Sự lãnh đạo của đảng, thông qua các tổ chức Đảng và các Đảng viên giữ chức danh lãnh đạo và quản lý trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, là yếu tố đảm bảo hoạt động của các doanh nghiệp theo đúng các quy định của pháp luật, bảo vệ lợi ích chính đáng của Nhà nước và người lao động. Do đó, trung ương Đảng nên có quy định và hướng dẫn phương thức, chế độ tổ chức sinh hoạt Đảng trong các doanh nghiệp FDI, phù hợp với đặc điểm của loại hình doanh nghiệp này.
Hoạt động của công đoàn và các tổ chức đoàn thể khác là hình thức thuận tiện nhất để thực hiện sự lãnh đạo của đảng và bảo vệ quyền lợi của người lao động. Việc thành lập và hoạt động của các tổ chức công đoàn đã được quy định trong các văn bản pháp luật. Tuy nhiên, cần có kế hoạch vận động thành lập công đoàn ở tất cả các doanh nghiệp FDI; xây dựng tổ chức công đoàn thật sự trở thành người bảo vệ quyền lợi chính đáng của người lao động, giám sát chủ đầu tư thực hiện pháp luật, chính sách của Nhà nước.
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nguyên tắc hoạt động của Tổ chức thương mại thế giới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghị định thư nêu rõ các nghĩa vụ của Việt Nam khi trở thành thàmh viênWTO sẽ đượ hoàn tất dựa trên các thoả thuận đã đạt được sau khi các cuộc đàm phán song phương, đàm phán đa phương và tổng hợp cam kết song phương.
Giai đoạn 6: Phê chuẩn nghị định thư.
30 ngày sau khi Chủ tịch nước hoặc Quốc hội phê chuẩn Nghị điịnh thư, Việt Nam sẽ chính thức trở thành thành viên WTO.
III.ảnh hưởng sau khi Việt Nam gia nhập WTO đối với thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
1.Những cơ hội sau khi gia nhập Tổ chức thương mại thế giới.
Một khi trở thành thành viên WTO, các Hiệp định của vòng Uruguay có thể đem lại cho Việt Nam các lợi ích sau:
- Hiện tại thương mại giữa các nước thành viên WTO chiếm 90% khối lượng thương mại thế giới, việc Việt Nam trở thành thành viên WTO sẽ đẩy mạnh thương mại và các quan hệ của Việt Nam với các thành viên khác trong WTO và đảm bảo nâng dần vai trò quan trọng của Việt Nam trong hệ thống kinh tế và chính trị toàn cầu.
- Là một nước xuất khẩu gạo đứng thứ hai trên thế giới, Việt Nam sẽ có nhiều thị trường xuất khẩu hơn vì các hạn chế về số lượng sẽ chuyển thành thuế.
- Việt Nam sẽ có lợi do việc cắt giảm thuế đối với các sản phẩm cần nhiều nhân công, mà về mặt này Việt Nam lại có lợi thế hơn.
- Việt Nam sẽ có lợi từ việc cải thiện hệ thống giải quyết tranh chấp khi có quan hệ với các cường quốc thương mại chính. Việc tham gia WTO sẽ cho phép Việt Nam cải thiện vị trí của mình trong các cuộc đàm phán thương mại, có điều kiện tiếp cận tới các nguyên tắc công bằng và hiệu quả hơn cho việc giải quyết các tranh chấp thương mại.
- Những nguyên tắc của WTO đối với các nước đang phát triển có thu nhập thấp, trong đó có Việt Nam cũng sẽ có lợi vì nhận được một số ưu đãi đặc biệt. Ví dụ, đối với các nước đang phát triển, nghèo như Việt Nam (thu nhập dưới 1.000 USD/người/năm) được miễn trừ khỏi sự ngăn cấm trợ cấp xuất khẩu. Tuy nhiên nếu là hàng hoá cạnh tranh sự miễn trừ này sẽ bị loại bỏ trong thời gian 8 năm.
- Việt Nam sẽ có lợi không trực tiếp từ yêu cầu của WTO về việc cải cách hệ thống ngoại thương, bảo đảm tính thống nhất của các chính sách thương mại và các bộ luật của Việt Nam cho phù hợp với hệ thống thương mại quốc tế. Các quy định của WTO sẽ loại bỏ dần dần những bất hợp lý trong thương mại, thúc đẩy cải thiện hệ thống kinh tế, và đẩy nhanh quá trình chuyển đổi từ hệ thống kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trường.
- Cuối cùng, so với các nước đang phát triển khác, Việt Nam sẽ có lợi hơn từ các Hiệp định của vòng Uruguay, vì theo quy định của WTO hàng xuất khẩu dưới dạng sơ chế của các nước đang phát triển sang các nước phát triển thường không phải chịu thuế hoặc thuế thấp. Việt Nam là một nước xuất khẩu nhiều hàng sơ chế sẽ rất có lợi từ quy định này.
Như vậy, xét một cách tổng thể thì Việt Nam vẫn phải nhất định gia nhập WTO. Bởi vì vấn đề không phải là e sợ những thách thức mà không gia nhập mà cốt lõi là phải biết tìm cách vượt qua những thách thức đó. Trước xu thế thời đại là quá trình toàn cầu hoá thì một quốc gia muốn phát triển cần phải hoà mình vào xu thế đó. Việt Nam gia nhập WTO cũng không nằm ngoài mục đích đó. Việt Nam vẫn còn đang là một nước nghèo nên vấn đền phát triển kinh tế là vấn đề sống còn, vấn đề liên quan đến lợi ích quốc gia, dân tộc. Chính vì vậy, việc tham gia WTO cần phải là một điều tất yếu phải được thực hiện. Việt Nam cần phải tận dụng tối đa những cơ hội, những lợi ích do việc gia nhập WTO đem lại để phát triển đất nước.
2.Những thách thức trong giai đoạn hiện nay sau khi gia nhập Tổ chức thương mại thế giới của Việt Nam.
Trước hết, để thực hiện nguyên tắc không phân biệt đối xử và áp dụng quy chế tối huệ quốc đối với nhau, Việt Nam phải cam kết cắt giảm thuế quan và phi thuế quan đối với các sản phẩm công nghiệp, thực hiện đối xử bình đẳng đối với các doanh nghiệp trong nước và ngoài nước. Điều này đòi hỏi phải loại bỏ những ưu đãi cho doanh nghiệp Nhà nước về quyền kinh doanh trong một số lĩnh vực, đất đai, tín dụng về xuất nhập khẩu và đối xử bình đẳng đối với các loại hình doanh nghiệp. Đây chính là một khó khăn cho ngành công nghiệp non trẻ của Việt Nam trước sự đối đầu với các doanh nghiệp của các nước phát triển và các nước có lợi thế so sánh cao hơn. Việc đóng cửa các doanh nghiệp không có năng lực cạnh tranh và một số ngành vốn được bảo hộ trước đây sẽ dẫn đến sự phá sản của nhiều doanh nghiệp, gây ra những biến động trên thị trường tài chính, thất nghiệp gia tăng... Những hệ quả về xã hội và tâm lý có thể dẫn tới những hiệu quả về chính trị không thể xem nhẹ.
Thứ hai là tác động của việc tự do hoá thương mại. Việc tự do hoá thương mại và cắt giảm thuế quan không chỉ tác động đến công cụ truyền thống nhằm bảo hộ thị trường trong nước của Việt Nam mà còn giảm thu ngân sách quốc gia. Nếu không chủ động phân tích tình hình và chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nước theo hướng giảm tỷ trọng những ngành đáp ứng nhu cầu thị trường nội phẩm thì chúng ta sẽ mất dần thị trường nội địa và giảm sút kim ngạch xuất khẩu dẫn tới hậu quả thâm hụt cán cân thương mại, thâm hụt cán cân thanh toán quốc tế và mất ổn định trên tầm vĩ mô.
