Phần I: Tình hình đất nước sau năm 1973
Miền Nam được giải phóng, đất nước được hoàn toàn độc lập và thống nhất, đó là thuận lợi cơ bản cho việc hàn gắn các vết thương chiến tranh, xây dựng đất nước và đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội và đó cũng là thời cơ lớn chưa từng có để tranh thủ những điều kiện bên ngoài tốt nhất cho việc xây dựng đó.
Nhưng ngay sau khi đã giải phóng miền Nam, chính phủ Pôl Pôt đã cho quân tiến đánh nhiều nơi ở miền Nam, đổ bộ lên đảo Phú Quốc, quần đảo Thổ Chu, báo hiệu chính sách thù địch của họ đối với nước ta. Tình hình biên giới Việt-Trung ngày càng thêm căng thẳng, báo hiệu một bước phát triển xấu của quan hệ Việt-Trung. Trong lúc đó tình hình miền Nam chưa được ổn định.
Tình hình nói trên đòi hỏi toàn dân, toàn quân ta phải đoàn kết một lòng, ra sức phấn đấu làm hai nhiệm vụ chiến lược.
Một là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội:
Hai là sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Hai nhiệm vụ đó có quan hệ mật thiết với nhau. Nhưng đồng chí Lê Duẩn đã nói: “Phải xây dựng chủ nghĩa xã hội đạt những kết quả thiết thực làm cho đất nước ta mạnh lên về mọi mặt và trong mọi hoàn cảnh thì mới có đủ sức đánh thắng mọi cuộc chiến tranh xâm lược của địch, bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Ngược lại, có tăng cường phòng thủ đất nước, làm thất bại chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch và bảo đảm cho đất nước luôn luôn được bảo vệ vững chắc thì mới có điều kiện để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội”.
Tháng 6/1975, Ban chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam đã vạch nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam, nêu bật những nhiệm vụ trước mắt và khẳng định sự bức xúc phải thống nhất đất nước càng sớm càng tốt. Tháng 7/1976, Bộ chính trị Trung ương Đảng đề ra những công tác trước mắt ở miền Nam. Nhưng phải đợi đến Đại hội lần thứ IV họp ngày 14 tháng 12 năm 1976 mới quyết định Phương hướng nhiệm vụ và mục tiêu của kế hoạch 5 năm 1976-1980. Đây là kế hoạch năm năm đầu tiên của nước Việt Nam thống nhất.
24 trang |
Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 2775 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Ngoại giao Việt nam giai doạn 1975 - 1985, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Học viện báo chí tuyên truyền
Khoa lịch sử Đảng
---------------------
Tiểu luận
Đề tài:
Ngoại giao Việt Nam giai đoạn 1975-1985
Giáo viên hướng dẫn : TS. Phạm Xuân Minh
Sinh viên thực hiện : Nguyễn Văn Nam
Lớp :
Năm 2006
Phần I
Tình hình đất nước sau năm 1973
Miền Nam được giải phóng, đất nước được hoàn toàn độc lập và thống nhất, đó là thuận lợi cơ bản cho việc hàn gắn các vết thương chiến tranh, xây dựng đất nước và đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội và đó cũng là thời cơ lớn chưa từng có để tranh thủ những điều kiện bên ngoài tốt nhất cho việc xây dựng đó.
Nhưng ngay sau khi đã giải phóng miền Nam, chính phủ Pôl Pôt đã cho quân tiến đánh nhiều nơi ở miền Nam, đổ bộ lên đảo Phú Quốc, quần đảo Thổ Chu, báo hiệu chính sách thù địch của họ đối với nước ta. Tình hình biên giới Việt-Trung ngày càng thêm căng thẳng, báo hiệu một bước phát triển xấu của quan hệ Việt-Trung. Trong lúc đó tình hình miền Nam chưa được ổn định.
Tình hình nói trên đòi hỏi toàn dân, toàn quân ta phải đoàn kết một lòng, ra sức phấn đấu làm hai nhiệm vụ chiến lược.
Một là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội:
Hai là sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Hai nhiệm vụ đó có quan hệ mật thiết với nhau. Nhưng đồng chí Lê Duẩn đã nói: “Phải xây dựng chủ nghĩa xã hội đạt những kết quả thiết thực làm cho đất nước ta mạnh lên về mọi mặt và trong mọi hoàn cảnh thì mới có đủ sức đánh thắng mọi cuộc chiến tranh xâm lược của địch, bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Ngược lại, có tăng cường phòng thủ đất nước, làm thất bại chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch và bảo đảm cho đất nước luôn luôn được bảo vệ vững chắc thì mới có điều kiện để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội”.
Tháng 6/1975, Ban chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam đã vạch nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam, nêu bật những nhiệm vụ trước mắt và khẳng định sự bức xúc phải thống nhất đất nước càng sớm càng tốt. Tháng 7/1976, Bộ chính trị Trung ương Đảng đề ra những công tác trước mắt ở miền Nam. Nhưng phải đợi đến Đại hội lần thứ IV họp ngày 14 tháng 12 năm 1976 mới quyết định Phương hướng nhiệm vụ và mục tiêu của kế hoạch 5 năm 1976-1980. Đây là kế hoạch năm năm đầu tiên của nước Việt Nam thống nhất.
Kế hoạch 1976-1980 nhằm hai mục tiêu cơ bản:
- Xây dựng một bước cơ sở vất chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, bước đầu hình thành cơ cấu kinh tế mới trong cả nước mà bộ phận chủ yếu là cơ cấu công nông nghiệp.
- Cải thiện một bước đời sống vất chất và văn hoá của nhân dân lao động.
Nhiệm vụ cơ bản của kế hoạch 5 năm 1976-1980 là:
- Tạo ra một bước phát triển vượt bậc về nông nghiệp, ra sức đẩy mạnh lâm nghiệp, ngư nghiệp, phát triển công nghiệp nhẹ và công nghiệp thực phẩm nhằm giải quyết vững chắc nhu cầu của cả nước về lương thực, thực phẩm và một phần quan trọng hàng tiêu dùng thông thường, cả thiện một bước đời sống vất chất và văn hoá của nhân dân lao động, tích lũy cho công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa.
- Phát huy năng lực sẵn có và xây dựng thêm nhiều cơ sở về công nghiệp nặng; tích cực mở mang giao thông vận tải, tăng nhanh năng lực xây dựng cơ bản, đẩy mạnh công tác kế hoạch – kỹ thuật.
- Sử dụng hết lực lượng lao động xã hội (22 triệu lao động).
- Hoàn thành về cơ bản cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Nam, củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.
- Tăng nhanh nguồn hàng xuất khẩu, mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài.
- Phát triển sự nghiệp giáo dục, văn hoá, xã hội, tiến hành cải cách giáo dục, thanh toán hậu quả của chiến tranh và ảnh hưởng của chủ nghĩa thực dân mới.
- Thực hiện một sự chuyển biến sâu sắc trong tổ chức và quản lý kinh tế.
Với phương hướng, nhiệm vụ và mục tiêu chủ yếu nói trên, ta dự kiến hàng năm tổng sản phẩm xã hội tăng 14%-15%, thu nhập quốc dân tăng 13%-14%, nông nghiệp tăng 8%-10%, công nghiệp tăng 16-18%, mức đầu tư cơ bản trên 30 tỷ đồng. Một mục tiêu có ý nghĩa chiến lược của kế hoạch 5 năm này là phấn đấu xuất khẩu được 2,5 tỷ đến 8 tỷ rúp-đô la thì còn thiếu từ 5 đến 5,5 tỷ rúp-đôla. Từ cuối 1975 ta đã tranh thủ được 4,275 tỷ rúp-đô la trong đó:
Cho không
Cho vay
Cộng
Khu vực XHCN
847 triệu
1,631 tỷ
2,478 tỷ
Khu vực DTCN
55 triệu
631 triệu
686 triệu
Ta còn cần 5,5 tỷ rúp-đôla hàng lẻ cho các cơ sở kinh tế và cho tiêu dùng.
(Báo cáo Hội nghị ngoại igao lần thứ 13 tháng 10/1976).
