mục đích và đối tượng nên hai bên trong từng hợp đồng có quyền và nghĩa vụ riêng; mặc dù chúng vừa là nguyên nhân, vừa là kết quả của nhau. Hợp đồng thứ nhất (giữa người được bảo lãnh và người thụ hưởng bảo lãnh) là gốc để hình thành hợp đồng thứ hai (giữa ngân hàng phát hành bảo lãnh và người được bảo lãnh) và hợp đồng thứ ba (giữa ngân hàng phát hành bảo lãnh và người thụ hưởng bảo lãnh) nhưng các hợp đồng sau ra đời nhằm phục vụ cho hợp đồng thứ nhất. Hợp đồng này sẽ không được thực hiện đầy đủ nếu các hợp đồng còn lại không có hiệu lực. Mối quan hệ này là lô-gích nhưng không có nghĩa là quyền và nghĩa vụ của các bên trong từng hợp đồng lại ràng buộc hay phụ thuộc lẫn nhau
94 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1165 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nghiệp vụ bảo lãnh xuất nhập khẩu của các Ngân hàng thương mại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp phát triển, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng rủi ro đã xảy ra do tắc trách trong công tác bảo lãnh ở giai đoạn những năm 1996 khiến các ngân hàng đều thận trọng khi cấp bảo lãnh từ khâu tư vấn, thẩm định tới giám sát sau bảo lãnh.
Thứ ba, tất cả các ngân hàng đều thiết lập được một mạng lưới ngân hàng đại lý, văn phòng đại diện rộng lớn trên khắp các thị trường quan trọng của thế giới do vậy công tác theo dõi giám sát các khách hàng nước ngoài thuận lợi hơn, ngăn chặn những rủi ro có thể xảy ra do thiếu thông tin.
Nhờ những nguyên nhân chủ quan và khách quan mà việc thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh trong thời gian vừa qua đã đạt được những kết quả nhất định. Tuy nhiên hoạt động bảo lãnh XNK của các NHTM vẫn còn rất nhiều những tồn tại ở không chỉ riêng một ngân hàng, đòi hỏi phải có những biện pháp hữu hiệu để giải quyết.
Những khó khăn và tồn tại
Những khó khăn trong quá trình thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh
Môi trường pháp lý chưa hoàn chỉnh và đồng bộ
Nghiệp vụ bảo lãnh XNK hiện nay chưa có một hệ thống luật chung mà thường được thực hiện theo luật quốc gia và tập quán của ngân hàng phát hành. Khi các NHTM Việt Nam cấp bảo lãnh cho các đối tác nước ngoài thường phải dẫn chiếu theo luật lệ nước chủ thể đó do vậy gây ra nhiều bất lợi cho các ngân hàng cũng như các doanh nghiệp Việt Nam. Bên cạnh đó ở trong nước chưa có luật bảo lãnh mà chỉ được quy định thành một điều khoản trong Bộ luật dân sự, việc thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh của các ngân hàng được dẫn chiếu theo các văn bản dưới luật như các Nghị định của Chính phủ, các quy định của NHNN, Bộ tài chính . . . mà các văn bản này thường xuyên thay đổi, các văn bản hướng dẫn chưa đầy đủ gây rất nhiều khó khăn trong thực hiện.
- Pháp lệnh kế toán thống kê chưa đủ hiệu lực bắt buộc các doanh nghiệp thực hiện chế độ hạch toán thống kê kịp thời do đó gây khó khăn cho ngân hàng khi xem xét tình hình tài chính của khách hàng trước khi quyết định bảo lãnh cũng như quá trình giám sát sau khi cấp bảo lãnh.
- Vấn đề thiếu đồng bộ của các chính sách về thương mại, chính sách tiền tệ của nhà nước trong những năm qua ảnh hưởng đến hiệu quả bảo lãnh của các ngân hàng. Chưa quy rõ trách nhiệm của các cơ quan về kết quả thẩm định chất lượng, giá cả của hàng nhập khẩu. Do đó khi xảy ra rủi ro từ kết quả thẩm định đem lại thì các cơ quan này chỉ phải gánh chịu một phần trách nhiệm hành chính còn hệ thống các ngân hàng thì phải gánh chịu toàn bộ rủi ro.
- Sự không đồng nhất giữa thông lệ quốc tế với luật trong nước là một khó khăn đối với các ngân hàng trong việc thực hiện các cam kết bảo lãnh XNK với đối tác nước ngoài.
Hạn chế từ phía các doanh nghiệp
Các doanh nghiệp XNK đôi khi chưa nắm chắc quy định về bảo lãnh, trong một số trường hợp phát sinh nhu cầu về bảo lãnh vay vốn, thì doanh nghiệp mới tới ngân hàng xin bảo lãnh. Trường hợp này gây khó khăn trong việc thẩm định khách hàng, bởi nếu thẩm định kỹ lưỡng thì không đảm bảo thời gian cho doanh nghiệp rút vốn vì có thể lỡ thời gian về vụ mùa, chi phí cầu cảng, bốc dỡ, nhưng nếu xem xét qua loa thì rủi ro cho ngân hàng nhận bảo lãnh sẽ rất cao.
Bên cạnh đó, mặc dù số lượng các doanh nghiệp tham gia kinh doanh xuất nhập khẩu ngày càng tăng nhưng năng lực tài chính còn rất thấp. Phần lớn tài sản cố định là nhà xưởng, máy móc thiết bị đã cũ, vốn lưu động phục vụ sản xuất kinh doanh hầu hết là vốn vay ngân hàng và chiếm dụng lẫn nhau. Chính vì vậy diễn ra một nghịch lý là trong khi nhu cầu bảo lãnh hiện nay của các doanh nghiệp đều rất lớn song giá trị tài sản đảm bảo vay vốn ngân hàng thì lại không đủ. Hơn nữa, bản thân năng lực, trình độ, kinh nghiệm quản lý sản xuất kinh doanh của các cán bộ trong doanh nghiệp cũng chưa đáp ứng đòi hỏi thực tiễn của hoạt động sản xuất thương mại hiện nay. Đây chính là lý do tại sao trong những năm gần đây, dù các ngân hàng đã rất cố gắng nhưng nghiệp vụ bảo lãnh XNK vẫn chưa phát triển tương xứng với tiềm năng của nó tại Việt Nam.
Điều kiện về tài sản thế chấp còn khắt khe và khó khăn trong việc định giá tài sản thế chấp
Mặc dù nhà nước đã có các văn bản quy định và hướng dẫn về việc thực hiện thế chấp tài sản nhưng cho đến nay vấn đề này còn nhiều nổi cộm, cản trở hoạt động của ngân hàng và khách hàng.
Về phía doanh nghiệp:
Các doanh nghiệp nhà nước: thực chất tài sản đủ tiêu chuẩn để đem thế chấp rất ít, đa phần là quá cũ kỹ và đã khấu hao gần hết, không có giấy tờ về quyền sử dụng đất, về đăng ký tài sản . . . Nếu từ chối cấp bảo lãnh thì sẽ gây nhiều ảnh hưởng đến hiệu quả của chính sách phát triển kinh tế đất nước, đến công ăn việc làm của người lao động . . . Bởi vì như vậy sẽ làm mất cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp. Nhưng nếu đứng ra bảo lãnh thì rủi ro sẽ xảy ra, doanh nghiệp vi phạm hợp đồng, ngân hàng phải thanh toán bảo lãnh mà doanh nghiệp lại không có khả năng tài chính để hoàn trả cho ngân hàng. Lúc đó theo quy chế bảo lãnh thì ngân hàng có quyền phát mại tài sản nhưng đây là tài sản nhà nước nên ngân hàng sẽ thực sự gặp khó khăn khi phải tự mình đến các cơ quan pháp luật để tổ chức phát mại, đấu giá tài sản thế chấp.
Đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh: thông thường giá trị tài sản của họ tương đối nhỏ khó có thể được bảo lãnh cho những hợp đồng lớn mà trong TMQT giá trị các hợp đồng cơ sở thường có giá trị tương đối cao do vậy các ngân hàng thường phải bỏ qua đối tượng khách hàng này.
