Đề tài Nghiên cứu tiến trình hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam trong giai đoạn vừa qua nhằm tìm ra được những giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động

Trung tâm giao dịch chứng khoán đầu tiên của nước ta đã khai trương hoạt động tại thành phố HCM. Tuy sự kiện này là bình thường trong tiến trình phát triển của nền kinh tế thị trường, song đối với nước ta, nó lại có ý nghĩa nhiều mặt. Trong bối cảnh hiện nay, khi nền kinh tế đang đối mặt với một số khó khăn trong đó, có những khó khăn chưa từng gặp trong 15 năm đổi mới của nước ta, ý nghĩa đó càng được nâng lên. Để cảm nhận một điều hết sức thực tiễn rằng sự ra đời của TTGDCK tại thời điểm hiện nay đáp ứng kịp thời một kỳ vọng chính đáng của đông đảo mọi người. Đó là mong muốn nền kinh tế có thêm một động lực mới, có khả năng tiếp thêm sức mạnh thúc đẩy quá trình đổi mới kinh tế. Vì vậy bản thân sự kiện này có tác dụng củng cố niềm tin của nhân dân, đặc biệt là của giới doanh nghiệp, và quyết tâm đẩy mạnh đổi mới kinh tế theo hướng thị trường- mở cửa của Đảng và Nhà nước ta. Nhưng mặt khác, một cách khách quan, sự lạc quan đó lại dễ che mờ những khó khăn trở ngại mà thị trường non trẻ này gặp phải trong quá trình hoạt động. Đây thực sự là một nguy cơ đối với sự tồn tại của TTGDCK trong giai đoạn đầu tiên. Vì lẽ đó, chính tại trong thời điểm này, sự tỉnh táo nhìn thẳng vào những thách thức "hậu khai trương" đang chờ đợi TTGDCK TP HCM là một điều hết sức cần thiết. Cần nhận thức rõ rằng sự hiện diện của một thể chế kinh tế bậc cao như TTCK, dù là dưới hình thức sơ khai, trong một nền kinh tế mà trình độ phát triển nói chung còn thấp, quá trình chuyển sang kinh tế thị trường chưa lâu, cấu trúc thể chế cơ bản của nền kinh tế này vẫn còn chưa hoàn thiện, tự nó chứa đựng hoàn loạt vấn đề lý luận và thực tiễn cần được suy xét kỹ càng. Sự suy xét đó nhằm trả lời câu hỏi: Phải làm gì để TTCK Việt nam có thể tồn tại và hoạt động có hiệu quả, nhất là trong thời kỳ mới sinh thành của nó. Vấn đề đặt ra không đơn thuần chỉ là kỳ vọng vào triển vọng hoàn thành sứ mệnh phát triển được gưỉ gắm cho TTCK. Thành bại của TTCK, trực tiếp hơn, còn có ý nghĩa trắc nghiệm đối với quyết tâm đẩy mạnh đổi mới theo hướng thị trường - mở cửa của Việt nam, đối với việc tiếp cận một cách thức phát triển nhằm đưa đát nước nhanh chóng thoát khỏi nguy cơ tụt hậu trong một thế giới mà tốc độ đã trở thành yếu tố quyết định thắng lợi trong cuộc đấu tranh phát triển.

doc50 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1511 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nghiên cứu tiến trình hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam trong giai đoạn vừa qua nhằm tìm ra được những giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h: 500 tỷ đồng -Thời hạn trái phiếu: 5 năm -Lãi suất trái phiếu: 6,6%/năm (lãi suất thanh toán hàng năm) -Các đơn vị tham gia và khối lượng nhận bảo lãnh: +Ngân hàng công thương Việt nam : 420 tỷ đồng +Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt nam : 50 tỷ đồng +Ngân hàng ngoại thương Việt nam : 30 tỷ đồng Qua 4 phương thức phát hành trái phiếu chính phủ nói trên, cho đến nay khối lượng trái phiếu chính phủ đăng ký, niêm yết và giao dịch tại trung tâm giao dịch chứng khoán vẫn không đáng kể. Mặc dù trái phiếu chính phủ phát hành theo cơ chế mới có doanh số khá lớn, nhưng lượng trái phiếu thực tế giao dịch là không đáng kể. Liên tục nhiều phiên không khớp được lệnh mua bán. Trái phiếu vô danh của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển tuy mới được phát hành tại ba địa bàn là TP.HCM, Hà Nội và Bình Dương nhưng chỉ sau hai phiên giao dịch kể từ khi được đưa vào TTCK đã gia tăng một cách đáng kể về khối lượng. Theo các chuyên gia chứng khoán, sở dĩ có tình trạng này là do khả năng rủi ro của loại trái phiếu này nhỏ không kém trái phiếu chính phủ nhưng lãi suất của nó lại được thả nổi( được điều chỉnh từng năm theo thị trường ). Sau hai phiên giao dịch đã có 2.750 trái phiếu của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển được bán ra với tổng giá trị giao dịch là 269,3 triệu đồng. Tuy nhiên đến các phiên giao dịch sau khối lượng giao dịch trái phiếu này cũng có nhiều biến động- cơn khát hàng hoá của thị trường chứng khoán vẫn chưa được giải quyết triệt để. Có thể nói một trong những nguyên nhân cơ bản hiện nay của tình trạng khan hiếm hàng hoá trên thị trường chứng khoán đó là do có quá ít doanh nghiệp tham gia niêm yết trên TTCK. Hiện nay mặc dù số lượng công ty cổ phần chưa thực sự nhiều nhưng với con số trên 50 doanh nghiệp đủ điều kiện niêm yết thì cũng không thể coi đó là số lượng quá ít. Chỉ cần khoảng 1/4 trong số các doanh nghiệp này niêm yết cổ phiếu trong giai đoạn đầu thì có lẽ TTCK cũng đã "hòm hòm" đủ đạt được sự sôi động cần thiết. Thế nhưng điều nan giải nhất là ở chỗ, bản thân các công ty cổ phần đang có một thái độ rất thờ ơ với TTCK. Thậm chí nhiều doanh nghiệp đã bày tỏ ý kiến rất thẳng thắn rằng, họ chưa cảm thấy có lợi gì khi đưa cổ phiếu niêm yết trên TTCK và do đó họ chưa có ý định niêm yết. Tâm lý này đang thực sự là một rào cản rất lớn trong việc khuyến khích các công ty đủ điều kiện niêm yết tạo thêm hàng hoá cho TTCK. Trước sự thờ ơ của nhiều doanh nghiệp không thể không nhìn nhận lại môi trường vận hành hiện nay của TTCK. Liệu TTCK đã có đầy đủ các biện pháp hữu hiệu để bảo vệ các doanh nghiệp trên thị trường hay chưa? Qua tìm hiểu trên thực tế có thể thấy rõ rằng, nhiều doanh nghiệp vẫn có những lo ngại về hành lang an toàn trên TTCK, mà vấn đề thao túng doanh nghiệp là nỗi lo lớn nhất. Nhiều giám đốc cho rằng, khi công ty niêm yết cổ phiếu, có rất nhiều khả năng nhiều nhà đầu tư bên ngoài doanh nghiệp có ý đồ mua gom cổ phiếu qua các phiên giao dịch để đến khi có một số lượng cổ phiếu nhất định sẽ nhẩy vào điều hành công ty, việc này bản thân công ty không thể kiểm soát được. Mặc dù pháp luật đã quy định khi một nhà đầu tư thực hiện giao dịch làm thay đổi việc nắm giữ 5% trở lên cổ phiếu có quyền biểu quyết của một công ty niêm yết thì phải báo cáo với TTGDCK. Nhưng trên thực tế việc quản lý và theo dõi những nhà đầu tư mua và nắm giữ cổ phiếu số lượng lớn không phải là dễ dàng. Hơn nữa, ngay cả với các nhà đầu tư đã nắm giữ trên 5% cổ phiếu thì việc mua bán của họ cũng chỉ bị giám sát mà không thể bắt họ không được tiếp tục mua thêm nữa. Có lẽ các công ty cổ phần từ trước đến nay mới chỉ quen với những cổ đông thuần tuý nhận cổ tức, chủ yếu là những cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp, nên phần lớn mang tâm lý sợ bị thao túng khi bước chân vào TTCK- một thị trường có tính cạnh tranh và đào thải gay gắt. Các công ty niêm yết phải chấp nhận một thực tế là khi