Đây là nhiệm vụ rất nặng nề cho công tác ngoại giao.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 24 đã nêu nhiệm vụ cơ bản về đối ngoại của Việt Nam là:
“Tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi để nhanh chóng xây dựng cơ sở vất chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội đồng thời củng cố quốc phòng và an ninh; phát huy tác dụng của Đảng và nước ta trong công cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ của chủ nghĩa xã hội; tăng cường đoàn kết với Lào và Campuchia, thực hiện hợp tác lâu dài, giúp đỡ lẫn nhau, làm cho ba nước ở Đông Dương trở thành lực lượng vững chắc của cách mạng và hoà bình ở Đông Nam á; xây dựng quan hệ hợp tác xã hội chủ nghĩa giữa nước ta và các nước xã hội chủ nghĩa anh em; xây dựng quan hệ hữu nghị giữa nước ta và cá nước trong thế giới thứ ba, cùng các nước khác trên cơ sở năm nguyên tắc cùng tồn tại hoà bình”.
Văn kiện Đại hội IV cũng có nội dung tương tự.
Đây cũng là đường lối đối ngoại của nước Việt Nam thống nhất.
Trong việc thực hiện đường lối trên, thuận lợi của nước ta là cơ bản. Sau khi đánh thắng Mỹ, nước đứng đầu phe tư bản, có tiếng là hùng mạnh, và thật sự là hùng mạnh, thế chiến thắng nổi lên rạng rỡ trên vũ đài quốc tế, vị thế của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hoà Miền Nam Việt Nam được nâng cao. Có thể khẳng định chưa bao giờ nước Việt Nam có hình ảnh đẹp như thế trong lòng nhân dân thế giới.
Nước ta có vị trí địa lý chính trị quan trọng ở khu vực Biển Đông và Đông Nam á, lại có tiềm lực kinh tế to lớn. Do đó, có sức hấp dẫn đối với các loại tội ác.
Với việc hợp nhất hai bộ Ngoại giao của hai miền, chúng ta phát huy ưu thế ngoại giao Việt Nam trước đây, đồng thời giương cao ngọn cờ chủ nghĩa xã hội và độc lập dân tộc của miền Bắc, và ngọn cờ hoà bình trung lập của miền Nam, kế thừa các quan hệ Nhà nước vốn có của hai Nhà nước Việt Nam, làm cho quan hệ hữu nghị và quan hệ hợp tác giữa nước ta với các nước càng được củng cố và mở rộng.
Dù không có quan hệ đoàn kết của những năm 50 và tiếp tục bị chia rẽ, phe xã hội chủ nghĩa vẫn còn là chỗ dựa cho nước ta, ít nhất trong những năm đầu sau ngày giải phóng miền Nam. Chẳng hạn Trung Quốc năm 1973 hứa sẽ tiếp tục viện trợ trong năm năm tới với mức kim ngạch bằng năm 1973. Dù có mức độ và còn có ý đồ lôi kéo ta đi với Liên Xô mạnh hơn, Liên Xô vẫn tiếp tục viện trợ cho ta.
Nhưng những khó khăn, trở ngại không phải là nhỏ.
Phe xã hội chủ nghĩa tiếp tục bị chia rẽ, mâu thuẫn giữa Liên Xô và Trung Quốc vẫn gay gắt, khiến phong trào cộng sản và công nhân quốc tế vẫn bị phân hoá nghiêm trọng.
Dưới một bề ngoài ổn định thực tế các nước xã hội chủ nghĩa đang đi vào một cuộc khủng hoảng cực kỳ nghiêm trọng về mọi mặt mà cái giá phải trả khi chung cuộc là sự tan rã chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu những năm 1989-1989, sự mất quyền lãnh đạo của các đảng cộng sản cầm quyền. Các nước xã hội chủ nghĩa giúp cho ta đều có ẩn ý muốn lôi kéo ta ngả theo đường lối đối ngoại của họ. Phía này muốn ta ủng hộ hoà hoãn với Mỹ, hoà hoãn ở Châu Âu ngăn chặn ảnh hưởng của Trung Quốc ở Đông Nam á. Phía kia muốn ta chống Liên Xô, chống hoà hoãn Xô-Mỹ phá hoà hoãn ở Châu Âu, lôi kéo các nước không liên kết đồng thời thúc đẩy hoà hoãn Trung Mỹ. Tình hình đó gây khó khăn cho ta trong việc giữ vững đường lối độc lập và tự chủ.
Sau khi chiến tranh chấm dứt ở miền Nam, sự giúp đỡ của các nước đối với ta chuyển sang hình thức hợp tác, có đi có lại, có vay có trả, đó là một khó khăn mới, vì ta chỉ có thể tranh thủ được sự giúp đỡ và hợp tác của bạn nếu bạn thấy có lợi ích thực tế trong việc hợp tác kinh tế với ta và ta cũng giữ được tín nhiệm với bạn trong quan hệ buôn bán hợp tác đó.
Từ chiến tranh chuyển sang hoà bình, từ chia cắt tiến lên thống nhất, từ miền Nam thuộc địa kiểu mới tiến đến đưa cả nước lên chủ nghĩa xã hội, trong tình hình các lực lượng thù địch đang mưu toan chống nước ta, việc tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi cho nhiệm vụ bảo vệ và xây dựng đất nước là nhiệm vụ hết sức nặng nề của ngoại giao.
Trước khi thống nhất hai miền, ta đã kịp thời đấu tranh trong việc cả hai miề đều là quan sát viên của Liên hợp quốc và Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam trở thành thành viên của Liên hợp quốc từ tháng 9/1977. Miền Nam tham gia một số tổ chức quốc tế như ESCAP, OMS, FAO v.v… và nối lại quan hệ Ngân hàng thế giới và Ngân hàng Châu á. Sau khi các nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam được thành lập, ta đã tích cực giải thích cho anh em bầu bạn và các nước khác hiểu cơ sở lịch sử, pháp lý của việc thống nhất nước nước Việt Nam về mặt Nhà nước và quyết tâm của nước Việt Nam làm đầy đủ nghĩa vụ của mình đối với cộng đồng các quốc gia. Uy tín nước Việt Nam thống nhất và chiến thắng không khỏi gây phản ứng tiêu cực trong hàng ngũ các lực lượng thù địch.
Tổng bí thư Lê Duẩn và Thủ tướng Phạm Vă Đồng đi thăm Trung Quốc, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác nhằm tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ của các nước bạn trong giai đoạn mới và đặt cơ sở lâu dài cho quan hệ hợp tác kinh tế giữa nước ta với các nước xã hội chủ nghĩa. Tháng 6/1978, Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV) nhất trí kết nạp Cộnghoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Ngày 3/11/1978 Hiệp ước hữu nghị và hợp tác giữa Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và Liên Xô được ký kết với những điều khoản về phát triển quan hệ chính trị, kinh tế, khoa học kỹ thuật, bao gồm cả việc trao đổi ý kiến và áp dục những biện pháp thích đáng có hiệu lực để bảo đảm hoà bình và an ninh cho hai nước. Đây là một sự kiện rất quan trọng đánh dấu một bước phát triển mới trong quan hệ giữa hai Đảng và hai nước, tăng thêm sức mạnh cho ta trong việc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc.
Việc nhân dân ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia cùng thắng lợi, buộc Mỹ phải rút khỏi Đông Dương, đánh sụp đổ các chế độ tay sai của họ là một nhân tố rất quan trọng ở Đông Nam á. Trong bối cảnh đó, tình hình đoàn kết giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân Lào, nhân dân Campuchia càng thêm chặt chẽ. Ngày 18/7/1977 Việt Nam và Lào ký lại Viêng Chăn Hiệp ước hữu nghị và hợp tác giữa hai nước, và Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia giữa hai nước. Đồng thời Việt Nam cũng ký hiệp định viện trợ cho Lào vay ba năm 1978-1980, việc phân vạch và cắm mốc đường biên giới trên thực địa trong một thời gian ngắn đã kết thúc thắng lợi, việc giải quyết vấn đề biên giới Việt-Lào được hai bên đánh giá là tốt đẹp, đúng pháp luật quốc tế. Đối với Campuchia, ta tận tình giúp nhân dân Campuchia kết thúc thắng lợi cuộc chiến đấu để giải phóng thủ đô Phnôm Pênh nhưng tập đoàn Pôl Pốt tiếp tục chính sách chống Việt Nam, phá hoại quan hệ đoàn kết chiến đấu đã gắn bó nhân dân hai nước. Đây là một tình hình cực kỳ nghiêm trọng sẽ tiếp tục nhấn chìm Campuchia trong khói lửa. Sau khi chế độ diệt chủng Pôl Pốt bị lật đổ, các lực lượng yêu nước Campuchia thành lập nước Cộng hoà Nhân dân Campuchia. Nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng Hoà Nhân dân Campuchia thi hành chính sách hoà bình và hữu nghị với nhau trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của nhau, hai bên cùng có lợi. Tại Phnôm Pênh hai nước đã ký Hiệp ước hoà bình, hữu nghị và hợp tác giữa hai nước ngày 18 tháng 2 năm 1979, Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia giữa hai nước này 30/12/1985.
