện tự, hệ thống dịch vụ khách sạn đã vươn lên ở mức tiên tiến sánh ngang cùng các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới .
Biểu: So sánh trình độ các công nghệ chính
đang sử dụng tại Việt nam với thế
Bảng: Trình độ công nghệ, máy móc thiết bị chính đang
sử dụng tại Việt nam (so với cùng loại trên thế giới)
Đơn vị tính: %
Thành phần
khu vực kinh tế
Tổng số
Trình độ công nghệ
Hiện đại
Trung bình
Lạc hậu
Tổng số
100
10
38.0
52.0
Quốc doanh
100
11.4
53.1
35.5
Trung ương
100
10.6
60.6
28.8
Địa phương
100
11.9
48.6
39.5
Ngoài quốc doanh
100
6.7
27.0
66.3
Cổ phần & TNHH
100
19.4
54.8
25.8
DN Tư nhân
100
30.0
30.0
40.0
HTX tiểu TCN
100
16.7
33.3
50.0
Tổ hợp cá thể
100
3.6
22.8
73.6
Đầu tư nước ngoài
100
44.4
55.6
-
Nguồn: Cục thống kê Thành phố Hồ Chí Minh
Bảng: Trình độ công nghệ, thiết bị của các doanh nghiệp
có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hà nội
(Tính theo giá trị)
TT
Chỉ tiêu
%
1
công nghệ tiên tiến
85
2
Công nghệ Trung bình
15
3
Công nghệ lạc hậu
-
4
Thiết bị mới
78
5
Thiết bị đã qua sử dụng (trên 70%)
17
6
Thiết bị cũ
5
7
Thiết bị lạc hậu
-
4. Sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế:
Trong điều kiện nền kinh tế mở, các quan hệ kinh tế quốc tế tạo ra động lực và điều kiện cho sự dịch chuyển nhanh cơ cấu kinh tế của các quốc gia. Trong đó đầu tư trực tiếp nước ngoài là một động lực mạnh mẽ có ý nghĩa to lớn đến sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế.
Về cơ cấu ngành kinh tế, trước hết được thể hiện ở tỷ trọng của các ngành trong GDP. Tỷ trọng này của Việt nam nói chung và Hà nội nói riêng trong thời gian từ 1990 đến nay đã có sự thay đổi đáng kể, nếu chia nền kinh tế quốc dân thành 3 nhóm ngành lớn là nông nghiệp (bao gồm nông nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản), công nghiệp (bao gồm công nghiệp và xây dựng) và dịch vụ (bao gồm các ngành còn lại). Tuy nhiên để điều tiết cho phù hợp với nền kinh tế hội nhập với khu vực và xác định chính xác sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế, nguồn vốn FDI được phân định theo các ngành cơ cấu như sau:
Ngành
Tỷ trọng%
1996
1997
2000
* Công nghiệp
16
28
34
* Phát triển đô thị
79
35
4,8
* Giao thông, Bưu điện
0.5
11
21
* Bất động sản
3.2
20
29
* Nông Lâm nghiệp
0.02
2
0,2
* Khác
1.3
4
11
IV. đánh giá quá trình đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Hà Nội (1989-2000)
1. Số dự án công nghiệp được đầu tư nhiều (198 dự án, chiếm 45%) song quy mô vốn đầu tư không lớn, mức vốn bình quân cho một dự án khoảng 3 triệu USD, nhỏ hơn nhiều so với các dự án bất động sản như khách sạn, văn phòng, căn hộ... có mức vốn bình quân cho một dự án khoảng 20 triệu USD. tuy nhiên, tỷ trọng gía trị vốn đầu tư công nghiệp trong cơ cấu vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài qua các năm có tăng trưởng: 16% năm 1996, 28% năm 1997, 32% năm 1998 và 34% năm 2000.
Năm
1996
1997
1998
1999
2000
Vốn đầu tư đăng ký (triệuUSD)
2641
931
673
345
100
Năm
1996
1997
1998
1999
2000
Vốn đầu tư thực hiện (triệuUSD)
605
750
525
182
80
2. Nhìn chung khả năng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của Hà Nội có xu hướng tăng trưởng cao (từ năm 1989-2000) hệ số tăng trưởng bình quân năm là 2,1, đặc biệt năm 1995 (1059 triệu USD) và năm 1996 (2461 triệu USD) là hai năm đạt số vốn đầu tư đăng ký cao nhất. Tuy nhiên, từ năm 1996 đến năm 2000 dự báo nguồn vốn FDI vào Việt nam nói chung và vào Hà Nội nói riêng sẽ giảm nhiều do các nguyên nhân sau:
- Luật đầu tư nước ngoài mới có sửa đổi làm cho các chủ đầu tư nước ngoài phải nghiên cứu và cân nhắc kỹ càng hơn trong việc đầu tư vốn để đạt lợi nhuận khả dĩ ở Việt nam.
- Sự cạnh tranh và điều tiết của thị trường nội địa làm cho các chủ đầu tư nước ngoài mất cơ hội đầu tư, nhất là các lĩnh vực đầu tư đạt lợi nhuận cao như: Khách sạn, văn phòng, căn hộ cho thuê...
- Quy hoạch tổng thể thủ đô chưa được Chính phủ thông qua, các qui hoạch chi tiết, khu vực, các ngành chưa được phên chuẩn do vậy làm cho các chủ đầu tư nước ngoài khó khăn trong việc lựa chọn khu vực đầu tư (đặc biệt đối với các dự án có qui mô xây dựng lớn, cao tầng).
- Tình hình suy thoái kinh tế và khủng hoảng tài chính, tiền tệ của các nước Châu á, đặc biệt là các nước khu vực ASEAN đã có ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình đầu tư nước ngoài vào Việt nam nói chung và Hà Nội nói riêng, một số nước đã có chính sách hạn chế và không cho xuất ngoại tệ để đầu tư ra nước ngoài. Do vậy, số dự án gặp khó khăn về tài chính để thực hiện công trình sẽ gia tăng lên nhiều trong năm 1998.
- Ngay tại Việt nam cũng như trong khu vực đã và đang hình thành rõ nét các thị rường cạnh tranh mạnh mẽ về thu hút vốn đầu tư nước ngoài, tạo nên sự phân định mất tập trung và lôi kéo nguồn vốn đầu tư vào những thị trường có sức hấp dẫn lớn (đặc biệt là giá đất, chính sách thuế, giá lao động, các thủ tục cấp phép...)
- Một số qui định chưa mang tính hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài như chương trình nội địa hoá đối với sản phẩm của các dự án công nghiệp nặng điểm xuất phát phải đạt 25%, qui định xuất khẩu trên 80% sản phẩm đối với lĩnh vực đầu tư vào Việt nam .