Thứ ba là nguyên tắc công khai minh bạch đòi hỏi phải thực hiện mọi biện pháp bảo hộ thông qua thuế quan, từ bỏ rào cản phi thuế quan và các hạn chế định lượng, công bố công khai và đơn giản thủ tục nhập khẩu, hải quan, vệ sinh kiểm dịch, các chuẩn mực phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế. Đặc biệt trong lĩnh vực chuyên môn có hàm lượng trí tuệ cao như: bưu chính viễn thông, vận tải, du lịch, bảo hiểm, ngân hàng, kiểm toán, tư vấn, quản lý và pháp luật... thì việc tham gia WTO sẽ là một thách thức đối với Việt Nam. Bởi vì năng lực cạnh tranh của Việt Nam trong những ngành này còn thấp so với nhiều quốc gia trên thế giới. Nâng cao khả năng cạnh tranh trong những ngành này đòi hỏi chúng ta không chỉ giải quyết vấn đề công nghệ mà trước hết là đào tạo, nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ trong nước. Điều này không dễ một sớm một chiều có thể đáp ứng được.
Cuối cùng là sự hạn chế lựa chọn chính sách. Bởi vì khi gia nhập WTO các quốc gia thành viên sẽ phải làm theo những nguyên tắc của WTO và các cam kết cố định trong Nghị định thư gia nhập. Các quốc gia không thể chủ động tuỳ tiện trong hoạch định và điều hành chính sách mà phải xét đến nhiều nhân tố hơn theo quy định về nghĩa vụ của mỗi thành viên WTO.
3.Hướng nguồn đầu tư FDI vào một số lĩnh vực kinh tế tiêu biểu.
3.1. Lĩnh vực dầu khí : So với các ngành kinh tế Việt Nam thì đây là một trong rất ít ngành thu hút được các tập đoàn kinh tế lớn của thế giới tham gia đầu tư. Đến nay, ngoài xí nghiệp liên doanh dầu khí VietsoPetro đã sản xuất được hơn 60 triệu tấn dầu thô và hiện đang tiếp tục kinh doanh có hiệu quả, chúng ta đã cấp 33 giấy phép hoạt động cho các tập đoàn dầu khí lớn thuộc Bắc Mỹ, Châu Âu, Châu úc và Châu á vào thăm dò, khai thác tại thềm lục địa Việt Nam theo hình thức hợp đồng phân chia sản phẩm. Các mỏ Đại Hùng, Rạng Đông, Hồng Ngọc, mỏ khí Lan Đỏ - Lan Tây và mỏ dầu trên vùng chồng lấn với Malaixia đều đang được khai thác. Sự quan tâm của các tập đoàn lớn trên thế giới chứng tỏ tính hấp dẫn và tiềm năng dầu khí của nước ta.
Vào cuối năm 1998, Việt Nam đã cấp giấy phép đầu tư cho liên doanh xây dựng nhà máy lọc dầu đầu tiên tại Dung Quất (Quảng Ngãi) với số vốn đầu tư 1,3 tỷ USD. Các nhà đầu tư nước ngoài (không kể Vietsopetro) đã đầu tư trên 2,6 tỷ USD vào khâu thăm dò, giúp Việt Nam dần dần có đủ cơ sở dữ liệu về trữ lượng dầu khí để xác định chiến lược phát triển.
Công nghiệp dầu khí đã góp phần ngày càng lớn vào tăng trưởng GDP và thu ngân sách Nhà nước.
3.2. Lĩnh vực công nghiệp điện tử :
Là lĩnh vực mà các nhà đầu tư nước ngoài có mặt tương đối sớm, vốn thực hiện chiếm tỷ lệ cao so với vốn đăng ký, có tiến độ thực hiện đúng với cam kết được ghi trong giấy phép đầu tư và đây là lĩnh vực sớm phát huy hiệu quả. Đến nay, đã có 22 dự án đầu tư với tổng số vốn đăng ký 615 triệu USD, trong đó có hơn 60% vốn đã thực hiện (379 triệu USD). Một trong những yếu tố hơn hẳn so với nhiều lĩnh vực khác là các nhà đầu tư vào lĩnh vực này phần lớn thuộc các hãng điện tử mạnh trên thế giới như: SONY, JVC, TOSHIBA, PHILIP, LG, FUJITSU, SAMSUNG, MATSUSHITA... Tuy nhiên các dự án đầu tư chủ yếu vào điện tử gia dụng, chưa chú ý nhiều đến điện tử công nghiệp.
3.3. Lĩnh vực công nghiệp ô tô và xe máy :
Đây cũng là một trong những lĩnh vực thu hút được các nhà đầu tư thuộc các hãng lớn mà sản phẩm của họ đã trở thành nổi tiếng và có lợi thế cạnh tranh so với những sản phẩm cùng loại trên thế giới như TOYOTA, FORD, HONDA, SUZUKI...Đến nay đã có 14 dự án sản xuất ô tô và 4 dự án sản xuất xe máy được cấp giấy phép. Số vốn đăng ký của các liên doanh ô tô là 872 triệu USD, trong đó đã thực hiện được 376 triệu USD (43,12% vốn đăng ký). Các liên doanh này có thể sản xuất hàng năm 140 nghìn xe ô tô các loại. Trong số 14 dự án trên đã có 3 dự án không triển khai và 1 dự án tuy đã đầu tư 16 triệu USD nhưng tạm dừng không đầu tư tiếp (dự án Mercedes-Benz) và liên doanh MêKông cũng đã ngừng sản xuất. Nói chung, thị trường ô tô của nước ta còn hạn hẹp. Ngành công nghiệp xe máy cũng thu hút được những hãng xe nổi tiếng thế giới mà sản phẩm đã quen thuộc với người Việt Nam như Honda, Suzuki, VMEP. Hiện tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sản xuất mỗi năm khoảng 200 nghìn xe máy với tỷ lệ nội địa hóa từ 20-50%.
Các dự án ô tô và xe máy đã được cấp giấy phép đầu tư có tác động dây chuyền đối với các dự án sản xuất linh kiện, phụ tùng; do vậy đã kéo theo hàng chục nhà đầu tư vốn là bạn hàng của họ vào Việt Nam; đồng thời đã mở rộng quan hệ hợp tác chế tạo với các doanh nghiệp cơ khí, sản xuất săm lốp, ghế đệm...của Việt Nam, giải quyết những khó khăn trước mắt cho các doanh nghiệp này và góp phần phát triển chúng về lâu dài.
3.4. Lĩnh vực viễn thông :
Đến nay đã có 14 dự án đầu tư nước ngoài được cấp giấy phép với tổng vốn đăng ký là 1545 triệu USD, trong đó số đã thực hiện là 388 triệu USD. Trong số các dự án đầu tư ở lĩnh vực này có đến 94% theo hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh về dịch vụ viễn thông, 6% số dự án đầu tư theo hình thức liên doanh để sản xuất thiết bị vật tư bưu điện. Đặc biệt, đây là lĩnh vực không có dự án đầu tư hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
3.5. Lĩnh vực công nghiệp hóa chất :
Đến nay lĩnh vực này đã thu hút 89 dự án với tổng vốn đăng ký 1117 triệu USD (36 dự án 100% vốn nước ngoài, 48 dự án liên doanh, 5 dự án hợp đồng hợp tác kinh doanh), trong đó tổng số vốn đã thực hiện là 397,6 triệu USD (35,6% vốn đăng ký). Đầu tư nước ngoài trong công nghiệp hóa chất đã tạo ra nhiều sản phẩm có chất lượng cao, bao gồm một số hóa chất cơ bản, mỹ phẩm, chất tẩy rửa, dầu nhờn... thay thế một phần hàng nhập khẩu, thỏa mãn yêu cầu ngày càng cao hơn của người tiêu dùng.
3.6. Hoạt động kinh doanh khách sạn và du lịch :
Đây là lĩnh vực mà ngay từ đầu đã có biểu hiện còn nhiều tiềm năng chưa được khai thác nên nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước đã đầu tư vào. Đến nay có 237 dự án với 7585 triệu USD vốn đăng ký đầu tư xây dựng khách sạn, văn phòng, căn hộ cho thuê, phát triển đô thị, trong số đó đã có 33,66% vốn được thực hiện. Đồng thời, đây cũng là lĩnh vực đã xuất hiện tình trạng cung vượt quá cầu ở một số thành phố như TP Hồ Chí Minh, Vũng Tàu, Đà Nẵng, Hải Phòng.
