Đề tài Nguồn vốn kinh doanh của Ngân hàng Thương mại và giải pháp tạo lập vốn kinh doanh của Ngân hàng thương mại ở Việt Nam

Trên thực tế, hoạt động kinh doanh của các NHTM Việt Nam thời gian qua đã có những thành công nhất định, rất đáng ghi nhận. Các NHTM Việt Nam đã từng bước tiếp cận, làm quen với cơ chế kinh doanh Ngân hàng theo cơ chế thị trường định hướng XHCN. Về quan niệm, nhận thức, tổ chức và hoạt động kinh doanh đã được xác lập; tự chịu trách nhiệm trong kinh doanh, tự chủ về tài chính. Do đó đã lấy việc huy động vốn trong dân cư để cho vay nền kinh tế làm nghiệp vụ chính trong kinh doanh. Chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lí của Nhà nước, còn nằm trong sự nghèo nàn , chưa phát triển nên hầu hết các NHTM nước ta đều có nguồn vốn kinh doanh thấp, quy mô nhỏ. Nhưng với sự đổi mới và mở rộng quan hệ cùng với các giải pháp đề ra như trên, tôi hy vọng các NHTM VN nhất định sẽ vượt qua những khó khăn để có được Ngân hàng lớn về vốn, không ngừng phát triển bền vững.

doc39 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1567 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nguồn vốn kinh doanh của Ngân hàng Thương mại và giải pháp tạo lập vốn kinh doanh của Ngân hàng thương mại ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
luỹ lại nhằm bù đắp những tổn thất xảy ra.Quỹ bảo toàn vốn nhằm bù đắp hao mòn của vốn dưới tác động của lạm phát .Quỹ thặng dư là phần đánh giá lại tài sản của Ngân hàngvà chênh lệch giữa thị giá vàmệnh giá cổ phiếu khi phát hành cổ phiếu mới.Tuỳ theo quy định cụ thể của mỗi nước,các Ngân hàng còn có quỹ phúc lợi,quỹ khen thưởng quỹ giám đốc… Các quỹ Ngân hàng thuộc sở hữu của chủ Ngân hàng .Nguồn hình thành các quỹ này là từ thu nhập của Ngân hàng. Tuy nhiên khả năng sử dụng các quỹ này vào hoạt động kinh doanh tuỳ thuộc vào mục đích sử dụng quỹ. 2.1.1.4. Nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành cổ phần. Các khoản vay trung và dài hạn của Ngân hàng thương mại mà có khả năng chuyển đổi thành vốn cổ phần có thể được coi là một bộ phận vốn sở hữu (vốn bổ sung) do nguồn này có một số đặc điểm như : sử dụng lâu dài, có thể đầu tư vào nhà cửa, đất đai và có thể không phải hoàn trả khi đến hạn . 2.1.2. Nguồn tiền gửi. Tiền gửi của khách hàng là nguồn tài nguyên quan trọng nhất của Ngân hàng thương mại. Khi một Ngân hàng bắt đầu hoạt động, nghiệp vụ Ngân hàng đầu tiên là mở các tài khoản tiền gửi để giữ hộ và thanh toán hộ cho khách hàng, bằng cách đó ngân hàng huy động tiền của các doanh nghiệp, các tổ chức dân cư . 2.1.2.1. Tiền gửi thanh toán . đây là tiền của doanh nghiệp hoặc cá nhân gửi vào Ngân hàng để nhờ Ngân hàng giữ và thanh toán hộ. Trong phạm vi số dư cho phép,các nhu cầu chi trả của doanh nghiệp và cá nhân đều được Ngân hàng thực hiện. Các khoản thu bằng tiền của doanh nghiệp và cá nhân đều có thể được nhập vào tiền gửi thanh toán theo yêu cầu. Nhìn chung , lãi suất của khoản tiền này tất thấp (hoặch bằng không), thay vào đó chủ tài khoản có thể được hưởng các dịch vụ Ngân hàng với mức chi phí thấp . 2.1.2.2. Tiền gửi có kì hạn của doanh nghiệp, các tổ chức xã hội . Nhiều khoản thu bằng tiền của doanh nghiệp và các tổ chức xã hốiễ được chi trả sau một thời gian xác định. Tiền gửi thanh toán tuy rât thuận tiện cho hoạt động thanh toán, song lãi suất lại thấp. Để đáp ứng nhu cầu tăng thu nhập của người gửi tiền, Ngân hàng đã đưa ra hình thức tiền gửi có kì hạn, người gửi không được sử dụng các hình thức thanh toán đối với tiền gửi thanh toán để áp dụng đối với loại tiền gửi này. Nếu cần chi tiêu, người gửi phải đến Ngân hàng để rút tiền ra. Tuy không thuận lợi cho tiêu dùng bằng hình thức tiền gửi thanh toán, song tiền gửi có kì hạn được hưởng lãi suất cao hơn tuỳ theo độ dài của kì hạn. 2.1.2.3. Tiền gửi tiết kiệm của dân cư. Các tầng lớp dân cư đều có các khoản thu nhập tạm thời chưa sử dụng (các khoản tiết kiệm) . Trong điều kiện có khả năng tiếp cận với Ngân hàng, họ đều có thể gửi tiết kiệm nhằm thực hiện các mục tiêu bảo toàn và sinh lời đối với các khoản tiết kiệm đặc biệt là nhu cầu bảo toàn. 2.1.2.4. Tiền gửi của các Ngân hàng khác. Nhằm mục đích nhờ thanh toán hộ và một số mục đích khác, Ngân hàng thương mại này có thể gửi tiền tại Ngân hàng khác. Tuy nhiên, quy mô nguồn này thường không lớn. 2.1.3. Nguồn đi vay. Tiền gửi là nguồn quan trọng nhất của Ngân hàng thương mại . Tuy nhiên, khi cần Ngân hàng thường vay mượn thêm. Tại nhiều nước, Ngân hàng TƯ thường quy định tỷ lệ giữa nguồn tiền huy động và vốn của chủ. Do vậy nhiều Ngân hàng vào những giai đoạn cụ thể phải vay mượn thêm để đáp ứng nhu cầu chi trả khi khả năng huy động bị hạn chế. 2.1.3.1. Vay Ngân hàng nhà nước Đây là khoản vay nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách trong chi trả của Ngân hàng thương mại . Trong trường hợp thiếu hụt dự trữ ( thiếu dự trữ bắt buộc, dự trữ thanh toán) Ngân hàng thường vay Ngân hàng Nhà nước. Hình thức cho vay chủ yếu của Ngân hàng Nhà nước là tái chiết khấu (hoặc tái cấp vốn) . Các thương phiếu đã được các Ngân hàng thương mại chiết khấu ( hoặc tái chiết khấu) trở thành tài sản của họ. Khi cần tiền, Ngân hàng mang nhữnh thương phiếu này lên tái chiết khấu tại Ngân hàng Nhà nước. Nghiệp vụ này làm thương phiếu của Ngân hàng thương mại giảm đi và dự trữ (tiền mặt hoặc tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước) tăng lên. Ngân hàng Nhà nước điều hành vay mượn này một cách chặt chẽ, Ngân hàng Thương mại phải thực hiện các điều kiện đảm bảo và kiểm soát nhất định. Thông thường Ngân hàng Nhà nước đáo hạn ngắn, khả năng trả nợ cao và phù hợp với mục tiêu của Ngân hàng Nhà nước trong từng thời kì. Trong điều kiện chưa có thương phiếu, Ngân hàng Nhà nước cho Ngân hàng thương mại vay dưới hình thức tái cấp vốn theo hạn mức tín dụng nhất định. 2.1.3.2. Vay các tổ chức tín dụng khác. Đây là nguồn các Ngân hàng thương mại vay mượn lẫn nhau và vay của các tổ chức tín dụng khác trên thị trường liên Ngân hàng. Các Ngân hàng đang có dự chữ vượt yêu cầu có kết dư gia tăng bất ngờ về các khoản tiền huy động hoặc giảm cho vay sẽ có thể sẵn lòng cho các Ngân hàng khác vay để tìm kiếm lãi suất cao hơn. Ngược lại các Ngân hàng đang thiếu hụt dự trữ có nhu cầu vay mượn tức thời để đảm bảo thanh khoản. Như vậy nguồn vay mượn từ các Ngân hàng khác là để đáp ứng nhu cầu dự trữ và chi trả cấp bách trong nhiều trường hợp nó bổ sung hoặc thay thế cho nguồn vay mượn từ Ngân hàng Nhà nước. Quá trình vay mượn rất đơn giản. Ngân hàng vay chỉ cần luiên hệ trực