Từ thưở ban đầu, khi con người còn là những bầy đàn nguyên thủy thì chưa
hề có khái niệm chiếm hữu và sở hữu đất đai. Xã hội phát triển hơn, họ đã biết đánh dấu địa phận của mình và chăn nuôi, trồng trọt, sinh hoạt trên đó thì đất đai thuộc sở hữu chung của cộng đồng hay một nhóm nguời. Nhận thức của con người ngày càng phát triển, nhu cầu sử dụng đất tăng lên dẫn tới sự chiếm hữu ruộng đất và biến quyền sở hữu đất đai thành sở hữu tư nhân. Trong chế độ sở hữu tư nhân về ruộng đất, quyền sở hữu không chỉ đem lại lợi ích kinh tế mà còn đem lại quyền lực chính trị cho người sở hữu đất đai. Những người chủ đất tự sản xuất trên đất của mình hoặc cho thuê. Người không có đất trở thành người làm thuê và bắt đầu có sự tách rời giữa người sở hữu và người sử dụng đất đai.
Còn trong điều kiện đất đai thuộc sở hữu toàn dân, quan hệ về đất đai dựa trên việc giải quyết quan hệ giữa quyền và nghĩa vụ của các đối tượng liên quan đến đất đai. Ở Việt Nam, Nhà nước đã quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân. Tại Điều 5 – Luật đất đai 2003 đã khẳng định: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu”. Nhà nước thể hiện vai trò đại diện chủ sở hữu của mình thông qua quyền năng định đoạt đối với đất đai:
103 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1179 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nghiên cứu thực trạng và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý đất nông nghiệp trên địa bàn huyện Thanh Trì – Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nghiệp. Diện tích đất nông nghiệp toàn huyện là 3548,13 ha chiếm 56,19% diện tích đất tự nhiên bao gồm 4 loại đất chính:
+ Đất sản xuất nông nghiệp.
+ Đất trồng cây lâu năm
+ Đất nuôi trồng thủy sản
+ Đất nông nghiệp khác.
Số liệu cụ thể của từng loại đất này đã được đề cập trong phần hiện trạng sử dụng đất nông nghiệp.
Các đối tượng sử dụng đất nông nghiệp cũng rất đa dạng bao gồm: Hộ gia đình, cá nhân (3109,1663 ha chiếm 49,4% diện tích đất tự nhiên), UBND cấp xã, tổ chức kinh tế và các tổ chức khác.
Hai là về biến động đất nông nghiệp năm 2005 so với năm 1995, 2000 và so với 2003. Tình hình biến động đất nông nghiệp đã được phân tích rất tỉ mỉ theo từng loại đất về diện tích tăng giảm và các nguyên nhân của sự thay đổi đó.
Kết quả kiểm kê đất đai của huyện đã được các đoàn thanh tra khẳng định. Trong quá trình tổ chức thực hiện, huyện đã quán triệt tinh thần của cấp trên, chấp hành các quy định trong triển khai kiểm kê, tiến hành khẩn trương, nghiêm túc và khoa học. Số lượng biểu mẫu mà huyện thiết lập đầy đủ, đảm bảo chất lượng và có sự nhất quán cao giữa các biểu kiểm kê và bản đồ hiện trạng sử dụng đất . Sau khi thực hiện xong, UBND huyện đã báo cáo kết quả số liệu kiểm kê đất đai đầy đủ theo đúng yêu cầu. Các sản phẩm cuối cùng được lập trên cơ sở số liệu kiểm kê như: bản đồ (cả bản đồ giấy và bản đồ số), báo cáo thuyết minh đều đầy đủ và có chất lượng tốt. Sở dĩ, huyện Thanh Trì có thể làm tốt công tác kiểm kê đất đai năm 2005 là do sự cố gắng tích cực toàn thể cán bộ công nhân viên của các ban ngành liên quan đến đất đai đồng thời có sự chỉ đạo hướng dẫn sát sao của UBND huyện, Sở Tài nguyên và môi trường Thành phố đặc biệt là sự phối hợp chặt chẽ của Phòng Tài nguyên và môi trường với các xã, thị trấn trong huyện.
Số liệu kiểm kê năm 2005 đã phản ánh đúng hiện trạng sử dụng đất nông nghiệp nói riêng và các nhóm đất, loại đất nói chung. Đồng thời những con số đó cũng giúp cơ quan quản lý đánh giá được tình hình biến động đất đai, quá trình chu chuyển giữa các loại đất và trong nội bộ nhóm đất. Nhờ công tác kiểm kê đất đai mà các nhà quản lý sẽ quản lý chặt chẽ, đầy đủ các loại đất từ đó xây dựng nên quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất trong những năm tiếp theo nhằm phân bổ hợp lý quỹ đất và phát huy tối đa tiềm năng đất đai làm giàu cho quê hương mình.
Thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại tố cáo vi phạm pháp luật về đất nông nghiệp.
Đây là một nội dung quan trọng trong công tác quản lý nhà nước về đất đai, nó góp phần đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật qua đó ổn định trật tự xã hội. Thời gian trước năm 1993, tình hình sử dụng đất nông nghiệp cũng như các loại đất khác không quá phức tạp. Thêm vào đó là giá trị quyền sử dụng đất còn thấp nên những khiếu nại, tố cáo liên quan đến đất đai chưa gây bức xúc dư luận. Bởi vậy, trong thời kỳ này công tác thanh tra, kiểm tra, giải quyết xử lý vi phạm đất đai chưa được quan tâm đúng mức và thực hiện chưa nghiêm túc.
Trong những năm gần đây những vi phạm trong quản lý, sử dụng đất đai như: sử dụng sai mục đích, lấn chiếm đất đaixảy ra phổ biến, mọi lúc, mọi nơi khiến cho công tác này trở nên nặng nề và rất khó khăn. Vì thế UBND Thành phố cũng như UBND huyện đã ban hành nhiều văn bản đôn đốc Phòng Tài nguyên và môi trường tăng cường thanh tra, kiểm tra, giải quyết và xử lý triệt để những vụ việc liên quan đến đất đai. Do tình hình phát triển kinh tế - xã hội của huyện làm cho quyền sử dụng đất ngày càng có giá nên những mâu thuẫn về lợi ích giữa những người liên quan nảy sinh nhiều dẫn đến nhiều vụ việc phức tạp và nghiêm trọng.
Đứng trước những diễn biến phức tạp đó, huyện Thanh Trì đã xác định công tác giải quyết đơn thư là một nội dung chủ yếu, thường xuyên. Tình hình đơn thư của công dân gửi tới các cấp chính quyền đa dạng, do nhiều nguyên nhân, liên quan đến nhiều đối tượng, thành phần. Theo thống kê của Phòng Tài nguyên và môi trường, số đơn thư kkhiếu nại, tố cáo của công dân qua một số năm cụ thể như sau:
Năm 1995 Phòng đã vận động, tuyên truyền và ra quyết định cưỡng chế 152 trường hợp vi phạm sử dụng đất thu hồi 17.235m2.
Năm 1996, Phòng nhận được 41 đơn khiếu nại và đã giải quyết 15 đơn trong đó 7 đơn đã có kết luận cuối cùng.
Năm 1997, Phòng nhận thụ lý và giải quyết 37 vụ tranh chấp đất đai trong đó 34 vụ có kết luận.
Năm 2000, Phòng đã phát hiện và xử lý vi phạm ở xã Định Công, Ngọc Hồi, Ngũ Hiệp, Thịnh Liệt.
Đến năm 2003, 2004 tình hình khiếu nại, tố cáo và kết quả giải quyết đơn thư của công dân được tổng kết trong biểu dưới đây.