3.7. Lĩnh vực dệt may, giầy dép :
Đến nay chúng ta đã phê duyệt 250 dự án với tổng số 2396 triệu USD vốn đăng ký (dệt: 87 dự án với 1649 triệu USD vốn đăng ký; may: 118 dự án với 281 triệu USD vốn đăng ký; giầy dép: 45 dự án với 466 triệu USD vốn đăng ký). Tổng vốn đã thực hiện là 1079 triệu USD, đạt 45% vốn đăng ký, là một tỷ lệ khá cao. Đầu tư nước ngoài trong các ngành này đã tạo ra việc làm cho hàng vạn người lao động, góp phần tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu, là một trong những ngành công nghiệp có kim ngạch xuất khẩu hàng năm trên 1 tỷ USD.
Chương III. Một số kết luận và gợi ý về chính sách.
I. Định hướng của đảng và nhà nước về đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt nam
Để thực hiện mục tiêu chiến lược 10 năm phát triển kinh tế –xã hội(2001_2010) và kế hoạch 5 năm(2001_2005).Chính phủ Việt nam khẳng định quyết tâm tiếp tục xây dựng một môi trường kinh doanh mang tính cạnh tranh cao, đủ sức hấp dẫn dòng vốn đầu tư nước ngoài gia tăng trở lại. Trong dự thảo chiến lược trình Đại hội IX của Đảng đã nêu: ”Tiếp tục mở rộng môi trường đầu tư, tăng sức hấp dẫn với đầu tư trực tiếp nước ngoài, chú trọng các công ty đa quốc gia. Giảm mạnh, tiến tới xoá bỏ sự phân biệt về chính sách và pháp luật giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Nâng cao hiệu quả quản lý và hỗ trợ của nhà nước đối với các dự án đã cấp giấy phép và triển khai từng bước vững chắc các hình thức đầu tư gián tiếp ở nước ta”(tr.51 bản dự thảo).
Trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng cộng sản Việt nam 19/04/2001 đã dẫn:”Đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Khuyến khích đầu tư nước ngoài vào các ngành công nghiệp sản xuất, công nghiệp chế biến các ngành công nghệ cao, vật liệu mới, điện tử, phát triển hạ tầng kinh tế _ xã hội và các ngành Việt nam có lợi thế gắn với công nghiệp hoá và tạo việc làm. Tập trung thu hút vốn FDI vào các khu công nghệ cao, khu chế xuất, khu công nghiệp, tiếp tục nghiên cứu đề án xây dựng khu kinh tế mở để đưa vào kế hoạch 5 năm...”(trích Định hướng phát triển kinh tế đối ngoại về thu hút vốn đầu tư nước ngoài tr.289).
“Khuyến khích các tổ chức, cá nhân nước ngoài và người Việt nam ở nước ngoài đầu tư vào Việt Nam, nhất là sản xuất hàng xuất khẩu và sản phẩm công nghệ cao. Từng bước thống nhất khung luật pháp, chính sách và điều kiện kinh doanh áp dụng đối với doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Tạo khuân khổ pháp lý nhằm khuyến khích hoạt động đầu tư nước ngoài để phát huy lợi thế so sánh của đất nước”.(tr.321_ văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX).
II.Những giải pháp về chính sách nhằm tận dụng cơ hội và hạn chế thách thức của Việt Nam sau khi gia nhập WTO tới thu hút FDI.
Trong công cuộc công nghiệp hoá _ hiện đại hoá đất nước, vốn trong nước chính là nguồn vốn có ý nghĩa quyết định. Song với nền kinh tế đang phát triẻn còn nhiều lạc hậu như Việt nam hiện nay, việc huy động vốn trong nước là hết sức khó khăn. Do vậy, nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng một vai trò quan trọng trong tổng vốn đầu tư phát triển đất nước.
Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt nam trong thời gian qua là khá lớn, chiếm tỷ lệ ngày càng cao so với vốn đầu tư trong nước. Tuy nhiên, tỷ lệ này mới chỉ đạt ở mức trung bình so với các nước trong khu vực. Trong tương lai, cần có chính sách, biện pháp thích hợp để thu hút ngày càng nhiều nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam.
Từ việc nghiên cứu đề tài:”Giải pháp thu hút FDI vào Việt nam “. Em mạnh dạn đưa ra một số ý kiến vừa mang tính chủ quan và khách quan nhằm thúc đẩy hơn nữa việc thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt nam trong thời gian tới.
1.Hoàn thiện pháp luật đầu tư
Sớm xây dựng một hệ thống pháp luật thống nhất và hoàn trỉnh, ban hành những luật còn thiếu, tạo môi trường pháp lý đầy đủ cho các nhà hoạt động đầu tư. Hơn mười năm qua, Luật đầu tư cảu Việt nam đã được sửa đổi bổ sung 4 lần, Nhà nước cũng đã ban hành nhiều văn bản nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư nước ngoài, nhưng hệ thống luật pháp đầu tư vẫn thiếu đồng bộ, nhất quán thiếu tính rõ ràng, dẫn đến nhiều cách hiểu và vận dụng khác nhau làm cho nhà đầu tư ái ngại, vì vậy cần tiếp tục sửa đổi.
Trong lúc chờ đợi có Luật đầu tư thống nhất trong và ngoài nước thì cần hoàn thiện Luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam theo hướng dẫn, thông thoáng rõ ràng, ổn định và mang tính cạnh tranh cao hơn so với các nước trong khu vực ...Trong đó cần chú trọng :
Một là, đa dạng hoá các hình thức đầu tư, cho phép thành lập công ty quản lý vốn, đẩy nhanh việc thí điểm việc cổ phần hoá doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, thành lập mô hình kinh tế mở...là biện pháp nhằm thúc đẩy các dự án triển khai có hiệu quả.
Hai là, tiếp tục điều trỉnh một mức giá, phí các hàng hoá và dịch vụ để sau một thời gian, về cơ bản áp dụng một mặt bằng giá, phí thống nhất cho cả các doanh nghiệp trong nước và cả các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài .
Ba là, tiến tới chấm dứt cơ chế góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất, chuyển sang thực hiện chế độ Nhà nước cho thuê đất.
Bốn là, sớm có văn bản hướng dẫn cụ thể việc thế chấp giá trị quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất...Nghiên cứu, tiến tới xây dựng một luật đầu tư chung cho cả các nhà đầu tư trong nước nước ngoài.
2. Thống nhất quan điểm trong việc thu hút FDI vào Việt nam
Trước hết, cần nhận thức rằng xu hướng toàn cầu hoá ngày càng mở rộng. Đây là qúa trình mà nền kinh tế của các nước tác động lẫn nhau, bổ sung cho nhau và phụ thuộc vào nhau. Vì vậy, cần tận dụng những khả năng to lớn của nền kinh tế thế giới và di chuyển vốn, mở rộng thị trường, chuyển giao công nghệ và kinh nghiệm quản lý để bổ sung và phát huy hiệu quả và lợi thế và nguồn nhân lực trong nước.
Để thực hiện chủ trương trên, việc đa dạng hoá và đa phương hoá các quan hệ kinh tế đối ngoại, trong đó việc đẩy mạnh thu hút vốn FDI là một nội dung quan trọng của lĩnh vực kinh tế đối ngoại cần được đề cao. Điều này được khẳng định trong các văn kiện của Đảng cộng sản Việt Nam.
Thu hút vốn FDI là một tất yếu khách quan, phù hợp với xu thế toàn cầu hoá của nền kinh tế thế giới. FDI tồn tại và phát triển lâu dài, ngày càng mở rộng bắt nguồn từ quốc tế hoá sâu sắc nền sản xuất vật chất và đời sống xã hội, từ sự cuốn hút mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học công nghệ, từ nhu cầu tái cấu trúc lại nền kinh tế của các quốc gia trước sức ép của cuộc cạnh tranh vào thiên niên kỷ mới. Để tiến hành công nghiệp hoá _ hiện đại hoá phải có chiến lược tạo nguồn vốn và sử dụng có hiệu quả trên cơ sở khai thác tốt mọi nguồn lực trong nước và sử dụng các nguồn vốn từ bên ngoài, trong đó nguồn vốn trong nước đóng vai trò quyết định và là điều kiện hấp thụ vốn từ bên ngoài. Nguồn vốn FDI là một bộ phận cấu thành của toàn bộ hoạt động đầu tư của quốc gia. FDI là nhân tố nối kết và phát huy các nguồn lực tăng trưởng kinh tế (vốn, công nghệ, năng lực quản lý, lao động...), là hình thức đầu tư ít lệ thuộc vào điều kiện chính trị và có tính khả thi cao, tránh nợ của chính phủ và tạo cơ hội tiếp cận và thâm nhập thị trường quốc tế. Tuy vốn FDI không chiếm tỷ lệ lớn trong cơ cấu của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, nhưng nếu được bố trí hợp lý trong chiến lược chung về vốn đầu tư thì FDI sẽ có vai trò tích cực, hỗ trợ cho việc phát huy năng lực sản xuất xã hội.