cổ phiếu được giao dịch rộng rãi thì cổ đông của công ty không thể chỉ là những đối tượng ổn định và dễ quản lý. 2.Thiếu sự đồng bộ giữa TTCK và thị trường tiền tệ Có thể ví rằng thị trường chứng khoán và hệ thống ngân hàng như hai quả tim để điều tiết nguồn vốn cho nền kinh tế. Trong khi hoạt động của các ngân hàng thương mại chủ yếu nhằm cung ứng các nguồn vốn ngắn hạn thì vai trò của TTCK là chuyên cung cấp dòng vốn dài hạn. Chính vì thế đây là hai bộ phận quan trọng cấu thành nên một hệ thống tài chính hoàn chỉnh và chúng có quan hệ với nhau theo nguyên tắc "bình thông nhau". Mỗi động thái trên thị trường tiền tệ đều kéo theo một động thái mới trên TTCK và ngược lại. Tuy nhiên thời gian đầu hoạt động của TTCK Việt nam cho thấy rằng dường như vẫn còn một bức tường vô hình ngăn cách sự tương quan trong hoạt động của hai dòng lưu chuyển vốn này. Điều này được thể hiện rất rõ trong thực tế hoạt động của thị trường tài chính gần nửa năm qua. Đặc biệt trong mấy tháng gần đây, thị trường tiền tệ có nhiều biến đổi mạnh như những thay đổi nhanh chóng về lãi suất, tỷ giá..., nhưng những động thái này vẫn hoàn toàn vô tác dụng đối với TTCK. TTCK vẫn cứ hoạt động theo xu hướng riêng của nó và nhiều nhà đầu tư thậm chí chẳng hề quan tâm đến những yếu tố này. Chẳng hạn như những biến chuyển về lãi suất đã được thể hiện rất rõ. Vừa qua lãi suất đồng Việt Nam đã tăng khá mạnh, với mức tăng khoảng 0,02%/tháng so với thời gian cách đây hai tháng. Đáng lẽ theo quy luật thị trường việc tăng lãi suất tất yếu sẽ kéo theo sự rút lui của nhà đầu tư khỏi thị trường chứng khoán để chuyển sang đầu tư vào thị trường tiền tệ dẫn đến sự giảm giá trên thị trường chứng khoán.Thế nhưng trên thực tế thì thị trường chứng khoán lại vận động theo xu hướng hoàn toàn ngược lại . Giá cổ phiếu của các công ty niêm yết vẫn có xu hướng tăng lên, chỉ số VN Index đều tăng trong hầu hết các phiên giao dịch. Ngoài ra, tỷ giá đô la mỹ với đồng Việt nam cho dù tăng liên tục trong thời gian qua cũng không có tác động gì tơí hoạt động trên thị trường chứng khoán. Một số chuyên gia của uỷ ban chứng khoán nhà nước đã thừa nhận rằng, đúng là có sự thiếu đồng bộ trong quan hệ giữa thị trường chứng khoán và thị trường tiền tệ, mối quan hệ giữa thị trường tiền tệ và TTCK chưa phát huy được tác dụng như mong muốn. Theo một số chuyên gia, mấu chốt của vấn đề trên là do các công cụ của chính sách tiền tệ thực tế vẫn còn "cập kênh" chưa phát huy được ưu thế. Chẳng hạn như mặt bằng lãi suất: sự vận hành lãi suất của một loạt các công cụ tài chính như lãi suất đồng nội tệ, lãi suất đô la Mỹ, lãi suất tín phiếu trái phiếu... còn mang nặng tính chủ quan nên chưa thực sự tạo dựng được sự đồng bộ cho cả hệ thống các công cụ tài chính. Điều này đã khiến cho các yếu tố phát triển của quy luật thị trường chưa được thúc đẩy đúng mức. Trên thực tế sự ngưng trệ trong giao dịch trái phiếu chính phủ trong thời gian qua cũng chính là hệ quả của việc xác định một mức lãi suất không đồng bộ so với mặt bằng lãi suất chung của cả hệ thống tài chính cũng như tình hình thực tế của diễn biến thị trường. Trong khi đó, bản thân thị trường chứng khoán cũng bị gò bó trong xu hướng chuyển động của nó như việc khống chế biên độ giá trong giao dịch chứng khoán. Chính vì vậy trong suốt thời gian kể từ khi ra đời và hoạt động đến nay, giá các chứng khoán hầu như ít khi phản ánh đúng quan hệ cung cầu trên thị trường. Điều này đã làm giảm tính nhạy bén của thị trường chứng khoán dưới tác động của các yếu tố kinh tế vĩ mô khác. Và suy cho cùng thì nguyên nhân mấu chốt của mọi vấn đề vẫn chính là sự khan hiếm hàng hoá trên thị trường. Các chuyên gia tài chính cho rằng, tất cả các con đường đều phải đi đến cùng một mục đích: tăng được hàng hoá cho thị trường. Tóm lại, mắt xích liên kết giữa thị trường tiền tệ và thị trường chứng khoán chỉ có thể được kết nối khi những vấn đề tồn tại trong cả hai chủ thể này được khắc phục. Chỉ khi đó, hai "quả tim" của nền kinh tế mới có thể "hoà chung một nhịp", điều hoà luồng vốn tới tất cả các tế bào trong toàn cơ thể kinh tế, nơi đang cần một sức khoẻ cường tráng trước xu thế cạnh tranh và hội nhập. 3.Trung gian tài chính vừa thiếu vừa yếu: Ngoài sự khan hiếm về hàng hoá nhiều chuyên gia cho rằng một bánh xe quan trọng khác của thị trường chứng khoán Việt nam là các tổ chức tài chính trung gian vừa thiếu vừa yếu. Đây là một trong những nguyên nhân làm cho hoạt động TTCK Việt nam trong thời gian qua còn nhiều hạn chế. Tính đến nay uỷ ban chứng khoán nhà nước đã cấp giấy phép hoạt động cho 6 công ty chứng khoán, 2 ngân hàng nước ngoài để lưu ký, chỉ định thanh toán chứng khoán và 5 công ty kiểm toán được phép làm kiểm toán chứng khoán; số lượng tổ chức tài chính trung gian như vậy là còn rất thiếu. Hiện nay các công ty chứng khoán chủ yếu hoạt động trên hai địa bàn chính là TP.HCM và Hà Nội nên mới đáp ứng được nhu cầu của nhà đầu tư trên hai địa bàn này. Khả năng tiếp cận và thu hút đông đảo công chúng đầu tư trên toàn quốc của các công ty chứng khoán hiện tương đối thấp. Ngoài ra TTCK Việt nam hiện còn thiếu các quỹ đầu tư và ủy thác đầu tư chứng khoán, nơi phân tán rủi ro và thu hút mọi nhà đầu tư tiềm năng trong nền kinh tế tham gia đầu tư vào TTCK. Sự thiếu vắng này đã gây cản trở lớn tới việc thu hút các nhà đầu tư, nhất là các nhà đầu tư cá nhân tham gia vào TTCK, bởi ở Việt nam trình độ hiểu biết về đầu tư chứng khoán là rất thấp. Tuy nhiên, hiện nay ngay cả đối với các công ty chứng khoán đã thành lập thì việc mở rộng tầm hoạt động cũng rất khó khăn, chứ chưa nói tới các quỹ đầu tư và uỷ thác đầu tư chứng khoán. Các nhà đầu tư có nhu cầu mua bán chứng khoán dứt khoát phải tới các chi nhánh, thậm chí là các công ty chứng khoán để thực hiện mà chưa được tiến hành thủ tục này ở chỗ khác. Chẳng hạn, các nhà đầu tư ở các địa phương muốn mua bán chứng khoán phải về Hà Nội hoặc TP.HCM và đợi đúng phiên giao dịch mới thực hiện được bởi mọi đăng ký qua Fax, điện thoại... hiện đều chưa được phép. Ngay cả việc treo bảng điện tử thông báo các thông tin về TTCK cho đến nay cũng mới chỉ cho phép ở công ty chứng khoán mà chưa được treo ở những nơi khác như các đại lý chân rết... điều này làm cho những khách hàng ở ngoài phạm vi Hà Nội và TP.HCM sẽ rất khó khăn trong đầu tư chứng khoán. Bên cạnh các yếu tố kể trên thông tin - một nhân tố nhậy cảm của TTCK chưa được chú ý. Hệ thống công khai thông tin trong nền kinh tế nói chung và của các công ty niêm yết nói riêng chưa được thực hiện, như vậy hoạt động đầu tư trên TTGDCK của Việt nam tương đối mạo hiểm, lợi ích của các đối tượng tham gia thị trường không được bảo đảm. Điều này rất nguy hiểm đối với sự phát triển của TTCK Việt nam vì nó rất dễ dẫn đến hiện tượng