Biểu 16: TÌNH HÌNH GIẢI QUYẾT ĐƠN THƯ VỀ ĐẤT ĐAI TẠI THANH TRÌ
STT
Nội dung
2003
2004
1
Số lượng đơn tiếp nhận
172
214
2
Kết quả giải quyết
152
163
+ Rút đơn
8
17
+ Số đơn khiếu nại đúng
77
52
+ Số đơn khiếu nại có đúng và sai
52
83
+ Số đơn khiếu nại sai
15
11
3
Số đơn tồn đọng
20
51
Nguồn: Phòng Tài nguyên và môi trường Thanh Trì
Theo đánh giá, tổng số đơn thư liên quan đến đất đai chiếm đa số trong tổng số vụ tại tòa án. Những con số trong biểu trên cho thấy số lượng đơn thư của công dân là rất lớn và luôn có chiều hướng gia tăng. Năm 2003 số đơn là 172, năm 2004 tăng 42 đơn nâng tổng số đơn năm này lên 214. Trong đó có những đơn khiếu nại sai hoàn toàn, năm 2004 chiếm 5%. Số đơn còn tồn đọng cũng khá lớn năm 2004 là 51 đơn. Số lượng công dân đi khiếu nại tố cáo cũng tăng lên (năm 2003 là 273 người đến năm 2004 là 344 người). Tuy nhiên số đoàn đông người đi tố cáo chỉ có một vụ vào năm 2003. Như vậy, các vụ việc khiếu nại, tố cáo của công dân chưa gây ra những hậu quả quá nghiêm trọng gây mất trật tự an ninh trên địa bàn huyện. Nếu các vụ việc không được giải quyết triệt để, nghiêm minh, hợp tình hợp lý sẽ dẫn đến khiếu kiện vượt cấp kéo dài.
Đến năm 2005, từ đầu năm Phòng Tài nguyên và môi trường nhận được 23 đơn đã giải quyết được 17 đơn. Trong đó Phòng đã có công văn trả lời 4 đơn, một số đơn được chuyển cho cấp có thẩm quyền giải quyết. Phòng thụ lý giải quyết 6 đơn của công dân nhưng đến nay vẫn chưa xong do có một số vướng mắc từ phía người dân.
Thực hiện theo tinh thần Luật đất đai 2003, đề cao phương hướng giải quyết tranh chấp bằng hòa giải, Phòng Tài nguyên và môi trường đã tiến hành hòa giải nhiều vụ việc và một số công dân đã tự nguyện rút đơn nhưng số lượng còn ít. Đa số các đơn thư phải tiến đến giải quyết theo luật định. Trên đây là những vụ việc chung liên quan đến đất đai bao gồm cả những tranh chấp, khiếu nại về đất nông nghiệp. Mặc dù giá trị đất nông nghiệp không quá cao song những mâu thuẫn giữa những người sử dụng đất cũng không vì thế mà đơn giản. Những vụ việc liên quan đến đất nông nghiệp cũng được chú ý giải quyết kịp thời để đảm bảo quyền lợi cho những người sử dụng đất hợp pháp.
Để ổn định tình hình sử dụng đất nông nghiệp và phát hiện kịp thời những sai phạm trong sử dụng đất, huyện Thanh Trì đã tổ chức những đợt thanh tra, kiểm tra và đã phát hiện ra hàng trăm vụ việc vi phạm pháp luật về đất đai.
Về giao đất, cho thuê đất không đúng thẩm quyền:
Biểu 17: DIỆN TÍCH ĐẤT GIAO, CHO THUÊ KHÔNG ĐÚNG THẨM QUYỀN
STT
Xã
Diện tích (m2)
Cơ quan ký quyết định giao, cho thuê
1
Yên Mỹ
15990
2
Tả Thanh Oai
171883
10000
3
Ngũ Hiệp
5642
4
Tổng số
193515
10000
Nguồn: Phòng Tài nguyên và môi trường Thanh Trì
Trong toàn huyện đã có 99 trường hợp giao đất cho cá nhân và cho cá nhân, hộ gia đình thuê đất không đúng thẩm quyền ở Yên Mỹ, Tả Thanh Oai và Ngũ Hiệp với tổng diện tích lên đến hàng trăm ha. UBND huyện đã lập đoàn thanh tra và xử lý nghiêm: 3 chủ tịch xã bị cách chức, 3 cán bộ địa chính bị xử lý trong đó 2 cán bộ buộc thôi việc. Đó là những hình thức kỷ luật đích đáng cho những người lợi dụng chức quyền cố ý làm sai quy định. Việc kiên quyết xử lý vi phạm sẽ làm lành mạnh hóa đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước về đất đai, lấy lại niềm tin của dân chúng.
Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo đã có nhiều chuyển biến tích cực trong thời gian gần đây. Nhìn nhận một cách khách quan số đơn thư, số lượt người khiếu nại, tố cáo về đất đai vẫn còn nhiều, một số vụ việc chưa được giải quyết triệt để, số đơn thư tồn đọng nhiều. Những tồn tại này là do nguyên nhân chủ yếu sau:
Thời gian trước năm 1993, quản lý đất đai bị buông lỏng, công tác thanh tra, kiểm tra không được chú trọng. Bởi vậy, tình trạng giao đất, chuyển mục đích sử dụng đất, chuyển nhượng quyền sử dụng đất, lấn chiếm đất đai diễn ra phổ biến làm phát sinh tranh chấp, khiếu kiện nhất là đất nông nghiệp.
Tiếp đến là việc tổ chức thực hiện chưa nghiêm túc các công cụ pháp luật. Tình trạng lộn xộn là điều kiện tốt cho những cán bộ lợi dụng quyền hạn giao đất không đúng thẩm quyền thậm chí dung túng cho những hành vi xấu. Vì vậy, số đơn thư tố cáo của công dân liên tiếp gửi đến các cơ quan có thẩm quyền làm giảm hiệu lực quản lý đất đai của Nhà nước.
Ngoài ra, trình độ hiểu biết pháp luật đất đai của người dân còn hạn chế nên đã có người khiếu nại, tố cáo sai gây áp lực cho các nhà quản lý đất đai.
Cuối cùng là về nhân sự của các cơ quan quản lý đất đai. Lực lượng cán bộ địa chính của huyện còn “mỏng”, lực lượng trẻ có trình độ chuyên môn nhưng còn thiếu kinh nghiệm. Đặc biệt cán bộ có nhiệm vụ giải quyết tranh chấp, khiếu nại về đất đai ít và trình độ chuyên môn hạn chế, không đáp ứng kịp thời cho những vụ việc nhiều về số lượng, đa dạng về chủng loại, nghiêm trọng về mức độ.
Trên đây là những nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng khiếu nại, tố cáo liên miên trong thời gian qua. Để giải quyết được những vụ việc này, huyện Thanh Trì phải quán triệt các tồn tại đó. Với sự cải cách thủ tục hành chính đồng thời đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra có lẽ trong thời gian tới, huyện sẽ giải quyết được những đơn thư còn tồn đọng và hạn chế được những khiếu kiện phát sinh, do đó góp phần làm lành mạnh hóa môi trường pháp lý đất đai trên địa bàn, ổn định dần và nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về đất đai cũng như đất nông nghiệp.
ĐÁNH GIÁ CHUNG THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐẤT NÔNG NGHIỆP.
Kết quả đạt được.
Nhìn chung công tác quản lý nhà nước về đất đai của huyện những năm vừa qua nhất là từ khi Phòng Địa chính được thành lập đã dần đi vào nề nếp, các nội dung quản lý được triển khai khá đồng bộ. Trong đó, quản lý nhà nước về đất nông nghiệp đã đạt được những thành tựu quan trọng:
Thành công nhất có lẽ phải kể đến việc giao đất và cấp GCN quyền sử dụng đất nông nghiệp đã cơ bản hoàn thành. Số hộ còn lại không đáng kể và cũng đang được huyện gấp rút hoàn thành. Đây là điều kiện để tình hình sử dụng đất nông nghiệp đi vào ổn định giúp cho công tác quản lý đất nông nghiệp thuận lợi và đơn giản hơn.
Đạt được kết quả như trên không thể không kể đến kết quả đạt được của công tác khảo sát, đo đạc và lập bản đồ địa chính, bản đồ hiện trạng sử dụng đất nông nghiệp có những bước tiến đáng kể. Công tác này đang từng bước được sô hóa, đo đạc dựa trên các công nghệ hiện đại như hệ thống định vị toàn cầu GPS đem đến kết quả chính xác. Từ đó hệ thống bản đồ được lưu trữ lâu dài, chất lượng tốt.
Một kết quả đáng ghi nhận nữa là hồ sơ địa chính được hoàn thiện. Số liệu về đất đai được cập nhật biến động hàng năm, hồ sơ địa chính được lưu trữ đầy đủ hơn giúp UBND huyện nắm chắc tình hình sử dụng quỹ đất bao gồm cả đất nông nghiệp.