tiếp với Ngân hàng cho vay hoặc thông qua Ngân hàng đại lý. Khoản vay có thể không cần đảm bảo, hoặc được đảm bảo bằng các chứng khoán của kho bạc. Kết quả là dự trữ của Ngân hàng cho vay giảm đi và của Ngân hàng đi vay tăng lên. 2.1.3.3. Vay trên thị trường vốn. Giống như các doanh nghiệp khác, các Ngân hàng cũng vay mượn bằng cách phát hành các giấy nợ (kì phiếu, tín phiếu, trái phiếu) trên thị trường vốn. Rất nhiều Ngân hàng Thương mại thiếu nguồn tiền gửi trung hạn và dài hạn dẫn đến không đáp ứng được nhu cầu cho vay trung và dài hạn. Do vậy, các khoản vay trung và dài hạn nhằm bổ sung cho các nguồn tiền gửi đáp ứng nhu cầu cho vay và đầu tư trung và dài hạn. Thông thường đây là khoản vay không có đảm bảo. Những Ngân hàng có uy tín hoặc trả lãi suất cao sẽ vay mượn được nhiều hơn. Những Ngân hàng nhỏ thường khó vay mượn trực tiếp bằng cách này. Họ thường phải vay thông qua các Ngân hàng đại lý hoặc được bảo lãnh của Ngân hàng Đầu tư. Khả năng vay mượn còn phụ thuộc vào trình độ phát triển của thị trường tài chính, tạo khả năng chuyển đổi cho các công cụ nợ dài hạn của Ngân hàng. Nghiệp vụ vay mượn tương đối phức tạp. Ngân hàng cần nghiên cứu kĩ thị trường để quyết định quy mô mệnh giá, lãi suất và thời hạn vay mượn thích hợp. Các vấn đề chuyển nhượng, điều chỉnh lãi suất, bảo quản hộ….cũng được các Ngân hàng quan tâm. 2.1.4. Nguồn uỷ thác. Ngân hàng Thương mại thực hiện các dịc vụ uỷ thác như: uỷ thác cho vay, uỷ thác đầu tư, uỷ thác cấp phát, uỷ thác giải ngân và thu hộ…Các hoạt động này tạo nên nguồn thác tại Ngân hàng. Ví dụ: Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn cho vay uỷ thác hộ cho Nhà nước đối với một số dự án trồng rừng với nguồn ngân sách hoặc nguồn ODA, theo hợp đồng giữa các bên, các nguồn vốn trên được chuyển tải đến địa điểm đã được xác định trước. Cùng với sự phát triển các mối quan hệ đa phương, rất nhiều các tổ chức kinh tế, xã hội có cùng mục tiêu phát triển như của Ngân hàng, có nguồn tài chính, đã sử dụng mạng lưới Ngân hàng như các kênh dẫn vốn tới các mục tiêu. Kết quả là hình thành nguồn uỷ thác, làm gia tăng nguồn vốn của Ngân hàng. 2.1.5. Nguồn trong thanh toán. Các hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt có thể hình thành nguồn trong thanh toán(séc trong quá trình chi trả, tiền kí quỹ để mở L/C). Những Ngân hàng là những Ngân hàng đầu mối trong đồng tài trợ có kết số dư từ tiền của các Ngân hàng thành viên chuyển về để thực hiện cho vay. 2.1.6. Nguồn khác. Các khoản nợ khác như: Thuế trưa nộp, lương chưa trả… Nguồn vốn của Ngân hàng Thương mại đơn vị: tỷ VNĐ Khoản mục Số dư (31-12-x) Tiền gửi của doanh nghiệp và cá nhân. Tiền gửi của doanh nghiệp. Tiền gửi tiết kiệm của cá nhân. Tiền gửi của các tổ chức tài chính. Phát hành kì phiếu, trái phiếu. Vay Ngân hàng Nhà nước và các tổ chức tín dụng khác. Các khoản phải trả khác. Nguồn khác. Vốn chủ sở hữu. Vốn điều lệ. Các quỹ và lãi chưa phân phối. 50946. 15521. 35425. 7270. 3,8. 4335. 791. 1100. 1814. 1150. 664. Tổng nguồn 66259,8 2.2. Thực trạng nguồn vốn kinh doanh của Ngân hàng Thương mại Việt Nam. Rất nhiều Ngân hàng được thành lập vào cuối những năm 80 và đầu những năm 90. Đây là giai đoạn chuyển đổi cơ chế tại Việt Nam. Do thị trường tài chính chưa phát triển, dân chúng chưa quen với cổ phần và hơn nữa thu nhập của đại bộ phận đân cư còn thấp, thu ngân sách nhỏ nên phần lớn các Ngân hàng được thành lập với mức vốn thấp (các Ngân hàng Thương mại quốc doanh được cấp 200 tỷ VNĐ, các Ngân hàng cổ phần từ 5-50 tỷ). Vốn thấp đang hạn chế các Ngân hàng Việt Nam tiếp cận với các khách hàng có nhu cầu vay lớn. Vốn thấp cũng gây gánh nặng tài chính to lớn cho quốc gia khi các Ngân hàng bị phá sản. Vốn thấp hạn chế các Ngân hàng mở rộng các dịch vụ và quy mô hoạt động. Sự phát triển của thị trường tài chính, nhu cầu mở rộng chi nhánh, thành lập các công ty con, và đối đầu vối rủi ro, đang buộc các Ngân hàng phải tăng vốn. Đây là quá trình tự tích luỹ hoặch phát hành cổ phiếu mới. Các Ngân hàng Thương mại Nhà nước có số vốn từ khoảng 1400 đến 1800 tỷ VNĐ năm 2001, nhiều Ngân hàng cổ phần tăng vốn lên 70-100 tỷ. Đây là xu hướng quan trọng nhằm tăng khả năng cạnh tranh của các Ngân hàng trong nước với các chi nhánh nước ngoài. Các nguồn trung và dài hạn, các tài sản trung và dài hạn đang ngày càng gia tăng. Đầu những năm 90 phần lớn tiền gửi ngắn hạn (tỷ trọng tiền gửi loại kì hạn 6 tháng là lớn nhất), gần 90% là cho vay ngắn hạn (trừ Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam có tỷ lệ này trên 50%). Đầu thế kỷ 21, tiền gửi trung và dài hạn đã gia tăng (kỳ hạn chủ yếu của tiền gửi tiết kiệm là 12 tháng, trái phiếu 2- 3.5) ; tỷ lệ cho vay trung và dài hạn tại nhiều Ngân hàng đạt tới 25- 40%. 2.2.1. Thực trạng về tỷ lệ an toàn vốn của Ngân hàng Thương mại Việt Nam. Triển khai luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) và luật các tổ chức tín dụng, ngày 25/8/99 Thống đốc NHNN đã kí quyết định 297/1999/QĐ-NHNN5 về việc ban hành "Qui định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng". Tại khoản 1, Điều 6, Mục III, quy định:"Tổ chức tín dụng phải duy trì tỷ lệ tối thiểu 8% giữa vốn tự có so vối tài sản "Có", kể cả các cam kết ngoại bảng, được điều chỉnh theo mức độ rủi ro". Tại Thời điểm quyết định có hiệu lực , tất cả các Ngân hàng Thương mại Nhà nước (NHTMNN) đều không bảo đảm được tỷ lệ an toàn tối thiểu như quy định và ở mức rất thấp, chỉ vào khoảng 3%; riêng NHNNo trên 4%. Lúc đó, các NHTMNN và ngay cả NHNN còn chưa vội quan tâm lo lắng vì tại Khoản 2, Điều 6, Mục III cũng quy định: "Tại thời điểm quyết định này có hiệu lực thi hành , tổ chức tín dụng có mức tỷ lệ an toàn tối thiểu thấp hơn mức quy định tại khoản 1 điều này, trong thời gian 3 năm kể từ ngày Quyết định này có hiệu lực thi hành phải tăng tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu bằng mức tỷ lệ quy định. Mức tăng tỷ lệ hàng năm tối thiểu bằng 1/3 số tỷ lệ còn thiếu". Như vậy , tại thời điểm Quyết định 297 có hiệu lực, tuy tỷ lệ an toàn vốn của mỗi NHTMNN có khác nhau nhưng đều còn thiếu và phải tăng tỷ lệ này hàng năm thêm khoảng 1.2-1.7%. Trên thực tế, tỷ lệ an toàn vốn của các NHTMNN sau một năm không những không tăng mà còn giảm. Điều này là hiển nhiên và nếu không có những bước đột phá thì tỷ lệ an toàn vốn của các NHTMNN vẫn tiếp tục suy giảm. Điều này quá rõ ràng khi các NHTMNN luôn phải tăng tài sản "có" rủi ro (chủ yếu là dư nợ cho vay nền kinh tế) nhưng vốn tự có hầu như tăng không đáng kể. 2.2.2. Thực trạng về vốn điều lệ của Ngân hàng Thương mại trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam. Theo lời tiên đoán bất hủ của V.Lênin "Không có Ngân hàng lớn không thể xây dựng được CNXH". Ta đang trên con đường đi lên CNXH vậy mà thực trạng hiện nay ở Việt Nam vốn tự có của hệ thống Ngân hàng Thương mại quá nhỏ bé. Nhiều NHTM vốn tự có chỉ nằm ở mức tương đương 70 ngàn USD NHƯ Các Ngân hàng cổ phần nông thôn (một con số không đáng gọi là Ngân hàng). Đặc biệt, các NHTMNN ở Việt Nam có số vốn tự có quá khiêm tốn (NHTMNN lớn nhất như Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn đang cung ứng vốn cho hơn 50 triệu nông dân cũng chỉ có số vốn không quá 200 triệu USD -chỉ số vốn tự có của một trong hàng chục nhà máy xi măng ở nước ta hiện nay. Đây thực sự là một nghịch lý khi ta thường nói kinh tế Nhà nước nắm vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. 