đầu cơ, giao dịch nội gián, và cụ thể trong thời gian đầu do thiếu thông tin nên cổ phiếu của Transimexnhiều phiên giao dịch liên tiếp không một giao dịch nào được thực hiện do không có lệnh bán. Các cổ đông của Transimex cho rằng giá trị thực của cổ phiếu Transimex cao hơn mức 14.000 đồng/cổ phiếu - mức giá tham chiếu khởi điểm của cổ phiếu này, tại phiên giao dịch ngày 22/9/00 TTGDCK đã phải nâng mức giá tham chiếu của cổ phiếu Transimex lên 16.800 đồng/cổ phiếu và ngay khi kết thúc phiên giao dịch này thì giá cổ phiếu Transimex đã tăng lên 17.100 đồng/cổ phiếu(tăng 300 đồng/cổ phiếu, tức tăng 1,785% - sát mức trần cho phép là (+/-) 2%. Chúng ta cần xác định rõ rằng, việc khai trương hoạt động TTGDCK TP.HCM chỉ là sự khởi động bước đầu của TTCK Việt nam. Để TTCK tiếp tục phát triển lành mạnh, hiệu quả và vững chắc, phát huy vai trò tích cực trong công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, cần phải tiếp tục có giải pháp trước mắt và lâu dài nhằm hoàn thiện toàn diện các vấn đề có liên quan đến TTCK. III. Các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của TTCK Việt nam: Sự ra đời TTGDCK TP.HCM và hoạt động giao dịch trong thời gian qua mới chỉ là bắt đầu cho việc phát triển ngành chứng khoán Việt nam còn hết sức mới mẻ đầy triển vọng nhưng cũng đầy thách thức. Những nhân tố tác động ảnh hưởng đến TTCK trong giai đoạn tới đây cũng không nằm ngoài những vấn đề cần quan tâm kho xây dựng các chính sách phát triển kinh tế của đất nước đến năm 2005 và 2010, cụ thể là: -Môi trường kinh tế vĩ mô ổn định trước mắt cũng như lâu dài vẫn là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến sự phát triển của TTCK. Trong những năm gần đây do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính- tiền tệ trong khu vực và sự biến động của thị trường thế giới, cộng với những khó khăn nội tại của nền kinh tế, đã làm cho tốc dộ tăng trưởng nền kinh tế có suy giảm. Tình hình phát triển kinh tế trong năm 2000 cho thấy triển vọng tích cực hơn, song thời gian còn quá ngắn để khẳng định tính bền vững của xu hướng đó. Vả lại, ngay cả khi xu hướng đó được duy trì, cũng không thể kỳ vọng vào sự phục hồi ngay lập tức của nhu cầu đầu, đặc biệt là đầu tư qua TTCK- một kênh tạo vốn và lưu thông vốn có hiệu quả- nhưng trên thực tế còn xa lạ với phần lớn công chúng và đa số doanh nghiệp Việt nam. - Hội nhập kinh tế sẽ là một thách thức đối với nền kinh tế Việt nam nói chung cũng như TTCK nói riêng. Việc ký kết hiệp định thương mại Việt- Mỹ sẽ tạo ra một thúc đẩy mới cũng như đặt ra thách thức to lớn. Động lực chính là góp phần khôi phục lại dòng đầu tư đang suy giảm mấy năm gần đây, thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu, thúc đẩy quá trình đổi mới môi trường sản xuất kinh doanh, trước hết là môi trường chính sách và buộc các doanh nghiệp Việt nam nhanh chóng cải thiện sức cạnh tranh quốc tế của mình. TTCK Việt nam cho phép các nhà đầu tư nước ngoài tham gia, mặc dù có những hạn chế nhất định về tỷ lệ góp vốn vào công ty chứng khoán, vào đầu tư cổ phiếu trái phiếu, song cũng phải thấy rằng đây là một chính sách hết sức nhạy cảm và chịu sự tác động của các nhân tố khác trong quá trình hội nhập. -Khu vực kinh tế tư nhân, về nguyên tắc, là lực lượng tham gia lâu dài của TTCK. Tuy nhiên, xét trên nhiều phương diện, lực lượng tham gia thị trường này còn nhiều hạn chế. Đó không chỉ do tiến trình cổ phần hoá chậm, và cũng không phải là thiếu những doanh nghiệp có đủ điều kiện niêm yết mà còn những vấn đề khác mang tính bao quát hơn như: môi trường đầu tư, chính sách bảo vệ các nhà đầu tư và khả năng thích ứng trong môi trường cạnh tranh. -Khuôn khổ pháp lý, cơ chế hoạt động cho TTCK không thể tách rời với khuôn khổ pháp lý chung của nền kinh tế.Trong bối cảnh nền kinh tế đang chuyển đổi, bổ sung các văn bản pháp lý, đặc biệt là các quy phạm pháp luật liên quan đến lĩnh vực kinh tế tài chính là cần thiết. Song cũng chính sự thiếu ổn định đó cũng gây ra những trở ngại không nhỏ cho việc thiết lập một khuôn khổ pháp lý đầy đủ, đồng bộ cho TTCK. -Một yếu tố rất quan trọng ảnh hưởng đến việc tổ chức và hoạt động của TTCK, và cũng là yếu tố quyết định tương lai phát triển ngành chứng khoán Việt nam, là trình độ kiến thức và hiểu biết của xã hội nói chung về chứng khoán và TTCK còn rất hạn chế. Việc tuyên truyền và phổ biến kiến thức về chứng khoán và TTCK chúng ta đã làm nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu phổ cập thông tin và kiến thức trong đại chúng. Sự hạn chế này dễ dẫn đến những đánh giá lệch lạc vai trò tích cực của TTCK, hoặc là đưa đến những quyết định sai lâm trong đầu tư và có thể là cơ hội cho những phần tử xấu trục lợi làm rối loạn thị trường. Mặt khác cũng phải nói thêm rằng trình độ cán bộ quản lý, kinh doanh chứng khoán cũng chưa đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi, vì TTCK là vấn đề hết sức mới mẻ, chúng ta vừa làm vừa học vừa rút kinh nghiệm.Tình hình trên cho thấy rằng bên cạnh những triển vọng là những thách thức đặt ra đối với sự phát triển của TTCK ở Việt nam. Rõ ràng là vẫn còn nhiều công việc phía trước cần phải làm để TTCK có thể vận hành một cách an toàn, hiệu quả và có triển vọng tốt đẹp trong tương lai. 1.Giải pháp tăng cung hàng hoá cho TTCK: Như đã phân tích ở trên, một trong những nguyên nhân cơ bản làm cho TTCK Việt nam hoạt động chưa có hiệu quả đó là do tình trạng khan hiếm hàng hoá trên thị trường. Trên thực tế có tới 48 ngân hàng thương mại cổ phần( chiếm hơn 50% số ngân hàng thương mại Việt nam )ở Việt nam có nhu cầu tham gia TTCK. Do đó các chuyên gia cho rằng nếu số cổ phiếu của các ngân hàng thương mại cổ phần này được phép tự do chuyển nhượng và tham gia niêm yết trên TTCK, thì nhu cầu của các nhà đầu tư về hàng hoá sẽ đáp ứng được một phần đáng kể và hàng hoá trên TTCK sẽ đa dạng hơn. Để nguồn hàng cho TTCK phong phú hơn, Ngân hàng nhà nước cũng cần lựa chọn một số ngân hàng thương mại cổ phần có uy tín, đủ tiêu chuẩn và điều kiện để giới thiệu cho UBCKNN đánh giá và xem xét cấp giấy phép cho các đối tượng này được tham gia hoạt động chứng khoán. Đồng thời Ngân hàng Nhà nước cần khẩn trương hoàn thiện các thủ tục pháp lý cho phép một số ngân hàng thương mại cổ phần được tự do chuyển nhượng cổ phiếu và tham gia niêm yết cổ phiếu tại TTGDCK. 