Công tác kiểm kê định kỳ năm 2005 hoàn thành đúng thời hạn, đảm bảo chất lượng. Nhờ việc tổ chức thực hiện hợp lý, khoa học nên nội dung này được thực hiện đồng bộ trên tất cả các xã, thị trấn của huyện. Thông qua việc kiểm kê, huyện sẽ rà soát được tổng diện tích đất, mục đích sử dụngđể đề ra phương hướng khai thác tiềm năng này triệt để và hiệu quả hơn.
Công tác thanh tra, kiểm tra được các cấp ủy Đảng và chính quyền quan tâm, đã có nhiều văn bản đôn đốc giải quyết đơn thư của công dân. Bởi vậy, nhiều vụ việc phức tạp kéo dài nhiều năm được giải quyết và khống chế được tình hình kiện cáo vượt cấp không theo quy định của pháp luật. Từ đó tạo được niềm tin trong nhân dân khiến người dân an tâm hơn khi đầu tư vào đất, làm ổn định tình hình an ninh trật tự xã hội.
Bộ máy quản lý nhà nước về đất đai huyện Thanh Trì cũng đã từng bước hoàn thiện. Đến nay, cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý nhà nước tương đối đầy đủ, hợp lý, sự phối hợp giữa các bộ phận chặt chẽ và “ăn ý” với nhau. Đó là một trong lý do quan trọng thúc đẩy tiến độ các hoạt động quản lý trên địa bàn huyện. Tất cả các nội dung quản lý nhà nước về đất nông nghiệp đều được các cấp lãnh đạo quan tâm, chỉ đạo sát sao. Thêm vào đó là sự cộng tác nhiệt tình của các cơ quan liên quan tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị triển khai công tác quản lý đất nông nghiệp.
Tóm lại, trong những năm qua các cơ quan quản lý nhà nước về đất nông nghiệp đã hoàn thành khá tốt nhiệm vụ của mình, đạt được những thành tựu đáng khích lệ. Kết quả đó làm ổn định tình hình sử dụng đất nông nghiệp, nông dân an tâm đầu tư sản xuất vào những thửa đất của mình, nâng cao năng suất lao động và cải thiện đời sống.
Tồn tại
Bên cạnh những thành tựu to lớn không thể bỏ qua những tồn tại, vướng mắc cản trở công tác quản lý nhà nước về đất nông nghiệp trên địa bàn huyện.
Một khó khăn có lẽ không còn là mới chính là việc ban hành các văn bản pháp luật về đất đai của các cấp. Cấp huyện là cấp chủ yếu thực thi các quy định của cấp tỉnh, cấp Trung ương, còn việc ra quyết định nếu có chỉ là đôn đốc, hướng dẫn cấp xã thực hiện công việc được giao. Bởi vậy, thực trạng quá nhiều văn bản pháp luật về đất đai hiện nay gây rất nhiều khó khăn cho cấp huyện trong việc thực hiện vai trò quản lý đất đai. Như nhiều nhà hoạch định chính sách nhận định, thực tế hệ thống văn bản pháp luật nước ta thiếu cụ thể và chưa thực sự có tính khả thi cao. Thực tiễn thời gian qua chúng ta thấy rõ có những văn bản được ban hành sau đó lại kéo theo hàng loạt văn bản khác hướng dẫn thi hành dẫn đến tình trạng không nhất quán đôi khi còn trái ngược nhau.Và đặc biệt, nhiều văn bản còn mang tính hành chính. Mặc dù, những năm gần đây các cấp đã có nhiều cố gắng trong việc hoàn thiện chính sách pháp luật về đất đai nhưng kết quả đem lại chưa cao. Huyện Thanh Trì là một huyện ngoại vi thành phố đang trên đà phát triển nên có rất nhiều chính sách mới cần thực hiện. Ngay trong việc cấp GCN quyền sử dụng đất nông nghiệp huyện cũng đã gặp khó khăn như: hết GCN theo mẫu cũ nên không tiến hành cấp giấy được, về ban hành khung giá đất mới của thành phố cũng gây khó khăn cho người dân về tài chínhMặt khác, UBND Thành phố ban hành nhiều văn bản để điều chỉnh các quan hệ đất đai trong toàn thành phố trong khi Thanh Trì là một huyện mới phát triển nên không thể áp dụng một cách máy móc những quy định đó. Trong thời gian tới, UBND Thành phố cũng như Sở Tài nguyên và môi trường Thành phố cần phải chú trọng hơn nữa trong việc ban hành các văn bản pháp luật. để chúng thực sự trở thành công cụ quan trọng cho công tác quản lý nhà nước về đất đai đồng thời tạo lên hành lang pháp lý chặt chẽ cho mọi quan hệ về đất đai.
Hạn chế công tác quản lý nhà nước về đất nông nghiệp không chỉ là văn bản pháp luật “vừa thừa vừa thiếu” mà còn do hệ thống hồ sơ cũ kỹ và không đầy đủ. Hồ sơ địa chính của huyện có loại bản đồ đo vẽ từ rất lâu không còn phù hợp với hiện trạng đất đai cũng như đất nông nghiệp thêm vào đó hệ thống sổ sách, bản đồ này được lưu giữ bằng giấy và các phương pháp thủ công. Qua thời gian nhiều cái đã ẩm mốc, nhàu nát không còn đáp ứng được nhu cầu quản lý nữa. Hiện UBND huyện và Phòng Tài nguyên và môi trường chỉ có một số bản đồ số mới được lập gần đây còn chủ yếu là bản đồ, tư liệu giấy vừa cồng kềnh vừa không cập nhật thông tin lại không chính xác, không trùng khớp do lịch sử để lại. Bởi vậy, huyện đã gặp rất nhiều khó khăn trong khi triển khai các nội dung quản lý nhà nước về đất đai. Những tài liệu này không còn phù hợp với thực tế của địa phương nên không thể là cơ sở, là chuẩn mực để huyện giải quyết các vấn đề liên quan đến đất đai. Bởi vậy, việc cần làm bây giờ là UBND huyện phải có biện pháp điều chỉnh, chỉnh lý, cập nhật lại số liệu, hình dạng các thửa đất đồng thời tiến hành xây dựng các bản đồ mới phản ánh đúng thực tế sử dụng đất của địa phương. Mặt khác, huyện phải từng bước số hóa hệ thống dịa chính phục vụ công tác quản lý nhà nước về đất đai.
Riêng đối với đất nông nghiệp, trong thời gian qua huyện triển khai chủ trương chuyển đổi cơ cấu cây trồng chậm, các dự án mô hình du lịch nông nghiệp sinh thái cũng chưa được quan tâm đúng mức. Tất cả những dự án này đã nằm trong quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp và quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của huyện nhưng việc thực hiện còn chậm trễ. Sự chậm trễ đó một phần là do việc điều chỉnh quy hoạch không gian của huyện sau khi có sự thay đổi địa giới hành chính cũng chưa được thực hiện. Vì thế nếu các dự án được triển khai sớm có thể sẽ phá vỡ không gian quy hoạch. Chính việc “chờ đợi” này sẽ làm giảm hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp, không khai thác được thế mạnh của vùng.
Việc tranh chấp, khiếu nại, tố cáo liên quan đến đất đai nói chung và đất nông nghiệp nói riêng trên địa bàn huyện còn nhiều phức tạp. Mặc dù không có những vụ việc quá nghiêm trọng gây mất trật tự trị an song tình hình khiếu kiện không phải là đơn giản. Cho đến nay, tại tòa án nhân dân huyện, UBND huyện và Phòng Tài nguyên và môi trường còn tồn đọng khối lượng đơn thư lớn. UBND huyện đã đôn đốc giải quyết khiếu nại của công dân nhưng cán bộ của Phòng “mỏng” nên không thể giải quyết triệt để được. Chính sự khiếu kiện của công dân đã làm ảnh hưởng đến công tác quản lý nhà nước về đất đai. Chẳng hạn khi thực hiện cấp GCN quyền sử dụng đất do có hộ còn khiếu nại không kê khai đăng ký mà công tác này không hoàn thành dứt điểm hay do khiếu nại về giá bồi thường quyền sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất nên huyện cũng không thể thu hồi được đất nhanh chóng giải phóng mặt bằng thực hiện dự ánĐó chỉ là một vài ví dụ cho thấy tình hình khiếu nại, tố cáo ảnh hưởng như thế nào đến công tác quản lý nhà nước về đất nông nghiệp của huyện. Mặt khác, việc xử lý vi phạm cũng chưa thực sự nghiêm minh nên chưa có tác dụng răn đe. Vì vậy đã có những vụ việc không chỉ người dân vi phạm mà cán bộ cũng vi phạm làm giảm sút niềm tin của nhân dân vào Đảng, vào Nhà nước. Qua đó ta thấy rằng việc thực hiện nội dung giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất nông nghiệp của huyện cũng chưa giải quyết tốt và chưa có những chuyển biến tích cực.