Đông Nam á là một khu vực chiến lược hết sức quan trọng lại bao gồm cả ba nước Đông Dương. Đây là khu vực có phong trào cách mạng mạnh mẽ nhưng cũng là nơi giành giật quyền lợi và ảnh hưởng giữa các nước lớn. Một số nước Đông Nam á dính líu vào cuộc chiến tranh Việt Nam. Sau khi ta giải phóng miền Nam mà Mỹ đành khoanh tay đứng nhìn, cacns ASEAN lo sợ thuyết Domino của Mỹ sẽ ứng nghiệm. Tháng giêng năm 1976, Hội nghị ngoại giao lần thứ 12 nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã nêu nhiệm vụ “phấn đấu cho một Đông Nam á độc lập, hoà bình, trung lập không có quân đội và căn cứ của đế quốc, đonà kết hợp tác với các nước dân tộc chủ nghĩa trước hết là các nước không liên kết, tích cực trên lập trường đế quốc thực dân”. Dù nó chứng tỏ ta chưa hiểu rõ tình hình các nước Đông Nam á và còn mang nặng tư tưởng hai phe thời chiến tranh lạnh, chủ trương đó đã nói lên rõ ràng chính sách hoà bình và lòng mong muốn hợp tác của nước ta đối với các nước Đông Nam á nói chung và các nước ASEAN nói riêng. Ngày 5/7/1976, ngay sau khi nước ta đã thống nhất về mặt Nhà nước với lòng mong muốn chân thành hội nhập với khu vực, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh đã nêu chính sách 4 quan điểm của nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đối với các nước Đông Nam á.
Tôn trọngđộc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không xâm lược nhau, không can thiệp công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi, cùng tồn tại trong hoà bình.
Không để lãnh thổ nước mình cho bất cứ nước ngoài nào sử dụng làm căn cứ xâm lược và can thiệp trực tiếp hoặc gián tiếp vào nước kia và các nước khác trong khu vực.
Thiết lập quan hệ hữu nghị láng giềng tốt, hợp tác kinh tế và trao đổi văn hoá trên cơ sở bình đẳng cùng có lợi. Giải quyết những vấn đề tranh chấp giữa các nước trong khu vực thông qua thương lượng theo tinh thần bình đẳng, hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau.
Phát triển sự hợp tác giữa các nước trong khu vực vì sự nghiệp xây dựng đất nước phồn vinh theo điều kiện của mỗi nước, vì lợi ích của độc lập, hoà bình, trung lập thật sự ở Đông Nam á, góp phần vào sự nghiệp hoà bình trên thế giới.
Chính sách 4 điểm phù hợp với những nguyên tắc của Hiệp ước Bali do đó được các nước ASEAN hoan nghênh và trên cơ sở đó ta đã thiết lập quan hệ ngoại giao với Philippin ngày 12/7/1976, với Thái Lan ngày 6/8/1976. Với Inđônêsia ta đã có quan hệ ngoại giao từ năm 1964, với Malaysia và Singgapore từ sau Hiệp định Paris về Việt Nam năm 1973.
Bước khởi đầu tốt đẹp này của quan hệ Việt Nam ASEAN trùng hợp với lúc Mỹ chủ trương bình thường hoá không điều kiện quan hệ với Việt Nam có thể là nhân tố tích cực để ổn định tình hình ở Đông Dương. Tiếc rằng tình hình đã xấu đi với những hậu quả nặng nề.
Đối với các nước đang phát triển nói chung và đặc biệt là các nước không liên kết ta cố gắng phát huy vai trò của Việt Nam trên vũ đài quốc tế, góp phần làm cho phong trào không liên kết củng cố và tiếp tục đi đúng hướng chống đế quốc và thực dân, hạn chế tác động của mâu thuẫn Xô - Trung đối với phong trào, phát triển hợp tác kinh tế, tranh thủ sự giúp đỡ của các nước không liên kết để phục vụ kế hoạch năm năm 1976-1980.
Những năm 70 thế giới tư bản bị khủng hoảng về kinh tế trầm trọng và kéo dài, các nước đế quốc mâu thuẫn với nhau gay gắt, tranh giành nguyên liệu và thị trường. Ta đã lợi dụng tình hình thuận lợi đó mở rộng quan hệ với các nước tư bản phát triển để tranh thủ vốn và kỹ thuật: Pháp, Nhật Bản…
Ta vẫn coi đế quốc Mỹ là kẻ thù cơ bản, lâu dài và nguy hiểm nhất, vẫn đề phòng Mỹ có kế hoạch hậu chiến. Ta kiên quyết đặt điều kiện về bình thường hoá quan hệ Việt Mỹ là Mỹ phải th hành thoả thuận về đóng góp hàn gắn vết thương chiến tranh. Năm 1975-1976 Mỹ nói không th bồi thường chiến tranh cho Việt Nam vì Việt Nam đã vi phạm Hiệp định Paris. Nhưng đầu năm 1977 sau khi vào nhà trắng, tổng thống Jimmy Carter coi bình thường hoá quan hệ với Việt Nam là một “biểu tượng” nhằm chấm dứt sự chia rẽ bên trong và phục hồi uy tién của Mỹ ở bên ngoài. Tháng 3/1977 phái đoàn Woodcock sang Hà Nội để thăm dò khả năng bình thường hoá quan hệ với Việt Nam và cho rằng Việt Nam sẵn sàng bình thường hoá quan hệ không điều kiện với sự hiểu biết rằng sau khi quan hệ đã bình thường hoá thì Mỹ sẽ viện trợ. Tháng 5 rồi tháng 12/1977, hai biên tiến hành đàm phán về vấn đề bình thường hoá quan hệ nhưng không đạt được thoả thuận nào. Tuy vậy, Mỹ đồng ý không cản trợ Việt Nam ra nhập Liên hợp quốc. Nhưng từ giữa năm 1977 chính quyền Carter đã chuyển sang xây dựng quan hệ chiến lược với Trung Quốc để đối phó với Liên Xô. Cuối năm 1977 quốc hội Mỹ thông qua luật cấm viện trợ cho Việt Nam. Quan hệ Việt-Mỹ ngày cang thêm trở ngại.
Phần II
Ngoại giao Việt Nam trong giai đoạn 1975-1985
I. Vấn đề Campuchia.
Phản ứng của Việt Nam để trả lời cuộc chiến tranh biên giới và cuộc đại tiến công vào Tây Ninh cuối năm 1978 của tập đoàn Pôl Pốt đã làm rung chuyển toàn bán đảo Đông Dương và tác động kéo dài đến tình hình Đông Nam á và thế giới.
Nhờ sự giúp đỡ nhân đạo của Việt Nam, nhân dân Campuchia thoát khỏi được nạn diệt chủng và bắt đầy xây dựng lại đất nước đã bị chế độ Pôl Pốt tàn phá ngoài sự tưởng tượng. Trái lại Việt Nam đang phải đối đầu với một cuộc khủng hoảng kinh tế – xã hội cực kỳ nghiêm trọng sẽ đến đỉnh cao những năm 1986-1988 lại gánh thêm vấn đề Campuchia. Nước Lào, vừa mới giành được chính quyền, cũng đang đứng trước những khó khăn về an ninh, kinh tế, xã hội.
Khi cuộc chiến tranh giữa Việt Nam và Khơ me đỏ bắt đầu, có nhà báo phương Tây gọi đó là cuộc “chiến tranh uỷ nhiệm” ngụ ý nói đây là cuộc chiến tranh giữa Liên Xô và Trung Quốc qua tay người Việt Nam và người Khơ me đỏ. Điều đó chỉ đúng một nửa vì Việt Nam nhận viện trợ của Liên Xô thật nhưng luôn luôn, kể cả trong hai cuộc kháng chiến trước, theo đuổi một đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ. Lúc đầu đó là cuộc chiến tranh giữa hai bên. Khi Trung Quốc đánh Việt Nam tháng 2/1979 đó là cuộc chến tranh liên quan ba nước. Nhưng khi trình bầy Việt Nam là “tiểu bá” và Liên Xô là “đại bá” cuộc chiến tranh liền liên quan đến bốn nước. Từ “chiến tranh uỷ nhiệm” xuất xứ từ đó.