Đối với các nước đang phát triển như Việt nam trong những năm đầu đổi mới, khi nguồn vốn tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế còn hạn hẹp, nguồn vốn ODA còn chưa đáng kể thì FDI đóng vai trò tích cực nhiều hay ít còn tuỳ thuộc vào điều kiện trong và ngoài nước, trong đó điều kiện cụ thể và chính sách của mỗi nước trong việc thu hút vốn FDI là quan trọng nhất. Để làm được việc đó đòi hỏi những cố gắng của nhà nước trong việc tạo lập môi trường pháp lý, quản lý hoạt động FDI và không ngừng cải thiện môi trường thu hút FDI có định hướng để chúng phát huy hiệu quả cao nhất.
Thực tế trong suốt thời gian qua, kể từ khi thực hiện luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam đã chứng tỏ FDI có đóng góp tích cực vào việc tạo năng lực sản xuất mới, tiếp thu công nghệ kỹ thuật tiên tiến cùng với năng lực quản lý kinh doanh hiện đại, kích thích thị trường phát triển, mở rộng thị trường quốc tế, giải quyết việc làm cho người lao động, đóng góp cho nguồn thu ngân sách, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Mặc dù vậy, trong quá trình thu hút vốn FDI cũng cần tránh hai quan điểm sai lầm:
Một là, “coi nhẹ”, thậm chí lên án FDI là nếu triển khai trên quy mô lớn sẽ ảnh hưởng xấu đến tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế và định hướng phát triển của đất nước. Việt nam là một quốc gia độc lập, đất nước có chủ quyền, có hệ thống pháp lý. Do vậy, mọi hoạt động của FDI đều phải tuân thủ pháp luật của Việt Nam. Cụ thể là luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, đồng thời chịu sự kiểm tra, giám sát của các cơ quan quản lý Nhà nước. Mặt khác, Việt nam có định hướng trong việc thu hút FDI nên FDI không thể là nhân tố tạo rạ chênh lệch hướng trong xây dựng và bảo vệ nền kinh tế - xã hội - chính trị của đất nước.
Hai là, ảo tưởng về tính “mầu nhiệm” của FDI, gắn cho FDI một vai trò tích cực tự nhiên, bất chấp điều kiện bên trong và tách rời với những cố gắng chủ quan của con người trong quản lý nhà nước đối với hoạt động này.
3.Cần phải xây dựng môi trường đầu tư hấp dẫn hơn hiện nay
Hoàn chỉnh hệ thống pháp lý chung về kinh tế để tạo lập môi trường kinh doanh bình đẳng. Trên cơ sở Luật sửa đổi, bổ sung một số điều kiện của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam năm 2000 và nghị định số 24/2000/NĐ-CP ngày 31/07/2000 quy định chi tiết việc thi hành Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, chính phủ cần chỉ đạo UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, ban hành quy định về quản lý Nhà nước trên địa bàn đối với hoạt động đầu tư nước ngoài và các biện pháp khuyến khích đầu tư nước ngoài ở địa phương các bộ, ngành ban hành quy định hướng dẫn về đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực thuộc chức năng và thẩm quyền quản lý của mình. Bên cạnh đó, chính phủ cần đề phòng các bộ, các UBND tỉnh trong khi ban hành các thông tư hướng dẫn đưa những nội dung mà họ không nhất trí với Luật sửa đổi với các văn bản đó.
Những trở ngại về thủ tục hành chính đang là nhân tố cản trở quá trình thu hút vốn FDI. Môi trường đầu tư có được cải thiện hay không, theo ý kiến của đại bộ phận các nhà đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp trong nước chính là có cải cách được bộ máy Nhà nước, giảm thiểu được các thủ tục hành chính không cần thiết, giảm thiểu chi phí, tiết kiệm thời gian hình thành và triển khai dự án đầu tư ...Do vậy, Chính phủ cần giành nhiều thời gian để chỉ đạo có hiệu lực hơn công việc cải cách hành chính, cần có hình thức khen thưởng và kỷ luật nghiêm minh đối với những cá nhân và tổ chức trong việc thực hiện chủ trương quan trọngvà có ý nghĩa thời sự trong thời đại này.
Những trở ngại về cơ sở hạ tầng yếu kém, những bất cập của yếu tố quản lý cần sớm được khắc phục. Cơ sở hạ tầng”cứng” ở Việt nam như đường xá, cầu cống, bến cảng, sân bay, điện, nước, thông tin liên lạc đã được ưu tiên đầu tư và có nhiều thay đổi sâu sắc, góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế - xã hội của Việt nam trong những năm qua. Tuy nhiên so với các nước trong khu vực và các nước công nghiệp phát triển thì cơ sở hạ tầng của Việt nam còn rất lạc hậu ( trừ thông tin liên lạc, viễn thông ). Trong những năm tới cũng như lâu dài, đầu tư vào cơ sở hạ tầng vẫn được Nhà nước khuyến khích đầu tư từ nhiều nguồn như nguồn vốn ngân sách Nhà nước, nguồn vốn ODA, nguồn vốn tự có của các doanh nghiệp, nhưng cũng cần nghiên cứu thu hút nguồn vốn tư nhân trong nước góp phần xây dựng cơ sở hạ tầng ngày càng hiện đại, thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
4. Hoàn thiện quy hoạch và sử dụng vốn FDI theo từng vùng
Quy hoạch đầu tư nước ngoài phải là một bộ phận hữu cơ trong quy hoạch tổng thể các nguồn lực chung của cả nước bao gồm vốn và các nguồnlực trong nước, vốn ODA, vốn FDI trên cơ sở phát huy cao độ nội lực, bảo vệ hợp lý sản xuất trong nước, gắn với tiến trình hội nhập, nâng cao cạnh tranh và hiệu quả nền kinh tế. Việc quy hoạch thu hút vốn FDI ngay từ đầu phải gắn với việc phát huy nội lực ( gồm cả vốn, tài sản và cơ sở vật chất - kỹ thuật đã tích luỹ được cùng với nguồn tài nguyên chưa sử dụng, nguồn lực con người, lợi thế vị trí địa lý và chính trị ); gắn với việc bảo vệ an ninh quốc phòng, phát huy được lợi thế so sánh của sản phẩm Việt nam trong bối cảnh cạnh tranhvà hội nhập quốc tế. Việc xây dựng quy hoạch phát triển ngành, sản phẩm gắn với mỗi ngành, có xem xét đến từng vùng, mỗi địa phương, ưu tiên phát triển các ngành khai thác lợi thế so sánh của ngành, đồng thời tăng cường thu hút các dự án có công nghệ thích hợp, đầu tư vào những ngành mũi nhọn.
Rà soát và hoàn trỉnh quy hoạch tổng thể đối với từng ngành kết hợp với vùng lãnh thổ, đặc biệt là các nhóm ngành lớn của ngành kinh tế như công nghiệp nặng, công nghiệp nhẹ, công nghiệp chế biến và góp phần chuyển dịch cơ cấu nội bộ các nhóm ngành theo hướng tích cực với nội dung:
Một là: Xây dựng hệ thống dữ liệu về tiềm năng và thế mạnh của vùng thông qua hoạt động điều tra, khảo sát về nguồn nhân lực, điều kiện cơ sở hạ tầng, điều kiện tự nhiên, nguồn tài nguyên...
Hai là: Xây dựng danh mục sản phẩm trong nước có thể tự sản xuất.
Ba là: Xây dựng các danh mục cần gọi vốn FDI theo hình thức và ngành cần đầu tư trên cơ sở dự báo chuẩn xác nhu cầu thị trường, dự kiến quy mô, công suất, đối tác trong và ngoài nước, địa điểm, đối tượng thực hiện và các chính sách khuyến khích, ưu đãi...để làm cơ sở xúc tiến đầu tư .