Nguyên nhân.
Công tác quản lý nhà nước về đất nông nghiệp là một nội dung phức tạp đòi hỏi khả năng chuyên môn cao. Vì vậy bên cạnh những nội dung đã thực hiện tốt vẫn có những nội dung làm chưa tốt. Vậy đâu là những cản trở chủ yếu?
Đầu tiên tôi xin đề cập đến những nguyên nhân khách quan.
Như đã trình bày ở trên huyện Thanh Trì là địa phương bị chia tách nhiều lần với 3 lần thay đổi địa giới hành chính từ năm 1993 đến nay ảnh hưởng rất nhiều đến đất đai và bộ máy hành chính. Sau mỗi lần chia tách huyện, các cơ quan trong UBND huyện cũng thay đổi và xảy ra tình trạng chu chuyển cán bộ, một số cán bộ được điều động sang huyện mới hoặc chuyển cơ quan khác. Sự xáo trộn trong bộ máy quản lý chắc chắn sẽ tác động không nhỏ đến công tác quản lý đất đai. Các cán bộ địa chính của các xã có sự thay đổi về diện tích và nhân khẩu, cán bộ của phòng Tài nguyên và môi trường phải cập nhật lại thông tin đất đai, tìm hiểu lại lịch sử và những biến động đất đai. Việc thay đổi bộ máy hành chính dẫn đến sự mất cân bằng, không ổn định nên quản lý đất đai không hiệu quả là điều tất yếu.
Quá trình đô thị hóa cũng là một nguyên nhân khách quan gây khó khăn cho công tác quản lý đất đai. Đô thị hóa diến ra nhanh và mở rộng đến tất cả các xã trong huyện khiến cho tình hình sử dụng đất trở nên phức tạp vượt khỏi tầm kiểm soát của Nhà nước nhất là đất nông nghiệp. Do nhu cầu nhà ở và phát triển kinh tế tăng vọt làm cho diện tích đất nông nghiệp giảm “không phanh” và tự phát. Vì thế, công tác quản lý nhà nước không theo kịp những biến động đó.
Ngoài những nguyên nhân khách quan theo tôi nguyên nhân chủ quan mới thực sự quan trọng. Khâu tổ chức thực hiện của huyện chưa mang lại hiệu quả cao. Công tác tổ chức thực hiện các nội dung quản lý đã được phân chia thành từng giai đoạn nhỏ nhưng việc thực hiện chưa triệt để, chưa dứt điểm. Quản lý đất đai liên quan đến rất nhiều cơ quan: Phòng Tài nguyên và môi trường cơ quan Thuế, Kho bạc, Phòng kế hoạch, Phòng Tài chính và UBND các xã, thị trấnnên sự phối hợp càng nhịp nhàng thì hiệu quả công việc càng cao. Thực tế, sự phối hợp giữa các đơn vị này còn mang tính hình thức, chưa chặt chẽ gây ra sự trì trệ không đáng có.
Lý do tiếp theo là chất lượng nguồn nhân lực phục vụ quản lý đất đai. Lực lượng này của huyện Thanh Trì còn hạn chế cả về số lượng và chất lượng. Đội ngũ cán bộ địa chính đặc biệt là cán bộ xã vừa thiếu vừa yếu. Hiện có rất nhiều xã phải ký thêm hợp đồng ngắn hạn để có thêm nhân sự đáp ứng cho nhu cầu quản lý nên không đảm bảo về khả năng chuyên môn. Bên cạnh nhiều cán bộ quản lý tận tụy với công việc đây đó vẫn có bộ phận làm việc tắc trách, suy thoái đạo đức gây tâm lý bất bình trong nhân dân. Bên cạnh đó còn có một số cán bộ do tâm lý ngại va chạm nên đã kéo dài những giai đoạn công việc trong quá trình triển khai công tác quản lý đất đai. Đất đai là vấn đề hết sức phức tạp do gắn liền với lịch sử và liên quan đến lợi ích của nhiều đối tượng nên nảy sinh rất nhiều mâu thuẫn. Nếu cán bộ thực thi công việc không nắm vững chuyên môn và có thái độ dứt khoát thì rất khó giải quyết những vấn đề phức tạp này.
Nguyên nhân tiếp theo thuộc về phía người dân. Nhân dân huyện Thanh Trì có những phẩm chất tốt đẹp: lao động cần cù, thông minh sáng tạo, ý thức cộng đồngnhưng là một huyện chủ yếu sản xuất nông nghiệp trước đây nên trình độ dân trí không cao. Bởi vậy, sự hiểu biết pháp luật của họ cũng có phần hạn chế. Chính sự thiếu hiểu biết đó đã dẫn đến việc hiểu sai chủ trương, chính sách của Nhà nước , khiếu kiện không đúng gây khó khăn cho chính quyền sở tại cũng như các cấp lãnh đạo của huyện. Vì thê nhiều người dân đã không thực thi pháp luật cũng như các quy định do UBND huyện ban hành, làm phức tạp hóa công việc quản lý đất đai, gây khó khăn cho cán bộ khi thi hành công vụ.
Qua quá trình nghiên cứu tôi nhận thấy nhìn chung việc triển khai thực hiện các nội dung quản lý nhà nước về đất nông nghiệp khá đồng bộ và hiệu quả. Tuy nhiên, huyện Thanh Trì cũng không tránh khỏi những hạn chế. Trong thời gian tới chắc chắn huyện sẽ có những điều chỉnh để khắc phục những nguyên nhân trên hoàn thành tốt hơn nữa nhiệm vự quản lý đất đai của mình.
CHƯƠNG III
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐẤT NÔNG NGHIỆP TẠI HUYỆN
THANH TRÌ – HÀ NỘI
PHƯƠNG HƯỚNG, MỤC TIÊU QUẢN LÝ ĐẤT NÔNG NGHIỆP.
Đất nông nghiệp đã và đang góp phần quan trọng vào phát triển nông nghiệp nông thôn, nâng cao thu nhập cho người lao động, cải thiện đời sống nhân dân tạo nên bộ mặt mới cho huyện Thanh Trì. Trong những năm tới, phân bổ, bố trí đất nông nghiệp như thế nào cho hợp lý và hiệu quả là vấn đề không hề đơn giản đối với các cấp lãnh đạocủa huyện Thanh Trì. Để định hình một nền nông nghiệp hàng hóa, bền vững và bảo vệ môi trường huyện đã đề ra phương hướng và mục tiêu quản lý đất nông nghiệp trong thời gian tới.
Thứ nhất, huyện Thanh Trì chỉ đạo phát triển kinh tế chuyển dịch cơ cấu cơ bản là công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp. Huyện đầu tư phát triển nông nghiệp đô thị sinh thái gắn với du lịch và bảo vệ môi trường, phát triển các vùng sản xuất chuyên canh rau an toàn, xây dựng vùng nuôi trồng thủy sản chất lượng cao. Đó là hướng đi hoàn toàn hợp lý đòi hỏi huyện phải bố trí sử dụng diện tích đất nông nghiệp như thế nào cho tững xã, từng vừng cho phù hợp.
Thứ hai, huyện tập trung xây dựng hồ sơ địa chính số trong đó quan tâm đến hệ thống bản đồ số. Thực hiện theo chỉ đạo của UBND Thành phố huyện Thanh Trì đã bắt đầu áp dụng công nghệ thông tin vào thiết lập bản đồ địa chính. Sắp tới Phòng Tài nguyên và môi trường sẽ bắt tay vào thực hiện nội dung này. Khi hệ thống hồ sơ địa chính được số hóa sẽ giảm bớt được rất nhiều khâu trong lưu trữ tài liệu và tra cứu thông tin địa chính. Vì vậy, công tác quản lý nhà nước về đất đai sẽ được cải thiện đáng kể.