Về phía các ngân hàng:
Khi một tài sản thế chấp đã được định giá thì ngân hàng sẽ tính toán mức bảo lãnh mà doanh nghiệp có thể được hưởng sao cho tổng tất cả các khoản bảo lãnh đó không vượt quá 70% mức giá trị tài sản thế chấp đã được xác định. Tuy nhiên, nhiều khoản bảo lãnh có thời hạn tương đối dài (có thể từ 2 – 5 năm), trong thời gian đó tài sản cố định liên tục bị hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình. Do đó, khi có rủi ro xảy ra thì tài sản thế chấp đã không thể đóng vai trò làm vật đảm bảo với đầy đủ ý nghĩa của nó. Đó là rủi ro tiềm ẩn đối với các ngân hàng
Cơ chế hoạt động bảo lãnh còn phức tạp
Hiện nay một doanh nghiệp muốn được bảo lãnh phải trải qua rất nhiều khâu rườm rà và tốn nhiều thời gian. Kể từ khi doanh nghiệp nộp đơn xin bảo lãnh vào ngân hàng cho tới khi phê duyệt phải trải qua nhiều thủ tục. Vấn đề này ảnh hưởng không ít đến hiệu quả hoạt động của các dự án sản xuất kinh doanh và đến kế hoạch hoạt động của các doanh nghiệp. Đối với những bảo lãnh ngắn hạn có số tiền không lớn mà phải trải qua nhiều thủ tục rắc rối như vậy sẽ khó tránh khỏi việc bỏ lỡ các cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp. Đồng thời cũng làm giảm sức cạnh tranh và hiệu quả hoạt động của các ngân hàng. Và đôi khi làm cho các doanh nghiệp ngại khi xin bảo lãnh từ ngân hàng và chuyển sang hình thức bảo đảm hợp đồng khác.
Hình thức bảo lãnh còn đơn điệu:
Mặc dù QĐ 283 đã đề cập đến khá nhiều loại hình bảo lãnh nhưng thực tế các ngân hàng mới chủ yếu thực hiện loại hình bảo lãnh vay vốn, còn các hình thức bảo lãnh khác mới chỉ mang tính hình thức. Đồng bảo lãnh mới chỉ được thực hiện theo từng món và trực tiếp, chưa có loại hình bảo lãnh gián tiếp hay bảo lãnh đối ứng . . . Một phần là do nhu cầu của các khách hàng chưa xuất hiện, cũng như uy tín của các NHTM ở ngoài nước còn chưa cao.
Việc tính toán thời hạn bảo lãnh chưa chính xác, không phù hợp với thời hạn hiệu lực hợp đồng:
Nhiều khi tính toán thời hạn không chính xác, các bên thường yêu cầu bảo lãnh với thời hạn ngắn hơn so với tiến độ thực hiện hợp đồng, nên trong thời hạn bảo lãnh bên được bảo lãnh khó có thể thực hiện đầy đủ cam kết. Chẳng hạn như trong bảo lãnh vay vốn hay hoàn trả tiền ứng trước, đôi khi khách hàng chưa thu hồi được vốn do chưa hết vòng quay mà đã đến hạn trả nợ, do đó khó có khả năng trả tiền đúng hạn. Những vấn đề trên dẫn đến nguy cơ khách hàng sẽ vi phạm cam kết và bắt buộc ngân hàng phải trả thay.
Mất cân đối về cơ cấu khách hàng bảo lãnh:
Do các doanh nghiệp ngoài quốc doanh còn có nhiều hạn chế về tài sản đảm bảo nên các ngân hàng rất hạn chế cấp bảo lãnh cho đối tượng khách hàng này. Bên cạnh đó doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng không mặn mà lắm với các dịch vụ của ngân hàng trong nước trong đó có dịch vụ bảo lãnh do tác phong làm việc còn rườm rà, lắm thủ tục; vốn ít; công nghệ hạn chế. Hình thức bảo lãnh qua công ty mẹ để đảm bảo cho những khoản vay là một hình thức thường được các ngân hàng nước ngoài áp dụng khi cho vay các doanh nghiệp này. Trong lúc đó, do yếu trong khâu nắm thông tin nên các NHTM Việt Nam nhiều khi đã phải “chịu trận” trong việc mở rộng tín dụng bằng hình thức cho vay này
Sự bất cập về trình độ của cán bộ ngân hàng trong cơ chế mới
Ngày nay, kinh doanh ngân hàng không chỉ chịu sức ép từ đối thủ cạnh tranh, từ các khách hàng mà ngay cả từ bản thân ngân hàng. Trong giai đoạn đổi mới và trong sự nghiệp CNH – HĐH đất nước, các nhà quản lý, các cán bộ ngân hàng phải có đủ trình độ chuyên môn nghiệp vụ đồng thời phải có kiến thức cơ bản về nhiều lĩnh vực kinh tế khác nhau nhằm hỗ trợ cho nghiệp vụ chuyên môn. Song trên thực tế, do bảo lãnh là một nghiệp vụ mới với các NHTM Việt Nam, đặc biệt là nghiệp vụ bảo lãnh XNK nên các ngân hàng còn thiếu các cán bộ có năng lực, trình độ, kinh nghiệm thoả mãn các điều kiện trên. Nhiều cán bộ còn quan niệm rằng bảo lãnh chỉ đơn giản là khi khách hàng có nhu cầu, ngân hàng phát hành thư, không phải xuất vốn nhưng thu được phí dịch vụ. Quan niệm này rất nguy hiểm vì như vậy sẽ dẫn tới sự chủ quan trong việc cấp bảo lãnh của cán bộ thực hiện việc bảo lãnh, họ không thể thấy được rủi ro tiềm ẩn trong bảo lãnh từ đó không có sự chủ động trong mọi tình huống xấu có thể xảy ra.
ứng dụng công nghệ thông tin trong giao dịch bảo lãnh còn hạn chế
Xu hướng toàn cầu hoá và cuộc cách mạng công nghệ thông tin đang và đã đặt ra những thách thức to lớn đối với ngành kinh tế ở nước ta nói chung và ngành ngân hàng nói riêng. Trước thách thức mới trong tiến trình hội nhập, hệ thống ngân hàng Việt Nam đang không ngừng đổi mới các mặt hoạt động theo hướng đẩy mạnh sự hiện đại hoá công nghệ ngân hàng, trong đó việc ứng dụng công nghệ thông tin vào mọi lĩnh vực hoạt động được coi là những giải pháp hàng đầu để nâng cao sức cạnh tranh và hội nhập. Nhưng thực tế việc thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh vẫn chưa được hỗ trợ bởi công nghệ nên việc đối chiếu, cập nhật giữa các khâu không nhanh gọn, khớp đúng và mất nhiều thời gian cho cả ngân hàng và khách hàng. Điều này hạn chế rất lớn tới hiệu quả hoạt động của các ngân hàng.
Phần III
GiảI pháp nhằm hoàn thiện và phát triển nghiệp vụ bảo lãnh Xuất nhập khẩu của các NHTM VIệt Nam
Định hướng phát triển nghiệp vụ bảo lãnh XNK tại Việt Nam
Định hướng phát triển kinh tế xã hội nói chung và xuất nhập khẩu nói riêng
Định hướng chung: Mục tiêu tổng quát, nhiệm vụ và các chỉ tiêu chủ yếu phát triển kinh tế- xã hội 5 năm 2001-2005 là tiếp tục chính sách mở cửa và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển. Tuyên truyền và hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong việc xây dung kế hoạch kinh doanh phù hợp với tiến trình hội nhập, nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế, mở rộng thị phần trên những thị trường truyền thống, khai thông và mở rộng thị trường mới.
Về cơ chế xuất nhập khẩu: Triển khai thực hiện nghiêm túc cơ chế quản lý xuất nhập khẩu năm 2001-2005. Vận hành Quỹ hỗ trợ tín dụng xuất khẩu, bảo lãnh tín dụng xuất khẩu, thực hiện các biện pháp hỗ trợ về thông tin, tham dự triển lãm, hội chợ. Giảm giá đối với một số dịch vụ hỗ trợ xuất khẩu mà Nhà nước còn Quản lý giá. Đơn giản hoá các thủ tục hành chính, đặc biệt là các thủ tục hải quan, giảm chi phí giao dịch xuất khẩu.
Trên cơ sở định hướng phát triển kinh tế xã hội nói chung và định hướng phát triển nghiệp vụ xuất nhập khẩu nói riêng có thể thấy rằng thách thức lớn nhất của hệ thống ngân hàng Việt Nam phải đối mặt trong thời gian tới là làm sao cơ cấu lại hệ thống ngân hàng đủ vững mạnh để duy trì được sự phát triển ổn định và bền vững cho nền kinh tế trong quá trình cạnh tranh và hội nhập, sớm tiếp cận, thích nghi với nền kinh tế thị trường. Cũng dựa trên những quan điểm chung đó, định hướng đặt ra đối với nghiệp vụ bảo lãnh XNK nhằm tạo ra một hệ thống ngân hàng thực sự năng động, nhạy bén, sáng tạo nhằm thích nghi được với môi trường mới
Định hướng phát triển nghiệp vụ bảo lãnh xuất nhập khẩu trong thời gian tới.