Nếu như các nước lớn phản ứng mỗi nước một cách tuỳ theo lợi ích chính trị, kinh tế, quân sự của mình với tình hình mới ở Campuchia thì các nước Đông Nam á chủ yếu là các nước trong Hiệp hội các nước Đông Nam á (ASEAN) phản ứng vì họ là láng giềng gần gũi với Đông Dương.
Trong thời gian chiến tranh Việt Nam, do tác động tuyên truyền thuyến Domino của Mỹ, các nước ASEAN còn nghi ngờ chính sách hữu nghị của Việt Nam nhưng từ tháng 7/1976 nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã công bố chính sách 4 điểm đối với các nước Đông Nam á mà tinh thần là hữu nghị, hợp tác, cùng tồn tại hoà bình trên cơ sở 5 nguyên tắc cùng tồn tại hoà bình và 10 nguyên tắc Bangdung, tiếp đó Thứ trưởng Ngoại giao, Bộ trưởng Ngoại giao và Thủ tướng nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã liên tiếp đi thăm hữu nghị các nước Đông Nam á, quan hệ ngoại giao giữa các nước ASEAN và Việt Nam đã được kiến lập. Nhưng từ sau sự kiện 7/1/1990 sự có mặt của quân đội Việt Nam tại Campuchia đã làm cho các nước Đông Nam á lo ngại. Trước hết Thái Lan, láng giềng trực tiếp của Campuchia, thì lo sợ Việt Nam đánh vào đất họ nhất là khi thực tế họ đang tiếp tay cho tàn quân Pôl Pốt, điều đó có thể hiểu được, các nước khác lo ngại chiến tranh có thể mở rộng, phá hoại môi trường hoà bình, đe doạ an ninh của họ.
Trong ASEAN, phản ứng mạnh mẽ nhất là Thái Lan. Chính quyền Kriangsak dành mọi dễ dàng cho lực lượng Pôl Pốt. Các nước ASEAN khác yêu cầu Hội đồng bảo an lên án Việt Nam xâm lược Campuchia, vận động Đại hội đồng Liên hợp quốc, phong trào không liên kết họp tại Habana, cả Hội nghị cấp cao Phong trào không liên kết họp tại New Deli năm 1983 để giữ ghế cho Khơ me đỏ. Họ không đáp ứng đề nghị của ba ngoại trưởng các nước Việt Nam, Lào, Cộng hoà nhân dân Campuchia đưa ra tháng 1 năm 1980 về việc ký Hiệp định song phương và không xâm lược nhau giữa ba nước Đông Dương và các nước ASEAN và bàn việc xây dựng một khu vực Đông Nam á hoà bình, độc lập, tự do, trung lập, ổn định và phồn vinh. Tuy vậy vẫn có khoảng cách về nhận định tình hình giữa Djakarta, KuaLumpur và Bangkok. Tháng 3/1980, Tổng thống Suharto và Thủ tướng Malayxia Husein Onn gặp nhau tại Kuantan (Malayxia) và tuyên bố cần coi trọng những lo lắng của Việt Nam về an ninh của mình. Nguyên tắc đó nhằm đưa Đông Nam á thành khu vực hoà bình và cho rằng cần có giải pháp chính trị cho vấn đề Campuchia và giải pháp đó phải tính đến lợi ích chiến lược của Việt Nam và Campuchia cần được trung lập hoá khỏi ảnh hưởng của Liên Xô và Trung Quốc, kêu gọi Trung Quốc, Liên Xô không can thiệp vào Đông Nam á. Prem, Thủ tướng mới của Thái Lan, bác bỏ công thức Kuantan.
Tháng 7/1980, ngoại trưởng ba nước Việt Nam, Lào, Cộng hoà Nhân dân Campuchia nhắc lại đề nghị về ký hiệp định không xâm lược lẫn nhau và đề nghị một khu phi quân sự giữa Campuchia và Thái Lan có sự giám sát quốc tế, Campuchia và Thái Lan cần bàn giải quyết vấn đề người tị nạn, hội đàm trực tiếp hay gián tiếp để giải quyết các vấn đề khác giữa hai nước. Một vài nước ASEAN đồng tình nhưng Thái Lan không đáp ứng.
Tháng 1/1981, ngoại trưởng ba nước Đông Dương đề nghị họp một hội nghị giữa hai nhóm nước để bàn các vấn đề liên quan đến hoà bình, hợp tác ổn định ở Đông Nam á, sau khi được thoả thuận sẽ họp một hội nghị quốc tế để ghi nhận và bảo đảm; ký hiệp định tay đô giữa từng nước Đông Dương với Trung Quốc về cùng tồn tại hoà bình; Việt Nam sẽ rút quân khỏi Campuchia nếu Thái Lan không cho phép Khơ me đỏ và Khơ me phản động khác dùng lãnh thổ Thái Lan làm căn cứ chống Campuchia, chấm dứt tiếp tế vũ khí và lương thực cho chúng. Cuối tháng 4, ngoại trưởng Lào Phoune Sipaseuth, thay mặt bán Đông Dương, đi thăm các nước ASEAN để nêu 7 nguyên tắc cùng tồn tại hoà bình.
Tháng 7, theo gợi ý của nhóm ASEAN và dưới sự bảo trợ của Liên hợp quốc, Hội nghị quốc tế về Campuchia (ICK) họp tại New York, không có mặt Việt Nam. Các nước ASEAN đề nghị bàn nhiều vấn đề: rút quân đội nước ngoài ra khỏi Campuchia trong một thời gian nhất định dưới sự giám sát của Liên hợp quốc, tổng tuyển cử tự do do Liên hợp quốc chủ trì, bảo đảm một nước Campuchia độc lập không đe doạ ai nhưng hội nghị cũng không đi đến kết quả gì.
Lúc này, các lực lượng cách mạng Campuchia đã trưởng thành và có thể tự đảm đương mọi nhiệm vụ. Việt Nam tiếp tục giúp Cộng hoà Nhân dân Campuchia thực hiện ba mục tiêu chiến lược: làm suy tàn địch, xây dựng thực lực cách mạng trong 3-5 năm, lực lượng cách mạng Campuchia sẽ tự đảm đương nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ đất nước, bảo vệ thành quả cách mạng, tăng cường liên minh Campuchia – Việt Nam – Lào.
Các bên liên quan ở Đông Dương tiếp tục tăng cường hoạt động ngoại giao. Ngày 22/6, ba phái Campuchia ký hiệp định Kua Lumpur về việc lập một chính phủ liên hiệp và ngày 22/7 ASEAN và Trung Quốc thoả thuận xong về thành phần chính phủ đó.
Ngày 22/7, ngoại trưởng ba nước Đông Dương tỏ ý muốn khôi phục quan hệ với Trung Quốc đồng thời đề nghị họp một hội nghị hẹp về Đông Nam á bao gồm hai nhóm nước, Mianma, ấn Độ và năm nước lớn. Ngoại trưởng Việt Nam Nguyễn Cơ Thạch lại đi thăm cscs nước ASEAN, ngoại trưởng Phoune Sipaseuth gửi công hàm cho các nước ASEAN để trình bày quan điểm của ba nước Đông Dương.
Cuộc đàm phán Xô -Trung về bình thường hoá quan hệ giữa hai nước bắt đầu bằng vấn đề Campuchia và mở đầu việc các nước lớn bàn vấn đề Campuchia. Lần này phía Trung Quốc đưa ra đề nghị năm điểm mà ba điểm đầu lại là về Campuchia, nếu Việt Nam rút quân thì sau đợt đầu Trung Quốc sẵn sàng đàm phán với Việt Nam về bình thường hoá quan hệ giữa hai nước, đồng thời với việc Việt Nam lần lượt rút quân Trung Quốc sẽ có bước đi thực tế để cải thiện quan hệ với Việt Nam, dùng vấn đề Campuchia để cải thiện quan hệ Trung-Xô, tạo thế thuận lợi để thúc đẩy quan hệ Trung –Mỹ.