1.1.Giải pháp nhằm tăng khối lượng giao dịch của trái phiếu chính phủ trên TTCK Thực tế cho thấy, dự kiến của UBCKNN về việc trái phiếu chính phủ sẽ trở thành hàng hoá chủ đạo của TTCK trong thời gian đầu đi vào hoạt động đã không trở thành hiện thực. Phiên đấu thầu trái phiếu chính phủ thứ 3 qua TTCK đã bị thất bại do lãi suất bỏ thầu thấp nhất (là 6,7%/năm) cao hơn lãi suất trần do Bộ Tài chính ban hành (6,65% /năm). Tới phiên đấu thầu thứ 4 thì không có một ai tham gia đấu thầu. Trên thị trường chứng khoán trái phiếu chính phủ luôn trong tình trạng đóng băng về giao dịch. Mặc dù trong tháng 10, TTGDCK đã có phối hợp với kho bạc nhà nước tổ chức đấu thầu đợt 5 trái phiếu chính phủ với khối lượng gọi thầu 200 tỷ đồng, kỳ hạn 3 năm nhưng đợt thầu đã không thành công. Vì vậy giá trái phiếu chính phủ tuy vẫn là 100.800 đồng nhưng không có giao dịch.Tất cả những điều này có thể lý giải vắn tắt như sau: - Lãi suất trái phiếu hiện nay chưa thực sự hấp dẫnđối với nhà đầu tư trên thị trường thứ cấp. Mạng lưới các công ty kinh doanh,môi giới chứng khoán còn quá mỏng, chưa có điều kiện hình thành hiệp hội các nhà dầu tư như ở các nước kinh tế phát triển. Riêng nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán chính phủ chưa phát huy được những lợi thế của nó, thậm chí nó biến dạng gần giống đấu thầu công khai. - Phần lớn các thành viên tham gia đấu thầu, bảo lãnh phát hành trái phiếu chính phủ nhìn chung tiềm lực tài chính còn yếu(trừ số nhỏ các ngân hàng thương mại quốc doanh), đặc biệt các công ty chứng khoán mới được thành lập với số vốn điều lệ 40-50 tỷ đồng sẽ gặp nhiều khó khăn trong lĩnh vực đầu tư, kinh doanh chứng khoán, đặc biệt là trái phiếu chính phủ, chỉ có các tập đoàn tài chính mạnh mới có khả năng đầu tư, kể cả trong trường hợp lãi suất Chính phủ rất thấp. - Do tốc độ tăng trưởng kinh tế thấp, chưa thu hút mạnh vốn đầu tư, các ngân hàng có tiềm lực vốn mạnh có thể đầu tư vào trái phiếu chính phủ( mặc dù lãi suất thấp hơn các lĩnh vực đầu tư khác nhưng hệ số rủi ro thấp). Mặt khác vốn ngân sách nhà nước Việt nam hiện nay chưa căng thẳng, song để duy trì thị trường và mở rộng diện đầu tư, Nhà nước vẫn tiếp tục huy động vốn nhưng lãi suất thấp bao nhiêu tốt bấy nhiêu. Kinh nghiệm thế giới cho thấy rằng Chính phủ không thể nâng lãi suất trái phiếu do sức ép của các tập đoàn tài chính, trừ trường hợp ngân sách nhà nước thiếu vốn. Hơn nữa, theo kinh nghiệm của các nước, thị trường trái phiếu ( đặc biệt là thị trường trái phiếu chính phủ ) được giao dịch chủ yếu trên thị trường phi tập trung ( thị trường OTC ) giữa các nhà đầu tư có tổ chức với nhau. Trước tình hình đó phải có những giải pháp cơ bản nhằm tăng khối lượng trái phiếu chính phủ trên TTCK: *Nền kinh tế phải bảo đảm được tốc độ tăng trưởng kinh tế như những năm vừa qua, tối thiểu 7-8%năm , để tạo ra nhu cầu vốn đầu tư thực tế .Trên cơ sở đó từng bước nâng cao giá trị đồng tiền Việt Nam ,tạo điều kiện thuận lợi cho NSNN trong việc huy động vốn và các tổ chức tài chính trong lĩnh vực đầu tư ,kinh doanh chứng khoáng *Phải xây dựng được nhiều dự án đầu tư có hiệu quả cao về kinh tế -xã hội .Nghiên cứu cải tiến cơ chế cấp phát tài chính ,trong đó một phần được cấp phát trực tiếp bằng nguồn vốn của ngân sách Nhà nước, một phần được cấp phát trực tiếp bằng nguồn vốn phát hành trái phiếu đầu tư công trình (trung và dài hạn) ,có lãi xuất hợp lí ,hấp dẫn để chủ công trình tính toá sử dụng vốn tiết kiệm và hoàn trả thuận lợi khi công trình hoàn thành đưa vào khai thác . *Tiếp tục hoàn thiện các phương thức và cơ chế phát hành trái phiếu Chính phủ để thu hút rộng rãi các nhà đầu tư trên cả hai thị trường sơ cấp và thứ cấp .Cụ thể là : -Đối với phương thức bảo lãnh phát hành :Cần quy định việc hình thành các hiệp hội bảo lãnh để trái phiếu Chính phủ có thể phân phối đến nhiều nhà đầu tư, không để tập trung vào tay một số ít các tổ chức tài chính -tín dụng có tiềm lực mạnh .Cần quy định tỷ lệ (%) nắm giữ tối đa khối lượng trái phiếu Chính phủ trong mỗi đợt phát hành đối với tổ chức bảo lãnh .Tỷ lệ này có thể ở mức từ 40-60% ,dựa trên tiềm lực tài chính của đơn vị . -Đối với phương thức đấu thầu qua thị trường giao dịch chứng khoáng tập trung : Cần tổ chức hình thức đấu thầu kết hợp cạnh tranh vè lãi suất và không cạnh tranh về khối lượng để vừa thu hút được nhà đầu tư và nâng cao tỉ lệ trúng thầu trong từng phiên đấu thầu .Xây dựng cơ chế lãi suất hợp lí trong mặt bằng lãi suất huy động vốn của để tăng sự hấp dẫn của trái phiếu đối với các nhà đầu tư trên thị trường thứ cấp . -Đối với phương thức phát hành qua hệ thống KBNN: chủ yếu hướng vào loại trái phiếu trung hạn và dài hạn, bán từng đợt theo phương thức chiết khấu ,quy định thống nhất ngày đến hạn thanh toán. Chứng chỉ trái phiếu sẽ có in mệnh giá, không ghi tên chủ sở hữu. Kho bạc không thanh toán trước hạn để khuyến khích việc mua bán ,giao dịch trái phiếu được tập trung vào Trung tâm Giao dịch chứng khoáng. *Về phía các nhà đầu tư là thành viên của thị trường đấu thầu và bảo lãnh phát hành trái phiếu Chính phủ:cần quan tâm nghiên cứu nắm vững cơ chế hoạt động của thị trường để tham gia tích cực với tư cách là một thành viên chính thức. Không ngừng củng cố tiềm lực tài chính ,nắm bắt kịp thời thông tin, nâng cao hiệu quả và uy tín hoạt động. *Sớm hình thành mạng lưới các tổ chức chuyên môn hoá thuộc lĩnh vực bảo lãnh ,đại lí phát hành ,môi giới và tư vấn đầu tư kinh doanh chứng khoán,đặc biệt là các tổ chức chuyên nghiệp làm dịch vụ đánh giá và xác định mức độ tín nhiệm của các nhà phát hành chứng khoán. *Mở rộng các hình thức thông tin, quảng cáo thích hợp để mọi cá nhân hiểu biết và nắm vững các kiến thức cơ bản trong lĩnh vực thị trường chứng khoán. Đặc biệt là những quy định về trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi của các đối tác có liên quan như nhà phát hành, các tổ chức bảo lãnh, đại lí phát hành, môi giới đầu tư và kinh doanh chứng khoán. 1.2 Những giải pháp tài chính thúc đẩy cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước nhằm tạo điều kiện cho sự phát triển ổn định của TTCK Việt nam: Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước và thị trường chứng khoán là hai yếu tố quan trọng của việc hình thành và phát triển thị trường vốn ở Việt nam. Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước và TTCK có mối quan hệ hữu cơ và tương hỗ trong quá trình hình thành và phát triển. Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước tạo ra một nguồn hàng phong phú cho TTCK hay nói cách khác là tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước sẽ tạo ra động lực cho sự phát triển ổn định của TTCK và ngược lại, sự ra đời và phát triển của TTCK cũng có ảnh hưởng lớn tới tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, tạo điều kiện để thực hiện các nguyên tắc thị trường trong quá trình cổ phần hoá, đồng thời tác động một cách tích cực đến quá trình bán cổ phần ở các doanh nghiệp cổ phần hoá và giúp cho các doanh nghiệp cổ phần hoá tiếp cận với thị trường vốn dồi dào của xã hội. Quá trình cải cách nền kinh tế và doanh nghiệp nhà nước ở Việt nam trong giai đoạn vừa qua đã cho thấy, để thúc đẩy tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, Chính phủ đã đửâ và áp dụng nhiều giải pháp thích hợp. Đặc biệt trong giai doạn từ tháng 6/1998 đến nay, thông qua các giải pháp tài chính được quy định tại nghị định số 44/1998/NĐ-CP, Quyết định số 145/1999/QĐ-TTG, Quyết định số 177/1999/QĐ-TTG và các văn bản hướng dẫn của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ Lao động thương binh và xã hội ... tiến trình cổ phần hoá đã được đẩy mạnh 7-8 lần so với những năm 1997 trở về trước.Với một hệ thống giải pháp tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong quá trình cổ phần hoá, trao quyền chủ động cho doanh nghiệp và phân cấp mạnh mẽ cho các Bộ, các đại phương, chú trọng đến việc hỗ trợ cho các doanh nghiệp, quyền lợi của người lao động trong doanh nghiệp cổ phần hoá và các nhà đầu tư đã thực sự tạo ra một động lực mới thúc đẩy tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở Việt nam trong thời gian vừa qua. Biểu hiện: Nếu trong 7 năm( từ năm 1992 đến tháng 6/1998 ) cả nước mới cổ phần hoá được 30 doanh nghiệp thì chỉ riêng 6 tháng cuối năm 1998 đã cổ phần hoá thành công 87 doanh nghiệp và trong năm 1999 đã triển khai cổ phần hoá ở trên 300 doanh nghiệp, trong đó đã hoàn thành việc chuyển 250 doanh nghiệp thành công ty cổ phần. Tuy nhiên qua hơn 2 năm thực hiện hệ thống cơ chế chính sách và các giải pháp tài chính được ban hành kèm theo nghị định số 44/1998/NĐ-CP ngày 29/6/1998 của chính phủ cũng bộc lộ một số tồn tại, một số quy định chưa cụ thể rõ ràng nên quá trình thực hiện không thống nhất tạo ra những trở ngại trong quá trình cổ phần hoá như: Thiếu các tiêu thức cần thiết trong việc lựa chọn doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá hoặc danh mục cụ thể doanh nghiệp nhà nước cần được ưu tiên củng cố và hỗ trợ nên dẫn đến tình trạng lựa chọn cả những doanh nghiệp lỗ lớn, đang có nhiều vướng mắc trong hoạt động liên doanh, liên kết để thực hiện cổ phần hoá hoặc sử dụng tiền thu về bán phần vốn Nhà nước tại doanh nghiệp để cấp bổ sung vốn lưu động cho các doanh nghiệp nhà nước khác. Bên cạnh đó, hệ thống cơ chế chính sách cổ phần hoá trong thời gian vừa qua lại chưa đồng bộ, thiếu nhất quan và cũng còn nhiều điển chưa hợp lý và chưa đi vào cuộc sống như: - Phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp chưa thể hiện rõ được xu hướng phát triển của doanh nghiệp và chưa phù hợp với loại hình doanh nghiệp có ít tài sản như doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ, thương mại... Việc ban hành các quy định về xác định phẩm chất tài sản chưa được chú trọng, việc xác định lợi thế chưa được đảm bảo tính đồng nhất trong kinh doanh (mới chỉ so sánh trong cùng một nghành nghề). Các chính sách ưu đãi cho doanh nghiệp vẫn bị các bộ chuyên nghành hướng dẫn sai lệch, vẫn còn tư tưởng coi hệ thống tài chính, tín dụng... áp dụng cho các doanh nghiệp nhà nước là ưu đãi. Việc hạn chế mua cổ phần dối với một số đối tượng đã ảnh hưởng không tốt đến tiến trình cổ phần hoá, việc thực hiện các mục tiêu ổn định vốn và thay đổi phương thức quản lý để nâng cao hiệu quả kinh doanh ở các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá(đặc biệt là các doanh nghiệp không thuộc diện nhà nước cần nắm giữ cổ phần chi phối và cổ phần đặc biệt). Ngoài ra chưa có cơ chế để xử lý các tồn tại về công nợ dây dưa và tài sản không cần dùng ở các doanh nghiệp cổ phần hoá nên ảnh hướng tới tiến trình và dẫn tới những tổn thất cho nhà nước...Những tồn tại này đã và đang góp phần cản trở tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Hoạt động của TTGDCK TP.HCM trong những phiên vừa qua cho thấy: -Các nhà đầu tư bên ngoài mới chỉ tập trung vào cổ phiếu của các doanh nghiệp cổ phần hoá, đồng thời do lượng hàng hoá quá ít dẫn tới tình trạng giá cổ phiếu của 5 công ty được niêm yết taưng mạnh một cách không hợp lý. -Sự ra đời và hoạt động của TTGDCK đã tác động mạnh đến việc mua bán cổ phiếu của các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hoá với vốn điều lệ trên 10 tỷ đồng. Biểu hiện: SACOM trước đây phải mất 1,5 năm mới huy động đủ vốn điều lệ nay các công ty có vốn trên 10 tỷ đồng trên địa bàn thành phố HCM hoàn tất việc mua bán cổ phiếu chỉ trong 2-3 tuần. -Các doanh nghiệp chưa muốn tham gia giao dịch cổ phiếu trên TTCK là do: +Họ e ngại sẽ có sự thay đổi lớn về cấu trúc cổ đông và công tác quản lý doanh nghiệp. +E ngại về việc công khai các thông tin về tài chính, về hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp sẽ có ảnh hưởng lớn đến khả năng cạnh tranh và làm mất lợi thế của doanh nghiệp. + E ngại rằng thông qua hoạt động giao dịch cổ phiếu trên TTCK sẽ bị các đối thủ cạnh tranh khống chế hoặc thôn tính. + áp lực về niêm yết từ phía các cổ đông trong công ty cũng không đủ mạnh do chưa nhận thức hết được tầm quan trọng và lợi ích từ việc niêm yết cổ phiếu. -Còn các cổ đông của các doanh nghiệp đã niêm yết thì cũng chưa muốn bán ra vì: +Đợi giá lên cao hơn so với giá khống chế. +Việc mua bán cổ phiếu trên thị trường chứng khoán là rất khó khăn, qua nhiều thủ tục: Trong khi việc mua bán ở các thị trường chợ đen lại đơn giản và được giá hơn. -Ngoài ra, Còn một vấn đề bức xúc nữa trong hoạt động của thị trường thứ cấp là đến nay Nhà nước vẫn chưa có tổ chức các thị trường phi tập trung OTC để giao dịch các loại cổ phiếu của các doanh nghiệp không đủ điều kiện niêm yết và cũng chưa tổ chức việc cung cấp các thông tin tư vấn cho các doanh nghiệp và các nhà đầu tư trong các hoạt động giao dịch cổ phiếu. Các vấn đề trên cho thấy, để thị trường chứng khoán phát triển và ổn định thì một mặt thị trường chứng khoán phải cải cách lại theo hướng thuận lợi hơn cho khách hàng(bao gồm cả cổ phiếu của những doanh nghiệp đủ điều kiện nhưng chưa niêm yết và các doanh nghiệp chưa đủ điều kiện niêm yết); Tuyên truyền rộng rãi lợi ích của hoạt động niêm yết... thì về phía nhà nước, đặc biệt là Bộ Tài chính cũng phải nghiên cứu và trình chính phủ ban hành những cơ chế, chính sách tài chính để thúc đẩy hơn nữa tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở Việt nam đồng thời tạo nguồn hàng và hỗ trợ thị trường chứng khoán phát triển. Trước mắt sẽ tập trung theo hướng sau: *Tiếp tục đẩy mạnh tiến trình cổ phần hó theo tinh thần của nghị định 44/1998/NĐ-CP, trong đó cần đặc biệt chú ý đến việc xây dựng và giao chỉ tiêu cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước cho các Bộ, ngành và địa phương. Thực hiện chế độ cổ phần hoá bắt buộc đối với các doanh nghiệp nhà nước thuộc diện cổ phần hoá theo nghị định 44/1998/NĐ-CP; đồng thời thực hiện chế độ bắt buộc phải niêm yết công khai trên TTGDCK đối với các doanh nghiệp cổ phần hoá đủ tiêu chuẩn niêm yết trên TTGDCK. Đặc biệt cần nghiên cứu nâng tỷ lệ cổ phiếu