- Thị trường xuất khẩu truyền thống bị ảnh hưởng bởi tình hình suy thoái kinh tế và khủng hoảng tiền tệ, tài chính (đặc biệt là các thị trường Đông Nam á, Nhật, Hàn Quốc, ấn Độ...)
3. Giá trị vốn đầu tư thực sự đã đưa vào thực hiện của các dự án trong giai đoạn 1989-2000 có xu hướng giảm mạnh, hệ số giảm bình quân là 0,5. Đặc biệt cuối năm 2000 dự kiến sẽ hoàn thành 25 công trình của dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài có qui mô vốn từ 10-70 triệu USD, ước vốn đầu tư thực hiện trong năm 2000 đạt từ 80-150 triệu USD. Dự báo giai đoạn 1996-2000 tốc độ tăng trưởng của vốn đầu tư thực hiện sẽ giảm sút do các nguyên nhân sau:
- Nhiều dự án không có khả năng về tài chính (đặc biệt là vốn vay) gặp nhiều ở các đối tác nước ngoài là các công ty nhỏ không có uy tín lớn đối với các ngân hàng vay, hoặc các công ty mẹ không nhận bảo lãnh vay, do tình hình suy thoái và khủng hoảng tài chính tiền tệ của các nước trong khu vực dẫn đến hàng loạt các tập đoàn, công ty lớn bị phá sản làm cho môt số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt nam hoạt động sản xuất, kinh doanh kém hiệu quả, giảm lực lượng lao động, giảm giờ làm, giảm lương...)
- Không có khả năng tài chính cũng như không có kinh nghiệm qủan lý để hực hiện đề bù và giải phóng mặt bằng.
- Do tiến hành triển khai dự án chậm, bị ảnh hưởng điều tiết của thị trường làm cho mục tiêu của dự án bị mất cơ hôi đầu tư, đang phải tìm cách xoay sở chuyển mục tiêu của dự án.
- Một số dự án do bị ảnh hưởng của nhu cầu thị trường, muốn kinh doanh có hiệu quả đã tự ý thay đổi thiết kế xây dựng đã được duyệt, sai giấy phép, phải tạm đình chỉ xây dựng.
- Những quy định thay đổi về quy hoạch và kiến trúc (nhất là xung quanh hồ Hoàn kiếm và các khu vực nội đô) có tác động không nhỏ tới kế hoạch thực hiện thi công xây dựng của doanh nghiệp, đặc biệt là thay đổi kiến trúc, quy mô, độ cao của dự án.
4. Trong tình hình bối cảnh kinh tế suy giảm ở các nước Đông Bắc á và Đông Nam á (ASEAN) đã ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt nam nói chung và Hà Nội nói riêng. Tuy nhiên sự suy giảm kinh tế đã và đang nhanh chóng được Chính phủ các quốc gia cố gắng khắc phục để tạo hành trang vững chắc cùng nhau bước vào thế kỷ 21. Cùng với cả nước Hà Nội đã có kế hoạch khai thác tổng thể các nguồn vốn để đầu tư phát triển nền kinh tế xã hội trong tương lai trong đó FDI là nguồn vốn đóng vai trò cực kỳ quan trọng, định hướng kế hoạch tăng trưởng nguồn vốn FDI từ 8-10 tỷ USD (2005-2010). Những giải pháp tích cực nhằm kêu gọi vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài như sau:
a. Đề nghị Chính phủ cho mở rộng một số chính sách khuyến khích đối với các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Hà Nội như:
- Miễn giá thuê đất trong 2 năm đầu và giảm 50% giá thuê đất trong 2 năm tiếp theo cho các Dự án đầu tư vào Hà nội.
- Cho áp dụng hình thức đầu tư 100% đối với các lĩnh vực trước đây không được như: khách sạn, thương mại, văn phòng, căn hộ, vui chơi giải trí
- Có kế hoạch cân đối nguồn vốn ngân sách để xây dựng hoàn thiện các công trình hạ tầng kỹ thuật (như: đường điện, cấp nước, thoát nước, thông tin liên lạc, đường giao thông ...) đến chân hàng rào của các Dự án Đầu tư Trực tiếp của nước ngoài.
b. Đối với các Dự án tồn đọng lâu, khả năng thực hiện xấu, ảnh hưởng đến hiệu lực của Giấy phép Đầu tư, đề nghị Chính phủ cho áp dụng biện pháp:
- Chuyển nhượng cho các nhà đầu tư nước ngoài khác hoặc các Công ty cổ phần Việt nam có khả năng tài chính để đền bù và xây dựng Dự án với tiến độ nhanh hơn.
- Cho áp dụng hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài (trước đây không được), đặc biệt là các Dự án k/s, văn phòng, căn hộ .... để khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài tự chủ, gắn bó, có trách nhiệm cao trong việc thực thi dự án.
- Cho phép các dự án bị mất cơ hội đầu tư do ảnh hưởng điều tiết của thị trường được chuyển đổi mục tiêu hoạt động phù hợp với các điều kiện kinh doanh trong thị trường phát triển.
- Cần thiết phải thay đổi nhân sự không có khả năng quản lý và trình độ điều hành cũng như không tạo nên được hạt nhân đoàn kết của bên Việt nam đối với bên Nước ngoài trong Công ty Liên doanh.
c. Xây dựng chiến lược vận động xúc tiến đầu tư trên cơ sở chuẩn bị thật tốt danh mục các dự án đầu tư của thành phố theo các chương trình đầu tư trọng điểm, có phân định các Dự án được ưu tiên, khuyến khích và các Dự án đặc biệt khuyến khích. Hướng dẫn và tạo các cơ hội đầu tư có đầy đủ các điều kiện thuận lợi để tạo môi trường đầu tư thật hấp dẫn cho các nhà đầu tư nước ngoài có ý tưởng đầu tư vào Hà nội, công bố rõ danh mục định hướng kêu gọi đầu tư nước ngoài gồm:
- Các Dự án khuyến khích và đặc biệt khuyến khích đầu tư
- Danh mục lĩnh vực đầu tư khuyến khích và có điều kiện hoặc địa bàn khuyến khích đầu tư (đặc biệt xây dựng từ cấp quận, huyện)
- Danh mục lĩnh vực không cấp phép hoặc không được khuyến khích đầu tư.
d. Khai thác tốt hơn nữa về ưu thế của Hà nội để tạo nhiều cơ hội thuận lợi kêu gọi đầu tư với nước ngoài như: tiềm năng ưu đãi, quỹ đất, lực lượng chất xám, vị trí địa lý, các chính sách khuyến khích và các điều kiện hấp dẫn khác.
e. Xây dựng kế hoạch nâng cao năng lực quản lý và sự phối hợp của các cơ quan đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, kế hoạch về công tác cán bộ và lao động trong các doanh nghiệp có vốn FDI nhằm làm tốt việc bố trí nhân sự, đào tạo, đào tạo lại bồi dưỡng đội ngũ cán bộ; bồi dưỡng tay nghề cho người lao động; tổ chức công tác Đảng, Công đoàn trong các Doanh nghiệp có vốn FDI.