Thứ ba, đối với quy hoạch, những năm tới đây huyện Thanh Trì sẽ triển khai các dự án khu du lịch đô thị nông nghiệp sinh thái ở các xã: Đông Mỹ, Đại Áng và triển khai mô hình trang trại.
Thứ tư, do hậu quả từ việc giao đất theo Nghị quyết 10 của Chính phủ tiếp đó là Nghị định 64/CP nên việc sử dụng đất nông nghiệp của huyện hết sức manh mún, có hộ sử dụng tới 30 thửa đất. Nhiệm vụ đặt ra cho huyện Thanh Trì là tổ chức thực hiện dồn điền, đổi thửa.
Thứ năm, mục tiêu của huyện là tích cực giải quyết tranh chấp, khiếu nại tố cáo liên quan đến đất nông nghiệp trên địa bàn huyện. Huyện sẽ bổ sung đội ngũ cán bộ chuyên trách có trình độ chuyên môn cao thụ lý các loại đơn thư của công dân để giải quyết nhanh nhất vần đề rắc rối này. Qua đó làm ổn định tình hình sử dụng đất nông nghiệp cũng như tình hình an ninh xã hội trên địa bàn. Khi giải quyết được một cách triệt để khiếu kiện của công dân huyện cũng gián tiếp đẩy nhanh được quá trình thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất nông nghiệp, thu hồi đất nông nghiệp
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐẤT NÔNG NGHIỆP TẠI HUYỆN THANH TRÌ.
Qua quá trình nghiên cứu về công tác quản lý nhà nước về đất nông nghiệp trên địa bàn huyện Thanh Trì, tôi đã rút ra được những nguyên nhân hạn chế hiệu lực quản lý nhà nước về đất đai của huyện. Để giải tỏa được những tồn tại là điều không hề đơn giản hay có thể làm được trong “ngày một ngày hai”. Tìm ra các giải pháp hợp lý và hiệu quả để nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước về đất đai là một bài toàn khó đối với các nhà quản lý. UBND huyện Thanh Trì đã đề ra rất nhiều giải pháp, đã từng bước triển khai thực hiện và thu được kết quả khả quan. Theo tôi trong thời gian tới huyện Thanh Trì cần tập trung vào các giải pháp sau:
Hoàn thiện bộ máy quản lý nhà nước về đất đai, tăng cường phối hợp giữa các cơ quan liên quan.
Ngành Địa chính nước ta đã đề ra chiến lược phát triển ngành với mục tiêu hoàn thiện hệ thống quản lý Nhà nước về đất đai và đo đạc bản đồ vào năm 2010, phấn đấu đến khi đó ngành sẽ đạt trình độ hiện đại ngang tầm các nước trong khu vực. Thời gian để toàn bộ ngành thực hiện mục đích đó không còn xa bởi vậy tất cả các cơ quan hữu quan phải hết sức nỗ lực hoàn thiện tổ chức của cơ quan mình. Ngành Địa chính huyện Thanh Trì cũng đã có những chuyển biến tích cực góp phần thực hiện thành công mục tiêu đó. Tổ chức bộ máy quản lý đất đai của huyện đã khá hoàn chỉnh, Phòng Địa chính – Nhà đất (nay là Phòng Tài nguyên và môi trường) đã được thành lập và có cơ cấu tổ chức chặt chẽ theo đúng nguyên tắc quản lý. Tuy nhiên, bộ máy quản lý từ cấp huyện đến cấp xã, thị trấn chưa được đầy đủ và hoàn thiện do đội ngũ cán bộ chưa hoàn toàn đáp ứng được yêu cầu đặt ra. Ngoài ra, sự phối hợp của các đơn vị như: UBND huyện, Phòng Tài nguyên và môi trường, các xã, thị trấn trong huyện cũng chưa chặt chẽ. Việc này đã tạo ra kẽ hở cho những kẻ trục lợi cá nhân lợi dụng lấn chiếm đất đai, chuyển mục đích sử dụng đất bất hợp phápBởi vậy muốn công tác quản lý đất đai nói chung và đất nông nghiệp nói riêng đạt hiệu quả cao huyện Thanh Trì cần phải kiện toàn lại bộ máy quản lý Nhà nước về đất đai đồng thời phải có sự phối hợp nhịp nhàng giữa các bộ phận trong bộ máy đó.
Để nâng cao năng lực quản lý của mình cơ quan quản lý đất đai của huyện cần thực hiện chủ trương đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính. Mục tiêu của cải cách hành chính trong lĩnh vực đất đai là đơn giản hóa những thủ tục, giảm thiểu tối đa những khó khăn cho người dân khi đến làm việc với cơ quan Nhà nước. Bởi vậy, Nhà nước đã thực hiện “một cửa, một dấu” và tổ chức theo các cấp rõ ràng. Theo đó, người dân khi thực hiện nghĩa vụ về đất đai với Nhà nước chỉ cần nộp hồ sơ tai một đầu mối và nhận kết quả cũng tại đó. Hiện nay, Văn phòng đăng ký đất và nhà huyện Thanh Trì đã được thành lập, đi vào hoạt động và đã đạt được những kết quả bước đầu. Tuy nhiên, cơ cấu tổ chức và mối liên quan giữa Văn phòng với Phòng Tài nguyên và môi trường cũng còn nhiều vấn đề khúc mắc. Hiện nay, Văn phòng đăng ký đất và nhà trực thuộc Phòng Tài nguyên và môi trường huyện nhưng hai cơ quan này đang lưu trữ hai hệ thống hồ sơ khác nhau dẫn đến sự thiếu nhất quán trong việc quản lý và cán bộ làm nhiệm vụ phải đi lại nhiều lần giữa hai bộ phận. Khi muốn kiểm tra hồ sơ người dân cũng phải vào Phòng Tài nguyên và môi trường để xác minh hồ sơ nên làm giảm đi vai trò của hình thức “một cửa” Vì vậy, trong thời gian tới UBND huyện cần có những điều chỉnh cho phù hợp. Huyện có thể cho lưu hai bộ hồ sơ như nhau ở hai bộ phận này hoạc tách riêng hai hệ thống, những loại hồ sơ nào thường dùng cho những công việc của Văn phòng đăng ký đất và nhà thì chuyển ra đó. Làm như vậy sẽ giảm bớt được thời gian và công sức của cán bộ tiếp dân cho việc đi lại và nâng cao được hiệu quả công tác.
Với những biện pháp cải thiện bộ máy quản lý nhà nước về đất đai và cải cách thủ tục hành chính sẽ làm lành mạnh hóa bộ máy và cải thiện đáng kể những khó khăn của người dân khi làm các thủ tục liên quan đến đất đai.
Bổ sung và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ công tác quản lý đất đai.
Đất đai đối với mọi địa phương đều là tài sản quý giá và tình hình sử dụng hết sức phức tạp nên để quản lý được đầy đủ và chặt chẽ cần có một đội ngũ cán bộ đủ về số lượng và chất lượng mới có thể đảm đương đượcnhiệm vụ nặng nề đó. Tập trung vào con người luôn là một chiến lược đúng đắn bởi con người là trung tâm của xã hội, là động lực của sự phát triển nên nhân tố con người cần phải đặt lên vị trí hàng đầu. Trong khi đó, đội ngũ cán bộ địa chính của huyện Thanh Trì – Hà Nội còn thiếu và không đồng đều. Đội ngũ cán bộ của Phòng Tài nguyên và môi trường huyện phần lớn là trẻ, năng động, nhiệt tình, sáng tạo, có trình độ chuyên môn nhưng kinh nghiệm công tác chưa nhiều. Bên cạnh đó là đội ngũ cán bộ địa chính xã, thị trấn chuyên môn yếu, phần lớn mới chỉ qua các lớp tập huấn, một số ít được đào tạo chuyên ngành qua hệ trung cấp không đủ khả năng giải quyết những công việc phức tạp. Thông qua thực tế này, trong những năm tới huyện Thanh Trì cần nỗ lực nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong quản lý đất đai. Muốn làm được việc này, huyện cần có những bước đi cụ thể, tổ chức đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ địa chính toàn huyện. Đối với cán bộ của Phòng Tài nguyên và môi trường, UBND huyện cần tạo điều kiện về thời gian và kinh phí khuyến khích các cán bộ đi học thêm trình độ đại học và sau đại học. Đối với cán bộ địa chính xã, huyện cần đẩy mạnh việc mở các lớp tập huấn pháp luật, tập huấn chuyên môn nâng cao trình độ cho cán bộ. Ngoài ra, huyện cũng cần có chính sách khuyến khích cán bộ xã đi học thêm để bổ sung kiến thức, năng lực quản lý đủ khả năng nắm bắt được khoa học kỹ thuật về đo đạc, lưu trữ hồ sơCán bộ địa chính không những phải giỏi về chuyên môn mà còn cần phải có kiến thức tổng hợp để kịp thời vận dụng được những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào công việc của mình. Bởi vậy, huyện cần đào tạo đội ngũ cán bộ toàn diện thông qua việc mở rộng các lớp ngoại ngữ, tin học cho cán bộ công chức ngành Địa chính.