5. Khuyến khích và ưu đãi hơn nữa các dự án đầu tư vào các ngành kinh tế mũi nhọn
Trước hết, cần xác định các ngành kinh tế mũi nhọn là các ngành có vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân có tốc độ tăng trưởng vượt trội so với các ngành kinh tế khác và là ngành chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu kinh tế, tạo nguồn thu lớn cho ngân sách, đồng thời đây cũng là các ngành khai thác các thế mạnh đặc biệt của đất nước. Phát triển các ngành này sẽ tạo khả năng cạnh tranh cao độ và mang lại hiệu quả kinh tế xã hội lớn cho đất nước. Mặt khác, các ngành mũi nhọn phải là các ngành có sử dụng tiến bộ khoa học, công nghệ, có trình độ công nghệ cao, phù hợp với xu thế thời đại.
Đối với nước ta hiện nay, các ngành mũi nhọn là các ngành sản xuất thay thế hàng nhập khẩu, hướng tới xuất khẩu và tỷ lệ xuất khẩu cao, có sức cạnh tranh cho sản phẩm nước ta trên thị trường thế giới.
Thời gian qua, mặc dù nhà nước đã liên tục điều trỉnh tăng mức ưu đãi đối với các dự án đầu tư vào những ngành công nghiệp chế biến, xuất khẩu và công nghệ cao, công nghiệp cơ khí, điện tử, năng lượng, những ngành mà ta có lợi thế về nguyên liệu và lao động... Nhưng thực tế, các ưu đãi nói trên vẫn không hấp dẫn các nhà đầu tư. Đồng thời, nhiều dự án trong lĩnh vực này gặp khó khăn, trở ngại trong thực hiện đầu tư, không đạt được hiệu quả mong muốn. Vì vậy,để tăng cường thu hút đầu tư vào cáclĩnh vực nói trên cần phải điều trỉnh một số chính sách ưu đãi theo hướng sau:
Một là: Cần quan tâm hơn nữa đội ngũ trí thức trong và ngoài nước ( trí thứcViệt kiều yêu nước ), khơi dậy và phát huy lòng yêu nước, tự hào dân tộc của lực lượng này, bởi họ có khả năng làm cầu nối, lựa chọn công nghệ hiện đại và đưa các nhà đầu tư mạnh vào Việt Nam.
Hai là: Thực hiện chính sách đối với các dự án có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài sử dụng công nghệ cao, sản xuất hàng xuất khẩu cho hàm lượng giá trị gia tăng trong nước cao, đào tạo nguồn nhân lực hỗ trợ Nhà nước đầu tư nhằm giảm chi phí dự án tạo mọi điều kiện cho dự án triển khai có hiệu quả, đảm bảo đem lại lợi nhuận cho nhà đầu tư.
Ba là: Chỉ thu tượng trưng tiền thuê đất đối với các dự án đầu tư vào nông-lâm-ngư nghệp trong khuôn khổ dự án kêu gọi vốn đầu tư góp phần hoàn thiện cơ cấu kinh tế theo ngành gắn với vùng kinh tế, đặc biệt tại các vùng sâu, xa ( ví dụ: 1 USD/ha/năm như kinh nghiệm của Trung quốc ).
6. Hoàn thiện một số chính sách thuế, tài chính, ngoại hối tạo điều kiện thuận lợi cho việc thu hút FDI
6.1. Chính sách thuế
Thuế có tác động lớn đến FDI bởi khi một nhà đầu tư dự định đầu tư vào một dự án nào đó, họ sẽ quan tâm đến trước tiên là lợi nhuận, trong khi đó thuế có tác động trực tiếp tới lợi nhuận, do đó ảnh hưởng đến quyết định đầu tư.
Thuế đóng vai trò bảo hộ sản xuất trong nước (thuế quan nhập khẩu ) sẽ kích thích đầu tư nước ngoài vào trong nội địa. Thông thường, khi có một mặt hàng nào đó đánh thuế nhập khẩu cao ( như ôtô du lịch, xe máy, điện tử...) thì các nhà đầu tư sẽ nghĩ ngay đến việc đầu tư sản xuất tại Việt nam để tránh hàng rào thuế quan.
Thông qua việc tác động đến giá cả hàng hoá và sức mua của người tiêu dùng, thuế sẽ có ảnh hưởng đến nhu cầu có hiệu lực, tức là ảnh hưởng đến dung lượng thị trường. Như vậy suy cho cùng, thuế sẽ ảnh hưởng đến quyết định đầu tư.
Thuế là nhân tố quan trọng tạo ra môi trường đầu tư và điều này được thể hiện:
Là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước, thuế có ảnh hưởng quyết định đến việc chi tiêu ngân sách. Ngân sách càng có nguồn thu lớn thì càng tạo ra được môi trường tốt để khuyến khích đầu tư. Thuế thu đủ cho chi tiêu của ngân sách ( cân bằng thu - chi ) góp phần hạn chế lạm phát. Điều đó đã tạo môi trường tài chính thuận lợi cho hoạt động đầu tư.
Là nguồn vốn ngày càng tăng tạo điều kiện vật chất cho Nhà nước đầu tư vào lĩnh vực có tỷ xuất lợi nhuận thấp, thời gian hoàn vốn dài như: cơ sở hạ tầng, y tế, giáo dục,v.v..và do đó tạo môi trường cần thiết để hấp dẫn FDI.
Bởi vậy, cần có định hướng chung đổi mới chính sách thuế, dùng thuế như là một công cụ để khuyến khích, phát triển và tăng khả năng hội nhập với các ngành nghề, lĩnh vực cần gọi vốn đầu tư.
Thực hiện chính sách thuế nhập khẩu thực sự khuyến khích các doanh nghiệp công nghệ cao sản xuất cơ khí, điện tử, tin học, viễn thông, cơ khí chế tạo, đặc biệt là công nghiệp sản xuất phụ tùng linh kiện tại Việt Nam. áp dụng tỷ lệ bảo hộ hữu hiệu thích hợp với từng ngành, từng sản phẩm và theo từng giai đoạn nhất định.
Bổ sung ưu đãi cao hơn đối với các dự án chế biến nông - lâm - thuỷ sản, đầu tư vào nông thôn và các địa bàn kinh tế - xã hội khó khăn.
Sử dụng các đòn bẩy kinh tế để khuyến khích các doanh nghiệp có vốn FDI hướng mạnh hơn nữa vào xuất khẩu ( khuyến khích chế biến sâu, có giá trị gia tăng cao, sử dụng nguyên vật liệu sẵn có trong nước ).
Đối với các dự án đặc biệt quan trọng, cần sử lý đặc cách và có chính sách hỗ trợ hợp lý trong khuôn khổ những cam kết trong lộ trình hội nhập.
Vì vậy, chính sách thuế đối với các doanh nghiệp FDI cần cải tiến theo hướng:
Dễ tính toán, đơn giản các mức thuế.
Đảm bảo lợi ích quốc gia.
Có tác dụng khuyến khích đầu tư.
Phù hợp với thông lệ quốc tế.
6.2. Tài chính, tín dụng, ngoại hối
Có kế hoạch giảm dần tỷ lệ kết hối ngoại tệ để tiến tới xoá bỏ việc kết hối ngoại tệ bắt buộc khi có điều kiện; từng bước thực hiện tự do hoá chuyển đổi ngoại tệ đối với các giao dịch vãng lai.
Các doanh nghiệp FDI được tiếp cận thị trường vốn, được vay tín dụng, kể cả trung và dài hạn, tại các tổ chức tín dụng hoạt động tại Việt nam tuỳ thuộc vào hiệu quả kinh tế, khả năng trả nợ của các dự án và có thể đảm bảo bằng tài sản cảu công ty mẹ ở nước ngoài.
Phát triển mạnh thị trường vốn để các doanh nghiệp Việt nam có thể góp vốn bằng các nguồn huy động dài hạn như: trái phiếu, cổ phiếu, tiến tới thực hiện cổ phần hoá các doanh nghiệp FDI.
Xây dựng các quy chế quản lý hoạt động tài chính của các doanh nghiệp FDI; ban hành các chuẩn mực kế toán, kiểm toán phù hợp với thông lệ quốc tế nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các doanh nghiệp đồng thời đảm bảo sự quản lý của nhà nước đối với hoạt động tài chính của doanh nghiệp FDI.