Tháng 10, Việt Nam rút một số quân về nước và tuyên bố sẽ tiếp tục rút như thế hàng năm.
Năm 1983 mở đầu bằng sự kiện quan trọng: hội nghị cấp cao ba nước Đông Dương bày tỏ ý muốn của ba nước là cải thiện quan hệ với Trung Quốc và đặc biệt là có một tuyên bố về rút quân Việt Nam khỏi Campuchia.
Trong vòng hai đàm phán Xô- Trung, Trung Quốc nêu ba trở ngại cho việc bình thường hoá quan hệ Trung-Xô: quân Liên Xô tiếp tục đóng ở Apganistan, quân Liên Xô đóng ở biên giới Trung-Xô, Liên Xô tiếp tục ủng hộ Việt Nam chiếm Campuchia, trong đó trở ngại thứ ba là quan trọng nhất.
Malayxia đề nghị họp các nước ASEAN với ba nước Đông Dương (trừ Campuchia), nhưng hội nghị ngoại trưởng ASEAN gạt vấn đề này. Inđônêxia và Philippin đều đồng ý nên tiếp tục đối thoại với nhóm nước Đông Dương. Inđônêxia đưa ra giải pháp: Việt Nam rút quân, Campuchia có quy chế trung lập, thành lập lực lượng gìn giữ hoà bình, tổ chức tổng tuyển cử ở Campuchia dưới sự giám sát của quốc tế. Tháng 7, ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch đề nghị tiến hành đàm phán bí mật giữa Việt Nam và Trung Quốc trên cơ sở đề nghị cả hai bên, thảo luận và giải quyết thật sự các vấn đề thực chất trong quan hệ giữa hai nước. Trung Quốc chỉ trả lời: Việt Nam hãy cam kết rút quân không điều kiện và có hành động thực tế.
Ngày 21/9 ASEAN ra lời kêu gọi hỗn hợp: cần tôn trọng quyền tự quyết và hoà giải của Campuchia, mọi phái Khơ me kể cả Phnôm Pênh tham gia tổng tuyển cử, thành lập Chính phủ liên hiệp, Việt Nam rút quân từ Tây sang Đông; ngừng bắn và tổng tuyển cử có giám sát quốc tế. Trung Quốc không ủng hộ, Việt Nam không đáp ứng.
Trong vòng 3 đàm phán với Liên Xô - Trung Quốc lại nêu ba trở ngại.
Trong cuộc họp tháng 2/1984, ngoại trưởng ba nước Đông Dương đưa ra bốn cách giải quyết tình hình: giải pháp toàn bộ về hoà bình vả ổn định ở Đông Nam á, giải pháp bộ phận liên quan tới ba nước Đông Dương, tới ba nước Đông Dương, tới ba nước Đông Dương và Thái Lan, thoả thuận những nguyên tắc quy định quan hệ giữa các nước Đông Dương và ASEAN có bảo đảm và giám sát quốc tế. Trong chuyến đi thăm Inđônêxia rồi Ostrâylia tháng 3/1984, ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch đã hội đàm với Tổng thống Suharto, tổng thống đã đề nghị: Cộng hoà Nhân dân Campuchia không trực tiếp tham gia đàm phán, Việt Nam rút quân dần dần khỏi Campuchia, ASEAN và Việt Nam lập một lực lượng gìn giữ hoà bình và giám sát tổng tuyển cử ở Campuchia. Sự khước từ của phía Việt Nam làm cho Inđônêxia không hài lòng. Tháng 7 ba ngoại trưởng Đông Dương đề nghị hai nhóm nước hội đàm trêm cơ sở lời kêu gọi hỗn hợp của ASEAN và đề nghị của ba nước Đông Dương, ASEAN không đáp ứng.
Cho đến thời điểm này, các cuộc tiếp xúc giữa nhóm nước Đông Dương và ASEAN vẫn duy trì nhưng do nghi ngờ, chưa thông cảm với nhau và cũng do thái độ của các nước lớn cuộc đối thoại không đạt kết quả cụ thể. Tuy vậy quan hệ giữa Việt Nam và các nước ASEAN bớt căng thẳng hơn. Tiếp theo cuộc đi thăm Việt Nam của tướng Benny Murdani cuộc đi thăm Inđônêxia của tướng Văn Tiến Dũng, ngoại trưởng Inđônêxia đi thăm Việt Nam. Như tướng Murdani đã tuyên bố sau khi đi Việt Nam về “các lực lượng vũ trang và nhân dân Inđônêxia không tin nguy cơ đối với Đông Nam á là từ phía Việt Nam”. Trong chuyến viếng thăm Hà Nội lần này, ngoại trưởng Mochtar Kusumaatmadji đềnghị một khung chiến lược về cân bằng lực lượng ở Đông Nam á. Malayxia đề nghị nên có “đàm phán gián tiếp” giữa chính phủ Cộng hoà Nhân dân Campuchia và Chính phủ liên hiệp ba phái với sự trung gian của ASEAN theo kiểu đã làm về Apganistan. Đề nghị này gây chia rẽ trong chính phủ liên hiệp ba phái. Trung Quốc bác bỏ. Thái Lan không bình luận.
Tháng 8, ba ngoại trưởng Đông Dương đưa ra lập trường 5 điểm làm khung cho một giải pháp chính trị toàn bộ về hoà bình, ổn định ở Đông Nam á và về vấn đề Campuchia, đồng thời thông báo Việt Nam sẽ rút hết quân khỏi Campuchia vào năm 1990 hoặc sớm hơn nếu có một giải pháp chính trị. Cộng hoà Nhân dân Campuchia tuyên bố sẵn sàng nói chuyện với các cá nhân hay nhóm Khơ me đối lập để bàn về hoà hợp dân tộc trên cơ sở loại trừ bọn Pôl Pốt.
Mặc dầu tổng hành dinh của chúng ở Phnôm Mailai đã bị tàn phá tan tháng 12/1985, bọn Pôl Pốt không chịu bỏ vũ khí vẫn tiếp tục chiến tranh du kích. Từ tháng 8/1985, phía Việt Nam đề nghị nên đi vào giải pháp thông qua thương lượng, phía Phnôm Pênh đồng ý cử người đi gặp hoàng thân Sihanuok và từ đây các nước đề nghị về giải pháp đi gần thực chất hơn. Ba ngoại trưởng Việt Nam, Lào, Campuchia gỡ rối tình hình với quan điểm hai mặt của vấn đề: mặt quốc tế bao gồm việc rút quân Việt Nam gắn với vấn đề chấm dứt viện trợ cho các bên Khơme, Thái Lan không để lãnh thổ của mình được sử dụng làm đất thành, chấm dứt các hoạt động quân sự và can thiệp chống các nước Đông Dương có thể được giải quýet trước hoặc đồng thời với mặt nội bộ và mặt nội bộ cần được giải quyết giữa các người Campuchia không có sự can thiệp từ bên ngoài. Sự phân biệt hai mặt của vấn đề Campuchia thật sự có tác dụng thúc đẩy các bên đi vào giải pháp vì con bài của Trung Quốc và các bên khác là đòi Việt Nam rút quân để ép Việt Nam đi vào thương lượng, nhưng Việt Nam đang rút quân từng đợt và muộn nhất là năm 1990 rút xong, khi đó con bài rút quân không còn tác dụng nữa.
II. Quan hệ Việt – Trung.
Cuộc chiến tranh tháng 2/1979 là một vết đen trong lịch sử quan hệ Việt-Trung, nỗi đau xót đối với những ai là người Việt cũng như Hoa, quý trọng và lo vun trồng cho tình hữu nghị truyền thống ngày càng xanh tươi. Nhưng chiến tranh đã xảy ra rồi thì việc đầu tiên phải lo khôi phục tình hữu nghị đó.
Trong cuộc đàm phán Việt Nam – Trung Quốc, ngay từ phiên họp đầu tiên tại Hà Nội ngày 18 tháng 4 năm 1979, nghĩa là đúng hai năm sau khi nổ ra cuộc chiến tranh, đại biểu Việt Nam đã đưa ra đề nghị ba điểm “Những nguyên tắc và nội dung chủ yếu của một giải pháp về những vấn đề trong quan hệ Việt Nam và Trung Quốc”.