2.2.3. Hiệp định Thương mại Việt -Mĩ được kí 7/2000 mở ra nhiều cơ hội và thách thức mới cho các NHTM Việt Nam. Từ tháng 8/2000, NHNN đã chuyển sang cơ chế điều hành lãi suất cơ bản đối với cho vay bằng đồng Việt Nam, lãi suất nội tệ xích gần với lãi suất ngoại tệ và lãi suất quốc tế. Thị trường tiền tệ thế giới biến động mạnh trong năm 2000, đồng đô la Mỹ lên giá mạnh so với hầu hết các ngoại tệ, lãi suất trên các thị trường tài chính lớn của thế giới đều tăng, cung cầu ngoại tệ trong nước tiếp tục mất cân đối theo chiều cung nhỏ hơn cầu. Trong năm 2000, các nhiệm vụ trọng tâm của ngành Ngân hàng được thực hiện một cách cơ bản có nhiều chuyển biến tích cực: Tổng phương tiện thanh toán tăng 26.5%, huy động vốn tăng 29%, dư nợ cho vay nền kinh tế tăng 25%. Tuy nhiên, việc huy động vốn và cho vay của hệ thống Ngân hàng còn một số hạn chế: tỷ lệ vốn huy dộng dài hạn có tăng song vẫn chiếm tỉ trọng thấp trong tổng nguồn vốn huy động, chất lượng kế hoạch hoá nguồn vốn chưa cao; chất lượng tín dụng vẫn chưa có sự cải thiện đáng kể. Ngân hàng Đầu tư và Phát triểnViệt Nam giữ vững nhịp độ tăng trưởng, vinh dự được nhận danh hiêu đơn vị anh hùng lao động trong thời kì đổi mới. Tổng tài sản tăng 21%; nguồn vốn huy động tăng 35%; tổng dư vợ tăng 35%; lợi nhuận tăng 20%…Hầu hết các chỉ tiêu đều hoàn thành hoặc vượt mức kế hoạch đề ra. Ngân hàng Đầu tư đã tích cực đổi mới, mở rộng, nâng cao sức cạnh tranh trong các hoạt động dịch vụ. Ngân hàng Công thương Việt Nam đã vững bước vượt qua khó khăn, chấn chỉnh lại hoạt động, xúc tiến nhanh tiến độ thực hiện Dề án cơ cấu lại nợ, giải quyết những tồn tại cũ. Tổng vốn huy độnh tăng 30%, tổng dư nợ tăng 26.4%, dư nợ cho vay trung và dài hạn tăng 60% và chiếm tỉ trọng 25% tổng dư nợ. Công tác kinh doanh ngoại tệ và thanh toán quốc tế phát triển mạnh, dặc biệt là doanh số thanh toán quốc tế tăng 50%. Lợi nhuận vượt trên 10% kế hoạch Nhà nước giao. Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam có tổng tài sản tăng43% so với cùng kì năm1999, đứng đầu về tổng tài sản trong các Ngân hàng ở Việt Nam. Nguồn vốn tăng hơn 35%, dư nợ tín dụng tăng 25%…Ngân hàng Ngoại thương đã xây dựng nhiều giải pháp công nghệ hiện đại, ngang tầm với các Ngân hàng trong khu vực và trên thế giới, đã hoàn tất việc xây dựng chiến lược kinh doanh từ năm 2001-2005. Một số Ngân hàng cổ phần đã được củng cố, sắp xếp lại bằng các biện pháp như: sáp nhập, hợp nhất, mua lại, thay đổi nhân sự, tăng vốn điều lệ…Các Ngân hàng được củng cố sắp xếp lại đã có sự chuyển biến theo hướng tích cực. 2.2.4. Thực trạng nguồn vốn huy động của các NHTM tại các tỉnh phía Nam năm 2002. Đến cuối năm 2002 tổng nguồn vốn huy động của các Ngân hàng tại 30 tỉnh thành phố phía Nam đạt 140 040 tỷ đồng, tăng 28.6% so với đầu năm. Các tỉnh có nguồn vốn huy động tại chỗ tăng cao như: Bình Dương (tăng 60.1%), Bình Phước (tăng 47.2%), Bạc Liêu (tăng 47.9%), Long An (tăng 40.4%), Sóc Trăng ( tăng 39.3%), Trà Vinh (tăng 38.8%), Tây Ninh (tăng 37.8%), Ninh Thuận (tăng34.8%), Đồng Tháp (tăng 32.9%). Riêng thành phố Hồ Chí Minh do tích cực đưa ra nhưỡng hoạt động dịch vụ theo hướng hiện đại hoá công nghệ Ngân hàng , áp dụng các mức lãi suất linh hoạt, hấp dẫn phù hơp với nhiều hìng thức và các kì hạn khác nhau nên nguồn vốn huy động đạt 89 670 tỷ đồng, tăng 36.5% so với đầu năm, chiếm 64% tổng nguồn vốn huy động của 30 tỉnh phía Nam. Đến cuối năm 2002, tổng dư nợ cho vay đối với nền kinh tế tại các tỉnh phía Nam đạt 162 700 tỷ đồng, tăng 25% so với đầu năm. Trong đó dư nợ cho vay trung và dài hạn chiếm tỉ trọng 41% , tăng 30.8% so với đầu năm, chưng tỏ các Ngân hàng đều quan tâm chú ý, mạnh dạn đầu tư đối với các dự án trung dài hạn. Dư nợ cho vay tại các tỉnh thuộc các tỉnh Nam Trung Bộ tăng 24.7% so với đầu năm. Bên cạnh việc cho vay phục vụ phát triển nông nghiệp nông thôn, khuyến khích phát triển kinh tế vườn, phát triển nghề nuôi tôm sú trên cát (còn gọi là nuôi tôm cao triều), một số tỉnh còn chú ý cho vay nuôi trồng khai thác thuỷ sản, cho vay khai hoang ruộng bậc thang , xây dựng hệ thống thuỷ lợi để tăng diện tích canh tác cây lúa nước cho đồng bào thiểu số và các xã vùng cao. Dư nợ cho vay tại các tỉng Đông Nam bộ tăng 25.5% so với đầu năm. Đối tượng cho vay của khu vực này được tập trung vào các lĩnh vực: sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, du lịch, dịch vụ, chế biến, cho vay khuyến khích phát triển kinh tế trang trại. Riêngtrên địa bàn TP. Hồ Chí Minh, do các Ngân hàng thực hiện nhiều biện pháp nhằm mở rộng mạng lưới hoạt động nên dư nợ cho vay đạt 70 150 tỷ đồng, tăng 24.3% so với đầu năm, chiếm tỉ trọng 43.1% dư nợ cho vay toàn phía Nam, góp phần thúc đẩy lĩnh vực công nghiệp, thương mại, dịch vụ của thành phố có những chuyển biến tích cực, đạt tốc độ tăng trưởng cao: thúc đẩy chuyển dịch và phát triển kinh tế khu vực nông nghiệp nông thôn theo hướng hiện đại hoá. Nhiều Ngân hàng tích cực tham gia cho vay đối với chương trình tín dụng kích cầu đầu tư của thành phố với tổng dư nợ 549 tỷ đồng; cho vay KCL-KCX với tổng dư nợ 4 872 tỷ đồng. Một số Ngân hàng xác địng mục tiêu đầu tư vào các lĩnh vực kinh tế trọng điểm, cho vay lớn đối với các dự án có tính khả thi cao, nhất là các dự án vừa và nhỏ, tham gia thực hiện chương trình tín dụng di dời các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm môi trường ra các khu công nghiệp tập trung. Để tiến tới hội nhập , nhiều Ngân hàng trên địa bàn đồng loạt đưa ra những hoạt động dịch vụ Ngân hàng theo hướng hiện đại hoá công nghệ Ngân hàng như: chuyển tiền điện tử, thanh toán liên Ngân hàng qua mạng, dịch vụ cung cấp thông tin tín dụng qua mạng …Tại khu