PHẦN MỞ ĐẦU
Trong bối cảnh Việt Nam đang tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện nhằm đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, hội nhập cùng thế giới, xây dựng một cơ chế kinh tế thị trường tự do, thịnh vượng nhưng ổn định. Để đáp ứng một xã hội mới với nhiều thành phần kinh tế khác nhau, trong đó có cả các cá nhân, tổ chức nước ngoài tham gia vào các hoạt động kinh tế, văn hoá - xã hội, điều đó chắc chắn sẽ dẫn đến vấn đề tranh chấp về quyền lợi trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Để góp phần bảo đảm tính ổn định phát triển của đất nước, cần phải xây dựng một môi trường pháp lý thông thoáng, lành mạnh và tiến bộ, đáp ứng các yêu cầu của công cuộc hội nhập vào nền kinh tế thế giới, thúc đẩy nền kinh tế thị trường phát triển theo định hướng Xã hội chủ nghĩa, xây dựng thành công nhà nước pháp quyền.
ĐỀ TÀI: Pháp luật về tòa án nhân dân : thực trang và giải pháp phát triển
Vì vậy cần phải xây dựng một hệ thống toà án hoàn chỉnh, đồng bộ, thống nhất từ trung ương đến địa phương, thực hiện tốt công tác bảo đảm và thực thi pháp luật, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, đáp ứng các yêu cầu đời sống vật chất, tinh thần cho quần chúng nhân dân và yêu cầu đổi mới của đất nước.
2) Mục đích nghiên cứu.
Nhận thức được tầm quan trọng của hệ thống toà án trong việc bảo vệ pháp luật theo như khẳng định của các nhà luật học: ở đâu có pháp luật, ở đó phải có toà án để bảo vệ pháp luật. Các nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến, nhà nước tư sản đều thành lập các toà án. Tuy nhiên, bản chất, vai trò, quyền hạn, cách thức tổ chức và hoạt động của toà án thuộc mỗi kiểu nhà nước, hay trong mỗi nước là khác nhau. Vì vậy, tôi chọn đề tài này với mong muốn nâng cao hiểu biết của bản thân về vai trò, cũng như nguyên tắc tổ chức và hoạt động của toà án nói chung và toà án Xã hội chủ nghĩa nói riêng, mà cụ thể là toà án nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nơi tôi đang nghiên cứu và học tập. Đồng thời cung cấp những kiến thức pháp lý cơ bản đến đông đảo công chúng, nhằm nâng cao hiểu biết pháp luật của cộng đồng, góp phần xây dựng ý thức chung, tôn trọng và tuân thủ các quy định của Hiến pháp và pháp luật của nhà nước.
3) Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu.
Niên luận lấy nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Toà án nhân dân Việt Nam là đối tượng nghiên cứu. Trong phạm vi các quy định của Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1992, sửa đổi, bổ sung 2001 và Luật tổ chức Toà án 2002.
4) phương pháp nghiên cứu.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tôi sử dụng phương pháp duy vật biện chứng làm phương pháp nghiên cứu xuyên suốt. Bên cạnh đó tôi còn sử dụng các biện pháp bổ trợ khác như: đối chiếu, so sánh; phương pháp phân tích tổng hợp, tư duy logic, phương pháp lịch sử . để làm rõ các vấn đề cần nghiên cứu.
5) Bố cục.
Niên luận gồm ba phần:
a) Phần mở đầu:
1. Tính cấp thiết của đề tài, ý nghĩa khoa học và thực tiễn.
2. Mục đích nghiên cứu đề tài.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài.
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài.
5. Bố cục.
b) Phần nội dung.
Gồm hai chương:
Chương 1: Lịch sử hình thành và pháp triển, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của toà án nhân dân.
Chương 2: Các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của toà án nhân dân.
c) Phần kết luận.