7. Khuyến khích đầu tư của các công ty xuyên quốc gia
Trong 10 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư lớn nhất vào Việt nam thì 5 nước đứng đầu là các nước Châu á mà Singapore chiếm vị trí số một. Vốn giải ngân chủ yếu cũng từ các nước này dẫn đến tình trạng phụ thuộc vào sự phát triển của các nước trong khu vực mà thể hiện rõ nhất là trong thời kỳ khủng hoảng tiền tệ vừa qua. Vốn giải ngân năm 1998 giảm 32% so với năm 1997, năm 1999 giảm 20% so với năm 1998. Trong các nhà đầu tư Châu á thì Nhật Bản là quốc gia dẫn đầu về vốn thực hiện với 2,4 tỷ USD, chiếm 15,6% vốn thực hiện và tỷ lệ thực hiện đạt 60% vốn đăng ký.
Do ảnh hưởng của những khó khăn tài chính, các công ty đa quốc gia từ các nước Châu á đã giảm một phần đầu tư ra nước ngoài ( đặc biệt tại các nước Châu á ), giảm việc mua lại các công ty nước ngoài và thậm chí bỏ một số tài sản ở nước ngoài. Hệ quả là nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào Việt nam trong những năm qua liên tục giảm, hàng loạt các dự án đã phải giãn tiến độ thực hiện hoặc xin tạm dừng triển khai với số vốn lên tới 3 tỷ USD, chủ yếu là các dự án trong lĩnh vực kimh doanh khách sạn, văn phòng, căn hộ cho thuê.
Việc các đối tác chủ yếu từ khu vực Châu á cũng gây ra những bất lợi trong việc tiếp thu những công nghệ hiện đại từ các nước phát triển. Cơ cấu thu hút đầu tư quá cao từ các nước mới phát triển trong khu vực đã biến Việt nam trở thành nước tiếp nhận những công nghệ không còn phù hợp ở nước chủ nhà và luôn là nước đi sau về công nghệ.
Từ tình hình thực tế trên cùng với việc nước ta là nước đang phát triển, trình độ khoa học còn tương đối lạc hậu, nên để góp phần cơ cấu hoàn thiện ngành kinh tế góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá, mục tiêu đặt ra là phải thu hút nguồn vốn và khoa học công nghệ của các công ty xuyên quốc gia, nhất là các công ty của Mỹ và Tây Âu.
8. Xử lý linh hoạt hình thức đầu tư
Các hình thức FDI trên thế giới hiện nay rất đa dạng và phong phú. Sự chuyển hoá giữa các hình thức đầu tư cũng rất linh hoạt do đòi hỏi của đời sống kinh tế và tuỳ thuộc vào hình thức lựa chọn, quyết định của nhà đầu tư. Các dự án FDI dù dưới hình thức nào cũng tác động tích cực, đóng góp vào quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam, nếu các dự án triển khai tốt. Trong hoàn cảnh nước ta, đặc biệt là các vùng kinh tế xã hội còn nhiều khó khăn, nhiều nguồn lực chưa được khai thác, các doanh nghiệp trong nước còn hạn chế về năng lực tài chính, công nghệ, trình độ quản lý và kinh nghiệm kinh doanh quốc tế, cần xử lý linh hoạt vấn đề hình thức đầu tư theo hướng:
Một là: Khuyến khích các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài đối với những dự án sử dụng công nghệ cao, công nghệ mới; các dự án có quy mô đầu tư lớn, thời gian hoàn vốn dài, độ rủi ro cao, tỷ lệ lợi nhuận thấp. Mở rộng việc cho phép đầu tư theo hình thức 100% vốn nước ngoài đối với một số lĩnh vực yêu cầu liên doanh ( Quy định tại nghị định 24/2000/ND-CP ) như kinh doanh xây dựng, kinh doanh hạ tầng khu công nghiệp, sản xuất xi măng, xây dựng khu thể thao, vui chơi giải trí, trồng rừng hoặc cây công nghiệp lâu năm, các dự án trường dạy nghề, trường công nhân kỹ thuật.
Hai là: Cho phép linh hoạt chuyển đổi hình thức đầu tư từ liên doanh sang hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài trong trường hợp doanh nghiệp bị thua lỗ kéo dài; các đối tác liên doanh mâu thuẫn nghiêm trọng nhưng chưa tìm được đối tác khác thay thế dẫn đến liên doanh có nguy cơ đổ vỡ hoặc trong trường hợp liên doanh hoạt động bình thường nhưng những đối tác trong nước muốn rút vốn để đầu tư vào dự án khác có hiệu quả hơn. Việc chuyển đổi liên doanh thành doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài phải bảo toàn được vốn góp hoặc chịu rủi ro ở mức thấp nhất.
Thực tế thời gian qua rất nhiều dự án FDI chuyển đổi hình thức đầu tư, như doanh nghiệp liên doanh chuyển thành doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, doanh nghiệp liên doanh chuyển thành doanh nghiệp 100% vốn Việt Nam. Nguyên nhân chuyển liên doanh thành doanh nghiệp 100% nước ngoài bắt nguồn từ việc liên doanh gượng ép và không ngang tầm giữa các đối tác trong và ngoài nước. Bên Việt nam bị hạn chế về mọi mặt trong khi đối tác nước ngoài là những công ty, tập đoàn đa quốc gia có tiềm lực tài chính mạnh và theo đuổi chiến lược kinh doanh toàn cầu, nên quan điểm và chiến lược kinh doanh khác nhau.
Luật đầu tư nước ngoài sửa đổi năm 2000 cho phép tự do chuyển đổi hình thức đầu tư sẽ tạo điều kiện cho nhiều doanh nghiệp liên doanh chuyển đổi thành doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Do đó cần hoàn thiện hành lang pháp lý để định hướng sự vận động và phát triển các hình thức đầu tư.
9. Thực hiện chiến lược thu hút khoa học công nghệ
Một trong những vai trò quan trọng của FDI là chuyển giao công nghệ. Chuyển giao công nghệ mang một hàm ý rộng, bao gồm không chỉ nhập khẩu công nghệ đơn thuần mà còn vận hành công nghệ đó, sửa chữa, bảo hành, nắm vững các nguyên lý, mô phỏng và phát triển nó. Thông qua các hình thức FDI, giữa các nước đã có sự chuyển giao công nghệ và bổ sung công nghệ cho nhau. Đối với các nước đang phát triển, trình độ công nghệ lạc hậu, thấp kém, thì FDI được coi là phương tiện hữu hiệu để nhập khẩu công nghệ có trình độ cao hơn từ bên ngoài. Thông qua các nước phát triển có điều kiện xuất khẩu công nghệ trung gian và truyền thống hoặc chuyển giao công nghệ đã có phần lạc hậu so với trong nước. Các hình thức chuyển giao công nghệ trong FDI thường có lợi cho cả hai bên.
Phần lớn các nước đang phát triển, như Việt Nam, nhu cầu về đổi mới công nghệ và do đó, có những biện pháp và chính sách cởi mở nhằm đẩy mạnh FDI và muốn nhập những ngành công nghiệp mới với công nghệ mới. Một vấn đề quan trọng của FDI liên quan đến chuyển giao công nghệ là FDI dẫn đến thay đổi về cơ cấu ngành trong nội bộ kinh tế đất nước.
Tại Việt Nam, kể từ khi Luật đầu tư nước ngoài được ban hành đến nay, một loạt các dự án đã được thực hiện và xuất hiện một số ngành hoàn toàn mới như sản xuất, lắp ráp ôtô, xe máy, điện tử... gây ảnh hưởng lớn đến cơ cấu công nghiệp. Do đó, cần có biện pháp thu hút các dự án chuyển giao công nghệ ở trình độ tiên tiến đến hiện đại trên thế giới vào Việt nam.Thông qua các dự án FDI có công nghệ cao, việc tiếp nhận công nghệ sẽ tạo điều kiện để Việt nam sản xuất các hàng hóa dịch vụ phục vụ trong nước và xuất khẩu.