Việc bố trí cán bộ cũng cần có sự thay đổi. Thực tế, mỗi cán bộ của Phòng Tài nguyên và môi trường huyện Thanh Trì được phân công quản lý một xã, thị trấn của huyện. Mọi vấn đề về đất đai của xã, thị trấn đó đều tập trung vào một cán bộ là quá nặng nề gây quá tải công việc nhất là những địa bàn rộng, phức tạp. Bởi vậy cần phải giải tỏa áp lực công việc đối với họ, có thể bổ sung cán bộ quản lý cho các xã có khối lượng công việc lớn hoặc kết hợp công việc của những đơn vị hẹp, đơn giản với đơn vị phức tạp để bố trí hợp lý cho cán bộ. Công việc đối với cán bộ địa chính xã hiện cũng quá tải, khối lượng công việc lớn khiến họ không thể hoàn thành dứt điểm công việc buộc phải kéo dài thời gian làm chậm tiến độ chung của toàn huyện. Qua thực tế đó có thể thấy lực lượng cán bộ địa chính của huyện vẫn còn thiếu và cần được bổ sung. Để xây dựng được đội ngũ cán bộ có chuyên môn, nhiệt tình công tác huyện cần có chính sách thu hút nhân tài, có cơ chế tuyển dụng phù hợp để chọn lọc được những người vừa có đức vừa có tài bổ sung vào đội ngũ cán bộ làm tăng nội lực của cơ quan quản lý nhà nước về đất đai.
Bổ sung và nâng cao năng lực công chức trong quản lý đất đai là nhiệm vụ quan trọng, là giải pháp khả thi và cần phải thực hiện ngay để đáp ứng nhu cầu quản lý đất đai trên địa bàn huyện Thanh Trì trong thời kỳ này.
3. Tăng cường hiệu lực pháp luật, có chế tài xử lý vi phạm pháp luật đất đai nghiêm khắc, triệt để.
Chúng ta thấy trong thời gian qua có rất nhiều đơn thư khiếu nại, tố cáo với xu hướng ngày càng tăng. Trong đó có không ít những vụ việc liên quan đến cán bộ công chức làm mất dần niềm tin của nhân dân. Để khắc phục thực tế đó, huyện Thanh Trì cần cấp thiết đề ra phương hướng giải quyết cứng rắn hơn nữa, trừng trị thích đáng những kẻ suy thoái đạo đức, nhân cách người cán bộ chân chính. Đặc biệt, huyện cần nhanh chóng giải quyết dứt điểm những vụ việc còn tồn đọng trong những năm qua để ổn định tình hình sử dụng đất trong huyện. Đi đôi với việc áp dụng những chế tài xử phạt một cách nghiêm túc, huyện Thanh Trì cũng cần tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra để kịp thời phát hiện sai phạm để có phương hướng chấn chỉnh.
Nếu làm tốt công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật về đất đai chắc chắn bộ máy quản lý đất đai từ cấp huyện đến cơ sở sẽ trở nên trong sạch hơn và quản lý đất đai cũng sẽ có những chuyển biến tích cực.
4. Đẩy nhanh tiến độ thực hiện quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp và điều chỉnh quy hoạch không gian toàn huyện.
Một trong những nguyên nhân cản trở việc tổ chức thực hiện các nội dung quản lý nhà nước về đất nông nghiệp chính là do đến nay huyện Thanh Trì vẫn chưa có quy hoạch không gian sau khi chia tách huyện. Quy hoạch không gian sẽ tạo nên tính tổng thể về xây dựng và chi phối sự phân bổ quỹ đất cho các mục đích khác nhau. Nếu triển khai các mô hình trong sử dụng đất nông nghiệp khi chưa có quy hoạch không gian sẽ rất dễ phá vỡ quy hoạch tạo sự mất cân đối và không đồng bộ. Để tạo điều kiện cho công tác quản lý nhà nước về đất nông nghiệp được củng cố, huyện phải đề nghị Thành phố nhanh chóng điều chỉnh quy hoạch không gian của huyện Thanh Trì.
Quá trình đô thị hóa đang lan nhanh trên địa bàn huyện Thanh Trì làm cho bộ mặt của huyện đổi thay nhanh chóng trong những năm gần đây. Đó là lý do gây áp lực lớn lên việc sử dụng đất đặc biệt là đất nông nghiệp – loại đất đang có xu hướng giảm sút mạnh. Mặc dù huyện Thanh Trì đã có quy hoạch sử dụng đất nhưng phải thường xuyên có sự điều chỉnh quy hoạch cho “khớp” với tình hình sử dụng đất đã thay đổi do quá trình đô thị hóa. Trong quá trình thực hiện, cần phải đặc biệt chú ý đến tính phù hợp của quy hoạch so với tình hình thực tế của từng tiểu vùng và toàn huyện. Tùy theo sự phát triển của từng khu vực và sự biến động đất đai mà huyện có những điều chỉnh quy hoạch cho hợp lý.
Bên cạnh đó, các cấp các ngành trong huyện cũng phải từng bước triển khai những nội dung quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp không chịu ảnh hưởng nhiều của quy hoạch không gian để thực hiện thành công quy hoạch vào năm 2010. Việc triển khai mô hình nông nghiệp đô thị sinh thái và mô hình trang trại còn chậm nên trong thời gian tới huyện cần tập trung đưa ra những biện pháp đẩy nhanh tiến độ thực hiện mô hình này. Huyện có thể có chính sách khuyến khích người dân ở những vùng thuộc quy hoạch mô hình này tự đầu tư chuyển đổi sang kinh tế trang trại hay mô hình nông nghiệp sinh thái. Việc hình thành các khu kinh tế trang trại là một trong những nội dung quy hoạch và là hướng đi đúng đắn. Điều đó được chứng minh qua những kết quả bước đầu của mô hình này. Các cấp chính quyền cần có biện pháp khuyến khích người dân trong vùng quy hoạch tích cực chuyển đổi xây dựng mô hình trang trại. Đối với vùng chuyển từ chân ruộng trũng sang lúa – cá – cây ăn quả cần cho phép họ được xây dựng chuồng trại và các công trình phục vụ sản xuất với tỷ lệ diện tích được chuyển đổi hợp lý. Huyện cũng cần tiếp tục thực hiện chủ trương hỗ trợ kinh phí đào đắp bờ vùng, bờ thửa và mua giống cây trồng, vật nuôi. Làm như vậy, một mặt huyện đẩy nhanh được tiến độ thực hiện quy hoạch, một mặt nhanh chóng khai thác tiềm năng đất nông nghiệp ở địa phương nâng cao thu nhập cho người dân.
Trong những năm tới, cần xúc tiến việc thực hiện quy hoạch sử dụng đất đai trên phạm vi toàn huyện trong đó có quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp. Đây là tiền đề quan trọng nhất cho sự phát triển của ngành nông nghiệp cũng như việc thực hiện tốt chiến lược phát triển kinh tế - xã hội toàn huyện. Trong đó, huyện Thanh Trì cũng cần có quy hoạch cụ thể, chi tiết về cơ sở hạ tầng, cần chú ý phân bổ diện tích đất cho xây dựng các công trình thủy lợi để đảm bảo cung cấp nước sạch tưới tiêu cho đồng ruộng, nuôi trồng thủy sản đáp ứng chuyển đổi, thâm canh sản xuất.
Quán triệt sâu sắc được những vấn đề trên, quy hoạch sử dụng đất của huyện mới thực sự có tính khoa học và khả thi cao.