bán cho các cổ đông bên ngoài doanh nghiệp trong quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. *Xây dựng cơ chế đấu thầu và đấu giá cổ phiếu của nhà nước ở các doanh nghiệp nhà nước thực hiện cổ phần hoá. *Xây dựng cơ chế và ứng dụng kỹ thuật phân bổ cổ phiếu ở các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hoá. Trong đó dành một tỷ lệ nhất định(sau khi thực hiện chính sách ưu đãi giá cho người lao động trong doanh nghiệp) để tổ chức bán đấu giá cho các đối tượng bên ngoài thông qua các công ty tài chính, công ty chứng khoán hoặc các trung tâm giao dịch chứng khoán. *Bổ sung và hoàn thiện hệ thống chính sách đã ban hành, xoá bỏ sự phân biệt trong hệ thống cơ chế chính sách theo hướng thiết lập các cơ chế ưu đãi theo ngành nghề, không phân biệt loại hình doanh nghiệp. Nhanh chóng tạo lập một môi trường pháp lý đầy đủ và môi trường kinh doanh bình đẳng cho các doanh nghiệp cổ phần hoá cũng như doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác hoạt động. *Hoàn thiện phương pháp định giá hiện có trên cơ sở bổ sung các quy định về xác định phẩm chất taì sản, xác định lợi thế doanh nghiệp... và bổ sung thêm phương pháp định giá mới để kiểm tra tính hợp lý của kết quả định giá trước khi công bố cũng như áp dụng cho các loại hình doanh nghiệp thích hợp. *Xây dựng cơ chế xử lý dứt điểm các tồn tại về tài chính cho các doanh nghiệp nhà nước thực hiện cổ phần hoá và cho phép các doanh nghiệp thực hiện mua bán để lành mạnh hoá tình hình tài chính ngay trong quá trình hoạt động. *Nghiên cứu và thành lập các tổ chức trung gian để hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong quá trình thực hiện chuyển đổi sở hữu như: Công ty mua bán nợ và tài sản doanh nghiệp, Công ty tư vấn về cổ phần hoá, Công ty định giá tài sản...Cùng với các công ty đầu tư chứng khoán, các công ty này sẽ đảm nhận các nhiệm vụ về bán phần vốn nhà nước ở các công ty cổ phần để tách hoạt động này khỏi các doanh nghiệp nhà nước thực hiện cổ phần hoá, đồng thời tạo cơ sở cho việc thành lập các thị trường chứng khoán phi tập trung OTC để giao dịch các loại cổ phần của các doanh nghiệp chưa đủ điều kiện niêm yết và cung cấp kịp thời các thông tin về doanh nghiệp cổ phần hoá để các nhà đầu tư nghiên cứu lựa chọn. *Nghiên cứu và thành lập công ty đầu tư tài chính để chuyển phương thức quản lý doanh nghiệp từ hành chính sang kinh doanh. Thông qua đó chủ động thành lập các nguồn hàng cho sự ổn định phát triển của thị trường chứng khoán. *Điều chỉnh các chính sách ưu đãi, đặc biệt là chính sách miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp để khuyến khích doanh nghiệp thực hiện cổ phần hoá và tham gia niêm yết theo hướng: + Phải coi các doanh nghiệp nhà nước thực hiện cổ phần hoá, doanh nghiệp mới thành lập được hưởng mọi ưu đãi cho các đối tượng mới thành lập. + Gia tăng thời hạn được giảm thuế thu nhập doanh nghiệp cho các doanh nghiệp thực hiện niêm yết từ 1-2 năm, kèm theo điều kiện ràng buộc là chính sách ưu đãi chỉ có hiệu lực khi doanh nghiệp thực hiện niêm yết trong hai năm sau khi thực hiện cổ phần hoá, nếu thực hiện trễ thì bị giảm mức ưu đãi. Về chính sách thuế trong thời gian tới để tiếp tục góp phần khuyến khích sự phát triển thị trường chứng khoán có thể mở rộng thêm mức độ ưu đãi thuế cho các doanh nghiệp nhà nước thực hiện cổ phần hoá chuyển sang hoạt động theo Luật doanh nghiệp so với mức ưu đãi hiện hành quy định tại nghị định số 44/1998/NĐ-CP; đối với hoạt động kinh doanh chứng khoán sẽ có những quy định ưu đãi cụ thể hơn về thuế GTGT, thuế TNDN, thuế thu nhập cá nhân. 2. Giải pháp tài chính khuyến khích sự hình thành và phát triển của các công ty chứng khoán, các trung gian tài chính trong quá trình tham gia vào hoạt động của TTCK: Công ty chứng khoán là một thể chế có mối quan hệ hữu cơ với sự phát triển của TTCK. Để khuyến khích sự hình thành và phát triển của công ty chứng khoán trong quá trình tham gia TTCK bằng các chính sách tài chính thì cần phải đề cập không những đến các giải pháp tác động trực tiếp đến công ty chứng khoán mà còn cả các giải pháp thúc đẩy phát triển thị trường và tạo lập môi trường kinh tế.TTCK ở Việt nam vốn còn rất mới mẻ thậm chí có thể nói còn ở giai đoạn sơ khai. Là những thành viên của TTCK, hoạt động của các công ty chứng khoán đóng vai trò quan trọng cho phát triển TTCK. Để tạo điều kiện cho các công ty chứng khoán mở rộng hoạt động so với quy định hiện nay nhà nước nên nghiên cứu triển khai một số chính sách: - Cho phép thành lập các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài dưới hình thức cổ phần và được tham gia TTCK. - Hoạt động kinh doanh chứng khoán yêu cầu khá phức tạp về trang thiết bị và nghiệp vụ nên nhiều trường hợp dẫn đến rủi ro. Vì vậy cần phát triển các loại hình bảo hiểm cho hoạt động của thị trường như: Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp, bảo hiểm gian lận trong các tổ chức tài chính, bảo hiểm tội phạm máy tính và gian lận điện tử. - Tạo cơ chế pháp lý cho tổ chức hoạt động thị trường OTC nhằm đáp ứng nhu cầu giao dịch chứng khoán chưa niêm yết tạo thêm sôi động cho thị trường cho phép các công ty chứng khoán thực hiện lưu ký và giao dịch chứng khoán vơí nhà đầu tư nước ngoài. - Cho phép các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vào TTCK (Phát hành cổ phiếu, trái phiếu). - Nhà nước nên kéo dài quy định tạm ngừng thu phí giao dịch cho tới khi khối lượng giao dịch đủ lớn. - Chế độ kế toán đối với công ty chứng khoán cần có hướng dẫn cụ thể hoá như hạch toán nghiệp vụ tự doanh chứng khoán, phương pháp phân tích giá trọ tài sản dòng.. cần có hướng dẫn cụ thể hơn. Hiện nay trên thị trường số lượng các công ty chứng khoán còn nhiều hơn cả các công ty niêm yết , điều đó cho thấy trong giai đoạn hiện nay để khuyến khích các công ty chứng khoán phát triển giải pháp phát triển thị trường và môi trường kinh doanh của các công ty chứng khoán đóng vai trò quan trọng hơn. Đảm bảo môi trường kinh tế vĩ mô ổn định, hệ thống tài chính vận hành trôi chảy, an toàn, đây là nhân tố quan trọng nhất cho sự phát triển lành mạnh của TTCK. Trên thực tế, khi nền kinh tế tăng trưởng ổn định, có nhiều cơ hội đầu tư thì TTCK cũng rất phát triển. Trong chính sách ổn định kinh tế vĩ mô thì sự kiểm soát lãi suất của ngân hàng nhà nước đóng vai trò rất quan trọng. Chính sách điều hành lãi suất cần đảm bảo quan hệ giữa thị trường chứng khoán và thị trường tiền tệ vì chúng hoạt động như "bình thông nhau". Hiện nay một trong các nguyên nhân khiến cho trái phiếu chính phủ niêm yết khó bán là lãi suất thấp, thêm vào đó là sự thất thường của lãi suất thị trường vì trái phiếu chính phủ có tính lỏng cao. Để thực hiện việc bình ổn thị trường nhà nước cần có các chính sách tài