10. Đổi mới và vận động công tác xúc tiến đầu tư
Công tác vận động, xúc tiến đầu tư cần được đổi mới về nội dung và phương thức thực hiện, theo các kế hoạch và trương trình chủ động có hiệu quả. Trước hết, cần xác định xúc tiến đầu tư , cũng như xúc tiến thương mại là nhiệm vụ của các cơ quan Nhà nước, các Bộ, các Ngành, địa phương, tại các cơ quan đại diện Nước đặt tại một số địa bàn trọng điểm ở nước ngoài để chủ động vận động thu hút FDI.
Thực hiện chủ trương đa phương hoá, đa dạng hoá các đối tác đầu tư nước ngoài để tạo thế chủ động trong mọi tình huống. Cùng với việc tiếp tục thu hút các nhà đầu tư truyền thống ở Châu á vào các dự án mà họ có kinh nghiệm và thế mạnh như chế biến nông sản, thực phẩm, sản xuất hàng tiêu dùng xuất khẩu,v.v.. cần có kế hoạch hướng vào các tập đoàn đa quốc gia Mỹ và Tây Âu nhằm tranh thủ tiềm lực về vốn, công nghệ, kỹ thuật hiện đại để nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, góp phần hoàn thiện cơ cấu ngành; chú ý đến các dự án vừa và nhỏ nhưng sử dụng công nghệ hiện đại.
Trên cơ sở quy hoạch ngành kinh tế và danh mục dự án kêu gọi đầu tư đã được phê duyệt, cần có kế hoạch chủ động vận động, xúc tiến đầu tư một cách cụ thể, trực tiếp đối với từng dự án, trực tiếp đối với từng tập đoàn, công ty và nhà đầu tư có tiềm năng.
Các cơ quan Nhà nước có liên quan cần tổ chức, phối hợp nghiên cứu tình hình kinh tế, thị trường đầu tư, chính sách của các nước, các tập đoàn đa quốc gia để có chính sách vận động thu hút đầu tư phù hợp; đồng thời cần tích cực nghiên cứu pháp luật, chính sách thu hút FDI của các nước trong khu vực để kịp thời có chính sách thích hợp trong môi trường cạnh tranh.
Một vấn đề cũng hết sức quan trọng là các cơ quan quản lý nhà nước cần phối hợp, tập trung chỉ đạo và hỗ trợ kịp thời các nhà đầu tư đang có dự án hoạt động hiện nay, giúp họ giải quyết tốt các vấn đề phát sinh. Đó là biện pháp có ý nghĩa rất quan trọng để vận động có hiệu qủa và có sức thuyết phục nhất đối với các nhà đầu tư mới, tạo môi trường đầu tư thuận lợi, thông thoáng tại Việt Nam.
11. Nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực
Trong những năm trước mắt, ngoài các giải pháp nêu trên, cần có biện pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Song song với việc tạo việc làm và thu nhập cho người lao động, FDI đã góp phần quan trọng vào đào tạo đội ngũ công nhân, giúp đội ngũ này có cơ hội tiếp cận với kỹ thuật, công nghệ mới và được đào tạo về kỹ năng để vận hành máy móc, thiết bị. Nhờ có FDI mà trình độ và kỹ năng của người lao động trong các doanh nghiệp FDI được nâng cao, qua đó rút ngắn khoảng cách về trình độ lao động giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển. Vì vậy, cần chú trọng đào tạo đội ngũ công nhân kỹ thuật, công nhân có tay nghề cao, có khả năng tiếp thu công nghệ tiên tiến khi làm việc trong các doanh nghiệp FDI. Mặt khác, cần có cơ chế tuyển dụng và bổ nhiệm cán bộ Việt nam làm việc trong các liên doanh, đảm bảo những người được đưa vào quản lý doanh nghiệp liên doanh thực sự có đủ năng lực bảo vệ quyền lợi của Nhà nước và của bên Việt Nam, tiếp thu được công nghệ và kinh nghiệm quản lý của nước ngoài.
Đồng thời, cần phải đầu tư thích đáng và có cải cách triệt để trong hệ thống giáo dục và đào tạo. Cần xây dựng trương trình, cách dạy và học sao cho khoa học và phù hợp ở các cấp phổ thông, đại học, đặc biệt là các trường dạy nghề, công nhân kỹ thuật nhằm nâng cao chất lượng lao động Việt nam.
Để đáp ứng được mục tiêu gia tăng các hoạt động dịch vụ chất lượng cao cần có chiến lược đào tạo nguồn nhân lực thích hợp với yêu cầu của loại hình dịch vụ này ( Dịch vụ tư vấn, tài chính - ngân hàng, bảo hiểm, kiểm toán, y tế - văn hoá - giáo dục, bưu chính - viễn thông,v.v..). Do đó, việc nâng cao chất lượng hoạt động đào tạo nguồn nhân lực này theo mục tiêu đặt ra là cần thiết. Trước mắt, cần đổi mới chương trình, nội dung và phương pháp đào tạo, kết hợp đào tạo trong nước và nước ngoài, đào tạo tại cơ sở và đào tạo thông qua công việc,v.v..
12. Kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng ở tất cả các khâu, các cấp
Tăng cường tổ chức và cơ chế, tiếp tục đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng trong bộ máy Nhà nước và toàn bộ hệ thống chính trị, ở các ngành, các cấp, từ Trung ương đến cơ sở. Cần chống tham nhũng với chống lãng phí, buôn lậu, đặc biệt là chống hành vi lợi dụng các chức quyền để làm giàu bất chính.
Bổ sung, hoàn thiện các cơ chế, chính sách, quy chế, quy định của Đảng và Nhà nước về quản lý kinh tế - tài chính, quản lý tài sản công dân, không để sơ hở cho kẻ xấu lợi dụng.
Tiếp tục xoá bỏ các thủ tục hành chính phiền hà, nhất là ở những lĩnh vực, những khâu dễ xảy ra tham nhũng yêu sách. Thanh tra, kiểm tra, kiểm soát bảo đảm tính minh bạch trong việc sử dụng ngân sách Nhà nước, tài sản công, tài chính đảng, đoàn thể, tài chính các doanh nghiệp Nhà nước, các quỹ do nhân dân đóng góp và do nước ngoài viên trợ.
Các Đảng viên và chi bộ Đảng, mặt trận tổ quốc, các đoàn thể nhân dân, các cơ quan thông tin đại chúng và toàn xã hội có trách nhiệm giám sát, kiểm tra cán bộ, công chức, phát hiện, tố cáo, lên án những kẻ tham nhũng. Xử lý nghiêm minh theo pháp luật và theo những điều lệ Đảng những cán bộ, Đảng viên công chức ở bất kỳ cấp nào, lĩnh vực nào lợi dụng chức quyền để tham nhũng. Có những biện pháp cụ thể bảo vệ và khen thưởng những người kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng. Thường xuyên giáo dục cán bộ, Đảng viên, công chức về chính trị, tư tưởng, đạo đức cách mạng.
Cụ thể hoá và thực hiện nghiêm những điều cấm đối với cán bộ, công chức, trước hết là cán bọ chủ chốt, cán bộ quản lý. Cán bộ lãnh đạo các cấp, các ngành, các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp Nhà nước kê khai tài sản của cá nhân và gia đình mình. Kịp thời kiểm tra và kết luận, có biện pháp xử lý những cán bộ, công chức có tài sản bất minh.
Xem xét trách nhiệm hình sự hoặc có hình thức kỷ luật thích đáng đối với những người đứng đầu cơ quan, đơn vị nơi xảy ra những vụ tham nhũng lớn, gây hậu quả nghiêm trọng.
13. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, hoạt động của công đoàn
Sự lãnh đạo của đảng, thông qua các tổ chức Đảng và các Đảng viên giữ chức danh lãnh đạo và quản lý trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, là yếu tố đảm bảo hoạt động của các doanh nghiệp theo đúng các quy định của pháp luật, bảo vệ lợi ích chính đáng của Nhà nước và người lao động. Do đó, trung ương Đảng nên có quy định và hướng dẫn phương thức, chế độ tổ chức sinh hoạt Đảng trong các doanh nghiệp FDI, phù hợp với đặc điểm của loại hình doanh nghiệp này.
Hoạt động của công đoàn và các tổ chức đoàn thể khác là hình thức thuận tiện nhất để thực hiện sự lãnh đạo của đảng và bảo vệ quyền lợi của người lao động. Việc thành lập và hoạt động của các tổ chức công đoàn đã được quy định trong các văn bản pháp luật. Tuy nhiên, cần có kế hoạch vận động thành lập công đoàn ở tất cả các doanh nghiệp FDI; xây dựng tổ chức công đoàn thật sự trở thành người bảo vệ quyền lợi chính đáng của người lao động, giám sát chủ đầu tư thực hiện pháp luật, chính sách của Nhà nước.