Tạo ra một hệ thống dịch vụ ngân hàng thuận lợi
Trước đây hệ thống NHTM từng được coi là một điểm nóng vì vậy trong thời gian tới việc cải cách hệ thống NHTM phải được tiến hành một cách quyết liệt và đồng bộ. Việc quy hoạch lại hệ thống ngân hàng trong thời gian tới chủ yếu dựa vào nhu cầu khách quan của sự phát triển nền kinh tế và sự lành mạnh của tổ chức tín dụng. Bảo lãnh XNK cũng phải mang tính cạnh tranh một cách hợp pháp và bình đẳng. Những NHTM thực hiện bảo lãnh không có hiệu quả sẽ bị thị trường loại trừ và ngược lại. Cùng với đó NHNN phải tạo ra một khuôn khổ pháp lý sao cho trong đó các NHTM thực hiện được nghiệp vụ bảo lãnh đúng luật pháp và hiệu quả.
Hoàn thiện các chế độ chính sách về bảo lãnh
Tiếp tục hoàn thiện hệ thống các văn bản quy định và hướng dẫn về nghiệp vụ kinh doanh, hạch toán kế toán để tạo điều kiện chủ động và phát huy cao nhất khă năng hoạt động quản lý và kinh doanh của các NHTM.
Hoàn thiện các văn bản về cơ chế hoạt động, phối hợp tổ chức công tác, quản lý viên chức, quản lý hành chính và quản trị cơ quan.
Thiết lập các chính sách cơ chế về bảo lãnh nhất quán đồng bộ hơn , thông thoáng hơn, phù hợp hơn với tập quán hoạt động ngân hàng thế giới, áp dụng cho các hoạt động ngân hàng ở nước ta.
Xây dựng chiến lược dài hạn để định hướng cho hoạt động bảo lãnh XNK của các NHTM
Trên cơ sở những điều kiện đã có và để khẳng định hơn nữa vị trí của mình trong các hoạt động kinh tế và chiếm lĩnh được thị trường, các NHTM cần xây dựng chiến lược dài hạn để định hướng cho hoạt động bảo lãnh XNK phát triển.
Để xây dựng được chiến lược dài hạn các NHTM cần làm tốt những biện pháp sau:
Nghiên cứu chủ trương, chính sách của Nhà nước đối với việc phát triển của từng ngành, từng loại hàng hoá có liên quan đến xuất nhập khẩu để trên cơ sở đó mới định hướng cho cơ cấu bảo lãnh XNK của các NHTM.
Ngoài ra các NHTM còn phải quan tâm nghiên cứu thị trường, sự biến đổi qui mô cơ cấu và các yếu tố tác động đến các hoạt động của mình. Thực hiện tốt việc nghiên cứu thị trường này, các NHTM mới có khả năng đưa ra các chính sách đúng đắn cũng như các chiến lược phát triển lâu dài cho hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động bảo lãnh XNK nói riêng.
Nâng cao năng lực điều hành, đổi mới công tác kiểm tra, kiểm soát, nâng cao chất lượng bảo lãnh, hạn chế rủi ro cùng với việc đẩy mạnh các hoạt động kinh doanh.
Đa dạng hoá các loại hình bảo lãnh, mở rộng quy mô bảo lãnh, tăng tỷ trọng về số dư bảo lãnh, trên cơ sở áp dụng các điều kiện đảm bảo an toàn và điều kiện với từng ngân hàng cụ thể.
II. Giải pháp nhằm hoàn thiện và phát triển nghiệp vụ bảo lãnh XNK của các NHTM Việt Nam.
Đối với Chính phủ và Ngân hàng Nhà Nước
Tạo dựng môi trường kinh tế phát triển đồng bộ, ổn định hợp tác và cạnh tranh lành mạnh
ổn định môi trường kinh tế vĩ mô, xây dựng cơ chế thị trường đồng bộ, hoàn chỉnh hệ thống tiền tệ - tín dụng và giá cả.
- Thực hiện chính sách mở cửa và hợp tác với nước ngoài, tăng cường ký kết các hiệp định thương mại với các nước mở đường cho hoạt động xuất nhập khẩu và đầu tư nước ngoài.
- Tạo sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, giữa các ngân hàng trong kinh doanh; phân chia rõ ràng giữa hoạt động kinh doanh và hoạt động chính sách hỗ trợ của các NHTM để giảm bớt rủi ro cho ngân hàng.
Môi trường kinh tế phát triển ổn định lành mạnh sẽ là động lực thúc đẩy hoạt động tiền tệ - ngân hàng nói chung và hoạt động bảo lãnh XNK nói riêng. Bất ổn về kinh tế chính trị xã hội luôn đem lại những rủi ro bất khả kháng với doanh nghiệp và ngân hàng.
Xây dựng một khung pháp lý chi tiết cụ thể nhằm thúc đẩy môi trường tín dụng cạnh tranh
Mọi hoạt động của các doanh nghiệp, ngân hàng đều nằm trong khuôn khổ của pháp luật, pháp luật quy định càng chặt chẽ, cụ thể thì hoạt động kinh doanh càng ít phát sinh tranh chấp, gian lận, lừa đảo. Do đó:
Các luật của Việt Nam( Luật dân sự, Luật thương mại, Luật các tổ chức tổ chức tín dụng ) đều đưa ra khái niệm, bản chất bảo lãnh, nhưng không nên chỉ nêu ra bản chất, nguyên tắc chung.
Các cơ quan ban hành pháp luật kết hợp với các cơ quan chuyên môn như: NHNN, Bộ thương mại, Bộ tài chính, các NHTM để soạn thảo và ban hành luật về bảo lãnh tạo hành lang pháp lý cho hoạt động bảo lãnh XNK nói riêng.
Chính phủ nên nghiên cứu xem xét phê chuẩn Công ước Liên hợp quốc về bảo lãnh độc lập và tín dụng thư dự phòng (The United Nations Convention on Indepent Guarantee &Stand by Letter of Credits - Uncitral). Công ước này có hiệu lực vào năm 2000, nhưng nó chỉ có giá trị đối với quốc gia đã phê chuẩn trước đó một năm. Nếu Việt Nam chấp nhận Công ước này thì sẽ tạo điều kiện cho việc hội nhập quốc tế của các ngân hàng và ngăn chặn nạn gian lận hoặc lừa đảo quốc tế trong giao dịch bảo lãnh.
Chính phủ cần ban hành luật sở hữu tài sản, các văn bản dưới luật liên quan đến sở hữu tài sản (cấp chứng thư sở hữu, chuyển nhượng đăng ký, xác nhận, thế chấp . . .), hoàn tiện hệ thống văn bản pháp luật về chứng khoán, thị trường chứng khoán.
Chính phủ và các bộ ngành cần có các văn bản hướng dẫn, quy định cụ thể về tài sản thế chấp, xử lý phát mại tài sản thế chấp, cầm cố bảo lãnh khi doanh nghiệp không thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với ngân hàng. Đó là vấn đề tài sản thế chấp của doanh nghiệp nhà nước. Mặc dù Bộ tài chính đã cho phép các doanh nghiệp được sử dụng tài sản thuộc sở hữu của Nhà nước để thế chấp trong bảo lãnh nhưng việc thế chấp hầu như chỉ mang tính hình thức vì trên thực tế các NHTM không thể phát mại những tài sản này được. Rủi ro đối với ngân hàng là rất lớn vì hiện nay đối tượng dịch vụ bảo lãnh đa số là các DNNN. Các cơ quan hữu quan có thể xem xét theo hướng:
+ Các cơ quan hữu quan cần phối hợp nhịp nhàng tạo sự nhanh chóng thuận tiện trong việc xử lý, phát mại tài sản thế chấp làm tăng hiệu lực của các cơ quan hành pháp.
+ Xây dựng hệ thống văn bản pháp luật về bất động sản, hình thành thị trường bất động sản có sự kiểm soát và quản lý của Nhà nước tạo điều kiện cho ngân hàng giải toả các tài sản thế chấp nhanh chóng thu hồi vốn.
+ Cần thiết phải có sự kiểm toán trong định giá tài sản thế chấp
+ Quy định quyền và nghĩa vụ đối với cơ quan công chứng khi công chứng sai thực tế về tài sản thế chấp, giấy tờ liên quan đến cầm cố thế chấp.