chính tác động vào quan hệ cung cầu hoặc các hình thức bảo hiểm cho đầu tư chứng khoán tư nhân. Ngoài ra nhà nước nên nghiên cứu hoàn thiện mô hình công ty quản lý vốn của nhà nước - có nhiệm vụ quản lý phần vốn của nhà nước trong các công ty cổ phần qua đó có thể can thiệp vào thị trường khi xảy ra hiện tượng mất cân đối quan hệ cung cầu. Thành lập các trung gian tài chính và các trung gian đầu tư. Do TTCK Việt nam còn rất non trẻ, hoạt động kinh doanh và đầu tư chứng khoán chưa mang lại lợi nhuận cao, nên việc hình thành các trung gian tài chính, các trung gian đầu tư phục vụ hoạt động kinh doanh và đầu tư chứng khoán như công ty chứng khoán, quỹ đầu tư chứng khoán là rất khó khăn. Trong khi đó các trung gian tài chính và trung gian đầu tư có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển các hoạt động giao dịch và kinh doang chứng khoán. Do vậy, ngoài việc áp dụng các chế độ ưu đãi về thuế Nhà nước cần chủ động đứng ra tổ chức thành lập các trung gian tài chính và trung gian đầu tư dưới nhiều hình thức khác nhau như doanh nghiệp nhà nước, công ty cổ phần nhằm tăng cường số lượng các trung gian này cho TTCK, mở rộng khả năng thu hút công chúng đầu tư tham gia đầu tư chứng khoán và tăng cường năng lực kinh doanh chứng khoán trên TTCK. 3.Hoàn thiện hệ thống thông tin - một nhân tố nhạy cảm của TTCK: Với những đặc điểm riêng biệt của một định chế tài chính bậc cao, có thể nói ở góc độ hẹp, TTCK chính là thị trường thông tin. Thực tế cho thấy, hầu hết các TTCK trên thế giới đều đã trải qua những cơn chấn động mạnh, thậm chí sụp đổ chỉ sau thời gian ngắn hoạt động do sự thiếu thốn và kém hiệu lực của hệ thống luật pháp, nhất là do sự yếu kém của hệ thống thông tin.Do vậy, chất lượng thông tin về chứng khoán có vai trò đặc biệt quan trọng giúp các nhà kinh doanh chứng khoán hiểu đúng chất lượng chứng khoán, cảm nhận đúng xu hướng biến động giá cả, cung-cầu chứng khoán, từ đó hình thành và điều chỉnh các quyết định đầu tư cho phù hợp. Không những vậy, chất lượng thông tin đảm bảo còn giúp các nhà quản lý TTCK sớm nắm bắt trạng thái "sức khoẻ" của TTCK để đưa ra những giải pháp trị liệu thích hợp, nhằm bảo đảm tính an toàn và hiệu quả của các hoạt động kinh doanh trên thị trường này. TTCK muốn hoạt động bình thường và an toàn, nhất thiết phải được cung cấp đầy đủ và kịp thời các thông tin sau: -Nhóm thông tin về môi trường pháp lý, cơ chế, thể thức vận hành TTCK. -Nhóm thông tin về tình hình kế hoạch và kết quả hoạt động kinh doanh, trạng thái tài chính, trong đó báo cáo tài chính công ty là quan trọng nhất. -Nhóm thông tin về động thái cung-cầu và các nhân tố liên quan đến TTCK bao gồm cung- cầu về các loại chứng khoán niêm yết trên TTCK trong nước và nước ngoài, xu hướng vận động và những dự báo tương lai...Rộng hơn, có thể cần cả những thông tin liên quan đến đường lối chính sách, giải pháp kinh tế vĩ mô của chính phủ cho nền kinh tế hoặc cho từng nghành, lĩnh vực, mặt hàng, doanh nghiệp. Ngay cả những thông tin về chính sách đối ngoại, đối nội về chính trị - văn hoá cũng có dấu ấn trực tiếp và đậm nét trên TTCK. - Nhóm thông tin dành cho các nhà đầu tư chứng khoán ( nhất là các nhà đầu tư nghiệp dư ) tham khảo để giảm thiểu hoặc tránh các rủi ro, bao gồm các thông tin về đặc điểm kinh doanh trên TTCK, các mánh khoé gian lận trong kinh doanh chứng khoán ... Để phát huy những mặt tích cực của TTCK, đồng thời tránh và giảm thiểu rủi ro, giữ cho TTCK còn hết sức non trẻ của Việt nam hoạt động an toàn, ổn định và hiệu quả, cần tuân thủ các quy định của nhà nước về hoạt động của TTCK, nhất là những điều cấm trong nghị định 48/1998/NĐ-CP về chứng khoán và TTCK. Đặc biệt, dưới giác độ bảo đảm chất lượng thông tin cho TTCK, cần có giải pháp đồng bộ và tỷ mỷ hơn: *Cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản pháp quy, môi trường pháp lý và cả những định chế cần thiết cho hoạt động kinh doanh chứng khoán. Đặc biệt cần có những quy định rõ ràng, thống nhất, phù hợp thông lệ quốc tế về chế độ kiểm toán, kế toán và thông tin phục vụ hoạt động của TTCK đối với các công ty niêm yết cổ phiếu. Hiện nay, tổ chức quốc tế các Uỷ ban chứng khoán (IOSCO) đã công bố danh sách 30 chuẩn mực kế toán quốc tế chờ thông qua để tạo điều kiện cho việc phát hành chứng khoán tại các thị trường nước ngoaì. Việt nam cần bám sát các tiêu chuẩn này để " chuẩn hoá và quốc tế hóa" các quy định về kế toán, tạo thuận lợi cho sự hội nhập của TTCK Việt nam vào môi trường chung của kinh doanh chứng khoán quốc tế. *Cần coi trọng công tác thẩm định chất lượng thông tin từ cơ sở. Bên cạnh các tổ chức đánh giá hệ số tín nhiệm phi chính phủ, Nhà nước cần có giải pháp đảm bảo cung cấp đầy đủ, rộng rãi, cập nhật, chính xác và minh bạch các thông tin cần thiết phục vụ hoạt động TTCK theo nội dung, yêu cầu về thông tin nói trên. Cần phân công trách nhiệm rõ ràng, tránh sự chồng chéo về hoạt động của các tổ chức tự quản và cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực thông tin chứng khoán. *Tăng cường giáo dục nhận thức, năng lực xử lý thông tin thị trường cho các nhà đầu tư chứng khoán, nhằm giúp họ đánh giá đúng đắn nhất về chất lượng hàng hoá, cũng như nắm chắc đặc điểm kinh doanh trên TTCK, từ đó có thể giảm thiểu thiệt hại trong kinh doanh chứng khoán. Đồng thời cần tổ chức đào tạo dưới các hình thức thích hợp nhằm không ngừng nâng cao chuyên môn nghiệp vụ về TTCK cho đội ngũ cán bộ quản lý và phục vụ kinh doanh chứng khoán. *Có định chế tài chính nghiêm khắc, xử lý kịp thời và hiệu quả các sai phạm trong việc bảo đảm chất lượng thông tin phục vụ kinh doanh chứng khoán. Tăng cường kiểm tra, giám sát thi hành pháp luật về chứng khoán và kinh doanh chứng khoán, áp dụng linh hoạt các biện pháp cấp đình chỉ và thu hồi các loại giấy phép trong lĩnh vực chứng khoán và kinh doanh chứng khoán đối với các đơn vị và cá nhân vi phạm các quyết định về phổ biến và bảo đảm chất lượng, an toàn thông tin chứng khoán. *Cần không ngừng rút kinh nghiệp các hoạt động nghiệp vụ mà trên thực tế còn hết sức mới mẻ đối vơí cả người mua, người bán và người trung gian, cũng như các cơ quan quản lý về chứng khoán. Kết hợp học tập rút kinh nghiệm nước ngoài để ngày càng hoàn thiện môi trường môi trường kinh doanh chứng khoán Việt nam, đặc biệt cần chủ động tìm ra và sử dụng kịp thời, hiệu quả các thanh hãm an toàn cho sự vận hành của TTCK. 4.Tăng cường quản lý nhà nước đối với hoạt động chứng khoán và thị trường chứng khoán: Tình hình cho thấy bên cạnh những triển vọng là những thách thức đặt ra đối với sự phát triển thị trường chứng khoán ở Việt nam. Rõ ràng là vẫn còn nhiều công việc trước mắt cần giải quyết,và việc quản lý thị trường có hiệu quả là một vấn đề không đơn giản. Để làm được vấn đề này