f. Sớm triển khai các qui hoạch ngành, giao thông, cấp nước, môi trường, cây xanh và các Khu phố cổ, Khu phố cũ, Khu phụ cận thành phố, Khu ven các hồ, các Khu Công nghiệp, các Khu Đô thị Mới, các Trung tâm Văn hoá Thể thao, Khu vui chơi giải trí phù hợp với qui hoạch tổng thể của Hà Nội đang trình Chính phủ phê duyệt.
g. Cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực thẩm định, duyệt Dự án hợp tác đầu tư, giao đất, cấp phép xây dựng cho các Dự án, cấp phép Xuất Nhập khẩu và xây dựng một số qui định cụ thể về đền bù, giải phóng mặt bằng, huy động vốn, ưu tiên giao đất, cho thuê đất, xây dựng hoàn thiện các công trình hạ tầng kỹ thuật đến chân hàng rào đối với các Dự án đầu tư của Nước ngoài.
phần iii
những định hướng cơ
bản của đầu tư trực
tiếp nước Ngoài vào
hà nội đến năm 2020
I. Những định hướng chung về phát triển kinh tế-xã hội và đầu tư trực tiếp nước ngoài
Thành phố Hà Nội là địa bàn có nhiều tiềm năng, lợi thế lớn để phát huy các nguồn lực phát triển kinh tế. Thể hiện ở vị trí, đặc điểm là Thủ đô, là địa bàn kinh tế có vai trò quan trọng trong chiến lược phát triển của vùng tam giác kinh tế đồng bằng Bắc Bộ (Hà nội - Hải Phòng - Quảng Ninh).
Thành phố Hà Nội đang trong quá trình cải tạo và xây dựng các chùm khu đô thị, khu công nghiệp mới. Nhiều tiềm năng về lao động, đất đai chưa được khai thác triệt để, nhất là ở khu vực ngoại thành. Một số lĩnh vực kinh doanh, dịch vụ như: Du lịch, thị trường chứng khoán, tiền tệ, môi giới giao dịch thương mại, tư vấn đầu tư, tài chính ... có khả năng phát triển mạnh.
Căn cứ vào tình hình và những đặc diểm nêu trên; Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ 12 đã xác định 5 mục tiêu định hướng phát triển cơ bản của Thành phố Hà Nội đến năm 2000 và các năm tiếp theo với các chỉ tiêu chủ yếu như sau:
- Tốc độ tăng GDP bình quân hàng năm: 15%
- GDP bình quân đầu người tăng: 11%/năm
+ Đến năm 2000 đạt: 1.100 USD/người
- Tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp: 19- 20%/năm
- Tốc độ tăng gía trị sản xuất nông nghiệp: 4- 4,5%/năm
- Tổng doanh số bán lẻ thị trường xã hội : 14- 15%/năm
- Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên vào năm 2000: 1,3%
Nghị quyết của Đảng bộ Thành phố cũng đã nhấn mạnh nhiệm vụ hàng đầu là phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Những nội dung cơ bản của nhiệm vụ này được nêu trong Nghị quyết là những căn cứ quan trọng, định hướng cho mục tiêu, nhiệm vụ phát triển các hoạt động kinh tế đối ngoại của Thành phố nói chung và đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) nói riêng.
Trong những năm cuối của thập kỷ 90 và những năm tiếp theo để chuẩn bị hành trang bước vào thế kỷ 21, thành phố Hà nội đã có định hướng các chỉ tiêu cơ bản nhằm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài như sau:
Chỉ tiêu cơ bản
Đơn vị
1997
2000
2010
Số dự án
Dự án
300
444
1000
Vốn đầu tư đăng ký
1000 USD
7 289 000
8 300 000
25 000 000
Vốn đầu tư thực hiện
1000 USD
2 435 000
3 200 000
12 000 000
- Cơ cấu phân bổ vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được định hướng phát triển theo mô hình sau:
Ngành
Tỷ trọng%
2000
2010
* Công nghiệp
34
41.0
* Phát triển đô thị
4,8
9.0
* Giao thông, Bưu điện
21
18.0
* Bất động sản
29
15
* Tài chính - ngân hàng
4
6.0
* Nông Lâm nghiệp
0,2
4.0
* Khác
7
7.0
- Tập trung khuyến khích, phát triển mạnh các Dự án đầu tư vào các Khu Công nghiệp tập trung, sẽ hình thành thêm 4 Dự án lớn có tầm chiến lược là: 2 Khu Công nghiệp tập trung (Thanh trì và Nam Thăng Long); 2 Khu Đô thị Mới là (Đô thị Giao lưu và Đô thị Cánh đồng xa Từ Liêm tiến tới hình thành Khu đô thị lớn Bắc sông Hồng - Đông Anh). Hiện tại Thành phố Hà Nội đã thành lập được 5 Khu công nghiệp tập trung có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là:
* Khu CN Nội Bài - Sóc Sơn 100 ha
* Khu CN Sài Đồng A 420 ha
* Khu CN Sài Đồng B 96 ha
* Khu CN Đài Tư 40 ha
* Khu CN Bắc Thăng Long 128 ha
và 3 khu đô thị mới là:
* Khu Đô thị Bắc Thăng Long: 273 ha
* Khu Đô thị Nam Thăng Long: 392 ha
* Khu Đô thị Sông Hồng CITY: 6 ha
- Thu hút và sử dụng các nguồn vốn đầu tư trực tiếp (FDI) phải được tập trung vào các lĩnh vực: công nghiệp hoá hướng vào xuất khẩu, công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu, du lịch, dịch vụ thu ngoại tệ. Ưu tiên cho những Dự án sản xuất có công nghệ và kỹ thuật tiên tiến, thu hút nhiều lao động; những Dự án lớn đầu tư tập trung như các trung tâm thương mại, khách sạn, các khu vui chơi, giải trí cũng như những Dự án kinh doanh dịch vụ có hiệu quả cao; những Dự án giao thông công cộng, xây mới cải tạo nâng cấp hạ tầng cơ sở Đô thị như: đường xá, cầu vượt, bến cảng hoặc những dự án góp phần nâng cao đời sống văn hoá, tinh thần của nhân dân Thủ đô.
- Định hướng thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Hà nội đến năm 2005 sẽ tăng từ 8 - 10 tỷ USD và năm 2010 sẽ là 25 tỷ USD. Cơ cấu vốn đầu tư sẽ chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đô thị.
Hình thành được 8 Khu Công nghiệp tập trung: Sóc Sơn; Bắc Thăng Long; Sài Đồng A; Sài Đồng B; Ô Cách - Gia Lâm; Đài Tư; Thanh Trì; Nam Thăng Long.