Ngân hàng Nhà nước đảm bảo vai trò là ngân hàng chỉ huy, chỉ đạo kịp thời linh hoạt đa dạng hoá các loại hình bảo lãnh thích ứng với sự phát triển của nền kinh tế
Quyết định 283 ra ngày 25/8/2000 của Thống đốc NHNN về quy chế nghiệp vụ bảo lãnh của ngân hàng đến nay tỏ ra có những bất cập, không đáp ứng được sự phát triển của hoạt động bảo lãnh. NHNN cần bổ sung thêm các hình thức bảo lãnh mới: bảo lãnh chứng khoán, bảo lãnh vận đơn, bảo lãnh thuế quan, đồng thời phân biệt rõ ràng giữa bảo lãnh độc lập và bảo chứng đảm bảo sự thống nhất, đồng bộ mẫu biểu về các loại bảo lãnh, kỹ thuật nghiệp vụ phù hợp với thông lệ và tập quán quốc tế trong giao dịch bảo lãnh.
NHNN không cần quy định cụ thể về mức phí, hạn mức bảo lãnh trong quy chế mà để các NHTM chủ động, linh hoạt trong kinh doanh. NHNN chỉ tập trung vào quản lý vĩ mô, kiểm tra, giám sát, phòng ngừa rủi ro thông qua quy định về quỹ bảo lãnh, ký quỹ bảo lãnh.
Nâng cao chất lượng hoạt động của trung tâm thông tin tín dụng nhằm cung cấp kịp thời, chính xác theo yêu cầu của tổ chức tín dụng.
Đối với hệ thống ngân hàng thương mại
Giải pháp trực tiếp
Xây dựng kế hoạch phát triển nghiệp vụ bảo lãnh thích hợp trong từng thời kỳ
Trên cơ sở đường lối, chính sách phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước trong từng thời kỳ, dưới sự chỉ đạo của NHNN, mỗi ngân hàng phải xây dựng cho mình một kế hoạch phát triển nghiệp vụ bảo lãnh dài hạn và hàng năm mang tính khả thi.
Việc xác định tư tưởng, quan điểm về sự phát triển nghiệp vụ bảo lãnh là rất quan trọng, nó phải chỉ ra được tầm quan trọng của nghiệp vụ bảo lãnh cũng như cơ cấu định lượng của các loại hình. Quan điểm này cần thể hiện việc tiếp tục tăng trưởng hay tạm thời thu hẹp hoạt động nghiệp vụ bảo lãnh trong mỗi thời kỳ. Việc xác định đúng sẽ tạo ra sự đoàn kết, thống nhất mọi nguồn lực trong ngân hàng để thực hiện nhiệm vụ đặt ra.
Cuối cùng và cũng là điểm hết sức quan trọng là các giải pháp nhằm thực hiện mục tiêu đã đặt ra. Các nguồn lực phải tương xứng, phải có một cơ cấu bộ máy tổ chức hợp lý, một đội ngũ cán bộ có thể đảm đương được nhiệm vụ.
Như vậy, việc lập kế hoạch phát triển nghiệp vụ bảo lãnh phải mang tính khả thi. Đó sẽ là điều kiện quan trọng đảm bảo nâng cao chất lượng của nghiệp vụ này.
Công tác tổ chức, đào tạo cán bộ để nâng cao uy tín của ngân hàng
Trong nền kinh tế thị trường, khi các quy luật kinh tế đặc trưng như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh .. . phát triển thì yếu tố con người giữ vai trò quyết định mọi thành công của các doanh nghiệp trên thương trường. Những doanh nghiệp giành thắng lợi trong cạnh tranh trên thương trường, phát triển với tốc độ cao và bền vững, ngoài các yếu tố thuận lợi khách quan có thể có, doanh nghiệp đó chắc chắn phải có đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý giỏi, có tầm nhìn xa, năng động; đội ngũ cán bộ tinh thông nghiệp vụ, có nhiệt tình, trách nhiệm cao, đáp ứng đòi hỏi của thị trường.
Để công tác đào tạo và bồi dưỡng nghiệp vụ, nâng cao trình độ chuyên môn, vừa phục vụ yêu cầu hoạt động kinh doanh trước mắt, vừa chủ động chuẩn bị cán bộ cho những năm tới khi nền kinh tế Việt Nam hội nhập đầy đủ với khu vực và trên thế giới. Các ngân hàng cần tập trung vào những vấn đề sau:
Thứ nhất: Cần sớm thực hiện tiêu chuẩn hoá đội ngũ cán bộ theo hướng chuyên môn hoá.
Có như vậy, ngân hàng mới tạo được các chuyên gia, cán bộ chuyên sâu về những mặt nghiệp vụ, nhất là những nghiệp vụ đặc thù. Trên cơ sở tiêu chuẩn hoá đội ngũ cán bộ kết hợp với quy hoạch cán bộ, việc lập kế hoạch đào tạo sẽ đúng đối tượng, hiệu quả hơn. Đặc biệt trong hoạt động bảo lãnh đòi hỏi trình độ tinh thông nghiệp vụ cũng như ngoại ngữ, các luật và quy tắc áp dụng, một mặt nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển hoạt động giao dịch với các đối tác nước ngoài. Mặt khác giúp cho ngân hàng hạn chế được rủi ro không lường trước trong môi trường kinh doanh ngày càng phức tạp.
Thứ hai: Đào tạo cán bộ trên cơ sở sử dụng cán bộ và thực hiện quy hoạch cán bộ
Được đào tạo gắn liền với nhiệm vụ đang làm sẽ đem lại hiệu quả cao nhất. Vì vậy, bên cạnh các kế hoạch kinh doanh, tài chính.. . hàng năm ngân hàng cũng cần có kế hoạch đào tạo để chủ động trong đào tạo, đào tạo sát với yêu cầu trước mắt và chuẩn bị cán bộ cho những năm tới. Mạnh dạn sử dụng, bồi dưỡng những cán bộ trẻ có năng lực đặc biệt trong lĩnh vực mới đòi hỏi sự nhanh nhạy và óc sáng tạo, bởi đây chính là lực lượng quyết định cho sự mở rộng và phát triển của ngân hàng.
Thứ ba: Đào tạo cán bộ theo hướng đa dạng hoá các loại hình đào tạo. Trong công tác đào tạo ngân hàng cần thiết phải thực hiện đa dạng hoá phù hợp với nhu cầu của từng mặt nghiệp vụ. Vừa đảm bảo thực hiện tốt kế hoạch đào tạo, vừa đảm bảo hoạt động kinh doanh bình thường đồng thời tiết giảm những chi phí trung gian không cần thiết, tập trung nhiều nhất kinh phí cho đào tạo. Có thể đào tạo tại ngân hàng hoặc thông qua các lớp đào tạo trong và ngoài nước. Có thể chọn một số cán bộ tuổi đời còn trẻ, có triển vọng gửi đi đào tạo ngắn hạn, dài hạn ở nước ngoài; tổ chức các đoàn cán bộ đi khảo sát, thực tập tại ngân hàng nước ngoài bằng kinh phí đào tạo của của ngân hàng mình hoặc tranh thủ sự tài trợ của ngân hàng nước ngoài.Chỉ có đào tạo theo sự đa đạng hoá các loại hình mới phát huy được hết nội lực của mỗi cán bộ công nhân viên.
Đầu tư cho đào tạo là đầu tư chiều sâu của ngân hàng. Quan tâm đến công tác đào tạo chính là quan tâm đến kết quả hoạt động kinh doanh trong tương lai bởi con người là yếu tố quyết định của mọi thành công. Đặc biệt, trong nền kinh tế thị trường mở cửa hội nhập với khu vực và thế giới, trình độ, kỹ năng của đội ngũ cán bộ công nhân viên quyết định thành công của ngân hàng.
Nâng cao chất lượng thẩm định các yêu cầu xin bảo lãnh và quản lý các khoản bảo lãnh
Nâng cao chất lượng thẩm định các yêu cầu xin bảo lãnh
Trong nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng thì công tác thẩm định dự án được xem là yếu tố quan trọng nhất, yếu tố tiên quyết khi ra quyết định bảo lãnh. Các cán bộ tín dụng phải đảm bảo quy trình và nội dung thẩm định dự án đầu tư theo cơ chế tín dụng hiện hành. Đây là yếu tố quyết định trước khi cấp bảo lãnh. Vì nếu xảy ra trường hợp ngân hàng phải thanh toán hộ thì món bảo lãnh trở thành món vay bắt buộc và được coi là khoản nợ quá hạn, trong khi đó số tiền bảo lãnh chỉ được ngân hàng hạch toán ngoại bảng, nợ quá hạn xuất hiện sẽ tác động tiêu cực đến nguồn vốn kinh doanh và chất lượng tín dụng của ngân hàng.