nhà nước cần phải lưu ý những vấn đề sau: - Tạo ra một thị trường công bằng, công khai, có hiệu quả trên cơ sở rà soát lại toàn bộ khuôn khổ pháp lý về chứng khoán và thị trường chứng khoán cho đồng bộ và phù hợp, kết hợp với các phương pháp quản lý vận hành thị trường thích hợp với công nghệ, kỹ thuật tiên tiến phù hợp với từng thời kỳ phát triển của thị trường chứng khoán Việt nam. - Tăng cường công tác thanh tra giám sát thị trường chứng khoán. việc giám sát thị trường được thực hiện theo các cấp độ khác nhau: giám sát hoạt động giao dịch tại TTGDCK và UBCKNN. Công tác thanh tra, sử phạt vi phạm hành chính được thực hiện một cách chặt chẽ nhưng thận trọng, có sự phối hợp với các cơ quan bảo vệ pháp luật khác của nhà nước. - Đẩy mạnh công tác tuyên truyền phổ cập kiến thức ra công chúng; thực hiện tốt chế độ công khai hoá thông tin để cho người đầu tư có đầy đủ các thông tin cần thiết cho việc lựa chọn và quyết định đầu tư chứng khoán. -Cần tăng cường đào tạo cán bộ quản lý giám sát của UBCKNN và TTGDCK, đồng thời nâng cao trình độ nghiệp vụ kinh doanh, tư vấn cho các nhân viên ở các công ty chứng khoán. Các chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp của nhân viên giao dịch và kinh doanh chứng khoán cũng cần được xây dựng và áp dụng vì đây là một trong những yếu tố hết sức quan trọng để tạo lòng tin đối với các nhà đầu tư. - Thuế là một trong những công cụ tài chính vĩ mô quan trọng nhất của Nhà nước; các loại thuế có tác động trực tiếp đến hoạt động kinh doanh và đầu tư chứng khoán bao gồm: thuế GTGT, thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế thu nhập đối với những người có thu nhập cao. Ngoài chức năng là một công cụ tài chính vĩ mô của Nhà nước, thuế còn là nguồn thu quan trọng nhất của ngân sách nhà nước, do đó quan điểm áp dụng chế độ thuế đối với hoạt động kinh doanh và đầu tư chứng khoán là ngay từ đầu vẫn phải thu thuế nhưng trên cơ sở có sự ưu đãi hơn so với các hoạt động kinh doanh khác. Có nghĩa là ngoài những ưu đãi chung về thuế được áp dụng cho tất cả các đối tượng nộp thuế, đối với các đối tượng có tham gia vào thị trường chứng khoán còn được hưởng chế độ ưu đãi về thuế trong những năm đầu nhằm khuyến khích và tạo điều kiện phát triển thị trường chứng khoán. Ví dụ công ty chứng khoán và công ty quản lý quỹ được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp thêm một năm và giảm 50% thuế thu nhập doanh nghiệp trong 2 năm tiếp theo ngòai chế độ ưu đãi chung hiện hành; các công ty niêm yết ngoài chế độ ưu đãi chung cũng được giảm 50% thuế thu nhập doanh nghiệp phaỉ nộp trong 2 năm tiếp theo kẻ từ khi niêm yết chứng khoán lần đầu tại TTGDCK. Đối với các cá nhân đầu tư chứng khoán được miễn thuế thu nhập cao đối với các khoản thu nhập thu được từ đầu tư chứng khoán. Bên cạnh đó nhà nước cũng cần có những giải pháp hợp lý đối với vấn đề phí và lệ phí trên TTCK. Cần giảm tối thiểu các loại phí và lệ phí trên TTCK nhằm giảm chi phí tham gia đầu tư và kinh doanh chứng khoán, trên cơ sở đó khuyến khích sự tham gia của các nhà đầu tư. Đối với TTGDCK trước mắt để phù hợp với chủ trương và định hướng phát triển TTCK Việt nam, TTGDCK cần được tổ chức dưới hình thức là đơn vị sự nghiệp có thu, vấn đề thu-chi tài chính của TTGDCK sẽ được ngân sách nhà nước hỗ trợ nhằm giảm gánh nặng về các loại phí như phí giao dịch, phí niêm yết, phí thành viên lên các thành viên tham gia TTCK. Tuy nhiên trong tương lai, khi TTCK phát triển ta cần chuyển TTGDCK sang chế độ thành viên hoạt động không vì mục đích lợi nhuận. Khi đó TTGDCK là một tổ chức tự định chế của các công ty chứng khoán thành viên, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận trên cơ sở tự cân đối thu- chi từ các khoản thu của trung tâm mà không có sự hỗ trợ của ngân sách nhà nước. Kết luận Trung tâm giao dịch chứng khoán đầu tiên của nước ta đã khai trương hoạt động tại thành phố HCM. Tuy sự kiện này là bình thường trong tiến trình phát triển của nền kinh tế thị trường, song đối với nước ta, nó lại có ý nghĩa nhiều mặt. Trong bối cảnh hiện nay, khi nền kinh tế đang đối mặt với một số khó khăn trong đó, có những khó khăn chưa từng gặp trong 15 năm đổi mới của nước ta, ý nghĩa đó càng được nâng lên. Để cảm nhận một điều hết sức thực tiễn rằng sự ra đời của TTGDCK tại thời điểm hiện nay đáp ứng kịp thời một kỳ vọng chính đáng của đông đảo mọi người. Đó là mong muốn nền kinh tế có thêm một động lực mới, có khả năng tiếp thêm sức mạnh thúc đẩy quá trình đổi mới kinh tế. Vì vậy bản thân sự kiện này có tác dụng củng cố niềm tin của nhân dân, đặc biệt là của giới doanh nghiệp, và quyết tâm đẩy mạnh đổi mới kinh tế theo hướng thị trường- mở cửa của Đảng và Nhà nước ta. Nhưng mặt khác, một cách khách quan, sự lạc quan đó lại dễ che mờ những khó khăn trở ngại mà thị trường non trẻ này gặp phải trong quá trình hoạt động. Đây thực sự là một nguy cơ đối với sự tồn tại của TTGDCK trong giai đoạn đầu tiên. Vì lẽ đó, chính tại trong thời điểm này, sự tỉnh táo nhìn thẳng vào những thách thức "hậu khai trương" đang chờ đợi TTGDCK TP HCM là một điều hết sức cần thiết. Cần nhận thức rõ rằng sự hiện diện của một thể chế kinh tế bậc cao như TTCK, dù là dưới hình thức sơ khai, trong một nền kinh tế mà trình độ phát triển nói chung còn thấp, quá trình chuyển sang kinh tế thị trường chưa lâu, cấu trúc thể chế cơ bản của nền kinh tế này vẫn còn chưa hoàn thiện, tự nó chứa đựng hoàn loạt vấn đề lý luận và thực tiễn cần được suy xét kỹ càng. Sự suy xét đó nhằm trả lời câu hỏi: Phải làm gì để TTCK Việt nam có thể tồn tại và hoạt động có hiệu quả, nhất là trong thời kỳ mới sinh thành của nó. Vấn đề đặt ra không đơn thuần chỉ là kỳ vọng vào triển vọng hoàn thành sứ mệnh phát triển được gưỉ gắm cho TTCK. Thành bại của TTCK, trực tiếp hơn, còn có ý nghĩa trắc nghiệm đối với quyết tâm đẩy mạnh đổi mới theo hướng thị trường - mở cửa của Việt nam, đối với việc tiếp cận một cách thức phát triển nhằm đưa đát nước nhanh chóng thoát khỏi nguy cơ tụt hậu trong một thế giới mà tốc độ đã trở thành yếu tố quyết định thắng lợi trong cuộc đấu tranh phát triển. Vì những lý do đó để đảm bảo cho TTGDCK TP.HCM tồn tại và vượt qua được những khó khăn cần phải có những giải pháp đúng đắn. Trên cơ sở đó hoàn thiện thị trường vốn - thúc đẩy nền kinh tế nước ta phát triển. Tài liệu tham khảo 1.Tạp chí Đầu tư chứng khoán số 22 đến số 60 2. Kiến thức phổ thông để kinh doanh thị trường chứng khoán 3. Việt Nam với thị trường chứng khoán : NXB Chính trị quốc gia 4. Tạp chí Ngân hàng 5. Hỏi đáp về thị trường chứng khoán 6.Tài liệu của hội thảo khoa học: "Tài chính với sự phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam"

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29629.doc
Tài liệu liên quan