30 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2882 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Toà án nhân dân Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phó chánh án và thẩm phán toà án nhân dân tối cao, chánh án, phó chánh án, thẩm phán các toà án nhân dân địa phương, toà án quân sự các cấp là 5 năm. Việc bổ nhiệm đối với toà án nhân dân ở tất cả các cấp là một sự đổi mới trong tổ chức toà án nhân dân. Sau cách mạng Tháng 8/1945, Thẩm phán các Toà án do Chính phủ bổ nhiệm. Từ sau cải cải cách tư pháp 1959, Thẩm phán các toà án nhân dân địa phương đều do cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp bầu và bãi miễn. Thực tế hơn 30 năm qua cho thấy, sự cần thiết của việc thay chế độ bầu bằng chế độ bổ nhiệm đối với các Thẩm phán ở các toà án để tạo môi trường thuận lợi cho các hoạt động xét xử của các toà án được độc lập. Còn đối với các hội thẩm nhân dân vẫn theo các chế độ bầu cử như trước đây, đối với các toà án ở địa phương. Hội thẩm toà án nào do Hội đồng nhân dân ở địa phương đó bầu ra và bãi miễn theo để nghị của Uỷ ban mặt trận tổ quốc cùng cấp. Còn Hội thẩm của toà án nhân dân tối cao do Uỷ ban thường vụ quốc hội cử theo sự giới thiệu của Uỷ ban trung ương mặt trận tổ quốc Việt Nam. Hội thẩm nhân dân ở toà án quân sự các cấp cũng theo chế độ cử. Nhiệm kỳ của Hội thẩm nhân dân Toà án nhân dân tối cao và Hội thẩm quân nhân là 5 năm. Còn nhiệm kỳ của Hội thẩm nhân dân các toà án địa phương theo nhiệm kỳ của Hội đồng nhân dân cùng cấp.
Hiện nay, vấn đề đang đặt ra là phải nâng cao trình độ nghiệp vụ cho các Hội thẩm nhân dân bằng chính năng lực của mình có thể độc lập, ngang quyền với thẩm phám trong xét xử.
2.2 Toà án xét xử tập thể và quyết định theo đa số.
Sau Cách mạng tháng 8/1945, một mặt do chưa có kinh nghiệm trong tổ chức nhà nước, mặt khác do thiếu cán bộ nên nguyên tác này chưa được xaxc lập khi đó pháp luật quy định: tại phiên toà, thẩm phán xét xử một mình, lục sự giữ bút ký lập biên bản án từ ( sắc luật số 13/ SL ngày 24/1/1946 về tổ chức các toà án và các ngạch thẩm phán). Hiến pháp 1946 vẫn chưa xác định nguyên tắc này. Chỉ từ sau cải cách tư pháp, nguyên tắc toà án xét xử theo tập thể và quyết định theo đa số mới được quy định trong Luật tổ chức toà án nhân dân năm 1960 tại Điều 12. Từ đó đến nay nguyên tắc đó đều được xác định trong Hiến pháp 1980, 1992; Luật tổ chức toà án nhân 1960, 1981, 1992,2002. Nguyên tắc này bắt nguồn từ nguyên tắc tập trung dân chủ trong hoạt động và tổ chức bộ máy nhà nước. Xét xử là một hoạt động đặc thù mà toà án đảm nhiệm nhằm bảo vệ pháp chế nhà nước xã hội chủ nghĩa, bảo về quyền và lợi ích hợp pháp của nhà nước, các tổ chức xã hội và công dân. Vì vậy, việc xét xử phải hết sức thận trọng, khách quan và đúng đắn. Muốn có bản án và quyết định đúng, đòi hỏi phát huy trí tuệ tập thể. Theo nguyên tắc này, để xét xử các vụ án hình sự, dân sự, lao động hay hôn nhân gia đình, cũng như những vụ án khác phải lập hội đồng xét xử. Hội đồng xét xử có thể gồm thẩm phán và hội thẩm nhân dân, cũng có thể gồm các thẩm phán nhưng phải có ít nhất từ 3 người trở lên và phải do chánh án quyết định.
Trong hội đồng xét xử có một thẩm phán được chánh án cử làm chủ toà phiên toà. Chủ toạ phiên toà cũng như các thành viên khác phỉ chiu trách nhiệm trước chánh án toà án cùng cấp trong việc điều khiển phiên toà trong việc điều khiển phiên toà cũng như các quyết định của Hội đồng xét xử. Mỗi thành viên trong Hội đồn xét xử phải nghiên cứu kỹ hồ sơ của vụ án để xác minh những chứng cứ cần thiết tại phiên toà, đồng thời phải có sự hiểu biết pháp luật để điều khiển phiên toà và áp dụng đũng pháp luật. Mọi sự chênh lệch đáng kể về trình độ hiểu hiểu biết cũng như kinh nghiệm xét xử giữa các thành viên trong hội đồng đều dẫn đến hình thức của xét xử tập thể. Vì vậy, việc ban hành quy chế thẩm phán và bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho hội thẩm nhân dân, cũng như hội thẩm quân nhân trong toà án quân sự là hết sức cần thiết trong điều kiện hiện nay.