Hơn nữa, biện pháp này còn có ý nghĩa quan trọng trong chiến lược mở rộng đối tượng khách hàng. Với những khách hàng mới chưa có quan hệ giao dịch tín nhiệm qua ngân hàng thì năng lực thẩm định dự án, thẩm định về khách hàng sẽ là tiêu chuẩn ra quyết định có cấp bảo lãnh hay không.
Để thực hiện quy trình này một cách hiệu quả, mỗi ngân hàng nên xây dựng cho mình một hệ thống các chỉ tiêu định lượng làm cơ sở đánh giá, phân loại khách hàng và làm tốt công tác thu thập, xử lý thông tin từ nhiều nguồn khác nhau để so sánh, đối chiếu, đảm bảo tính chính xác về nguồn thông tin thu thập được, đánh giá các thông tin đó, từ đó quyết định đồng ý hay từ chối cấp bảo lãnh.
Việc thẩm định trước bảo lãnh nên tập trung vào hai vấn đề sau:
Hiệu quả phương án sản xuất kinh doanh
Khả năng tài chính và tài sản thế chấp
Quản lý các khoản bảo lãnh
Sau khi phê duyệt một khoản bảo lãnh, cán bộ ngân hàng cần xuống tận cơ sở để kiểm tra định kỳ hoặc đột xuất việc sử dụng và quản lý vốn vay đã được bảo lãnh. Một trong những nguyên nhân dẫn đến rủi ro cho các khoản bảo lãnh của ngân hàng là sự gian lận để chiếm dụng vốn của ngân hàng hoặc sử dụng vốn sai mục đích. Đây là hiện tượng khá phổ biến những năm 1994 – 1996 với rất nhiều vụ án lớn liên quan đến khoản bảo lãnh mở L/C trả chậm của ngân hàng. Ngân hàng cần kiểm tra kịp thời hoặc trong trường hợp khách hàng gặp khó khăn thì ngân hàng có thể tư vấn cho khách hàng hoặc cùng họ giải quyết tháo gỡ. Trong QĐ 283 cũng đã đề cập đến vấn đề kiểm tra, giám sát sau bảo lãnh ( điều 19), đây vừa là quyền lợi vừa là nghĩa vụ của các ngân hàng để có thể hạn chế tối đa những rủi ro có thể xảy ra.
Thực hiện phân tán rủi ro trong hoạt động bảo lãnh
Hoạt động bảo lãnh của ngân hàng là một loại hình hoạt động có độ rủi ro cao. Khi người được bảo lãnh không có khả năng hoặc cố tình không thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của mình đối với người nhận bảo lãnh thì ngân hàng phải đứng ra trả thay. Cũng như bất kỳ một loại hình doanh nghiệp nào khác, ngân hàng cũng phải hoạt động an toàn, và có lãi để tồn tại và phát triển, vì vậy cần phải tìm ra các biện pháp để giảm bớt tối đa các rủi ro do hoạt động bảo lãnh gây ra.
Đa dạng hoá các loại hình bảo lãnh nhằm phân tán rủi ro. Hiện nay các ngân hàng mới chủ yếu tập trung vào loại hình bảo lãnh vay vốn mà đây là loại bảo lãnh có độ rủi ro cao nhất, trong thời gian tới các ngân hàng nên tư vấn cho khách hàng cũng như chuẩn bị những điều kiện cần thiết để phát triển các loại hình bảo lãnh khác ít rủi ro hơn như bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh bảo hành sản phẩm . . . do ở các loại bảo lãnh này ngân hàng chỉ phải bảo lãnh khoảng 15% giá trị hợp đồng cơ sở nên nếu có bất trắc thì cũng không ảnh hưởng nhiều đến nguồn vốn của mình.
Có thể thực hiện nghiệp vụ thị trường mở để chuyển bớt rủi ro cho một đối tác khác. Chẳng hạn bán đi một quyền trả nợ, có nghĩa là ngân hàng sẽ bán quyền bảo lãnh cho một ngân hàng khác với mức phí thấp hơn.
Tham gia đồng bảo lãnh với một số ngân hàng khác. Hiện nay đồng bảo lãnh ở Việt Nam đã được quy định khá cụ thể ở trong QĐ 283(điều 14) cũng quy định khá chi tiết. Đồng bảo lãnh vừa có thể chia sẻ rủi ro lại vừa giúp cho các khách hàng của mình thực hiện được các thương vụ có giá trị lớn.
Xác định thời hạn bảo lãnh trước khi nhận bảo lãnh
Theo QĐ 283(điều 24), thời hạn bảo lãnh được xác định căn cứ vào thời hạn thực hiện nghĩa vụ được bảo lãnh của khách hàng đối với bên nhận bảo lãnh, trừ trường hợp có các thoả thuận hoặc cam kết khác có nghĩa là ngân hàng không được quyền chọn thời hạn bảo lãnh. Và như đã trình bày ở phần trước việc xác định thời hạn bảo lãnh không chính xác của khách hàng có thể dẫn đến những rủi ro rất lớn. Do vậy ngân hàng nên tiến hành đàm phán với bên thụ hưởng bảo lãnh để xác định được một khoảng thời gian hợp lý, phù hợp với tình hình luân chuyển vốn của khách hàng, đảm bảo khả năng trả nợ của khách hàng khi bảo lãnh đến hạn.
Xác định hạn mức bảo lãnh thường xuyên
Hiện nay ở hầu hết các ngân hàng, hạn mức bảo lãnh hoàn toàn do các chi nhánh tính toán dựa trên tình hình hoạt động bảo lãnh năm trước và tỷ lệ tăng trưởng dự tính của nền kinh tế, sau đó đưa lên NHTM trung ương xem xét. Cách làm này hoàn toàn chưa mang tính khoa học mà mang tính chủ quan của cán bộ nghiệp vụ nên rất dễ có sai sót, đồng thời dễ dẫn đến vi phạm các nguyên tắc của ngân hàng nhà nước. Vì vậy, việc xác định hạn mức bảo lãnh là vô cùng quan trọng. Một mặt, cần phải dựa trên những cơ sở thống nhất và rõ ràng, mặt khác phải linh hoạt trong một số trường hợp để đạt hiệu quả cao nhất.
NHTM trung ương có thể nghiên cứu để xây dựng một hạn mức bảo lãnh thường xuyên cho các khách hàng: việc xác định một hạn mức tín dụng thường xuyên là một công việc quen thuộc với các ngân hàng. Bảo lãnh cũng là một loại hình tín dụng đặc biệt tuy không áp dụng được các nguyên tắc của tín dụng cho bảo lãnh nhưng các sản phẩm đều có quá trình hoàn thiện và phát triển. Trong công tác tín dụng, chúng ta xây dựng được một hạn mức thường xuyên cho khách hàng nhằm hạn chế các thủ tục và chi phí cho cả khách hàng và ngân hàng. Như vậy, trong bảo lãnh ta cũng hoàn toàn có thể tìm ra phương pháp xác định một hạn mức bảo lãnh thường xuyên để hoàn thiện công tác bảo lãnh của ngân hàng.
ứng dụng chính sách Marketing ngân hàng vào hoạt động bảo lãnh
Bằng các chính sách ưu đãi, ưu tiên về tỷ lệ ký quỹ, thủ tục tài sản thế chấp tạo điều kiện cấp bảo lãnh nhanh chóng cho doanh nghiệp khi có yêu cầu để giữ vững các khách hàng truyền thống. Đối với các ngân hàng NHTM quốc doanh; các khách hàng là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp ngoài quốc doanh chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ trong cơ cấu khách hàng, đặc biệt là trong nghiệp vụ bảo lãnh quốc tế. Do vậy trong thời gian tới cần có các biện pháp chủ động để có thể phục vụ được đối tượng khách hàng này.
Do tâm lý e ngại rủi ro nên trong thời gian qua một số ngân hàng đã hạn chế một cách tiêu cực nghiệp vụ này như NHCT, nếu trong thời gian tới không có những chấn chỉnh kịp thời thì chắc chắn rằng thị phần của nghiệp vụ này sẽ mất, mà đây là một nghiệp vụ hứa hẹn rất phát triển trong tương lai.