Tạo được một số chùm Đô thị mới như: Đô thị Nam Thăng Long; Đô thị Bắc Thăng Long; Đô thị Trung Yên; Đô thị Từ Liêm (Cánh Đồng xa); Làng giao lưu văn hoá Thuỵ sĩ; Thành phố Bắc sông Hồng ... Hình thành các Khu vui chơi giải trí: Công viên Lê nin, Công viên Mễ Trì, Trung tâm thi đấu thể thao đua mô tô, ôtô, đua ngựa ..v..v..
phần IV
Những giải pháp về
xúc tiến và quản lý đầu tư
trực tiếp nước ngoài trên
địa bàn hà nội
i. giải pháp về tư duy kinh tế
1. Đánh giá đúng vị trí của FDI trong nền kinh tế quốc dân: FDI là một bộ phận cấu thành của toàn bộ hoạt động đầu tư của Quốc gia, mà nguồn vốn trong nước xét tổng thể có ý nghĩa quyết định. FDI không thay thế được các nguồn đầu tư khác, nhưng có thế mạnh riêng của nó. Trong những năm trước mắt, khi nguồn vốn tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế còn hạn hẹp, nguồn ODA chưa đáng kể thì FDI chiếm vị trí quan trọng góp phần cải tiến dần cơ cấu kinh tế quóc dân. FDI “ là việc thu hút dòng tiền từ các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân nước ngoài vào Việt nam để thực hiện các hình thức đầu tư như liên doanh, 100% vốn nước ngoài và hợp đồng hợp tác kinh doanh. Rõ ràng FDI khác với ODA là không gây ra tình trạng nợ lần cho các thế hệ mai sau. Khi bỏ vốn đàu tư vào Việt nam, Chủ đầu tư buộc phải quan tâm làm cho tiền đẻ ra tiền. trong quan hệ làm ăn với các đối tác Việt nam theo nguyên tắc phân chia lợi nhuận và rủi ro theo tỷ lệ góp vốn của mỗi bên. Vì vậy trong quá trình thu hút FDI cần tránh những tư duy, quan điểm sai lầm như:
Thứ nhất: Coi FDI như một nhân tố có hại cho nền kinh tế độc lập, tự chủ. Quan điểm này hiện nay ở Việt nam không nhiều nhưng họ cũng đã cản trở quá trình phát triển của nền kinh tế đang khởi sắc, không ý thức được mục tiêu của FDI thực ra là yếu điểm của nước chủ nhà và đồng thời là thế mạnh của các nhà đầu tư nước ngoài. FDI vào Việt nam - một nước có chủ quyền, có pháp luật phải chịu sự điều hành của luật pháp Việt nam, những qui định, kiểm tra giám sát của các cơ quan quản lý nhà nước. Bởi vì các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là pháp nhân Việt nam. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường có điều tiết của Nhà nước thì các xí nghiệp coá vốn đầu tư nước ngoài là một trong năm thành phần kinh tế được thừa nhận. Hơn nữa FDI của Việt nam theo qui định của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam chỉ được tồn tại và hoạt động trong một thời gian không quá 50 năm. Hết thời gian qui định trong giấy phép đầu tư, việc gia hạn hay không đó là chủ quyền của Nhà nước Việt nam. Các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phải thuê đất của nhà nước hoặc Bên Việt nam góp vào vốn pháp định của liên doanh bằng giá trị quyền sử dụng đất. Nhà nước ta không bán đất. ở đây, CNTB Nhà nước không chỉ bao gồm đầu tư nước ngoài theo hình thức xí nghiệp liên doanh mà còn theo hình thức 100% vốn và hợp đồng hợp tác kinh doanh, vì về bản chất đó là việc thực hiện chế độ tô nhượng đối với các nhà tư bản nước ngoài (cho thuê đất đai, nhà xưởng, thuê quyền khai thác mỏ...).
Như vậy FDI không thể là nhân tố tạo lên chệch hướng nếu chúng ta có chiến lược đúng đắn và có biện pháp quản lý tốt.
Thứ hai: ảo tưởng về “tính mầu nhiệm của FDI”, gán cho nó một vai trò tích cực, tự nhiên, bất chấp điều kiện bên trong của đất nước, tách rời những cố gắng cải thiện môi trường đầu tư . Mặc dù có nhiều nước trên thế giới đã coi FDI như là chiếc chìa khoá vàng cho sự phát triển kinh tế. Thông qua FDI mà nước ta có thể nhận được công nghệ và kỹ thuật tiên tiến, tiếp thu được kinh nghiệm quản lý tiến tiến, tìm kiếm được thị trường bên ngoài Việt nam. Ngay cả các nước có trình độ phát triển cao như Mỹ, Khối EU... vẫn cần đến vốn đầu tư nước ngoài. Nhưng không vì thế ỉ lại vào FDI mà không khai thác tối đa các tiềm năng bên trong.
FDI tự nó chưa thể quyết định sự thành công của mục tiêu phát triển kinh tế mà nó phải được kết hợp đồng bộ với các nguồn vốn khác như: ODA, và các nguồn vốn huy động nội lực trong nước.
2. Xây dựng chi tiết về định hướng chiến lược hợp tác đầu tư trực tiếp với nước ngoài trên cơ sở quy hoạch tổng thể chiến lược phát triển kinh tế xã hội của thành phố cũng như chương trình phát triển kinh tế đối ngoại đến năm 2000 và các năm tiếp theo, bám sát vào các chỉ tiêu cơ bản trong Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ 12 đã nêu:
- Tốc độ tăng GDP bình quân hàng năm: 15%
- GDP bình quân đầu người tăng: 11%/năm
+ Đến năm 2000: 1.100 USD/người
- Tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp: 19- 20%/năm
- Tốc độ tăng gía trị sản xuất nông nghiệp: 4- 4,5%/năm
- Tổng doanh số bán lẻ thị trường xã hội: 14- 15%/năm
- Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên vào năm 2000: 1,3%.
3. Cần có chính sách kinh tế đặc biệt, dành ưu tiên các nguồn vốn ở mức có thể (trong đó nguồn vốn FDI, ODA chiếm vai trò quan trọng) cho Hà nội để thực hiện tốc độ tăng trưởng kinh tế đột phá, đi trước các địa phương khác trong toàn quốc từ 10 đến 15 năm (thực tế thủ đô của các nước trong khu vực đã áp dụng cơ chế kinh tế đặc biệt này từ những năm trong thập kỷ 80, tốc độ phát triển vượt các địa phương khác trong nước từ 15 đến 20 năm), nhằm xây dựng thành phố Hà nội thành một phát Thủ đô hoàn thiện mang sắc thái công nghiệp hoá, hiện đại hoá có nhịp độ triển cao, toàn diện trên các lĩnh vực kinh tế (đặc biệt phát triển hệ thống hạ tầng cơ sở đô thị như giao thông công cộng, đường cao tốc vành đai, cầu vượt, đường ngầm, sân bay, cầu cảng....)
4. Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của thành phố phải phù hợp với phát triển cơ cấu kinh tế thị trường và thiết lập hệ thống thị trường đồng bộ tạo điều kiện cho chính thị trường đầu tư nước ngoài hoạt động có hiệu quả. Nhanh chóng hình thành thị trường tài chính, hoàn thiện thị trường lao động, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh ... và phát triển các ngành dịch vụ, tài chính, ngân hàng, đáp ứng những đòi hỏi bức bách của hoạt động sản xuất kinh doanh, để đến năm 2000 và các năm tiếp theo Thủ đô Hà nội sẽ trở thành một trung tâm lớn của cả nước về Tài chính, Ngân Hàng - Công nghiệp - Thương mại, dịch vụ.
5. Định hướng chiến lược sử dụng vốn đầu tư nước ngoài (FDI) phải có hiệu quả, nhằm tập trung vào các chương trình kinh tế trọng điểm của thành phố, các ngành công nghiệp mũi nhọn, các ngành kinh tế khác có ưu thế nhằm dịch chuyển cơ cấu kinh tế hướng công nghiệp hoá, từng bước thực hiện chiến lược công nghiệp hoá hướng vào xuất khẩu và chiến lược công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu.
6. Hoàn thiện môi trường pháp lý, đảm bảo hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài bằng những điều khoản có tính chất ưu đãi về mặt lợi ích kinh tế của họ và đảm bảo an toàn về vốn cho họ. Xây dựng một hệ thống pháp luật đầy đủ và đồng bộ, đảm bảo thi hành phấp luật nghiêm minh.
7. Xây dựng chiến lược hợp tác đầu tư với nước ngoài trên cơ sở chiến lược phát triển kinh tế quốc dân. Khẩn trương hoàn thành tổng quy hoạch đô thị phù hợp với quy hoạch ngành để tạo điều kiện thuận lợi thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
8. Tích cực chủ động tiến hành xúc tiến đầu tư, tạo lập và lựa chọn các đối tác đầu tư nước ngoài , lựa chọn các hình thức thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài phù hợp và có hiệu quả, đa dạng và đa phương hoá trong hợp tác đầu tư. Tăng cường quan hệ ngoại giao với các nước theo chủ trương "Việt nam muốn làm bạn với tất cả các nước".
9. Củng cố quản lý Nhà nước đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, nâng cao năng lực quản lý của các cấp, các ngành , các địa phương và đơn vị hợp tác đầu tư với nước ngoài. Phân cấp quản lý chặt chẽ và đồng bộ, đảm bảo sự tập trung thống nhất, khắc phục hiện tượng chia cắt, phân tán. Cải tiến các thủ tục hành chính theo hướng nhanh gọn, hiệu quả, đơn giản hoá các thủ tục tiếp nhận đầu tư trực tiếp nước ngoài, thực hiện quy chế thống nhất một đầu mối về tổ chức thực hiện việc hình thành hồ sơ, thẩm định dự án, xét duyệt, cấp giấy phép đầu tư và triển khai quản lý các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn Hà nội.
10. Phát triển mạnh nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước với sự tham gia của các thành phần kinh tế, trong đó một mặt phải củng cố kinh tế quốc doanh theo hướng hiệu quả, đồng thời phát triển mạnh kinh tế tư nhân, kinh tế cổ phần dưới nhiều hình thức phù hợp với chủ trương, đường lối kinh tế của Nhà nước.
11. Mở cửa với thông tin trong và ngoài nước nhất là thông tin kinh tế thị trường, văn hoá xã hội, khoa học công nghệ với mọi hình thức. Thiết lập một thị trường thông tin công bằng đối với mọi thành viên trong xã hội, đảm bảo quyền được thông tin của mọi người dân và các doanh nghiệp trong nền kinh tế mở.
II. giải pháp nâng cao hiệu Quả sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
Tốc độ thực hiện Dự án đầu tư là một yếu tố quan trọng quyết định hiệu quả đầu tư, quá trình thực hiện càng nhanh thì Dự án càng sớm đi vào sản xuất đem lại hiệu quả. Trên thực tế trong những năm vừa qua, tiến độ thực hiện các Dự án đầu tư trực tiếp nước ngoaì chưa được nhanh chóng (số vốn đầu tư thực hiện mới đạt được khoảng 28% vốn đầu tư đăng ký). Trong quá trình triển khai thực hiện Dự án, các nhà đầu tư còn gặp một số trở ngại như: Thủ tục hành chính quá phức tạp ví dụ: như thủ tục xin cấp sử dụng đất, xin phép xây dựng ... việc giải phóng mặt bằng luôn luôn là vấn đề nan giải vừa lãng phí tiền của vừa mất nhiều thời gian; sự không thống nhất quan điểm trong lãnh đạo của một cơ quan chức năng hay của chính quyền địa phương... Để cho các Dự án đầu tư trực tiếp nước ngoaì triển khai thực hiện nhanh chóng, sớm phát huy hiệu quả, chúng ta cần thiết phải tháo gỡ những trở ngại trên theo các giải pháp sau:
1. Xây dựng quy hoạch tổng thể cho hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài là một đòi hỏi cấp bách, có liên quan đến việc điều chỉnh cơ cấu đầu tư phát triển xã hội nói chung và đầu tư trực tiếp nước ngoaì nói riêng. Bộ Kế hoạch - Đầu tư và Hà nội đã phối hợp với các ngành, các địa phương xây dựng và công bố danh mục Dự án kêu gọi đầu tư trực tiếp nước ngoaì trên địa bàn Hà nội theo bình diện chung của cả nước. Điều này cho phép chúng ta chủ động được trong việc gọi vốn đầu tư trực tiếp nước ngoaì và hướng nó vào các mục tiêu của chúng ta nêu ra, có như thế mới thu được hiệu quả cao trong hợp tác đầu tư.
2. Thẩm định Dự án đầu tư là khâu đầu tiên xác định hiệu quả của một dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài. Công việc này đòi hỏi phải được tiến hành nhanh chóng và chuẩn xác, muốn có kết quả tốt yêu cầu phải có đầy đủ thông tin cần thiết, những kiến thức khoa học về kinh tế, kỹ thuật.
3. Quản lý dự án sau giấy phép đầu tư là công đoạn khó khăn nhất, chiếm nhiều thời gian và công sức nhất trong toàn bộ quy trình quản lý nhà nước, nó quyết định thành công và hiệu quả cuả hoạt động hợp tác đầu tư. Việc buông lỏng quản lý dự án sau giấy phép đầu tư đã gây ra nhiều khó khăn trở ngại cho việc triển khai thực hiện dự án một cách có hiệu quả, đây cũng là nguyên nhân đổ bể của một số dự án đầu tư và một số các vi phạm đáng tiếc của nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoaì, như vi phạm chế độ tuyển dụng lao động, tiền lương cho cán bộ và công nhân...