vực đồng bằng Sông Cửu Long, dư vợ cho vay tăng 28.2% so với đầu năm. Đối tượng cho vay khu vực này chủ yếu phục vụ sản xuất và thu hoạch lúa Đông-Xuân, lúa Hè Thu. Ngoài ra một số tỉnh còn chú ý cho vay thực hiện dự án chuyển đổi cơ cấu sản xuất ngư-nông -lâm nghiệp; chuyển đổi cơ cấu cây trồng; cho vay cải tạo vườn cây ăn trái…Tại khu vực Tây Nguyên, dư nợ cho vay tăng 11.8% so với đầu năm, cho vay chi phí trồng trọt, chăm sóc các loại cây nông sản. 2.2.5. Thực trạng về nguồn vốn của các NHTM năm 2002 và dự báo năm 2003. Nhìn lại năm 2002 chúng ta thấy, nền kinh tế tăng trưởng 7.0%, lạm phát ( chỉ số tăng giá hàng tiêu dùng) 4.0%, đồng tiền Việt Nam ổn định , tỷ giá chỉ tăng có 2.0%,thấp nhất trong nhiều năm qua. Hệ thống Ngân hàng Thương mại tiếp tục được cơ cấu lại nâng cao sức mạnh cạnh tranh và hội nhập về mọi mặt, không có Ngân hàng nào bị đổ vỡ. Hầu hết các tổ chức tín dụng kimh doanh có lãi trong môi trường cạnh tranh ngày càng sôi động. Do đó có thể khẳng địng, năm 2002 đã có những thành công quan trọng về điều hành chíng sách tiền tệ của NHNN và sự phát triển đi lên vững chắc của hệ thống NHTT Việt Nam. Phân tích về các chỉ tiêu cụ thể hoạt dộng của hệ thống Ngân hàng trong năm 2002 chúng ta thấy bức tranh khái quát như sau: Tại Hà nội , nơi tập trung đầu mối của hầu hết các NHTM NN và nhiều NHTM CP, thị trường huy động vốn lớn nhất, thường xuyên chiếm 40% thị phần hoạt động Ngân hàng trong toàn quốc, ước tính đến hết tháng 12-2002 tổng nguồn vốn huy động đạt 122 700 tỷ đồng, tăng 25% so vơi 31-12-2001; trong đó vốn huy động nội tệ đạt 68 830 tỷ đồng , tăng 25.5%. Dư nợ cho vay của các tổ chức tín dụng ước tính đến năm 2002 đạt 57 850 tỷ đồng, tăng 26.1% so với năm trước. Tại TP. Hồ Chí Minh, Trung tâm tài chính- tiền tế sôi động nhất và lớn nhất cả nước , ước tính đến năm2002 tổng nguồn vố huy động của hệ thống Ngân hàng trên địa bàn đạt 89 673 tỷ đồng, tăng tới 6.4% so với năm 2001, trong đó vốn huy động nội tệ đạt 53 804 tỷ đồng, tăng 41.7% so với năm trước. Cũng ước tính đến hết năm 2002, tổng dư nợ cho vay đạt 70 150 tỷ đồng, tăng 24.8% so với năm trước. Tính chung trong toàn quốc, theo tài liệu công bố của Trung tâm thông tin thư viện và nghiên cứu khoa học của Văn phòng Quốc hội, tính đến hết tháng 10-2002 tổng nguồn vốn huy động của toàn ngành Ngân hàng đạt 283 000 tỷ đồng, tăng 44 300 tỷ đồng, hay tăng 18.5% so với cuối năm 2001, ước tính đến hết tháng 12-2002 tăng 23% đạt mức kế hoạch đề ra; Dư nợ cho vay nền kinh tế đạt 269 000 tỷ đồng, hay tăng 23% so với năm 2001, trong đó dư nợ cho vay trung dài hạn là 107 600 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 40% và tăng tới 26% so với 31-12-2002, tổnh dư nợ cho vay của hệ thống Ngân hàng tăng 28% so với năm trước, vượt mức kế hoạch đề ra là 22%. Lần đầu tiên trong nhiều năm qua ndư nợ cho vay tăng cao hơn vốn huy động. Do đó trong năm 2002 thị trường tiền tệ thường xuyên nóng lên, cầu lớn hơn cung về vốn, nên lãi suất có xu hướng tăng cao là tất yếu. Các NHTM NN cũng khẩn trương cơ cấu lại nhiều mặt, trong đó Chính phủ đã Quyết định cấp 4 700 tỷ đồng bổ sung vốn điều lệ cho 5 Ngân hàng . hoạt động tín dụng chính sách được tách bạch ra khỏi hoạt động tín dụng Thương mại . Ngân hàng chính sách xã hội sẽ chính thức đi vào hoạt động từ đầu năm 2003. Các NHTM cổ phần tiếp tục được cơ cấu lại: tăng đủ vốn điều lệ, nâng cao sức mạnh tài chính, sáp nhập hay giải thể Ngân hàng yếu kém… Ngân hàng Thương mại cổ phần Quảng Ninh được bán lại cho NHTM cổ phần nhà Hà Nội. Ngân hàng Thương mại cổ phần Gia Định được sáp nhập với NHTM CP Sài Gòn công thương. NHTM CP Hải Dương đổi tên thành NHTM CP Đông Nam á. NHTM cổ phần thuỷ sản Việt Nam đang khẩn trương được thành lập sẽ chính thức đi vào hoạt động từ đầu năm 2003 trên cơ sở tổ chức lại công ty tài chính cổ phần Seaprodex và vốn góp của một số tổ chức khác. Các Ngân hàng như: Ngân hàng công thương Việt Nam , NHNo và PTNT Việt Nam, ABC, NHTM CP Kỹ thương …tích cực triển khai ứng dụng công nghệ Ngân hàng hiện đại . Trong số các NHTM cổ phần đang còn hoạt động thì chỉ có 36 Ngân hàng tăng được đủ vốn điều lệ theo quy định. Tuy nhiên, số vốn điều lệ của các NHTM cổ phần ở nước ta còn rất nhỏ bé, cao nhất mới chỉ đạt 450 tỷ đồng, tương đương với 30 triệu USD, còn phần lớn có số vốn 70-100 tỷ đồng, hay 4.5-6.5 triệu USD. Trong số 14 NHTM cổ phần nông thôn thì chỉ có 1 Ngân hàng có số vốn trên 10 tỷ đồng, còn đều từ 5-7 tỷ đồng CHƯƠNG 3: NHữNG THUậN LợI, KHó KHĂN Và GIải PHáP ĐƯA RA NHằM TạO LậP VốN KINH DOANH CHO NHTM VIệT NAM. 3.1. Những thuận lợi đối với việc tạo lập vốn kinh doanh cho NHTM Việt Nam. 3.1.1. Công cụ lãi suất và diễn biến của thị trường tiền tệ. Vấn đềnổi bật trong cả năm 2002 là lãi suất diễn biến trái chiều nhau, trong khi lãi suất ngoại tệ giảm xuống thì lãi suất nội tệ tăng lên. Trong 5tháng đầu năm 2002 Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) vẫn tiếp tục thực hiện cơ chế điều hành lãi suất cơ bản Đồng Việt Nam, mức lãi suất cơ bản được công bố trong các tháng này là 0.6%/tháng. Còn lãi suất ngoại tệ đã được tự do hoá từ tháng 6-2001, nên bám sát diễn biến của thị trường quốc tế. Trong giai đoạn này, Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED) vẫn giữ nguyên mức lãi suất USD, ổn định ở mức1.75%/năm từ đầu năm 2001 cho đến đầu tháng 11-2002, từ 6-11-2002 đã cắt giảm xuống còn 1.25%. Do đó lãi suất USD ở nước ta trong suốt 10 tháng đầu năm và ngay cả 2 tháng cuối năm sau khi FED cắt giảm tới 50 điểm lãi suất của mình cũng ổn định và đứng ở mức thấp: 2.0%-2.2%/năm đối với lãi suất huy động vốn và 2.7%-4.0%/năm đối với lãi suất cho vay. Trước yêu cầu khách quan của thực tiễn, từ ngày 1-6-2002, NHNN quyết định chuyển sang cơ chế lãi suất thoả thuận Đồng Việt Nam của các tổ chức tín dụng (TCTD) đối với khách hàng . Theo đó, cácTCTD được chủ động thoả thuận lãi suất đối với khách hàng trên cơ sở cung cầu vốn, lãi suất cơ bản do NHNN công bố chỉ có tính chất tham khảo. Tuy nhiên NHNN vẫn tiếp tục điều hành và thực hiện lãi suất tái chiết khấu và lãi suất tái cấp vốn đối với các TCTD. Trong hai tháng 6và 7-2002, lãi suất cơ bản do NHNN công bố là 0.6%/tháng, từ thang 8 đến tháng 12-2002 là 0.62%/tháng. Tuy nhiên trên thị trường tiền tệ thì lãi suất huy động vốn và lãi suất cho vay của các TCTD liên tục tăng khá, thị trường tiền tệ nóng lên. Nếu như lãi suất huy động vốn cao nhất của cácTCTD trong các tháng đầu năm 2002 chỉ dừng ở mức 0.6%/tháng, lãi suất cho vay bình quân 0.7%/tháng, thì từ tháng 6 và