Để có thể giữ vững và mở rộng thị trường cần thiết phải thực hiện các công việc cụ thể sau:
Nghiên cứu thị trường: nghiên cứu tập tính thái độ, đặc biệt là động cơ của khách hàng trong việc chọn lựa sử dụng dịch vụ và nhu cầu của khách hàng đối với nghiệp vụ bảo lãnh. Thu thập thông tin một cách có hệ thống, thường xuyên tập trung vào “Hồ sơ bảo lãnh” cùng với “Hồ sơ tín dụng” của khách hàng. Tiếp nhận những ý kiến phản hồi từ khách hàng để có sự thay đổi hợp lý thoả mãn tốt nhất nhu cầu của họ. Đồng thời có những cải tiến trong quy trình nghiệp vụ, khuyến khích nhân viên có những đề xuất để hoạt động bảo lãnh luôn thích ứng với nhu cầu của thị trường.
Mặt khác ngân hàng phải nâng cao chất lượng hoạt động thanh toán quốc tế, kinh doanh ngoại tệ để có thể phục vụ tốt khách hàng trong giao dịch với đối tác nước ngoài đồng thời luôn đảm bảo đủ nguồn ngoại tệ để đề phòng trường hợp phải thanh toán thay cho khách hàng khi đến hạn, điều này sẽ giúp ngân hàng mở rộng hoạt động kinh doanh tạo vị thế mới trên thương trường.
Công tác Marketing liên quan đến toàn bộ máy tổ chức, đội ngũ cán bộ trong ngân hàng. ứng dụng marketing trong ngân hàng là một đòi hỏi cần thiết hiện nay, nó sẽ đảm bảo nâng cao khả năng cạnh tranh, giúp ngân hàng đứng vững trên thương trường. Cơ sở để xây dựng kế hoạch hoá marketing là nhiệm vụ, mục tiêu và các nguồn lực của ngân hàng. Vị trí quan trọng nhất trong hoạt động marketing là việc kế hoạch hoá các chiến lược khách hàng, chiến lược giá cả, chiến lược sản phẩm, chiến lược giao tiếp khuyếch trương.
Chiến lược khách hàng
Khách hàng có nhu cầu sử dụng dịch vụ bảo lãnh đó là cầu về sản phẩm, ngân hàng cung cấp sản phẩm sao cho thoả mãn tối đa nhu cầu khách hàng.
Mở rộng đối tượng khách hàng
Nhìn vào thực tế hiện nay, các doanh nghiệp mới được thành lập ngày một tăng. Tính đến cuối năm 2000 ở Hà Nội đã trên 1845 doanh nghiệp được thành lập mới (trong đó 49% là công ty trách nhiệm hữu hạn, 45% doanh nghiệp tư nhân, 4,5% công ty cổ phần, số còn lại là các DNNN), có nhiều doanh nghiệp làm ăn hiệu quả, có mối quan hệ tốt với bạn hàng là các đối tác nước ngoài và đây chính là đối tượng khách hàng đầy tiềm năng cho ngân hàng. Song số lượng các doanh nghiệp này có nhu cầu bảo lãnh chưa cao, vì vậy ngân hàng cần kích thích, khuyến khích họ có những suy nghĩ lớn hơn trong kinh doanh, chuyên môn, quan điểm, phát triển hệ thống tài chính thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Giải pháp này phối kết hợp chặt chẽ với giải pháp nâng cao năng lực đánh giá thẩm định của cán bộ ngân hàng, giải pháp mang tính vĩ mô của cơ quan quản lý Nhà nước, NHNN về quy định pháp luật; ổn định môi trường kinh tế tạo sự bình đẳng thực sự giữa các thành phần kinh tế trong việc tiếp cận và sử dụng dịch vụ bảo lãnh của ngân hàng nói riêng và trong kinh doanh nói chung.
Các ngân hàng cần chủ động có chính sách với từng đối tượng khách hàng chứ không nên để đề phòng rủi ro mà hạn chế một cách vô lối như hiện nay. Trong hầu hết các ngân hàng hiện nay chỉ có NHCT trong quy trình bảo lãnh của mình có quy định cấp bảo lãnh cho đối tượng là doanh nghiệp tư nhân, hộ kinh doanh cá thể còn lại đều không đề cập đến đối tượng khách hàng này. Bên cạnh đó các ngân hàng lại quy định thẩm quyền ký bảo lãnh là NHTM trung ương do vậy đã làm mất tính chủ động của các chi nhánh, làm cho các chi nhánh không thực hiện được chính sách khách hàng của mình. Đã đến lúc bỏ mọi giới hạn về đối tượng khách hàng và trao cho các chi nhánh quyền độc lập trong hoạt động kinh doanh.
Chiến lược khách hàng của các ngân hàng về cơ bản cũng không có điểm gì khác biệt lớn: linh hoạt về lãi suất, có chính sách ưu đãi riêng đối với khách hàng chiến lược, luôn bám sát khách hàng, nâng cao chất lượng dịch vụ. Điểm khác biệt có chăng chính là ở đội ngũ cán bộ công nhân viên của mỗi ngân hàng.
Vì vậy, ngân hàng nên coi mỗi nhân viên cũng chính là mỗi khách hàng của mình. Thông qua họ có thể nắm bắt được nhu cầu về sản phẩm của ngân hàng trên thị trường, từ đó ngân hàng có kế hoạch mở rộng hoạt động, quan hệ chặt chẽ, hiểu biết giữa ngân hàng- doanh nghiệp- các mối quan hệ đối tác. Các mối quan hệ này tuỳ thuộc vào tổng chi phí vốn vay, chất lượng dịch vụ và công tác tiếp cận khách hàng. Từ đó ngân hàng có thể dễ dàng phân loại khách hàng của mình theo từng nhóm đối tượng, theo thị phần . . . Tuy nhiên, khách hàng của ngân hàng là đa dạng, ở đoạn thị trường nào cũng có từ dễ tính đến khó tính nên đồng thời việc tháo gỡ những ràng buộc, soạn thảo các cơ chế linh hoạt để mở rộng hướng vào các khách hàng dễ tính (mở rộng khách hàng và cung cấp dịch vụ theo chiều rộng), ngân hàng phải cải tiến chất lượng dịch vụ để thâm nhập vào nhóm khách hàng khó tính. Riêng đối với hoạt động bảo lãnh, ngân hàng phải chủ động sàng lọc các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, khuyến khích họ có suy nghĩ lớn hơn trong kinh doanh, đồng thời ngân hàng phải luôn đa dạng hoá các loại hình bảo lãnh, đa dạng hoá khách hàng xin bảo lãnh, tiết giảm linh hoạt các thủ tục hành chính tránh sự rườm rà, vì đây chính là điểm mấu chốt để thu hút khách hàng là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Chiến lược sản phẩm
Sản phẩm ở đây chính là dịch vụ bảo lãnh mà ngân hàng cung cấp. Ngân hàng phải da dạng hoá các hình thức cấp bảo lãnh. Ngoài các hình thức bảo lãnh truyền thống như bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh thanh toán . . . ngân hàng cần chú trọng hình thức bảo lãnh bảo hành sản phẩm, bảo lãnh phát hành chứng khoán ra thị trường nước ngoài. Bên cạnh đó hình thức đồng bảo lãnh là giải pháp cho ngân hàng đáp ứng nhu cầu bảo lãnh những công trình lớn mà giá trị bảo lãnh vượt quá hạn mức được uỷ quyền, đồng thời hạn chế rủi ro cho ngân hàng. Việc phát triển hình thức đồng bảo lãnh đòi hỏi ngân hàng thiết lập những mối quan hệ hợp tác tin cậy, đôi bên cùng có lợi với các ngân hàng khác.
Hơn nữa, do khả năng đáp ứng các loại hình bảo lãnh giữa các ngân hàng là không có sự khác biệt lớn lắm nên chất lượng dịch vụ bảo lãnh đóng vai trò quan trọng trong chiến lược sản phẩm. Chất lượng dịch vụ ở đây là sự thuận tiện, chính xác, kịp thời trong quy trình nghiệp vụ, giải quyết đầy đủ các yêu cầu của khách hàng với mức phí hợp lý. Cạnh tranh bằng chất lượng dịch vụ là sự cạnh tranh phi giá. Ơ mức độ nào đó, các nhân tố bên ngoài như sự giúp đỡ tận tình, tôn trọng . . . của nhân viên đối với khách hàng nhiều khi tạo nên ấn tượng, nhận xét tích cực khi đánh giá chất lượng sản phẩm cuả khách hàng.