4. Công tác tổ chức cán bộ là một yếu tố quyết định, nhưng đang là khâu yếu nhất trong công tác quản lý nhà nước. Hiện nay đã có khoảng 17.000 người hoạt động làm việc trực tiếp trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Hầu hết số cán bộ này chưa có kiến thức và kinh nghiệp về đầu tư nước ngoaì, ít hiểu biết pháp luật, ngoại ngữ kém. Nhưng họ lại được nhận một công việc khó khăn, mới mẻ vượt quá sức của họ như được cử vào hội đồng quản trị, làm giám đốc hoặc phó giám đốc doanh nghiệp liên doanh. Họ không hiểu rõ chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn và nghiệp vụ chuyên môn lại phải đối mặt với các nhà kinh doanh sừng sỏ, nên không tránh khỏi bị thua thiệt. Hơn nữa, nhiều cán bộ của ta trong liên doanh chỉ lo toan cho đồng lương và lợi ích riêng của mình, thiếu quan tâm đến lợi ích của Nhà nước, của người lao động và không ít cán bộ của chúng ta bị mua chuộc, mắc bệnh tham nhũng. Tình trạng trên đây là nguyên nhân chính gây thiệt hại lớn cho chúng ta trong quá trình hợp tác đầu tư với nước ngoài. Để đáp ứng yêu cầu trước mắt cũng như lâu dài, chúng ta cần đặc biệt chú trọng đến công tác bồi dưỡng và đào tạo cán bộ.
Iii . giải pháp về qui hoạch đô thị
A. Những nét khái quát chung về Hà nội:
Hà nội là Thủ đô của nước CHXHCN Việt nam với khoảng 100 triệu dân ở đầu thế kỷ 21 (hiện tại trên 75 triệu dân), là trung tâm Chính trị - Văn hoá - Khoa học - Kỹ thuật của cả nước và cũng là một trong những trung tâm kinh tế lớn, trung tâm giao dịch quốc tế .
Thủ đô Hà nội có trên 2000 cơ quan Trung ương với trên 30 vạn cán bộ, trên 30 trường Đại học, Cao đẳng; trên 200 Cục vụ, 41 Viện quốc gia chỉ đạo và nghiên cứu KHKT, gần 65% lực lượng KHKT của cả nước,
Hà nội cũng là nơi tập trung hầu hết các cơ quan đại diện nước ngoài, các Đại Sứ quán, các trung tâm giao dịch quốc tế, Hà nội thực sự là trái tim của cả nước.
Hà nội có gần ngàn năm lịch sử, giầu truyền thống, nhiều di tích, di sản văn hoá, các công trình tiêu biểu cho nền văn hoá quốc gia. Hàng năm có hàng triệu khách du lịch quốc tế và trong nước, hầu hết các cuộc hội nghị, hội thảo, sinh hoạt văn hoá, KHKT, sinh hoạt chính trị xã hội ... mang tính quốc gia và quốc tế diễn ra tại đây.
Hà nội có 286 xí nghiệp quốc doanh và 16775 cơ sở sản xuất công nghiệp ngoài quốc doanh, giá trị tổng sản lượng công nghiệp 10043 tỷ đồng chiếm khoảng trên 10% toàn quốc, nhiều ngành thực sự đã trở thành mũi nhọn, đầu đàn trong công nghiệp toàn quốc, là đầu mối giao thông lớn chiếm trên 30% khối lượng vận tải cả nước, là trung tâm kinh tế lớn. Về thương mại có khoảng 1000 doanh nghiệp thương nghiệp quốc doanh và tư nhân, gần 50 Công ty du lịch và lữ hành, 209 khách sạn biệt thự với trên 4500 buồng đạt tiêu chuẩn quốc tế.
Hà nội có vị trí thuận lợi và quan trọng đặc biệt, là trung tâm đầu mối giao thông đường bộ, đường thuỷ, đường sắt, đường hàng không tạo nên mắt xích liên kết mật thiết giữa Hà nội với các Tỉnh, Thành phố trong Việt nam và các quốc gia trong khu vực và trên thế giới.
Nhân lực của Hà nội dồi dào trình độ dân trí khá cao có khả năng tiếp nhận nhanh chóng các công nghệ hiện đại cũng như trình độ quản lý tiên tiến.
Tiềm năng thị trường Hà nội lớn, vùng ảnh hưởng thị trường Hà nội đến các Tỉnh, Thành phố phía Bắc cũng như thị trường Trung quốc, Lào rộng, có nhiều triển vọng.
Tất cả những nhân tố trên chính là cơ sở khoa học cho sự hình thành và phát triển Thủ đô Hà nội một cách bền vững và cũng là những tiềm năng lớn hấp dẫn nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoaì.
B. Các giải pháp Qui hoạch phát triển Đô thị nhằm thúc đẩy, thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
1. Qui hoạch phát triển đô thị được thực hiện trên nguyên tắc bảo lưu, phục hồi các di sản văn hoá, gìn giữ các công trình mang đậm bản sắc văn hóa của dân tộc, phải có giải pháp hạn chế xây dựng các công trình cao tầng ở một số khu vực nội thị như: Khu phố cổ (12-16m), Khu phố cũ (được phép xây xen các nhà cao tầng có kiến trúc phù hợp với cảnh quan xung quanh), Khu phố mới và các khu phát triển đô thị (được phép xây theo ý tưởng của các chủ đầu tư). Hà Nội từng bước hình thành một đô thị vừa cổ kính vừa hiện đại, cải tạo và nâng cấp Sông Hồng trở thành một cảnh quan đẹp, hấp dẫn về du lịch và trở thành luồng trung tâm phân giải nối hai khu vực phía Bắc đô thị và phía Nam đô thị của Hà Nội, dự kiến sẽ xây dựng 6-10 chiếc cầu bắc qua sông Hồng để đáp ứng nhu cầu giao thông ngày càng tăng của đô thị. Tổng quan Hà Nội sẽ được định hình rõ nét các khu vực đô thị chuyên dụng như: Khu hành chính, khu thương mại, khu dịch vụ - vui chơi giải trí, khu tập trung dân cư, khu công nghiệp, ...
Giảm mật độ cư trú bình quân ở các khu phố cổ, cũ xuống dưới 600 người/ha, hạ thấp mật độ xây dựng các công trình, tăng diện tích cây xanh, không gian công cộng và giao thông tĩnh.