đặc biệt từ tháng 8 và 9-2002 đã tăng cao. Lãi suất huy động vốn cao nhất của nhiều NHTM lên tới 0.7% thậm chí 0.72%/tháng cao nhất trong vòng gần 3 năm qua. Ngay cả Ngân hàng Việt Nam và Ngân hàng công thương việt Nam luôn có thế mạnh về huy động vốn, có lãi suất tiền gửi thấp nhất thường xuyên bán buôn vốn và chi phối trên thị trường tiền tệ, nhưng từ tháng 8 vàtháng 9-2002, tung ra chiến dịch huy động vốn bằng kì phiếu và trái phiếu lên tới 8.2%/năm thậm chí VCB TP. Hồ Chí Minh từ tháng 12-2002 tăng lên tới 8.64%/năm. Tình hình đó đã thực sự cho thấy sự sôi động của thị trường vốn. Lãi suất cho vay của các NHTM cũng tăng lên bình quân tới 0.8-0.85%/tháng, cao nhất tới 1.1%-1.2%/tháng. Nhìn chung đứng trên giác độ lãi suất có thể thấy thị trường vốn ở nước ta trong năm 2002 đã sôi động hẳn lên. Điều này trước hết là do nhu cầu vốn của nền kinh tế tăng lên; tiếp theo là do sự phát triển của thị trường bất động sản; cuối cùng là do nhiều tổ chức phi Ngân hàng tham gia cạnh tranh tích cực trên thị trường vốn, như: hoạt động của Trung tâm giao dịch chứng khoán tại TP. Hồ Chí Minh, các công ty bảo hiểm, quỹ đầu tư, công ty tài chính , công ty dịch vụ tiết kiệm bưu điện …làm cho các NHTM không còn độc quyền trên thị trường vốn như trước đây. 3.1.2. Công cụ tỷ giá và quản lý ngoại hối. Ngân hàng Nhà nước tiếp tục đổi mới mạnh mẽ công cụ điều hành tỷ giá và quản lý ngoại hối. Tỷ giá do Ngân hàng Nhà nước (NHNN) công bố hàng ngày giữ ổn định tương đối, có điều chỉnh tăng nhẹ phù hợp với diễn biến cung cầu ngoại tệ trong nền kinh tế và trên thị trường liên Ngân hàng theo hướng khuyến khích xuất khẩu. Từ ngày 1-7-2002 NHNN quyết định lới rộng biên độ giao dịch trong kinh doanh ngoại tệ của các Tổ chức tín dụng đối với khách hàng. Từ tháng 9-2002, mở rộng đối tượng được làm dịch vụ chi trả kiều hối. Từ tháng 4-2002 điều chỉnh giảm tỷ lệ tiền gửi dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ từ 12% xuống còn 8% và từ tháng 12-2002 tiếp tục giảm xuống còn 5%. Từ tháng 10/2002, trạng thái ngoại hối của các NHTM được quyết định mở rộng , tăng gấp đoi , từ 15% lên 30%. Ngày 4-12-2002, Thốmg đốc NHNN quyết định tăng lãi suất tiền gửi ngoại tệ của các TCTD và Kho bạc nhà nước từ 2,2%/năm, lên 1.35%/năm, cao hơn lãi suất của Cục dự trư liên bang Mỹ, có tác động tích cực về việc tăng lãi suất huy động vốn USD, thu hút ngoại tệ từ xã hội vào hệ thống Ngân hàng. Với các nguyên nhân và biện pháp nói trên nên các luồng ngoại tệ thu hút vào và chuyển qua hệ thống Ngân hàng vẫn tăng khá. 3.1.3. Các công cụ khác của chính sách tài chính tiền tệ . Dự trữ bắt buộc: tỷ lệ dự trữ bắy buộc đối với tiền gửi nội tệ vẫn được giữ nguyên ở mức thấp trong hơn 2 năm vừa qua, 2% đối với NHNo và PTNT Việt Nam và 3% đối với các TCTD đô thị khác. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi ngoại tệ như đã nói ở trên, được điều chỉnh giảm từ 12% xuống còn 8%, thực hiện từ tháng 4-2002; Tiếp đến trước diễn biến FED cắt giảm 0,5%/năm lãi suất chủ đạo đối với USD, như đã nói ngày 18-11-2002, NHNN cũng quyết định giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc tiền gửi USD xuống còn 5%, thực hiện từ tháng 12-2002. Lãi suất tái chiết khấu và lãi suất tái cấp vốn được NHNN áp dụng phù hợp diễn biến trên thị trường tiền tệ, có tác dụng tốt trong điều hoà cung cầu vốn trên thị trường. Nghiệp vụ thị trường mở từ tháng 5-2002 đựơc đưa vào giao dịch hàng tuần, quy mô và doanh số tăng, lãi suất cũng linh hoạt hơn. Thông qua đó NHNN cung ứng hàng nghìn tỷ đồng vốn VNĐ cho các TCTD . Thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc được vận hành linh hoạt và có hiệu quả với tông số 46 phiên đấu thầu được tổ chức trong năm. Trong các phiên cuối nam khối lượng đưa ra dự kiến đấu thầu tăng hơn vá lãi suất chỉ đạo đấu thầu linh hoạt , sát thực hơn . Nghiệp vụ Swaps hoá hoán dổi ngoại tệ cho các NHTM được sử dụng linh hoạt để đáp ứng nhu cầu VND cho nền kinh tế. Chỉ riêng đợt tết nguyên đán Nhâm ngọ đầu năm 2002, NHNN đã hoán đổi 160 USD cho các NHTM đáp ứng nhu cầu hơn 2400 tỷ đồng Việt Nam, đáp ứng nhu cầu chi tiền mặt cho dân cư và doanh nghiệp. 3.1.4. Nới lỏng tín dụng cho nền kinh tế. Cơ chế cho vay của Tổ chức tín dụng đối với khách hàng theo Quyết định 1627 của Thống đốc NHNN có hiệu lực thi hành kể từ dầu năm 2002 đã cơ bản tháo gỡ tất cả các vướng mắc về cơ chế cho vay trước đây. Tiếp đến, cuối tháng 10-2002, Chính phủ ban hành Nghị định 85-NĐ/CP về sửa đổi bổ sung cơ chế đảm bảo tiền vay giao quyền tự chủ cho các Tổ chức tín dụng quyết định việc cho vay có tài sản đảm bảo đối với khách hàng hay không. Tất cả những quyết định đó cho thấy, Chính phủ và NHNN đã cơ bản tháo gỡ hết khó khăn về hoạt động tín dụng đối vớ các Ngân hàng Thương mại tạo điều kiện cung ứng vốn tín dụng tối đa cho nền kinh tế. Do đó, trong năm 2002 tổng dư nợ cho vay của hệ thống Ngân hàng đã tăng với tốc độ cấp cao so với mức trung bình nhiều năm. Đặc biệt là dư nợ cho vay trung dài hạn tăng cao, thể hiện các NHTM tích cực cơ cấu lãi dư nợ của mình và định hướng chỉ đạo đúng của NHNN. 3.1.5. Cơ cấu lại hệ thốnh Ngân hàng Thương mại. Chương trình cơ cấu lại hệ thống NHTM Việt Nam được chính thức bắt đầu từ năm 2000, đến năm 2002 đã bước sang năm thứ ba. Với chủ trương tiến hành cơ vấu lại mạnh mẽ kiên quyết nhưng thận trọng, chương trình đã đạt được bước tiến quan trọng trong việc sắp xếp lại các Ngân hàng Thươnh mại cở phần và đổi mới hoạt động của các Ngân hàng thương mại quốc doanh. Trước yêu vầu hội nhập, thực hiện các cam kết quốc tế về hoạt động Ngân hàng và đáp ứng nhu cầu vốn cùng các nhu cầu về dịch vụ tài chính cho sự phát triển vững chắc nền kinhtế, hệ thống Ngân hàng Việt Nam đang phải cơ cấu lại một cách toàn diện để nâng cao khả năng cạnh tranh. 