2.3 Khi xét xử, thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập, chỉ tuân thủ theo Hiến pháp và pháp luật.
Nguyên tắc này đã được xác định sau Cách mạng tháng 8/1945 trong Thông tư số 1246 của Bộ trưởng Bộ nội vụ ngày 25/4/1946: toà án là những cơ quan chuyên môn biệt lập , không phải đặt dưới sự kiểm soát của các cơ quan hành chính. Đến Hiến pháp 1946 Quốc hội cũng quy định: "Trong khi xét xử, các viên thẩm phán chỉ tuân theo pháp luật, các cơ quan khác không được can thiệp. Hiện nay nguyên tắc này được quy định tại Điều 130 Hiến pháp 1992 cũng như Điều 5 Luật tổ chức toà án nhân dân 2002. Nguyên tắc này bắt nguồn từ nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa, nhằm bảo đảm tính khách quan trong quá trình xét xử để áp dụng thống nhất pháp luật ở tất cả các toà án. Nguyên tắc này đòi hỏi:
Thứ nhất, khi xét xử, các thẩm phán và hội thẩm nhân dân trên cơ sở nghiên cứu các hồ sơ vụ án để xác minh chứng cứ, quy phạm pháp luật cần áp dụng để có quyết định cho phù hợp, không phụ thuộc vào ý chí của cá nhân, cơ quan nhà nước hoặc tổ chức xã hội nào. Tuy nhiên, trong quá trình xét xử, toà án vẫn phải lắng nghe ý kiến của các cơ quan nhà nước, trong đó có cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân, của các tổ chức xã hội, quần chúng nhân dân để làm sáng tỏ những vấn đề mà toà án quan tâm nhằm xét xử thấu lý, đạt tình, được nhân dân ủng hộ nâng cao tác dụng, phòng ngừa trong xét xử.
Thứ hai, trong xét xử, các thành viên hội đồng cũng độc lập với nhau trong việc xác định chứng cứ phân tích và lựa chọn quy phạm pháp luật phù hợp để áp dụng... Do đó, trước khi xét xử, đòi hỏi các thành viên trong hội đồng phải nghiên cứu kỹ hồ sơ của vụ án đồng thời phải có những dự kiến nhất định để chủ động trong việc thẩm vấn, xác định quy phạm cần áp dụng và có quyết định cụ thể. Mọi sự thờ ơ với vụ án được xét xử, cũng như sự hiểu biết ít về pháp luật và ỷ lại vào thẩm phán đều dẫn đến sự thụ động, mất độc lập trong xét xử. Ngay tại phòng nghị án, các thành viên hội đồng xét xử các thành viên của hội đồng xét xử cũng độc lập về quan điểm để tranh luận đối với chứng cứ và quy phạm cần áp dụng trước khi biểu quyết.
Thứ ba, đối với một bản án có thể xét xử nhiều lần. Do đó, giữa các toà án cũng độc lập với nhau khi xét xử theo thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Đối với toà án xét xử sơ thẩm không phải " xin ý kiến chỉ đạo" của toà án cấp trên trong từng vụ án cụ thể. Ngược lại, toà án xét xử phúc thẩm hoặc giám đốc thẩm và tái thẩm không lệ thuộc vào những chứng cứ, kết luận và quyết định của toà án đã xét xử sơ thẩm mà phải tự mình xác định lại chứng cứ, quy phạm thích hợp để áp dụng và có quyết định cụ thể.
2.4 Toà án xét xử công khai, trừ trường hợp do luật định.
Nguyên tắc này đã được xác định sau Cách mạng tháng 8/1945 tại điều 67 Hiến pháp 1946. Hiện nay, nguyên tắc này vẫn được xác định tại điều 131 Hiến pháp 1992. Nguyên tắc toà án xét xử công khai bắt nguồn từ nguyên tắc tất cả quyền lực thuộc về nhân dân lao động trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, để thu hút đông đảo nhân dân tham gia vào hoạt động xét xử, đảm bảo xự giám sát của nhân dân trong xét xử cũng như để nâng cao tác dụng giáo dục, phòng ngừa của hoạt động xét xử. Để đảm bảo nguyên tắc này, các toà án nhân dân phải có kế hoạch xét xử các vụ án. Kế hoạch đó phải được niêm yết tại trụ sở toà án, phải thông báo tại chính quyền xã, phường nơi cư trú, hoặc nơi làm việc cuỗi cùng của bị cáo. Đồng thời toà án phải thông báo cho bị cáo, người bị hại và các đương sự cũng như những người có liên quan đến vụ án biết thời gian, địa điểm xử án. Đối với những vụ án điển hình mà nhiều người quan tâm, toà án phải thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng để dân biết, tham dự. Về nguyên tắc, việc xét xử được tiến hành tại phòng xử án của toà án, nhưng toà án cũng có thể xét xử lưu động ngay tại địa phương nơi xảy ra vụ án. Trong cả hai trường hợp trên, toà án cần phải thông báo trước và rõ ràng về thời gian và địa điểm xử án.