2. Chỉ tiêu sử dụng đất đô thị bình quân là 100 m2/ người, trong đó phải bảo đảm chỉ tiêu đất giao thông 25 m2/người, chỉ tiêu đất cây xanh, công viên, thể dục thể thao là 18 m2/người và chỉ tiêu đất xây dựng các công trình phục vụ lợi ích công cộng là 5 m2/người
3. Dịch chuyển cơ cấu kinh tế để Hà Nội trở thành một thành phố công nghiệp. Dành diện tích đất dùng để xây dựng các khu công nghiệp khoảng 3000 ha, xây dựng hoàn thiện hạ tầng cơ sở kỹ thuật cho khoảng từ 6 đến 8 Khu công nghiệp, hiện tại đã hình thành được 6 khu là:
- Khu công nghiệp Sài Đồng A: 407 ha
- Khu công nghiệp Sài Đồng B: 96 ha
- Khu công nghiệp Nội Bài-Sóc Sơn: 100 ha
- Khu công nghiệp Thăng Long: 294 ha
- Khu công nghiệp Đài Tư: 40 ha
- Khu công nghiệp Nam Thăng Long: 218 ha
Ngoài các Khu công nghiệp trên, Hà nội cần tiếp tục quy hoạch thêm 2 khu công nghiệp vào năm 2010 đó là: Khu Công nghiệp Thanh trì (150 ha); Khu Công nghiệp Đông Anh (210ha).
Dịch chuyển tỷ trọng công nghiệp và Khu công nghiệp trong cơ cấu nguồn vốn FDI của Hà Nội tăng từ 22,7% (1997) đến 32,5% (2000), 41% (2010) và 55% (2020).
4. Về qui hoạch giao thông: Định hướng trên nguyên tắc ưu tiên phát triển cơ sở hạ tầng giao thông đô thị đồng bộ với các công trình kỹ thuật hạ tầng khác để hình thành cơ cấu qui hoạch thành phố hoàn chỉnh nhằm phục vụ một cách hiệu quả cho các hoạt động kinh tế-xã hội của thủ đô. Đất xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông, bao gồm cả hệ thống giao thông động và giao thông tĩnh, phải đạt tỷ lệ bình quân 25% đất đô thị. Việc phát triển giao thông vận tải của thủ đô phải lấy phát triển vận tải hành khách công cộng làm khâu trung tâm, bảo đảm tỷ lệ vận tải hành khách công cộng đến năm 2010 là 30% và đến năm 2020 là 50% số lượng hành khách.
5. Về cấp nước, cấp điện: Đảm bảo chỉ tiêu nước sinh hoạt 150-180 lít/người/ngày (năm 2010) với 95% dân số đô thị dùng nước và 180-200 lít/người/ngày (năm 2020) với 100% dân số đô thị dùng nước. Tăng nhu cầu công suất điện năng sử dụng từ 652 MVA (năm 1997) lên 2500 MVA (năm 2020), đảm bảo chỉ tiêu 795W/người vào năm 2010 và 954W/người vào năm 2020
6. Khu đô thị hạn chế phát triển: Trên nguyên tắc bảo lưu, phục hồi các di sản văn hoá, gìn giữ các công trình mang bản sắc của dân tộc, Khu hạn chế phát triển của Hà nội bao gồm: Khu phố cổ đã được kiến trúc xây dựng gần 1000 năm lịch sử của Hà nội, có nhiều công trình cổ kính (Quận Hoàn kiếm và một phần Quận Ba đình), các nhà đầu tư được phép xây dựng công trình có độ cao từ 12 - 16m, có kiến trúc đẹp, phù hợp cảnh quan cổ kính xung quanh, hạn chế xây dựng các công trình cao tầng để không chất tải thêm vốn đã quá tải về cơ sở hạ tầng. Khu phố cũ được kiến trúc xây dựng từ thời pháp đô hộ (Quận Hai Bà Trưng và một phần Quận Ba đình), các nhà đầu tư được phép xây dựng xen các công trình cao tầng với kiến trúc phù hợp cảnh quan xung quanh, đặc biệt là kiến trúc kiểu Pháp hoặc Châu âu, từng bước giải toả một số nhà máy, xí nghiệp, cơ quan, trường học, bệnh viện ... là nguồn ô nhiễm hoặc không thích hợp ở đây, để có điều kiện giảm dân số, tăng chỉ tiêu sử dụng đất và cải thiện điều kiện môi trường đô thị. Khu phố mới và các khu vực phát triển đô thị (các quận, huyện còn lại) được phép xây dựng các công trình theo ý tưởng của các nhà đầu tư.
7.Khu đô thị phát triển mở rộng: Để đáp ứng quy mô tăng dân số của Hà nội từ 2,5 triệu người (năm 1998) lên 3,5 triệu người (năm 2010) và 5 triệu người (năm 2020), Hà nội phải mở rộng phát triển nhiều khu vực đô thị mới và các đô thị vệ tinh. Hiện tại đã định hình được một số khu đô thị lớn huy động bằng nguồn vốn đầu tư nước ngoài như:
* Khu đô thị Bắc Thăng long, dọc kề đường cao tốc nối liền Hà nội và sân bay Quốc tế Nội bài, cách cầu Thăng long về phía Bắc 2500m, diện tích đất 273 ha, dân số từ 30.000 đến 50.000 người.
* Khu Đô thị Nam Thăng Long, dọc kề đường cao tốc nối liền Hà Nội và sân bay Quốc tế Nội Bài, cách cầu Thăng Long về phía Nam 800m, diện tích đất 392 ha, dân số từ 50.000 đến 80.000 người.
* Khu đô thị Sông Hồng City nằm ở phía Đông Bắc Quận Ba Đình với diện tích đất 6 ha; xây dựng khu tổ hợp gồm khách sạn, căn hộ, khu vui chơi giải trí, bệnh viện, nhà hát, công viên cây xanh và các công trình công cộng... với dân số khoảng 5000 người.
Bên cạnh các khu đô thị được huy động bằng nguồn vốn đầu tư nước ngoài, Hà Nội cần có kế hoạch định hướng quy hoạch phát triển các khu đô thị mới ven nội như:
* Khu Tây Bắc (hữu ngạn sông Hồng): Bao gồm phía Nam cầu Thăng long, dọc trục đường 32. Năm 2020 dân số phát triển tới 450 nghìn người, diện tích đất khoảng 5.600 ha.
* Khu Tây Nam bao gồm khu dân cư dọc quốc lộ 6, khu Yên hoà và dọc vành đai 3 năm 2020 dân số phát triển tới 180 nghìn người, diện tích đất khoảng 1.900 ha.
* Khu phía Nam bao gồm khu sân bay Bạch mai, Định công, Linh đàm, dọc quốc lộ 1, thị trấn Văn điển, Cầu Biêu, Mai động, dân số 200 nghìn người cần 2280 ha đất vào năm 2020.
* Khu Bắc cầu Thăng long (tả ngạn sông Hồng) bao gồm khu đầu cầu Thăng long, xung quanh đầm Vân trì, dân số phát triển 170 nghìn người, 3.000 ha đất vào năm 2020.
* Khu Đông Anh - Cổ loa: bao gồm thị trấn Đông anh, dọc QL 3, dân số phát triển 400 nghìn người cần 5.000 ha đất vào năm 2020.