3.2. Những khó khăn gặp phải trong việc huy động vốn kinh doanh của NHTM Việt Nam. 3.2.1. Lâu nay, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều nghị quyết và chỉ thị về việc tăng vốn cho các NHTM. Song việc làm đó vẫn chưa có gì đáng kể trong thực tiễn. Mặc dù hiện nay đang có phương án tái cấp vốn cho các NHTM Nhà nước bằng việc phát hành trái phiếu đặc biệt của Chính Phủ. Xem ra phương án này không khả thi, bởi lẽ loại trái phiếu này không có lãi suất ( lãi suất bằng 0 cũng tức là không có cơ hội chuyển thành tiền mặt) và không được thanh toán khi đáo hạn cũng có nghĩa là đến lúc trái phiếu đáo hạn, vốn điều lệ của các Ngân hàng sẽ giảm xuống mức trước khi được cấp vốn bổ sung. Ngân hàng thương mại là một tổ chức trung gian tài chính, hoạt động bằng vốn tự có và vốn huy động trên thị trường vốn. Vốn tự có do ngân sách nhà nước cân đối với các ngân hàng thương mại quốc doanh, và vốn do các cổ đông đóng góp đối với ngân hàng thương mại cổ phần. Số vốn tự có này chỉ chiếm không quá 5% tổng số vốn hoạt động của một ngân hàng thương mại, nhưng lại đầu tư 50% số đó vào trụ sở, ô tô và các phương tiện làm việc khác. Như vậy hầu hết nguồn vốn hoạt động phải huy động trong xã hội và các nguồn khác nhau. Cụ thể như: ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Đông anh vốn điều lệ được cấp là 2.200 tỷ đồng, chỉ chiếm 3% trong tổng số vốn hoạt động 66.000 tỷ đồng. Việc các ngân hàng thương mại huy động vốn trên thị trường từ hai đối tượng: các tổ chức kinh tế và dân cư. Các tổ chức kinh tế là các doanh nghiệp ở nước ta, dù là doanh nghiệp nhà nước hay doanh nghiệp tư nhân, số vốn tự có rất thấp, chủ yếu là phải đi vay ngân hàng, nếu có gửi thì đều là tiền gửi không kỳ hạn, số dư tiền tài khoản cho thanh toán, nên họ có thể rút ra bất kỳ lúc nào. Việc huy động cho các ngân hàng thương mại phải tập trung vào đối tượng dân cư, với các hình thức tiền gửi tiết kiệm, phát hành kỳ phiếu và trái phiếu, mở tài khoản cá nhân. Song nếu với những người bình thờng, thu nhập chỉ đủ chi tiêu hàng ngày, hoặc thiếu thì rõ ràng không có tiền đâu mà gửi ngân hàng, ngược lại còn phải đi vay về sửa chữa nhà ở, mua xe máy, nuôi con trâu, con bò, con lợ, lo cho con đóng học. Nên có thể khẳng định, đối tượng dân cư trong xã hội mà ngân hàng thương mại nhằm huy động vốn đó là những người có tiền nhàn rỗi, những người có thu nhập khác. Nhưng giờ đây các thể chế của nền kinh tế thị trường ở nước ta đang hình thành và phát triển, môi trường cạnh tranh tăng lên, dễ dàng lựa chọn các cơ hội đầu tư đang mở rộng thì những người có tiền không chỉ trông chờ gửi vào ngân hàng lấy lãi với giờ giấc làm việc hành chính cứng nhắc, mà họ còn có điều kiện tính toán sao cho có lợi nhất. Đây là cái lý do cơ bản đầu tiên giải thích tại sao vốn nội tệ - đồng Việt nam trong các ngân hàng thương mại trở nên khó khăn hơn. Các hướng lựa chọn của người dân như sau: - Chuyển đổi từ nội tệ (sang ngoại tệ), rút tiết kiệm đồng Việt nam hay sử dụng số tiền của mình có được, mua đô la Mỹ gửi vào ngân hàng, số ít người có thể giữ ở nhà, vừa đảm bảo được giá trị đồng tiền, không lo bị mất giá, vừa có lãi. Chính vì những điều đó mà việc dành tiền gửi cho ngoại tệ tăng trưởng nhanh hơn tiền gửi nội tệ. Các ngân hàng thương mại phải đem một số lượng lớn đô la Mỹ ra gửi ở nước ngoài hưởng thu nhập từ nghiệp vụ tiền gửi. - Đầu tư mua đất đai, nhà ở. Hướng lựa chọn này không chỉ đối với những người đang có tiền, rút tiền gửi tiết kiệm ở ngân hàng, mà cả những người có tài sản thế chấp cũng vay ngân hàng cho mua đất, mua nhà. - Đầu tư mua bảo hiểm nhân thọ. Đây gần như hình thức tiết kiệm gửi góp, hàng tháng nộp vài trăm ngàn đồng. Sau khi hết hạn hợp đồng bảo hiểm, tiền thu về cả gốc và lãi. Lãi suất thu được không thấp hơn bao nhiêu so với gửi tiền tiết kiệm, nhưng là lãi suất ổn định trong thời gian dài, lại được bảo hiểm tính mạng trong phạm vi quy định của hợp đồng. Chuyển từ hoạt động trong nền kinh tế kế hoạch hoá quan liêu bao cấp sang hoạt động trong nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN có sự quản lý của nhà nước, ngân hàng đã phải đối mặt với biết bao khó khăn thử thách, với biết bao hụt hẫng và bất cập. Hụt hẫng vì chưa được chuẩn bị trước, chưa có được những kinh nghiệm cần thiết cho hoạt động trong môi trường mới. Bất cập về trình độ nghiệp vụ, về công nghệ và các trang thiết bị cho tác nghiệp. Bước chuyển đổi lớn lao về bản chất hoạt động như vậy có thể nói như một quá trình "tự lột xác" của các ngân hàng, đặc biệt là các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng. Môi trường hoạt động mới đặt cho ngân hàng trước những áp lực mà bản thân mỗi ngân hàng phải tự mình khắc phục. Song trong thực tế, nhiều ngân hàng đã tỏ rõ được bản lĩnh của người kinh doanh và nhanh chóng nắm bắt các yêu cầu mới trong nghiệp vụ và dịch vụ. Họ đương đầu một cách tích cực trước những áp lực tưởng như khó đứng vững. 3.2.2 Thách thức cạnh tranh huy động vốn đối với các NHTM VN. Việc các NHTT huy động vốn trên thị trường từ 2 đối tượng: các tở chức kinh tế và dân cư. Các tở chức kinh tế là các doanh nghiệp ở nước ta, dù là doanh nghiệp nhà nước haytư nhâm, số vốn tự có rất thấp, chủ yếu là đi vay Ngân hàng, nếu có gửi thì đèu là tiền gửi khônh kì hạn, số dư tiền tài khoá cho thanh toán, nên họ có thể rút ra bất kể lúc nào. Việc huy động vốn các NHTM phải tập trung vào đối tượng dân cư, với hìng thức: Tiền gửi tiết kiệm, phát hàng kì phiếu và trái phiếu, mở tài khoản cá nhân. Song, nếu với những người bình thường, thu nhập chỉ đủ chi tiêu hàng ngày, thậm chí thiếu thì rõ ràng không có tiền đâu mà gửi Ngân hàng, ngược lại còn phải đi vay để sửa nhà, mua xe, lo cho con đóng học…. Nên có thể khẳng định, đối tượng dân cư trong xã họi mà NHTM nhằm vào huy động vốn đó là những người có tiền nhàn rỗi, những người có thu nhập khá. Nhưng giờ đây các thể chế của nền kinh tế thị trường ở nước ta đang hình thành và phát triển, môi trường cạnh tranh tăng lên, dễ dàng lựa chọn các cơ hội đầu tư đang mở rộng thì những người có tiền không chỉ trông chờ gửi vào Ngân hàng lấy lãi với giờ giấc làm việc hành chính cứng nhắc, mà họ có điều kiện tính toán sao cho có lợi nhất. Đây là lí do cơ bản đầu tiên giải thích tại sao vốn nội tệ-Đồng Việt Nam trong các NHTM trở nên khó khăn hơn. 3.2.3. NHTM VN có thêm áp lực mới trong việc huy động vốn. Chuyển từ hoạt động trong nền kinh tế kế hoạch hoá quan liêu bao cấp sang hoạt động trong nền kinh tế thị trường theo điịnh hướng XHCN có sự quản lý của Nhà nước, Ngân hàng đã phải đối đầu với biết bao khó khăn, thử thách với biết bao hụt hẫng và bất cập. Môi trường hoạt động mới đặt Ngân hàng trước những áp lực mà bản thân mỗi Ngân hàng phải tự mình khắc phục. Thực tế giải pháp cho vay hợp vốn hay đồng tài trợ nghe ra khả thi và được nhiều Ngân hàng áp dụng trong thời gian qua, song cũng chỉ là cách thể nghiểm cho có vẻ phong phú về loại hình tín dụng. Thực chất hìng thức cho vay này cũng chưa giải quyết được áp lực vốn khi mà cả nước đang như một công trường xây dựng. Hợp vốn, đồng tài trợ …hình thức phường bạn, nhưng xem ra mỗi nhà doanh nghiệp Ngân hàng vẫn giữ cho mình những mánh riêng nghề nghiệp. Chính vì vậy đã nảy sinh cạnh tranh cả về lãi suất lẫn dịch vụ gây áp lực cho việc huy động vốn của