5. Tích cực tuyên truyền, giáo dục pháp luật và chủ trương, chính sách về đất đai của huyện đến người dân.
Như đã trình bày ở trên, trình độ học vấn của bà con nông dân của huyện Thanh Trì còn thấp. Đó chính là nguyên nhân cơ bản của việc thiếu hiểu biết pháp luật nói chung và pháp luật về đất đai nói riêng. Vì vậy, việc triển khai các nội dung quản lý nhà nước về đất đai sẽ gặp rất nhiều khó khăn từ phía người dân. Việc nâng cao kiến thức pháp luật cho nhân dân là việc làm không đơn giản bởi lẽ nhiều cán bộ còn chưa hiểu đúng và đầy đủ pháp luật về đất đai. Nếu có hiểu biết về pháp luật đất đai cũng như chủ trương, chính sách của huyện chắc chắn ý thức của người dân trong việc hợp tác với cán bộ địa chính sẽ được cải thiện rõ rệt. Trước tiên, huyện cần nâng cao nhận thức pháp luật nói chung cũng như pháp luật về đất đai của các cán bộ nhà nước thông qua việc tổ chức các lớp tập huấn, ban hành những cuốn cẩm nang pháp luật phát cho mọi người đồng thời khuyến khích đội ngũ cán bộ tìm hiểu pháp luật. Sau đó, chính những cán bộ này sẽ tuyên truyền giải thích cho người dân những kiến thức về pháp luật. Để nâng cao được ý thức pháp luật của nhân dân trong huyện cần phải đẩy mạnh công tác phổ biến pháp luật thông qua các thông tin đại chúng: báo chí, truyền hình, đài phát thanh của xã, thị trấn và thường xuyên tổ chức các buổi nói chuyện pháp luật tại các khu dân cư, các tổ dân phố. UBND huyện nên thực hiện các biện pháp nhằm xã hội hóa pháp luật. Một trong những việc có thể tổ chức thường xuyên là phát hành các tờ rơi có nội dung pháp luật và chính sách đất đai của huyện. Bên cạnh đó, huyện cần phối hợp với nhà trường để giáo dục pháp luật cho các em học sinh vì đây là tầng lớp dân cư có hiểu biết và dễ nắm bắt được thông tin pháp luật.
Từ việc nắm bắt được những quy định pháp luật về đất đai cũng như đất nông nghiệp, người dân sẽ có nhận thức đúng đắn về chủ trương của Nhà nước. Qua đó, công tác quản lý nhà nước về đất đai sẽ thuạn lợi hơn và giảm được đáng kể những vi phạm do thiếu hiểu biết về pháp luật.
6. Đầu tư kinh phí phục vụ công tác quản lý nhà nước về đất nông nghiệp trên địa bàn huyện Thanh Trì.
Để phục vụ cho công tác quản lý nhà nước về đất nông nghiệp cần rất nhiều những tài liệu, hồ sơ liên quan như hệ thống bản đồ, sổ sách, trang thiết bị lưu trữ...Hệ thống tài liệu đó chỉ có được do sự nỗ lực không ngừng của đội ngũ đông đảo cán bộ công nhân viên ngành Địa chính của huyện. Trong thời gian qua, huyện đã đầu tư kinh phí khá lớn cho công tác cấp GCN quyền sử dụng đất nông nghiệp, lập quy hoạch sử dụng đất đặc biệt là kinh phí thực hiện kiểm kê đất đai trong năm 2005. Để có được hệ thống bản đồ số chất lượng cao, huyện đã phải đầu tư một khoản tiền không nhỏ. Trong những năm tới huyện cần có sự điều chỉnh, cân đối kinh phí để đầu tư cho việc số hóa lại hồ sơ địa chính phục vụ đắc lực cho công tác quản lý nhà nước về đất đai. Ngoài ra, các loại máy móc, trang thiết bị hiện đại như máy vi tính, máy định vị GPSđều đòi hỏi kinh phí lớn.
Điều kiện cơ sở vật chất đầy đủ, hiện đại cũng là một động lực giúp cho quản lý đất nông nghiệp đạt hiệu quả cao.
Các cấp lãnh đạo cần có sự quan tâm hơn nữa đến công tác quản lý Nhà nước về đất đai nói chung và đất nông nghiệp nói riêng trên địa bàn huyện.
Đất đai là nguồn lực to lớn của mỗi địa phương nên việc sử dụng đất như thế
nào thu hút được sự quan tâm của các cấp ủy Đảng và lãnh đạo của địa phương đó. Sự lãnh đạo chặt chẽ, sâu sát và quan tâm đúng mức của chính quyền cũng là một trong những điều kiện nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về đất đai.
Tình hình sử dụng đất nông nghiệp rất đa dạng và phức tạp bởi vậy cũng sẽ có rất nhiều những giải pháp để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về loại đất này. Trên đây là một vài giải pháp tôi mạnh dạn đề xuất, đó là những ý kiến của cá nhân tôi mong góp phần hoàn chỉnh hơn công tác quản lý nhà nước về đất nông nghiệp trên địa bàn huyện Thanh Trì.
KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT.
Để tạo điều kiện thuận lợi cho huyện Thanh Trì hoàn thành được mục tiêu đề ra trong công tác quản lý nhà nước về đất nông nghiệp tới năm 2010, huyện có một số kiến nghị:
* Đề nghị Thành phố và các ngành quy hoạch chi tiết không gian và quy hoạch sử dụng đất huyện Thanh Trì theo hướng phát triển đô thị đến năm 2010 trở thành quận mới của Hà Nội và quy hoạch khu đô thị trung tâm của huyện.
* Đề nghị triển khai, lập và duyệt các quy hoạch nông nghiệp công nghệ cao, thủy lợi, công nghiệp, du lịch dịch vụ.
* Đề nghị UBND huyện Thanh Trì đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính giảm thiểu những khó khăn cho người dân khi thực hiện quyền và nghĩa vụ đối với đất nông nghiệp hay các loại đất khác.
* Cho phép huyện đấu giá các khu đất kẹt (trong đó có rất nhiều thửa thuộc nhóm đất nông nghiệp như: ao, hồ, ruộng rau) chấm dứt tình trạng sử dụng đất không hiệu quả, lấn chiếm các khu đất kẹt đồng thời tạo nguồn thu ngân sách cho huyện.
* Kiến nghị đầu tư kinh phí thực hiện mô hình nông nghiệp sinh thái ở các xã Đông Mỹ, Hữu Hòa, Tả Thanh Oai
KẾT LUẬN
Huyện Thanh Trì là một huyện ven đô có lợi thế hơn so với một số huyện ngoại thành khác. Đặc biệt, sản xuất nông nghiệp vừa phù hợp với lịch sử của huyện vừa có thị trường rộng lớn là khu vực nội đô. Bởi vậy, sản xuất nông nghiệp cũng như đất nông nghiệp như thế nào đang trở thành một ẩn số cho các nhà quản lý đất đai. Trong những năm qua, công tác quản lý nhà nước về đất nông nghiệp trên địa bàn đã được triển khai đồng bộ, toàn diện, cụ thể đến từng xã. Nhờ sự nỗ lực không ngừng của các cấp quản lý mà công tác quản lý nhà nước về đất nông nghiệp đã dần ổn định và thu được những kết quả đáng mừng. Công tác khảo sát, đo đạc được tiến hành một cách khoa học, độ chính xác cao, cấp GCN quyền sử dụng đất nông nghiệp cơ bản hoàn thành, công tác kiểm kê thành công tốt đẹp. Đó là những nét cơ bản của công tác quản lý nhà nước về đất nông nghiệp trong những năm qua. Tuy nhiên, quá trình đô thị hóa mạnh mẽ, tốc độ phát triển kinh tế nhanh chóng của huyện 5 năm trở lại đây cũng gây sức ép không nhỏ đối với sử dụng đất nông nghiệp. Thực tế đang diễn ra theo xu hướng bất lợi cho phát triển ngành nông nghiệp của huyện. Hiện nay, tình trạng đất nông nghiệp bị giảm sút nghiêm trọng về diện tích, hiện tượng chuyển mục đích sử dụng bừa bãi, sử dụng lãng phí và hủy hoại đất nông nghiệp còn tồn tại. Tất cả những bất cập đó đã được UBND huyện Thanh Trì xác định và tích cực tìm ra biện pháp khắc phục triệt để.