Chiến lược giá cả
Hiện nay các ngân hàng thực hiện chính sách áp dụng phí cố định 2%/năm trên số tiền bảo lãnh theo quy định của QĐ 283 ngoại trừ một số khách hàng truyền thống. Nhưng ấn định mức phí cố định như vậy sẽ gây khó khăn cho ngân hàng khi muốn thực hiện chính sách giá cả linh hoạt. Bởi vì cũng như lãi suất cho vay, mức phí bảo lãnh cũng cần có sự thay đổi phụ thuộc vào đối tượng khách hàng, độ rủi ro nhằm thu hút khách hàng và tạo cơ hội cạnh tranh về giá so với các ngân hàng khác.
Chiến lược giao tiếp khuyếch trương
Bản chất của hoạt động bảo lãnh là ngân hàng sử dụng uy tín của mình để đứng ra đảm bảo cho các giao dịch. Do vậy, ngân hàng cần tạo dựng một hình ảnh nổi bật trên thương trường, tạo dựng niềm tin trong lòng khách hàng. Đội ngũ cán bộ là điểm mấu chốt trong chính sách giao tiếp với khách hàng, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, thái độ phục vụ của cán bộ ngân hàng là một phương pháp tuyên truyền quảng cáo hiệu quả về hình ảnh của ngân hàng.
Chiến lược khuyếch trương giao tiếp thực hiện thông qua: bán hàng của cá nhân, kích thích tiêu thụ, tuyên truyền, quảng cáo. Để mở rộng hoạt động của ngân hàng thì việc tuyên truyền quảng cáo về các dịch vụ trong đó có dịch vụ bảo lãnh trên các báo, tạp chí, phương tiện thông tin đại chúng là cần thiết. Trong tuyên truyền quảng cáo phải chú ý đến các đối tượng khách hàng của ngân hàng, các nhóm khách hàng thường xuyên và khách hàng mục tiêu để lựa chọn các phương pháp, các phương tiện phù hợp để khách hàng dễ dàng và thuận tiện tiếp cận. Sau cùng ngân hàng nên xác định ngân sách dành cho nhiệm vụ này bởi vì những hoạt động trên đều đòi hỏi một số chi phí nhất định.
Mở rộng quan hệ hợp tác với ngân hàng khác để đẩy mạnh hoạt động đồng bảo lãnh, tái bảo lãnh
Mỗi ngân hàng đều xây dựng cho mình một quy chế bảo lãnh dựa trên cơ sở quy chế bảo lãnh ban hành kèm theo Quyết định 283/2000/QĐ - NHNN14 của Thống đốc NHNN quy định tổng dư nợ bảo lãnh cho một khách hàng lớn nhất không vượt quá 15% vốn tự có của ngân hàng. Vì vậy việc thực hiện các khoản bảo lãnh có giá trị lớn rất khó khăn. Vấn đề đặt ra là phát triển hình thức đồng bảo lãnh, vừa giúp cho ngân hàng có thể tham gia các dự án lớn khi mà khả năng về nguồn vốn là có hạn, vừa phân tán bớt rủi ro cho các ngân hàng cùng tham gia do có sự kết hợp kinh nghiệm, sức mạnh, khả năng và hỗ trợ cho nhau giữa các ngân hàng. Để thực hiện được điều này mỗi ngân hàng phải đề ra cho mình một kế hoạch cụ thể, có thể bao gồm các biện pháp sau:
Với các chi nhánh trong cùng một hệ thống: hợp tác chặt chẽ, phối hợp thực hiện các chính sách khách hàng, chính sách lãi suất, nguồn vốn . . . tạo nên một sức cạnh tranh thống nhất của hệ thống.
Với các ngân hàng bạn: theo nguyên tắc cạnh tranh lành mạnh, hợp tác kinh doanh cùng có lợi.
Bên cạnh thúc đẩy quan hệ hợp tác với các ngân hàng trong nước, các ngân hàng cũng cần phải tạo lập mối quan hệ với các ngân hàng nước ngoài, để không chỉ thực hiện vai trò là ngân hàng phát hành mà còn thực hiện vai trò ngân hàng thông báo, ngân hàng thanh toán ( bảo lãnh đối ứng) . . . bên cạnh đó ngân hàng sẽ được cung cấp thông tin về người thụ hưởng bảo lãnh ở nước ngoài từ đó có thể chủ động trong công việc, tránh bị lừa bởi người thụ hưởng bảo lãnh.
Giải pháp hỗ trợ
Về luật và quy tắc ứng dụng
Khi phát hành thư bảo lãnh theo yêu cầu của đối tác nước ngoài thì ngân hàng phải dẫn chiếu điều luật áp dụng. Đây là một nguyên tắc trong giao dịch cam kết bảo lãnh quốc tế. Tuy nhiên không ít bảo lãnh đối ứng mà các ngân hàng Việt Nam nhận được lại không đề cập Luật hay quy tắc điều chỉnh giao dịch. Trong trường hợp các ngân hàng của các nước phát triển thường áp dụng luật của họ và chúng ta chấp nhận điều kiện như vậy mà không nắm rõ luật của đối tác. Điều này hoàn toàn bất lợi cho phía các ngân hàng Việt Nam khi xảy ra tranh chấp.
Trong thư bảo lãnh của ngân hàng nên áp dụng, dẫn chiếu các quy tắc theo thông lệ quốc tế do phòng thương mại quốc tế ICC hay Liên hợp quốc phát hành, đảm bảo sự đồng nhất về mẫu biểu các, kỹ thuật nghiệp vụ cụ thể: phương thức đòi tiền, thanh toán, kiểm tra chứng từ, thời hiệu của bảo lãnh. Bảo lãnh luôn được sử dụng hai chiều: nhận bảo lãnh của nước ngoài và phát hành bảo lãnh ra nước ngoài đòi hỏi ngân hàng phải nâng cao trình độ chuyên môn và am hiểu luật pháp của cán bộ đề phòng sự gian lận, lừa đảo của đối tác.
Trong năm 2000 vừa qua, Công ước Liên hợp quốc về bảo lãnh độc lập và tín dụng thư dự phòng - Công ước Uncitral có hiệu lực, nếu Việt Nam phê chuẩn và chấp nhận thì các ngân hàng nên tham khảo và dẫn chiếu trong giao dịch bảo lãnh với đối tác nước ngoài.
Tăng cường công tác kiểm tra giám sát
Kiểm tra, giám sát việc chấp hành tuân thủ những quy định của NHNN trong khi thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh của cac cán bộ ngân hàng.
Thường xuyên giám sát quá trình thực hiện hợp đồng, đảm bảo việc doanh nghiệp sử dụng vốn đúng mục đích, kịp thời phát hiện những sai phạm nếu có, đồng thời có kế hoạch chuẩn bị đáp ứng nguồn vốn trong trường hợp phải trả tiền theo yêu cầu của người nhận bảo lãnh.
Từng bước hiện đại hoá công tác lưu trữ và quản lý hồ sơ bảo lãnh trên máy vi tính để các cán bộ bảo lãnh có thể kiểm tra các khoản bảo lãnh của doanh nghiệp một cách nhanh chóng và chính xác.
áp dụng công nghệ thông tin vào hoạt động bảo lãnh
Một trong những lý do mà các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không muốn thiết lập quan hệ với các ngân hàng trong nước đó sự hạn chế về công nghệ. Mặt khác công nghệ thông tin giúp cho việc nắm bắt thông tin một cách nhanh chóng, kịp thời, chính xác và nhờ có nguồn tin đầy đủ, các phương pháp đánh giá rủi ro chính xác sẽ hạn chế sự tuỳ tiện trong việc cấp bảo lãnh cho khách hàng. Từ những lý do trên có thể thấy rằng ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động bảo lãnh nói riêng là một điều cấp thiết, nó có thể giúp các ngân hàng chiến thắng trong cạnh tranh.
Để từng bước tiến tới hiện đại hoá thông tin thì trước hết mỗi ngân hàng cần phải:
Xây dựng và hoàn thiện quy trình bảo lãnh, xây dựng trang các thông tin quảng cáo và phục vụ khách hàng trên Internet.
Trang bị thêm máy vi tính, hệ thống thông tin liên lạc cho các phòng ban làm việc, có nối mạng trong nước cũng như quốc tế.
Phòng thông tin điện toán phối hợp với các phòng tín dụng, kế toán, thanh toán quốc tế để xây dựng chương trình theo dõi, quản lý nghĩa vụ bảo lãnh trên mạng.