1. Những biện pháp cấp bách nhằm bảo đảm hoà bình ổn định ở vùng biên giới hai nước bao gồm: không tập trung quân sát đường biên giới; cách ly lực lượng vũ trang hai bên; chấ dứng mọi hành động khiêu khích chiến tranh và mọi hình thức hoạt động đối địch; lập khu phi quân sự và thoả thuận về quy chế của khu phi quân sự; lập uỷ ban hỗn hợp hai bên để giám sát và kiểm soát việc thực hiện những biện pháp này.
2. Khôi phục quan hệ bình thường giữa hai nước trên cơ sở những nguyên tắc cùng tồn tại hoà bình.
3. Giải quyết các vấn đề và biên giới, lãnh thổ trên nguyên tắc tôn trọng nguyên trạng đường biên giới do lịch sử để lại mà Trung ương hai bên đã thoả thuận.
Đây là những đề nghị nhằm giải quyết những vấn đề cấp bách trước mắt do cuộc chiến tranh tháng 2/1979 gây ra, ngăn ngừa chiến tranh trở lại; vừa nhằm giải quyết những vấn đề cơ bản lâu dài trong quan hệ hai nước, thể hiện lòng mong muốn sớm khôi phục tình hữu nghị lâu đời giữa nhân dân hai nước và mối quan hệ bình thường giữa hai nước Việt Nam và Trung Quốc, góp phần giữ gìn hoà bình, ổn định ở Đông Nam á và hoà bình thế giới.
Trong phiên họp thứ nhất của vòng hai tại Bắc Kinh, ngày 28/6/1979, đoàn đại biểu Việt Nam lại đưa ra “Dự thảo thoả thuận” về việc hai bên cam kết không tiến hành các hoạt động thám báo và trinh sát dưới mọi hình thức trên lãnh thổ của nhau; không tiến hành bất cứ hoạt động tiến công, khiêu khích vũ trang nào, không nổ súng từ lãnh thổ bên này sang lãnh thổ bên kia, cả trên bộ, trên không, trên biển; không có bất cứ hành động gì uy hiếp an ninh của nhau
Về vấn đề “chống bá quyền” mà phía Trung Quốc rất quan tâm, đoàn đại biểu Việt Nam đã nêu rõ ràng quan điểm của mình về vấn đề này: Chống bá quyền là:
1. Không bành trướng lãnh thổ dưới bất cứ hình thức nào. Đã chiếm đoạt đất đai của nước nào thì phải chấm dứt ngay tình trạng đó.
2. Không xâm lược, không dùng vũ lực để “trừng phạt” hoặc để “dạy bài học” cho bất cứ một nước nào.
3. Không áp đặt tư tưởng, quan điểm, đường lối của mình cho nước khác. Không dùng bất cứ thủ đoạn nào, kể cả viện trợ kinh tế để ép buộc nước khác phải từ bỏ đường lối độc lập tự chủ, không can thiệp vào quan hệ của một nước với nước khác.
4. Không dùng các tổ chức chống đối do mình nuôi dưỡng, lực lượng kiều dân của mình hoặc bất cứ hình thức nào để can thiệp vào công việc nội bộ của nước khác.
5. Không liên minh với chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động khác chống lại hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủa và chủ nghĩa xã hội.
Những đề nghị của Việt Nam có thể đáp ứng yêu cầu của tình hình sau khi chiến tranh đã xẩy ra và quan hệ bị cắt đứt giữa hai nước. Ngày 26/4/1979, trưởng đoàn đại biểu Chính phủ Trung Quốc Hàn Nhiệm Long đưa ra lập trường 8 điểm sau đây:
1. Hai bên khôi phục quan hệ láng giềng hữu nghị giữa hai nước trên cơ sở năm nguyên tắc tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ củânhu, không xâm phạm lẫn nhau, không can thiệp vào nội trị của nhau, bình đẳng, cùng có lợi và chung sống hoà bình. Hai bên sẽ thông qua đàm phán hoà bình tìm kiếm giải pháp hợp lý về những tranh chấp và vấn đề tồn tại trong quan hệ giữa hai nước.
2. Bất cứ bên nào đều không mưu cầu bá quyền ở Đông Dương, Đông Nam á và khu vực khác, mỗi bên đều phản đối sự cố gắng của bất cứ quốc gia hoặc tập đoàn quốc gia nào khác nhằm thiết lập bá quyền đó.
Bất cứ bên nào không đóng quân ở nước ngoài, quân đội đã đóng ở nước ngoài thì rút về nước mình. Bất cứ bên nào đều không tham gia tập đoàn quân sự nhằm chống lại bên kia, không để căn cứ quân sự của nước ngoài, không sử dụng lãnh thổ và căn cứ quân sự của nước khác đe doạ, lật đổ và vũ trang xâm phạm bên kia hoặc các nước khác.
3. Hai bên tôn trọng đường biên giới hai nước Trung Việt đã được hoạch định qua các điều ước về biên giới ký giữa Trung Quốc và Pháp, và căn cứ theo các điều ước về biên giới ký giữa Trung Quốc và Pháp, đàm phán giải quyết vấn đề tranh chấp về biên giới và lãnh thổ. Trước khi vấn đề biên giới được giải quyết, hai bên đều phải duy trì nghiêm chỉnh hiện trạng biên giới lúc Trung ương hai Đảng Trung Quốc và Việt Nam trao đổi tư từ năm 1957, năm 1958, không được đơn phương cưỡng ép thay đổi phạm vi quản hạt biên giới thực tế với bất cứ cách thức nào và bất cứ cớ nào.
4. Hai bên tôn trọng lẫnnhau chủ quyền lãnh hải rộng 12 hải lý và mỗi bên, và căn cứ theo những nguyên tắc hữu quan của luật biển quốc tế hiện nay, phân chia một cách công bằng và hợp lý vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của hai nước Vịnh Bắc bộ và vùng biển khác.
5. Quần đảo Tây Sa và đảo Nam Xa xưa nay vẫn là một bộ phận lãnh thổ không thể chia cắt được của Trung Quốc. Phía Việt Nam cần trở lại lập trường cũ công nhận sự thật đó… tôn trọng chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo này, và rút hết tất cả nhân viên trên các hòn đảo thuộc quần đảo Nam Sa và phía Việt Nam chiếm đóng.
6. Kiều dân của bất cứ bên nào cư trú ở nước bên kia đều phải tuân thủ luật pháp của nước sở tại, tôn trọng phong tục tập quán của nhân dân địa phương, đóng góp vào công cuộc xây dựng kinh tế và văn hoá của nước sở tại: Chính phủ nước sở tại phải bảo đảm những quyền lợi và lợi ích chính đáng về các mặt như cư trú, đi lại, nghề nghiệp, làm ăn sinh sống v.v… và an toàn con người cũng như tài sản hợp pháp của họ trên đất nước sở tại.
Bất cứ bên nào đều phải đối xử tử tế đối với kiều dân của bên kia cư trú ở nước mình, không được khủng bố và xua đuổi trái phép ra nước ngoài.
7. Để thoả mãn yêu cầu chính đáng của công dân Việt Nam đã bị nhà cầm quyền Việt Nam cưỡng ép xua đuổi sang Trung Quốc trở lại quê hương, Chính phủ Việt Nam cần sớm đón họ về Việt Nam và có sự thu xếp thoả đáng; Chính phủ Trung Quốc sẵn sàng tạo mọi điều kiện để họ sớm về nước.
8. Về việc khôi phục quan hệ giữa hai nước về các mặt như vận tải đường sắt, thương mại, hàng không, bưu điện v.v… sẽ bàn bạc giải quyết giữa các ngành hữu quan của hai nước.
Phía Trung Quốc đưa ra lập trường 8 điểm trong lúc họ thường xuyên duy trì năm quân đoàn ở vùng biên giới Trung Việt, dùng 15 sư đoàn áp sát biêngiới, tiếp tục gây tình hình không ổn định trong vùng biên giới Việt Nam bằng pháo kích, khiêu khích vũ trang. Họ lại đòi hỏi Việt Nam từ bỏ chủ quyền của mình đối với quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, thay đổi đường lối đối ngoại của mình.
Vòng 1 tại Hà Nội và vòng 2 tại Bắc Kinh không đạt kết quả gì là điều dễ hiểu, thoả thuận duy nhất đạt được là việc trao đổi những người của hai bên bị bắt. Phía Trung Quốc đơn phương đình chỉ vòng 3 không chịu họp lại.