Mục lục
Chương I. Cơ sở lí luận chung
I.Giới thiệu Tổ chức thương mại thế giới WTO.
1.Lịch sử hình thành.
2.Nguyên tắc hoạt động của Tổ chức thương mại thế giới.
2.1. Nguyên tắc thứ nhất: Không phân biệt đối xử trong thương mại quốc tế.
2.2.Nguyên tắc thứ hai: Thương mại ngày càng được tự do hơn thông qua đàm phán.
2.3.Nguyên tắc thứ ba: Nguyên tắc dễ dự đoán.
2.4.Nguyên tắc thứ tư: Nguyên tắc tạo ra môi trường cạnh tranh bình đẳng.
2.5.Nguyên tắc thứ năm: Nguyên tắc dành cho các thành viên đang phát triển một số ưu đãi.
3. Cơ cấu tổ chức của Tổ chức thương mại thế giới.
4.Các nước thành viên.
II.Đầu tư trực tiếp nước ngoài.
1.Giới thiệu chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI.
2.Phân biệt giữa ODA và FDI.
3.Lợi ích đối với thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI từ việc gia nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO.
III.Kinh nghiệm của Trung Quốc sau khi gia nhập WTO.
1.Những quyền lợi chủ yếu mà Trung Quốc được hưởng sau khi gia nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO.
2.Đối với việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
2.1.Mức độ thu hút đầu tư nước ngoài gia tăng mạnh mẽ.
2.2.Các xí nghiệp đầu tư nước ngoài đạt hiệu quả cao.
2.3.Nguồn vốn vay của nước ngoài được đảm bảo ổn định.
3.ảnh hưởng của Trung Quốc đến Việt Nam . Rút ra bài học kinh nghiệm.
3.1. Về thể chế.
3.2. Về điều chỉnh cơ cấu ngành nghề.
Chương II. ảnh hưởng của Việt Nam sau khi gia nhập Tổ chức thương mại thế giới tới việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
I.Đánh giá thực trạng đầu tư FDI trong giai đoạn vừa qua.
1. Tình hình chung
2. Thực trạng FDI theo ngành.
3.Thực trạng thu hút FDI theo vùng lãnh thổ.
4.Cơ cấu đầu tư theo hình thức đầu tư
5.Tác động của FDI tới tăng trưởng GDP.
5.1.Xuất khẩu
5.2.Việc làm - thu nhập.
5.3.Đầu tư trực tiếp nước với hoạt động chuyển giao công nghệ.
6.Kết quả thực hiện.
II.Tình hình chuẩn bị gia nhập WTO của Việt Nam.
1. Tiến trình đàm phán.
2. Những kết quả đạt được.
III.ảnh hưởng sau khi Việt Nam gia nhập WTO đối với thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
1.Những cơ hội sau khi gia nhập Tổ chức thương mại thế giới.
2.Những thách thức trong giai đoạn hiện nay sau khi gia nhập Tổ chức thương mại thế giới của Việt Nam.
3.Hướng nguồn đầu tư FDI vào một số lĩnh vực kinh tế tiêu biểu.
3.1. Lĩnh vực dầu khí
3.2. Lĩnh vực công nghiệp điện tử
3.3. Lĩnh vực công nghiệp ô tô và xe máy
3.4. Lĩnh vực viễn thông
3.5. Lĩnh vực công nghiệp hóa chấ
3.6. Hoạt động kinh doanh khách sạn và du lịch
3.7. Lĩnh vực dệt may, giầy dép
Chương III. Một số kết luận và gợi ý về chính sách.
I. Định hướng của đảng và nhà nước về đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt nam
II.Những giải pháp về chính sách nhằm tận dụng cơ hội và hạn chế thách thức của Việt Nam sau khi gia nhập WTO tới thu hút FDI.
1.Hoàn thiện pháp luật đầu tư
2. Thống nhất quan điểm trong việc thu hút FDI vào Việt nam
3.Cần phải xây dựng môi trường đầu tư hấp dẫn hơn hiện nay
4. Hoàn thiện quy hoạch và sử dụng vốn FDI theo từng vùng
5. Khuyến khích và ưu đãi hơn nữa các dự án đầu tư vào các ngành kinh tế mũi nhọn
6. Hoàn thiện một số chính sách thuế, tài chính, ngoại hối tạo điều kiện thuận lợi cho việc thu hút FDI
6.1. Chính sách thuế
6.2. Tài chính, tín dụng, ngoại hối
7. Khuyến khích đầu tư của các công ty xuyên quốc gia
8. Xử lý linh hoạt hình thức đầu tư
9. Thực hiện chiến lược thu hút khoa học công nghệ
10. Đổi mới và vận động công tác xúc tiến đầu tư
11. Nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực
12. Kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng ở tất cả các khâu, các cấp
13. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, hoạt động của công đoàn
Bảng tổng hợp thực hiện đầu tư trực tiếp nước ngoài
Tính đến 31 tháng 12 năm 2002
TT
Chỉ tiêu
Thời kỳ
88 -2001
Thời kỳ
88 - 90
Thời kỳ
91 - 95
Thời kỳ 1996 - 2000
2001
2002*
1996
1997
1998
1999
2000
5 năm
I
Số dự án đầu tư
Cấp mới
3.810
214
1.397
365
348
275
311
377
1.676
523
754
Lượt tăng vốn
1.661
1
262
162
164
162
163
174
825
227
346
Giải thể
776
6
237
54
85
101
86
113
439
94
107
Hết hạn
31
2
12
4
6
2
2
2
16
1
3
II
Vốn đăng ký cấp mới và tăng vốn
Vốn đăng ký
41.130
1.582
16.244
8.640
4.649
3.897
1.566
2.014
20.768
2.536
1.558
Tăng vốn
7.765
0.3
2.132
788
1.173
884
629
476
3.951
608
1.074
Giải thể
9.674
0.26
1.522
1.141
544
2.428
784
1.794
6.691
1.434
747
Hết hạn
296
0.3
98,6
146,1
24,4
19,1
1,1
2,5
193
3,8
333
Còn hiệu lực tính từ đầu năm 1998 (a)
1.556
26.453
31.706
34.040
35.452
3.146
37.851
39.403
III
Vốn thực hiện
22.284
7.153
2.923
3.137
2.364
2.179
2.228
12.831
2.300
2.345
Vốn từ nước ngoài
19.754
6.086
2.518
2.822
2.214
1.971
2.043
11.566
2.100
2.045
Vốn từ doanh nghiệp Việt nam
2.530
1.067
405
315
150
208
185
1.263
200
300
IV
Doanh thu **
37.073
4.106
2.800
3.955
4.380
5.711
7.921
24.767
8.200
9.000
V
Kim ngạch xuất khẩu
Xuất khẩu **
15.505
1.230
920
1.790
1.982
2.590
3.320
10.602
3.673
4.500
Nhập khẩu
22.698
2.382
2.042
2.890
2.668
3.382
4.350
15.332
4.984
6.500
VI
Đóng góp của khu vực FDI
Tỷ trọng trong GDP (%)
7,4
9,1
10,0
11,8
12,7
13,1
Nộp ngân sách
1.863
263
315
317
271
324
1.490
373
472
VII
Tốc độ tăng trưởng công nghiệp
Khu vực FDI (%)
21,7
23,2
23,3
20,0
18,6
12,1
14,5
Cả nước (%)
14,2
13,8
12,1
10,5
15,8
14,2
14,5
VIII
Giải quyết việc làm (1000 người) (b)
220
250
270
296
379
489
492
Chú thích: a/ vốn còn hiệu lực = vốn cấp mới + tăng vốn - vốn hết hạn - vốn giải thể
b/ Lao động tính tới cuối năm báo cáo không kể lao động gián tiếp
* Số liệu năm 2002 tính theo báo cáo nhận được tới thời điểm báo cáo
** Xuất khẩu và doanh thu không kể dầu thô
Nguồn: Vụ đầu tư nước ngoài - Bộ kế hoạch - Đầu tư
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- R0007.doc