* Khu phía Đông: Bao gồm thị trấn Gia Lâm, Sài đồng, Đức giang, Yên viên, dân số phát triển tới 300 nghìn người cần 3.700 ha đất vào năm 2020.
Tất cả các khu ven nội phát triển phải được xây dựng theo hướng hiện đại hoá, đảm bảo môi trường đô thị chất lượng cao, độ cao xây dựng bình quân khoảng từ 5 - 10 tầng, hệ số sử dụng đất khoảng 2 lần, chỉ tiêu nhà ở 20 - 24 m2 sàn/người vào năm 2020.
IV. Giải pháp về môi trường pháp lýđối với đầu tư trực tiếp nước ngoài
Môi trường đầu tư nước ngoài là tổng hoà các yếu tố cơ bản:
- Tính ổn định chính trị của xã hội
- Tính hấp dẫn của thị trường bảo đảm khả năng sinh lợi của vốn
đầu tư nước ngoài.
- Tính ổn định về môi trường pháp lý và luật
Khả năng sinh lợi và hiệu quả kinh tế - xã hội của FDI phụ thuộc rất lớn vào chính sách kinh tế của Nhà nước và đặc biệt là môi trường pháp lý ổn định mang tính chiến lược lâu dài, những giải pháp khả thi về môi trường pháp lý đối với FDI trong đề tài này được đề cập như sau:
1. Hoàn thiện các chính sách khuyến khích đầu tư FDI thông qua biện pháp thuế:
- Thuế ảnh hưởng đến quyết định đầu tư, tạo cho Nhà đầu tư có cơ hội quyết định đầu tư vào một dự án và quan tâm đến trước tiên là lợi nhuận.
- Thuế tác động đến lợi nhuận và từ đó có ảnh hưởng đến quyết định đầu tư.
- Thuế đóng vai trò bảo vệ sản xuất trong nước (thuế quan nhập khẩu) sẽ kích thích đầu tư nước ngoài vaò trong nền kinh tế nội địa.
- Thuế là biện pháp quan trọng trong chính sách ưu đãi đầu tư, hướng đầu tư vào các dự án thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Các ưu đãi về thuế là sự khuyến khích quan trọng về mặt tài chính để thu hút các nhà đầu tư vào một quốc gia hay một lĩnh vực kinh tế nhất định.
Việc cải tiến hệ thống thuế đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài dịch chuyển theo hướng:
- Dễ tính toán, đơn giản các mức thuế;
- Đảm bảo lợi ích quốc gia;
- Có tác dụng khuyến khích đầu tư nước ngoài;
- Phù hợp với thông lệ quốc tế.
2. Chính sách đảm bảo hỗ trợ xây dựng các công trình hạ tầng kỹ thuật đến hàng rào các doanh nghiệp có vốn FDI.
Trong Luật đầu tư nước ngoài có đề cập đến việc Chính phủ bảo đảm hỗ trợ xây dựng các công trình kỹ thuật đến hàng rào của doanh nghiệp có vốn FDI, tuy nhiên để phát huy khả năng khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn FDI và thực hiện triệt để Luật đầu tư nước ngoài và các Nghị định của Chính phủ chúng ta phải đề xuất các biện pháp thực hiện hữu hiệu như:
- Cân đối hàng năm (bằng các chỉ tiêu pháp lệnh) về vốn ngân sách (hoặc vốn vay tín dụng ưu đãi) cho các địa phương để xây dựng các công trình hạ tầng kỹ thuật đến hàng rào của các doanh nghiệp có vốn FDI.
- Tạo điều kiện thuận lợi và đảm bảo để các doanh nghiệp có vốn FDI tạm ứng trước số tiền xây dựng các công trình hạ tầng kỹ thuật ngoài hàng rào.
- Nhà nước (hoặc các địa phương) có qui định chi tiết đảm bảo việc thanh toán lại số tiền doanh nghiệp có vốn FDI đã tạm ứng ra để xây dựng các công trình hạ tầng kỹ thuật ngoài hàng rào.
3. Chính sách ngoại tệ cần phải được đổi mới theo hướng tự do hoá có sự kiểm soát của Nhà nước, hình thành thị trường hối đoái trong các ngân hàng Thương mại và thông qua các trung tâm giao dịch ngoại tệ do Ngân hàng Nhà nước tổ chức và chỉ đạo, nhằm đáp ứng sự cân bằng ngoại tệ cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
4. Sự bó hẹp phạm vi thực hiện loại hình đầu tư tạo cho các nhà đầu tư nước ngoài khó khăn trong việc thực hiện lựa chọn dự án đầu tư tại Việt nam. Nên mở rộng một số chính sách khuyến khích đầu tư FDI như:
- Miễn giá thuê đất trong 2 năm (hoặc vài năm) đầu và giảm 50% giá thuê đất trong 2 năm (hoặc vài năm) tiếp theo.
- Cho áp dụng loại hình đầu tư 100% vốn nước ngoài đối với các lĩnh vực trước đây không được như khách sạn, văn phòng, căn hộ, vui chơi giải trí, trung tâm thương mại...
5. Cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực thẩm định, duyệt dự án hợp tác đầu tư, giao đất, cấp phép xây dựng cho các dự án, cấp phép xuất nhập khẩu và xây dựng một số quy định cụ thể về đền bù, giải phóng mặt bằng, huy động vốn, ưu tiên giao đất, cho thuê đất, xây dựng hoàn thiện các công trình hạ tầng kỹ thuật đến chân hàng rào đối với các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài.
6. Đẩy mạnh chính sách khuyến khích xuất khẩu và có chế độ ưu đãi đặc biệt khuyến khích đầu tư đối với các dự án có số lượng sản phẩm xuất khẩu nhiều (ít nhất trên 60%). Hoặc sản xuất các sản phẩm thay thế hàng nhập khẩu có chất lượng cao, đạt tiêu chuẩn quốc tế.
7. Phải có giải pháp chắc chắn, ổn định, gắn bó, tác động qua lại giữa các chương trình phát triển kinh tế đối ngoại trong môi trường vĩ mô như: Chương trình phát triển hạ tầng đô thị, các định hướng về chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, chương trình sử dụng các nguồn vốn trong nước ... đó là điều kiện tiên quyết của mọi ý định và hành vi đầu tư. Đối với vốn nước ngoài, điều này càng có ý nghĩa quan trọng hơn bao giờ hết. Để thu hút được dòng vốn đầu tư nước ngoài, nền kinh tế nội địa phải là nơi an toàn cho sự vận động của tiền vốn đầu tư, sau đó là nơi có năng lực sinh lợi cao hơn những nơi khác. Sự an toàn của vốn đòi hỏi môi trường vĩ mô ổn định, không gặp những rủi ro do các yếu tố chính trị - xã hội gây ra.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- B0145.doc