Ngân hàng . Trong thực tế kinh doanh tiền tệ và hoạt động tín dụng vẫn còn những quy chế bó buộc. Tình trạng phát mại tài sản thhế chấp, cầm cố để thu hồi vốn của các tổ chức tín dụng có đầy rẫy những vướng mắc khó khăn khi Ngân hàng chưa có đủ trong tay các văn bản pháp lý cần thiết và đầy đủ hiệu lực. Khi các Ngân hàng nước ngoài cho vay, ngoài căn cứ tài sản thế chấp, họ còn rất uyển chuyển trong tín chấp trong điều kiện giữa họ và khách hàng có sự tin tưởng lẫn nhau trên cơ sở nắm vững nhữnh thông tin rất đầy đủ và khả năng tài chính, tình trạng hàng hoá của khách hàng vay vốn. Đã vậy, các NHTM VN đôi khi bị khách hàng qua mặt, lợi dụng khe hở của pháp luật hay sơ xuất của cán bộ tín dụng để lừa đảo chây ỳ khi trả nợ. Các NHTM VN trong khi cái khó bó cái khôn biết cả đây nhưng cái nghèo không cho phép. Hơn nữa giữa các Ngân hàng với nhau có hiện tượng " mạnh ai nấy làm". Do đó chính sách khách hàng biểu hiện sự cạnh tranh không lành mạnh đã xẩy ra. 3.3. Những giải pháp đưa ra nhằm tạo lập vốn kinh doanh cho NHTM VN. 3.3.1. Những giải pháp để đảm bảo được tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu theo quy định. Để đảm bảo được tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu các NHTM cần giảm tài sản "có" được điều chỉnh theo mức độ rủi ro. Vì tài sản có được điều chỉnh theo mức độ rủi ro của các NHTM NN chủ yếu là dư nợ cho vay nền kinh tế nên cách này sẽ chủ yếu phải giảm dư nợ cho vay nền kinh tế.Tuy nhiên giải pháp này không dược khả thi cho lắm. 3.3.2. Những giải pháp để có Ngân hàng lớn về vốn điều lệ trong nền KTTT định hướng XHCN. Thứ nhất: cần phải xem xét lại chính sách tài khoá ưu tiên cấp vốn bổ sung chohệ thống NHTMNN trong chi đầu tư phát triển. Khong nên để vốn tự có của một NHTM lớn của nhà nước chỉ bằng vốn của một xí nghiệp công nghiệp loại vừa của nền kinh tế quốc dân. Cần xem xet và điều chỉnh lại trong cơ cấu chi tiêu của Ngân sách Nhà nước là có thể đáp ứng được một phần khó khăn trước mắt đối với tăng vốn điều lệ cho NHTMNN. Thứ hai: Có thể tiến hành phát trái phiếu Chính phủ để tái cấp vốn cho NHTMNN thông qua huy động nguồn nội lực trong công chúng. Ba là: Nước ta cần có một đến hai NHTMNN có mức vốn điều lệ tương đối lớn ngang tầm khu vực (phải có vốn tự có tương đương một vài tỷ USD). Muốn vậy cần phối hợp nhiều biện pháp: -Có thể sáp nhập một số NHTMNN thành một vài NHTM lớn. -Sắp xếp lại các NHTMNN đồng thời cổ phần hoá một số NHTMNN, trong đó số vốn của Nhà nước đủ sức chi phối những NHTM mới này. 3.3.3. Giải pháp tăng nguồn vốn chủ sở hữu trong quá trính hoạt động. -Đối với nguồn vốn bổ sung. +Tăng nguồn vốn đầu tư từ lợi nhuận: Trong điều kiện thu nhập ròng lớn hơn không, chủ Ngân hàng có xu hướng gia tăng vốn của chủ bằng cách chuyển một phần thu nhập thành vốn đầu tư. +Nguồn bổ sung từ phát hành thêm cổ phần, góp thêm , cấp thêm.. để đáp ứng yêu cầu gia tăng vốn của chủ do NHNN quy định. Hình thức huy động này là không thường xuyên, song giúp cho Ngân hàng có được lượng vốn sở hữu lớn vào lúc cần thiết. -Các quỹ: Nguồn hình thành các quỹ này là từ thu nhập của Ngân hàng. Vì vậy việc tăng các nguồn quỹ này phụ thuộc vào thu nhập của Ngân hàng. -Ngân hàng có thể tăng cổ phần bằng cách chuyển nguồn vay nợ thành cổ phần. 3.3.4. Giải pháp huy động tiền gửi. 3.3.4.1. THTM huy động tiền gửi từ các doanh nghiệp, các tổ chức, từ các NHTM khác. Ngân hàng mở tài khoản tiền gửi thanh toán, tiền gửi có kì hạn cho các khách hàng có nhu cầu. Thủ tục mở đơn giản. Khi cần thiết với nhu cầu huy động vốn cao Ngân hàng có thể dùng hình thức "biến tướng" của tài khoản để nâng lãi suất tiền gửi, thu hút các doanh nghiệp , tổ chức, cá nhân đến gửi tiền với mục đích lợi nhuận cao. 3.3.4.2. Huy động vốn từ tiền gửi tiết kiệm của dân cư. Các tầng lớp dân cư đều có các khoản thu nhập tạm thời chưa sử dụng (các khoản tiền tiết kiệm). Trong điều kiện có khả năng tiếp cận với Ngân hàng, họ đều có thể gửi tiết kiệm nhằm thực hiện các mục tiêu bảo toàn và sinh lời đối với các khoản tiết kiệm, đặc biệt là nhu cầu bảo toàn. Để thu hút ngày càng nhiều tiền tiết kiệm, các Ngân hàng đều cố gắng khuyến khích dân cư thay đổi thói quen giữ vàng và tiền mặt tại nhà bằng cách mở rộng mạng lưới huy động, đưa ra các hình thức huy độnh đa dạng và lãi suất cạnh tranh hấp dẫn (ví dụ như: tiền gửi với các kỳ hạn khác nhau, tiết kiệm bằng ngọi tệ, bằng vàng…). Ngân hàng có thể mở cho mỗi người tiết kiệm chương mục tiết kiệm (hoặc sổ tiết kiệm) cho mỗi kì hạn và mỗi lần gửi khác nhau. Sổ tiết kiệm này không dùng để thanh toán tiền hàng và dịch vụ, song có thể thế chấp để vay vốn nếu được Ngân hàng cho phép. 3.3.5. Để tăng nguồn vốn kinh doanh, NHTM có thể đi vay từ NHNN, các tổ chức tín dụng và vay trên thị trường vốn. Tiền gửi là nguồn quan trọng nhất của NHTM. Tuy nhiên, khi cần Ngân hàng thường vay mượn thêm. Tại nhiều nước, NHTW thường quy định tỷ lệ giữa nguồn tiền huy động và vốn của chủ. Vì vậy nhiều Ngân hàng vào những giai đoạn cụ thể phải vay mượn thêm để đáp ứng nhu cầu chi trả khi khả năng huy động vốn hạn chế. Những Ngân hàng có uy tín hoặc trả lãi suất cao sẽ vay mượn được nhiều, các Ngân hàng nhỏ thường khó vay mượn hơn, họ thường vay thôngqua các Ngân hàng đại lí hoặc được bảo lãnh của Ngân hàng Đầu tư. 3.3.6. Ngoài những biện pháp huy động vốn trên, các NHTM cần phát triển các công cụ nợ mới nhằm làm phong phú thị trường nguồn vốn của các Ngân hàng. Lịch sử phát triển các Ngân hàng cũng là lịch sử phát triển công cụ nợ. Bên cạnh vay NHNN và vay trên thị trường liên Ngân hàng trong nước, các Ngân hàng cần vươn tay tới thị trường liên Ngân hàng quốc tế. Nhiều Ngân hàng đang phát triển và sử dụng các chứng chỉ tiền gửi, các hợp đồng mua bán lại, các giấy nợ Ngân hàng …Môi trường kinh tế phát triển ngày càng khó khăn, cuộc cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa các Ngân hàng và giữa các tổ chức Ngân hàng và phi Ngân hàng, cách mạng công nghệ đặc biệt là công nghệ thông tin đang làm cho thị trường tài chính liên tục phát triển và tạo ra sản phẩm mới. Trong quá trình phát triển và hội nhập, thị trường các công cụ nợ của các NHTM VN đang có những bước tiến quan trọng. Các công cụ nợ truyền thống đang được mở rộng. Tiền gửi thanh toán đang được khuếch trương đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và đang hướng tới mục tiêu là nguồn chủ yếu của NHTM. Mở rộng quy mô, kéo dài kì hạn, đadạng hoá các loại tiền gửi tiết kiệm nhằm huy động mọi nguồn tiền nhàn rỗi trong dân cư đang là hoạt động trọng tâm của