Dư luận quốc tế cho rằng phía Trung Quốc không chịu bàn các vấn đề nhằm ổn định vùng biên giới, ngăn ngừa chiến tranh trở lại, là nhằm làm cho Việt Nam chảy máu thêm trong lúc Việt Nam đang đứng trước nhiều khó khăn do cuộc khủng hoảng kinh tế và xã hội và tình thế bị cô lập trên quốc tế gây ra. Trung Quốc còn muốn dùng vấn đề Campuchia để tập hợp lực lượng, hạn chế ảnh hưởng của Liên Xô ở Đông Nam á. Đó là lý do vì sao vấn đề bình thường hoá quan hệ Việt – Trung bị gắn liền với việc giải quyết vấn đề Campuchia.
Các nước ASEAN thấy quân Việt Nam vào Campuchia thì lo ngại Thái Lan bị đánh, nhất là khi Thái Lan ủng hộ phái Khơ me đỏ chống nước Cộng hoà nhân dân Campuchia. Họ tán thành để cho Khơ me đỏ chiếc ghế của Campuchia ở Liên hợp quốc. Tuy vậy họ cũng không tin rằng nguy cơ đối với các nước ASEAN là từ Việt Nam tới và về lâu dài họ mong muốn vấn đề Campuchia được giải quyết và có quan hệ hữu nghị và hợp tác với Việt Nam, cùng tồn tại hoà bình và các nước Đông Dương đó là điều kiện thuận lợi để duy trì đối thoại giữa hai nhóm nước Đông Dương và ASEAN. Hội nghị lần thứ nhất ngày 5/1/1980 nêu rõ ý định của ba nước Đông Dương sẵn sàng đàm phán và ký các hiệp định song phương về không xâm lược các nước Đông Nam á khác và bàn vấn đề xây dựng khu vực Đông Nam á hoà bình, độc lập, tự do, trung lập, ổn định, và ngày 18/7/1980 lại đề nghị lập một khu phi quân sự giữa Campuchia và Thái Lan có giám sát quốc tế.
Liên tiếp tại các hội nghị ngày 27/1/1981 và 13/6/1981 ba ngoại trưởng đã đề nghị.
- Họp hội nghị khu vực giữa hai nhóm nước nhằm bàn các vấn đề có liên quan đến hoà bình, ổn định và hợp tác ở Đông Nam á, sau khi đạt thoả thuận một hội nghị tay đôi giữa từng nước Đông Dương với Trung Quốc về cùng tồn tại hoà bình.
- Việt Nam sẽ rút mộ phần quân khỏi Campuchia nếu Thái Lan không cho phép Khơ me đỏ và phản động Khơ me khác dùng lãnh thổ Thái Lan làm căn cứ chống Campuchia, chấm dứng việc tiếp tế vũ khí và lương thực cho chúng.
Ngày 24/4/1981 Hội nghị ba ngoại trưởng cử ngoại trưởng Lào Phoune Sipaseuth tiến hành trao đổi ý kiến với các nước ASEAN về việc họp hội nghị khu vực nói trên. Ngày 28/9/1981 tại Liên hợp quốc ngoại trưởng Phoune Sipaseuth, thay mặt ba nước Đông Dương nêu 7 nguyên tắc chi phối quan hệ cùng tồn tại hoà bình giữa hai nhóm nước, hai nhóm nước có thể thảo luận mọi vấn đề cùng quan tâm nhằm xây dựng một khu vực Đông Nam á hoà bình, ổn định, hữu nghị và hợp tác.
Trong hội nghị quốc tế về Campuchia (ICK) do Liên hợp quốc bảo trợ và họp tại Niu Yoóc tháng 7/1981, ý đồ các nước ASEAN là đưa một dự thảo đề án về giải pháp cho vấn đề Campuchia có chiếu cố đến các quan tâm của Việt Nam nhất là về Khơ me đỏ (tước vũ khí mọi nhóm Khơ me kể cả Khơ me đỏ) công nhận chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam và quyền của Việt Nam không bị bên ngoài đe doạ hoặc xâm lược vũ trang, lập uỷ ban quốc tế để xét các chương trình viện trợ tái thiết cho Campuchia, Việt Nam…) nhưng các điều khoản đó đã gạt bỏ sự phản đối của Trung Quốc và thái độ của chính quyền Reâgn không muốn mất lòng Trung Quốc.
Các hội nghị ngoại trưởng ba nước Đông Dương tháng 1 và tháng 7/1982, Hội nghị cấp cao ba nước Đông Dương tháng 2- 1983 đều nêu lòng mong muốn của ba nước có quan hệ hoà bình, hữu nghị, hợp tác với Trung Quốc trong cùng tồn tại hoà bình, nối lại đàm phán Việt – Trung. Ngày 17-7-1982 Việt Nam rút một bộ phận quân khỏi Campuchia và tuyên bố sẽ tiếp tục rút quân như vậy hàng năm.
Trung Quốc không đáp ứng trực tiếp các yêu cầu đó mà nêu vấn đề Campuchia trong vòng I đàm phán Xô - Trung ngày 2-10-1982 trong cái gọi là lập trường 5 điểm: trước hết Việt Nam phải tuyên bố rút vô điều kiện toàn bộ quân ra khỏi Campuchia; Liên Xô phải đôn đốc Việt Nam rút hết quân ra khỏi Campuchia; nếu Việt Nam quyết định rút hết quân khỏi Campuchia thì sau đợt rút quân đầu tiên phía Trung Quốc sẵn sàng đàm phán với Việt Nam về bình thường hoá quan hệ giữa hai nước và đồng hệ thời với việc Việt Nam lần lượt rút quân Trung Quốc sẽ có bước đi thực tế cải thiện quan hệ với Việt Nam.
Ngày 1-3-1983, trong vòng 2 đàm phán Xô -Trung, Trung Quốc lại nêu việc Việt Nam chiếm đóng Campuchia là một trong ba trở ngại cho việc bình thường hoá quan hệ Xô - Trung.
Rõ ràng là ý đồ của Trung Quốc là dùng con bài Việt Nam để cải thiện quan hệ Xô - Trung, dùng Liên Xô ép Việt Nam rút khỏi Campuchia, chưa phải là bàn việc bình thường hoá quan hệ với Việt Nam.
Việt Nam lúc này đẩy mạnh hoạt động đối ngoại. Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch gửi thư cho một số nước giải thích rằng Việt Nam sẽ rút hết quân khỏi Campuchia khi sự đe doạ của Trung Quốc đối với Việt Nam và việc sử dụng lãnh thổ Thái Lan để chống Cộng hoà Nhân dân Campuchia chấm dứt và khi bọn diệt chủng Pôl Pốt bị loại trừ. Ông cũng đề nghị Việt Nam và Trung Quốc đàm phán bí mật trên cơ sở đề nghị của hai bên, thảo luận và giải quyết thật sự các vấn đề thực chất trong quan hệ hai nước. Trung Quốc chỉ trả lời: Việt Nam hãy cam kết rút hết quân không điều kiện và có hành động thực tế.
Trong lời kêu gọi hỗn hợp ngày 21-9, ASEAN kêu gọi thực hiện quyền tự quyết và hoà giải ở Campuchia, các phái Khơ - me kể cả Phnôm Pênh đều tham gia tổng tuyển cử và lập lại chính phủ, Việt Nam rút quân từng bước.
Tháng 1-1984, hội nghị ngoại trưởng ba nước Đông Dương nêu 4 cách đề cập để giải quyết tình hình. Tháng 7- 1984 hội nghị ngoại trưởng ba nước Đông Dương đề nghị hai nhóm nước hội đàm trên cơ sở lời kêu gọi hỗn hợp của ASEAN và đề nghị tháng 1 –1984 của các nước Đông Dương. Đề nghị không được hưởng ứng nhưng các cuộc hội thảo Việt Nam – Inđônêxia, Việt Nam – Malaysia vẫn tiếp tục. Năm 1984 Inđônêxia được cử là đại diện của ASEAN để đối thoại với Việt Nam, cuối năm 1985 hai nước đã thoả thuận lập nhóm làm việc chung để tiến hành việc đó.