Tóm lại, việc thực hiện các nội dung quản lý nhà nước về đất nông nghiệp huyện Thanh Trì đã đạt được những kết quả to lớn. Với những chuyển biến tích cực trong công tác quản lý đất nông nghiệp cộng với sự chỉ đạo sâu sát của các cấp ủy Đảng, trong thời gian tới huyện Thanh Trì sẽ phát triển mạnh mẽ hơn tạo ra một cơ cấu ngành hợp lý, sử dụng đất hiệu quả xây dựng nên một không gian đô thị và nông thôn mang tính khoa học và giàu tính thẩm mỹ.
Qua quá trình nghiên cứu, tìm hiểu thực trạng công tác quản lý nhà nước về đất nông nghiệp trên địa bàn huyện, tôi mạnh dạn đưa ra một vài giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về đất nông nghiệp tại địa phương.Tôi hi vọng rằng, cá nhân mình sẽ góp một phần công sức nhỏ bé công cuộc công nghiệp hóa – hiện đại hóa huyện Thanh Trì.
Tôi tin rằng với sự cố gắng của toàn Đảng, toàn dân huyện Thanh Trì – Hà Nội chắc chắn sẽ trở thành một “vùng đất hứa”, là điểm đến của các nhà đầu tư, của khách du lịch, xứng đáng là một huyện ngoại thành Thủ đô ngàn năm văn hiến.
Trước khi kết thúc chuyên đề thực tập này, một lần nữa tôi xin gửi lời cảm ơn trân trọng tới GS.TSKH Lê Đình Thắng – giáo viên hướng dẫn tôi trong suốt thời gian thực tập và làm chuyên đề này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình quản lý nhà nước về đất đai và nhà ở - GS.TSKH. Lê Đình Thắng chủ biên
Giáo trình Kinh tế tài nguyên đất – PGS.TS. Ngô Đức Cát chủ biên
Giáo trình Đăng ký – thống kê đất đai – GS.TSKH. Lê Đình Thắng, Ths. Đỗ Đức Đôi đồng chủ biên
Của cải của các dân tộc - Ađam Smith - NXB Giáo dục - Hà Nội - 1997
Luật đất đai 1993, sửa đổi năm 1998, 2001 và Luật đất đai 2003
Các nghị định hướng dẫn thi hành Luật đất đai 181/2004/NĐ-CP, Nghị định 182/2004/NĐ-CP về việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai, Nghị định 197/2004/NĐ-CP về thu tiền sử dụng đất
Tạp chí Quản lý nhà nước số 10/2003, số 4/2004, số 10/2004, số 2/2005, số 6/2005
Tạp chí Địa chính số 2/2001, số 6/2001, số 2/2005, số 4/2005
Tạp chí Tài nguyên môi trường số 4/2004, số 8/2004
10. Các tài liệu do Phòng Tài nguyên và môi trường huyện Thanh Trì cung cấp
MỤC LỤC
Lời mở đầu 1
CHƯƠNG I: QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐẤT NÔNG NGHIỆP 3
Khái niệm đất nông nghiệp 3
Vai trò và đặc điểm của đất nông nghiệp 4
Vai trò của đất nông nghiệp 4
Đất nông nghiệp là tư liệu sản xuất chủ yếu, đặc biệt và không thể thay
thế 4
Đất nông nghiệp là nguồn cung cấp đất đai cho các ngành kinh tế khác 4
1.3. Đất nông nghiệp là yếu tố quyết định bảo vệ môi trường sinh thái 5
Đặc điểm đất nông nghiệp 6
Đặc tính hai mặt: không thể sản sinh và có khả năng tái tạo 6
Tính sở hữu và sử dụng 7
Tính đa dạng và phong phú 7
Phân loại đất nông nghiệp 8
Phân bố đất nông nghiệp 9
Sự cần thiết phải quản lý nhà nước về đất nông nghiệp 12
Khái niệm và vai trò của quản lý nhà nước về đất nông nghiệp 12
Sự cần thiết phải quản lý nhà nước về đất nông nghiệp 14
Cơ sở pháp lý của quản lý nhà nước về đất nông nghiệp 15
Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, sử dụng đất nông
nghiệp và tổ chức thực hiện các văn bản đó 17
Khảo sát, đo đạc, đánh giá, phân hạng đất nông nghiệp; lập bản đồ hiện trạng
và bản đồ quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp 18
Thực hiện lập và quản lý quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất nông nghiệp 20
Công tác giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, chuyển đổi mục đích sử dụng
đất nông nghiệp 23
Công tác đăng ký và cấp giấy chứng nhận (GCN) quyền sử dụng đất
nông nghiệp; thống kê, kiểm kê đất đai 27
6. Công tác thanh tra, kiểm tra việc chấp hành quy định của pháp luật và giả
quyết khiếu nại, tố cáo các hành vi trong quản lý sử dụng đất nông nghiệp 31
Các nhân tố ảnh hưởng 33
Điều kiện tự nhiên 33
Điều kiện kinh tế - xã hội 34
Khoa học công nghệ 35
Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về đất đai 37
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ
ĐẤT NÔNG NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN THANH TRÌ – HÀ NỘI 40
Tổng quan điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội .40
Điều kiện tự nhiên 40
Điều kiện kinh tế - xã hội 42
Đánh giá thuận lợi và khó khăn đối với quản lý nhà nước về đất nông nghiệp 50
Hiện trạng sử dụng đất và biến động đất nông nghiệp huyện Thanh Trì 51
Hiện trạng sử dụng đất của huyện Thanh Trì 52
Biến động đất nông nghiệp 56
Hiện trạng quản lý nhà nước về đất nông nghiệp trên địa bàn huyện Thanh Trì – Hà Nội 57
Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, sử dụng đất nông nghiệp và tổ chức thực hiện các văn bản đó 57
Khảo sát, đo đạc, đánh giá, phân hạng đất nông nghiệp; lập bản đồ hiện trạng
và bản đồ quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp 60
Khảo sát, đo đạc, đánh giá, phân hạng đất nông nghiệp 60
Lập bản đồ hiện trạng và bản đồ quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp 61
Thực hiện lập và quản lý quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất nông nghiệp 63
Công tác giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, chuyển đổi mục đích sử dụng
đất nông nghiệp 68
Công tác giao đất, cho thuê đất nông nghiệp 68
Thu hồi đất nông nghiệp 69
Chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp 70
Công tác đăng ký và cấp GCN quyền sử dụng đất nông nghiệp; thống kê,
kiểm kê đất đai 72
5.1. Công tác đăng ký và cấp GCN quyền sử dụng đất nông nghiệp 72
5.2. Thống kê, kiểm kê đất đai 75
Công tác thanh tra, kiểm tra việc chấp hành quy định của pháp luật và giải
quyết khiếu nại, tố cáo các hành vi trong quản lý sử dụng đất nông nghiệp 77
Đánh giá thành tựu và hạn chế trong công tác quản lý nhà nước về
đất nông nghiệp trên địa bàn huyện Thanh Trì – Hà Nội. 81
Kết quả đạt được 81
Tồn tại 83
Nguyên nhân 85
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐẤT NÔNG NGHIỆP TẠI HUYỆN THANH TRÌ – HÀ NỘI. 88
Phương hướng, mục tiêu quản lý nhà nước về đất nông nghiệp 88
Một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về đất nông nghiệp trên địa bàn huyện Thanh Trì – Hà Nội 89
Hoàn thiện bộ máy quản lý nhà nước về đất đai, tăng cường phối hợp giữa
các cơ quan liên quan. 89
Bổ sung và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ công tác quản lý
đất đai. 91
Đẩy nhanh tiến độ thực hiện quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp, nhanh
chóng điều chỉnh quy hoạch không gian toàn huyện. 92
Tăng cường hiệu lực pháp luật, có chế tài xử lý vi phạm pháp luật đất
đai nghiêm khắc, triệt để. 93
Tích cực tuyên truyền, giáo dục pháp luật và chủ trương, chính sách về đất
đai của huyện đến người dân. 94
Đầu tư kinh phí phục vụ công tác quản lý nhà nước về đất nông nghiệp trên
địa bàn huyện Thanh Trì. 95
Các cấp lãnh đạo cần có sự quan tâm hơn nữa đến công tác quản lý Nhà nước
về đất đai nói chung và đất nông nghiệp nói riêng trên địa bàn huyện. 96
Kiến nghị, đề xuất 96
Kết luận 98
Tài liệu tham khảo 100
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 4957.doc