Ngân hàng. Dân chúng đã biết đến Ngân hàng như là nơi đảm bảo an toàn và sinh lợi cho các khoản tiền tiết kiệm cho họ…Ngoài loại hình tiết kiệm ngắn hạn bằng nội tệ truyền thống, các NHTM VN đã đưa các loại tiền gửi bằng ngoại tệ hoặc đảm bảo bằng ngoại tệ, tiền gửi trên 12 tháng. Bên cạnh huy động tiết kiệm, nhiều Ngân hàng như NHNNvà PTNT, Ngân hàng Đầu tư và phát triển VN đã phát hành kì phiếu, trái phiếu (có loại có thể chuyển đổi), tạo công cụ nợ mới làm phong phú thị trường nguồn vốn của Ngân hàng. Phần kết luận Trên thực tế, hoạt động kinh doanh của các NHTM Việt Nam thời gian qua đã có những thành công nhất định, rất đáng ghi nhận. Các NHTM Việt Nam đã từng bước tiếp cận, làm quen với cơ chế kinh doanh Ngân hàng theo cơ chế thị trường định hướng XHCN. Về quan niệm, nhận thức, tổ chức và hoạt động kinh doanh đã được xác lập; tự chịu trách nhiệm trong kinh doanh, tự chủ về tài chính. Do đó đã lấy việc huy động vốn trong dân cư để cho vay nền kinh tế làm nghiệp vụ chính trong kinh doanh. Chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lí của Nhà nước, còn nằm trong sự nghèo nàn , chưa phát triển nên hầu hết các NHTM nước ta đều có nguồn vốn kinh doanh thấp, quy mô nhỏ. Nhưng với sự đổi mới và mở rộng quan hệ cùng với các giải pháp đề ra như trên, tôi hy vọng các NHTM VN nhất định sẽ vượt qua những khó khăn để có được Ngân hàng lớn về vốn, không ngừng phát triển bền vững. Danh mục tài liệu tham khảo. 1. Đức Huynh, 2002, " Ngân hàng có thêm áp lực mới", Thị trường tài chính tiền tệ tháng 3/2002. 2. Lê Hoàng Dương-Dương Thị Phương-Lê Văn Hinh, 2001, "Cải cách Ngân hàng Việt Nam, đảm bảo nâng cao năng lực điều hành chính sách tiền tệ, tăng trưởng kinh tế bền vững", Tài chính tháng 4/2001. 3. Nguyễn Hà, 2002, "Thách thức cạnh tranh huy động vốn đối với các Ngân hàng Thương mại", Thị trường Tài chính tiền tệ 5/2002. 4. PGS-TS. Nguyễn Ngọc Oánh (Tổng thư kí hiệp hội Ngân hàng Việt Nam), 2001, "Tiếp tục phát huy những thành quả đã đạt được, thực hiện tốt hơn nữa các chức năng của HHNH", Thị trường tài chính tiền tệ 4/2001. 5. Phạm Xuân Lập-Nguyễn Văn Thanh, 2001, "Giải pháp nào để các NHTM Nhà nước thực hiện được tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu?", Tài chính tháng 4/2001. 6. TS. Trần Thị Hà, 2002, "Làm thế nào để có Ngân hàng lớn về vốn điều lệ trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ", Tạp chí Ngân hàng số 12 năm 2002. 7. TS. Mai Bạn, 2002, "Ngân hàng Thương mại Việt Nam với yêu cầu mở rộng kinh doanh đa năng", Tạp chí Ngân hàng -số12 năm 2002. 8. TS. Nguyễn Đắc Hưng, 2003, "Một số ý kiến về điều hành chính sách tiền tệ và họat động NHTM năm 2002 và dự báo năm 2003", Thị trường Tài chính tiền tệ 2/2003. 9. TS. Lê Thị Kim Xuân, 2002, "Hoạt động Ngân hàng tại các tỉnh phía Nam năm 2002, Giữ vững tăng trưởng, ổn định", Thời báo Ngân hàng năm 2002. 10. TS. Phan Thị Thu Hà, TS. Nguyễn Thị Thu Thảo, 2002, "Ngân hàng Thương mại- Quản trị nghiệp vụ", NXB Thốnh Kê Hà Nội 2002. 11. TS. Nguyễn Hữu Tài (chủ biên), 2002, Giáo trình Lý thuyết Tài chính -tiền tệ, NXB Thống Kê Hà Nội năm 2002. Mục lục Trang Lời mở đầu Phần nội dung Chương 1: Lý luận chung về Ngân hàng Thương mại. 1.1. Lịch sử hình thành. 1.2. Khái niệm NHTM. 1.3. Chức năng của NHTM. 1.3.1. Chức năng trung gian tài chính. 1.3.2. Chức năng tạo phương tiện thanh toán. 1.3.3. Trung gian thanh toán. 1.4. Các dịch vụ Ngân hàng . 1.5. Các loại hình Ngân hàng Thương mại 1.5.1. Các loại hình NHTM chia theo hình thức sở hữu. 1.5.2. Các loại hình NHTM chia theo tính chất hoạt động. 1.5.3. Các loại hình NH chia theo cơ cấu tổ chức. Chương 2: Thực trạng nguồn vốn kinh doanh ở NHTM Việt Nam. 2.1. Các nguồn vốn kinh doanh ở NHTM. 2.1.1. Vốn chủ sở hữu. 2.1.1.1. Nguồn vốn hình thành từ ban đầu 2.1.1.2. Nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động. 2.1.1.3. Các quỹ. 2.1.1.4. Nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành cổ phiếu. 2.1.2. Nguồn tiền gửi. 2.1.2.1. Tiền gửi thanh toán. 2.1.2.2. Tiền gửi có kì hạn của doanh nghiệp, các tổ chức xã hội. 2.1.2.3. Tiền gửi tiết kiệm của dân cư. 2.1.2.4. Tiền gửi của các Ngân hàng khác. 2.1.3. Ngồn đi vay. 2.1.3.1. Vay Ngân hàng Nhà nước. 2.1.3.2. Vay các tổ chức tín dụng khác. 2.1.3.3. Vay trên thị trường vốn. 2.1.4. Nguồn uỷ thác. 2.1.5. Nguồn trong thanh toán. 2.1.6. Nguồn khác. 2.2. Thực trạng nguồn vốn kinh doanh của NHTM Việt Nam. 2.2.1. Thực trạng về tỷ lệ an toàn vốn của NHTM Việt Nam. 2.2.2. Thực trạng về vốn điều lệ của NHTM trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam. 2.2.3. Hiệp địng thương mại Việt -Mỹ được kí 7-2000 mở ra nhiều cơ hội và thách thức mới cho các NHTM VN. 2.2.4. Thực trạng nguồn vốn huy động của các NHTM tại các tỉnh phía Nam 2002. 2.2.5. Thực trạng nguồn vốn của các NHTM năm 2002 và dự báo năm 2003. Chương 3: Những thuận lợi , khó khăn và giải pháp đưa ra nhằm tạo lập vốn kinh doanh cho NHTM VN. 3.1. Những thuận lợi đối với việc tạo lập vốn kinh doanh cho NHTM VN. III.1.1. Công cụ lãi suất và diễn biến của thị trường tiền tệ. III.1.2. Công cụ tỷ giá và quản lý ngoại hối. III.1.3. Các công cụ khác của chính sách tiền tệ và nghiệp vụ NHTM. III 1.4. Nới lỏng tín dụng cho nền kinh tế. III.1.5. Cơ cấu lại hệ thốngNHTM. III.2. Những khó khăn gặp phải trong việc huy động ngồn vốn kinh doanh của NHTM VN. III.2.1. Lâu nay, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều Nghị quyết và chỉ thị về việc tăng vốn cho các NHTM.Song việc làm đó vẫn chưa có gì đáng kể trong thực tiễn. III.2.2. Thách thức cạnh tranh huy động vốn đối với các NHTM VN. III.2.3. NHTM có thêm áp lực mới trong việc huy động vốn. III.3. Những giải pháp đưa ra nhằm tạo lập vốn kinh doanh cho NHTM VN. III.3.1. Nhữmg giải pháp để đảm bảo được tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu theo quy định. III 3.2. Những giải pháp để có Ngân hàng lớn về vốn điều lệ trong nền KTTT định hướng XHCN. III.3.3. Giải pháp tăng nguồn vốn chủ sở hữu trong quá trình hoạt động. III 3.4. Huy động tiền gửi. III.3.4.1. NHTM huy động tiền gửi từ các doanh nghiệp , các tổ chức, từ các NHTM khác. III.3.4.2. Huy động vốn từ tiền gửi tiết kiệm của dân cư. III.3.5. Để tăng nguồn vốn kinh doanh, NHTM có thể đi vay từ NHNN, các tổ chức tín dụng và vay trên thị trường vốn. III.3.6. Ngoài những biện pháp huy động vốn trên, các NHTM cần phát triển các công cụ nợ mới nhằm làm phòng phú thị trường nguồn vốn của các Ngân hàng. Phần kết luận

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28172.doc
Tài liệu liên quan