Ngày 12-8-1985 hội nghị ngoại trưởng ba nước Đông Dương nêu lập trường 5 điểm làm khung cho một giải pháp chính trị toàn bộ về hoà bình, ổn định ở Đông Nam á và vấn đề Campuchia, Việt Nam sẽ rút hết quân khỏi Campuchia vào năm 1990 hoặc có thể sớm hơn, Cộng hoà Nhân dân Campuchia sẵn sàng nói chuyện với các cá nhân và nhóm Khơ - me đối lập để bàn thực hiẹn hoà hợp dân tộc trên cơ sở loại trừ bọn diệt chủng Pôl Pốt, sẽ tiến hành bầu cử sau khi quân Việt Nam rút hết. Trung Quốc yêu cầu Việt Nam rút ngay quân khỏi Campuchia, không kéo đến 1990, nói chuyện với chính phủ liên hiệp ba phái, chính phủ sẽ do Sihanouk cầm đầu và bao gồm cả chính quyền Heng Xomrin.
Một vấn đề lớn là tháng 7 – 1986, căn cứ tình hình khu vực châu á và Thái Bình Dương và tình hình Việt Nam và Đông Dương, Đảng đã quyết định chuyển sang một giai đoạn đấu tranh mới trong cùng tồn tại hoà bình với Trung Quốc, các nước ASEAN, Mỹ, xây dựng Đông Nam á thành khu vực hoà bình, ổn định, hợp tác, tạo ra được một hoàn cảnh hoà bình ở Đông Nam á để ba nước Đông Dương nhanh chóng phát triển kinh tế, củng cố quốc phòng.
Phần III
Kết luận
Đánh giá kết quả thực hiện kế hoạch năm năm 1976-1980, Đại hội V đã viết:
“Năng lực sản xuất của các ngành kinh tế được tăng cường một bước. Với việc phục hoá, khai hoang và tăng vụ, diện tích gieo trồng tăng thêm gần hai triệu hécta, chúng ta đã cung ứng thêm cho nông nghiệp 18 nghìn máy kéo các loại, đưa tỷ lệ cơ giới hoá làm đất lên 25% diện tích gieo trồng. Sản xuất nông nghiệp có phát triển rõ nhất từ năm 1979 đến nay. Diện tích trồng rừng đạt 580 nghìn héc ta.
“Năng lực sản xuất trong công nghiệp được bổ sung thêm 100 nghìn KW điện, 2 triệu tấn than, 500 nghìn tấn xi măng. Nhiều công trình đang xây dựng sẽ đưa vào sản xuất trong thời kỳ 1981-1985 như các nhà máy xi măng, nhà máy điện, cơ khí động lực, cơ khí đóng và sửa chữa tàu thuyền, các nhà máy đường, nhà máy giấy, nhà máy kéo sợi v.v… Ngành giao thông vận tải đã khôi phục và xây dựng mới gần 1.700 kilômét bến cảng, bổ sung thêm nhiều phương tiện vận tải. Tài sản cố định của Nhà nước năm 1980 tăng 10,2 tỷ đồng so với năm 1976”.
Mặt trận văn hoá cũng đã đạt được nhiều thành tựu.
Hiến pháp nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã được Quốc hội thông qua ngày 16/12/1980 tạo một chỗ dựa quan trọng để nhân dân ta tiếp tục đấu tranh xây dựng và bảo vệ chế độ mới.
Trong những thành tựu rực rỡ của kế hoạch 5 năm 1976-1980, ngoại giao đã có phần đóng góp xứng đáng của mình, trong giai đoạn cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Đại hội lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (15 đến 18/12/1986) đã khẳng định chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam.
Ra sức kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, phấn đấu giữ vững hoà bình ở Đông Dương, góp phần tích cực giữ vững hoà bình ở Đông Nam á và trên thế giới, tăng cường quan hệ đặc biệt giữa ba nước Đông Dương, tăng cường quan hệ hữu nghị hợp tác toàn diện với Liên Xô và các nước trong cộng đồng xã hội chủ nghĩa, tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời tích cực góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội”.
Trên tinh thần đó, Đại hội ủng hộ việc cải thiện quan hệ giữa Liên Xô và Trung Quốc, giữa Lào và Trung Quốc, ủng hộ lập trường của Cộng hoà nhân dân Campuchia muốn đàm phán với các phái đối lập ở Campuchia. Đại hội lại khẳng định chủ trương rút quân Việt Nam khỏi Campuchia và bày tỏ tinh thần sẵn sàng hợp tác với tất cả các bên để đi tới một giải pháp chính trị đúng đắn về Campuchia.
Lờilời mở đầu
Thắng lợi năm 1975 của Việt Nam rất thuận lợi cho phong trào cách mạng thế giới, góp phần tích cực tăng cường các lực lượng xã hội chủ nghĩa, độc lập dân tộc và dân chủ thế giới. Tấm gương thắng lợi của Việt Nam, một nước có nền kinh tế lạc hậu, bằng đường lối độc lập, tự chủ và sáng tạo của mình, đã đánh bại hoàn toàn đế quốc Mỹ và tay sai ở miền Nam, củng cố niềm tin đồng thời giúp kinh nghiệmcho nhân dân các nước hoàn cảnh như nước ta đấu tranh cho nền độc lập hoàn toàn của dân tộc.
Thắng lợi của Việt Nam đã góp phần làm thay đổi so sánh lực lượng có lợi cho các thế lực cách mạng, bất lợi cho các thế lực đế quốc và phản cách mạng, mở ra một thời kỳ mới trong sự phát triển của tình hình thế giới.
Đối với Mỹ thắng lợi của Việt Nam làm đảo lộn chiến lược toàn cầu của họ, đẩy họ đi sâu vào quá trình suy yếu toàn diẹn cho địa vị quốc tế của họ càng thêm giảm sút.
Trong tình hình suy thoái vềkt và thất bại quân sự ở Việt Nam, Mỹ đã phải điều chỉnh chiến lược toàn cầu. Tháng 12/1975 tổng thống G.Ford tuyên bố Honolulu “học thuyết Thái Bình Dương”. Có nhà bình luận coi đó là tuyên bố 1969 của Nixon ở Guam cập nhật hoá. ý đồ của Mỹ trong tuyên bố này là nhằm giữ nguyên trạng chính trị trên thế giới, duy trì địa vị lãnh đạo về kinh tế đối với tư bản, tăng cường lực lượng “răn đe” đi đôi với tăng cường giúp đỡ, sử dụng các chính quyền thân Mỹ, dàn xếp mâu thuẫn với các cường quốc Tây Âu và Nhật Bản, sử dụng thế “cân bằng lực lượng” lợi dụng mâu thuẫn bên ngoài, nhất là lợi dụng sự chia rẽ Xô-Trung, hoà hoãn với hai nước xã hội chủ nghĩa lớn, chia rẽ phong trào giải phóng dân tộc với các xã hội chủ nghĩa. Nét mới trong chiến lược của Mỹ “sau Việt Nam” là : ở thế suy yếu và phải đối phó trong cùng một lúc với nhiều vấn đề trong nước và trên thế giới, Mỹ không thể giữ thái độ đối địch gay gắt mà phải dùng chính sách hoà hoãn với những nước có vai trò và tác động lớn đối với cách mạng trong từng khu vực như Việt Nam ở Đông Nam á, Cuba ở Mỹ la tinh nhằm vừa lôi kéo vừa hạn chế các nước đó hòng giữ nguyên trạng ở các khu vực đó. Đây là điều khác với chiến lược của Mỹ sau khi Mỹ thất bại ở Trung Quốc năm 1949, ở Cuba năm 1959.
Sự điều chỉnh chiến lược của Mỹ “sau Việt Nam” kéo theo sự điều chỉnh chiến lược của các nước lớn khác nói lên tác động to lớn của việc kết thúc chiến tranh ở Việt Nam không những đối với Việt Nam và Mỹ mà đối với cả thế giới. Nhà sử học Mỹ Gabriel Kolko, khi kết luận cuốn “Giải phẫu một cuộc chiến tranh” (Anatomy of a war) đã nói rất đúng.
“Chiến tranh Việt Nam là một sự kiện vĩ đại vượt quá phạm vi một nước và vượt quá cả thời gian và nó phản ánh, dưới hình thức rõ nét nhất, những sôi động và xu hướng cơ bản trong quá trình lịch sử kể từ năm 1946. Đó không phải là ngẫu nhiên mà là kết quả lôgic của lòng tham, sức mạnh và nhược điểm đương thời của Mỹ”.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- khotailieu.com_SLN37387.docx