Từng bước thay đổi tỷ trọng giữa đầu tư phần mềm và phần cứng để nâng cao hiệu quả khai thác. Đồng bộ hoá việc đào tạo cán bộ điện toán và người sử dụng, xây dựng thói quen và tư duy mới để có đủ năng lực tiếp nhận, sử dụng, khai thác và làm chủ những phương tiện làm việc mới, nhất là những phương tiện có tính công nghệ cao.
Xây dựng mối quan hệ mật thiết, thường xuyên với một số công ty, tổ chức tin học chuyên nghiệp có uy tín để tận dụng sự tư vấn, hỗ trợ trong quá trình phát triển ứng dụng công nghệ vào các lĩnh vực hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động bảo lãnh nói riêng của ngân hàng mình.
Đối với các doanh nghiệp XNK.
Các nghiệp vụ của ngân hàng chính là những công cụ hỗ trợ đắc lực cho doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh. Trong hoạt động bảo lãnh khi phát sinh rủi ro thì người chịu thiệt hại chính là các doanh nghiệp. Do đó doanh nghiệp cầ phải thực hiện các yêu cầu sau:
Có chiến lược sản xuất kinh doanh đúng đắn dựa trên nhu cầu thị trường, lựa chọn đối tác kỹ càng, có tín nhiệm trước khi ký kết hợp đồng.
Nâng cao trình độ nghiệp vụ của cán bộ trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu, năng lực đánh giá dự án. Bồi dưỡng trình độ ngoại ngữ, luật pháp, nâng cao trình độ hiểu biết về các quy tắc, thông lệ quốc tế trong giao dịch thương mại quốc tế.
Cần tham khảo ý kiến của các tổ chức tư vấn, ngân hàng phục vụ mình trước khi ký kết hợp đồng với đối tác nước ngoài.
Xây dựng hoạch định phương án sản xuất kinh doanh có tính khả thi dựa trên nhu cầu thị trường, năng lực tài chính, công nghệ của doanh nghiệp.
Nghiêm chỉnh thực hiện các quy định của ngân hàng về ký quỹ, tài sản thế chấp, có trách nhiệm thực hiện đầy đủ nghĩa vụ trong hợp đồng và trong cam kết bảo lãnh với ngân hàng.
KếT Luận
Có thể nói bảo lãnh là sản phẩm của một nền kinh tế thị trường phát triển, và sự ra đời của nó đã góp phần thúc đẩy các quan hệ thương mại ở cả trong nước và ngoài nước được diễn ra trôi chảy. Trong điều kiện vừa thực hiện CNH - HĐH đất nước vừa hội nhập quốc tế; đòi hỏi hệ thống các NHTM Việt Nam phải thực hiện tốt chức năng, vai trò của mình giúp cho việc chu chuyển vốn từ nước ngoài vào Việt Nam và hàng hoá từ Việt Nam ra nước ngoài được diễn ra thuận lợi. Do vậy cần thiết phải phải nhìn nhận lại vị thế của nghiệp vụ bảo lãnh trong hệ thống các sản phẩm ngân hàng, không nên xem bảo lãnh đơn thuần là một nghiệp vụ tín dụng gián tiếp mà phải coi nó là một nghiệp vụ kép, không chỉ đem lại rất nhiều lợi ích cho ngân hàng mà còn giúp khách hàng của ngân hàng có được tín nhiệm trong quan hệ giao dịch với đối tác nước ngoài.
Định hướng xuất nhập khẩu cũng như chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội đến năm 2010 đã đề ra “Phát huy lợi thế tương đối, không ngừng nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá đáp ứng các nhu cầu của đời sống, hướng mạnh về xuất khẩu, nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu, đòi hỏi phải có sự đầu tư thoả đáng vào việc làm xuất khẩu như nhập máy móc thiết bị để nâng cao chất lượng dây chuyền sản xuất hàng xuất khẩu, xây dựng các khu chế xuất. . .” Cơ cấu nhập khẩu của nước ta trong những năm tới cần chuyển dịch theo hướng CNH - HĐH đất nước. Hiện nay hàng hoá của Việt Nam đã có mặt ở nhiều nước trên thế giới, quan hệ thương mại của nước ta với các nước khác đã có bước mở rộng và phát triển đáng kể. Tuy nhiên sản phẩm xuất khẩu của nước ta còn nghèo nàn, chưa qua chế biến còn chiếm tỷ trọng lớn. Muốn phát huy được hết tiềm lực của nền kinh tế rất cần có sự hỗ trợ từ nhiều ngành, nhiều cấp và đặc biệt rất cần một hệ thống ngân hàng mạnh về tài chính, hiện đại về công nghệ và đội ngũ cán bộ giỏi về chuyên môn nghiệp vụ.
TàI liệu tham khảo
Giáo trình thanh toán quốc tế- Trường Đại học Ngoại thương- GS. NGƯT Đinh Xuân Trình
Giáo trình Lý thuyết Tài chính Tiền tệ- Trường Đại học Ngoại Thương
Tàì chính quốc tế Hiện Đại trong nền kinh tế mở- Học viện Ngân Hàng-Tiến sĩ Nguyễn Văn Tiến.
Giáo trình Tín dụng xuất khẩu và Thanh toán quốc tế- Học viện Ngân hàng
Các qui tắc thống nhất về bảo lãnh theo yêu cầu của ICC- URDG - ấn bản số 458
Các quy tắc thống nhất về Bảo lãnh Hợp đồng của ICC –URCG - ấn bản số 325.
Giáo trình Tín dụng Xuất khẩu- Học Viện Ngân hàng
Sổ tay Nghiệp vụ Ngân hàng Quốc tế- Chương trình đào tạo tại trung tâm CARLDUS
Nghiệp vụ Ngân hàng Thương Mại_ PTS Lê Văn Tề/ PTS Ngô Hướng/ PTS Đỗ Linh Hiệp/ Lê Thập Dương_NXB Tp Hồ Chí Minh
Luật Ngân Hàng và các Văn bản dưới luật
Văn bản qui phạm pháp luật – Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ( các số năm 2000- 2002)
Qui trình Kỹ Thuật Nghiệp vụ Ngoại Thương - Ngân Hàng Ngoại Thương Việt Nam
Những tình huống đặc biệt trong Thanh toán Quốc tế_ NXB Thống kê 1995.
Tập quán Ngân hàng Tiêu chuẩn Quốc tế (ISBP)_ Phòng thương mại Quốc tế_ 2003
UCP 500_ Các Qui tắc và thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ của ICC.
Báo cáo thường niên các năm 1999, 2000, 2001, 2002 Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng Công thương, Ngân hàng Thương Mại Cổ Phần Quân Đội, Ngân hàng Thương Mại cổ phần Xuất Nhập Khẩu Việt Nam, Ngân hàng á Châu, Ngân Hàng Đông á
Tạp chí Ngân Hàng Ngoại thương Việt Nam (Các số năm 2002/2003)
Tạp chí Tài Chính Ngân Hàng
-Tìm hiểu thuật ngữ tài chính- tiền tệ- ngân hàng
- Vài ý kiến xoay quanh việc: Sửa đổi bổ sung Luật các Tổ choc tín dụng
- Hướng đi đúng trong hoạt động Ngân hàng Thương Mại
- Ngân hàng với các Doanh Nghiệp nhỏ và vừa hợp tác cùng phát triển.
- Sự phát triển đồng bảo lãnh & hoạt động bảo lãnh của Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam.
- Các Ngân hàng Châu á trong cuộc chiến giành khách hàng
- Lại bàn về chiến lược phát triển các NHTM từ giai đoạn sau năm 2005.
16. Vietnam Economic News
17.
18. Finance and Guarantee.
19. Tham khảo một số khoá luận tốt nghiệp bộ môn TTQT- Đại học Ngoại thương.
Danh mục viết tắt
CNH – HĐH Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá
IMF: International Monetary Fund
L/C: Letter of Credit
NHĐT: Ngân hàng Đầu tư - Phát triển
NHCT: Ngân hàng Công thương
NHNN: Ngân hàng Nhà nước
NHNo: Ngân hàng Nông nghiệp – Phát triển Nông thôn
NHNT: Ngân hàng Ngoại thương
NHTM: Ngân hàng Thương mại
TCTD: Tổ chức Tín dụng
TMQT: Thương mại Quốc tế
WB: World Bank
XNK: Xuất nhập khẩu
Mục lục
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luan van - Phuong.doc