Mọi công dân đều có quyền tham dự phiên toà, được nghe ý kiến của hội đồng xét xử cũng như người có liên quan đến vụ án. Trong những trường hợp cần thiết phải giữ gìn bí mật nhà nước hoặc thuần phong mỹ tục của dân tộc... Toà án có thể xét xử kín một phần hay toàn bộ vụ án. Tuy nhiên dù xét xử công khai hay xử kín, quyết định của toà án phải được đọc công khai để mọi người biết.
2.5 Nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật.
Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật là một trong những quyền cơ bản của công dân Việt Nam, đã được xác định từ sau cách mạng Tháng 8/1945. hiện nay, quyền cơ bản này của công dân được Quốc hội xác định tại điều 52 Hiến pháp 1992. Trên cơ sở quy định này, điều 8 Luật tổ chức toà án nhân dân quy định: toà án xét xử trên nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt, nam nữ, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, địa vị xã hội.
Toà án là cơ quan chuyên trách bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Vì vậy trong quá trình xét xử phải bảo đảm áp dụng pháp luật một cách thống nhất, công bằng. Do đó trong những điều kiện và hoàn cảnh như nhau mà không phân biệt địa vị xã hội, dân tộc, nam, nữ...
Mặt khác, trong xét xử, các toà án phải đảm bảo cho công dân được thực hiện các quyền tố tụng như: quyền đệ trình ứng cử, quyền yêu cầu thay đổi thành phần của hội đồng xét xử, quyền được kháng cáo... được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự và các văn bản tố tụng khác.
2.6 Quyền bào chữa của bị cáo được bảo đảm.
Nguyên tắc này được xác định sau Cách mạng tháng 8/1945 trong Hiến pháp 1946 tại điều 67. Hiện nay tại điều 132 Hiến pháp 1992, Quốc hội quy định: quyền bào chữa của bị cáo được bảo đảm. Bị cáo có thể tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa cho mình.
Bằng những chứng cứ cụ thể, bị cáo có thể chứng minh trước toà những hành vi của mình là vô tội hoặc có tội nhưng cần phải xử ở mức nhẹ hơn. Qua những chứng cứ do bị cáo đưa ra, toà án có thể đánh gia đúng hơn tính chất của những hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo để xét xử đúng tội, đúng lượng hình.
Để thực hiện quyền bào chữa của mình, bị cáo có thể tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa cho mình. Để tạo điều kiện cho bị cáo bào chữa, Nhà nước phát triển các tổ chức luật sư và ban hành pháp lênh, luật về quy chế tổ chức luật sư. Hiện nay ở hầu hết các tỉnh đều có các đoàn luật sư để giúp bị cáo và các đương sự khác thực hiện quyền bào chữa. Trong những trường hợp cần thiết, mặc dù bị cáo không yêu cầu nhưng toà án vẫn phải yêu cầu đoàn luật sư cử người bào chữa cho bị cáo. Đó là những trường hợp: Bị cáo có nhược điểm về thể chất và tinh thần như mù, điếc, câm...làm hạn chế khả năng bào chữa; bị cáo phạm những tội đặc biệt nghiêm trọng mà mức án nặng nhất có thể tử hình; bị cáo là người vị thành niên phạm tội nghiêm trọng như cướp của, giết người, hiếp dâm; những vụ án có ảnh hưởng chính trị lớn ở địa phương, sự cần thiết phải cử luật sư bào chữa để làm sáng toe nguyên nhân và điều kiện phạm tội cũng như tính chất của vụ án.
Để tạo điều kiện cho các bị cáo thực hiện quyền bào chữa, Nhà nước còn quy định cho các toà án phải tống đạt cáo trạng cho bị cáo và người đại diện hợp pháp của họ hoặc người bào chữa chậm nhất là 10 ngày trước khi xét xử. Tại phiên toà, bị cáo được đề xuất chứng cứ, được thỉnh cầu.
2.7 Công dân Việt Nam có quyền được dùng tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình trước toà án.
Nguyên tắc này cũng được xác định từ Hiến pháp 1946 tại điều 66 và hiện nay được quy định tại điều 133 Hiến pháp 1992.
Việc xét xử ở các toà án là một quá trình, trong đó giai đoạn thẩm vấn tại phiên toà có ý nghĩa đặc biệt quan trọng để xác định lại chứng cứ, làm sáng tỏ nguyên nhân vi phạm pháp luật, các tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ làm cơ sở cho việc nghị án. Giai đoạn thẩm vấn tại phiên toà phải hết sức thận trọng, chính xác nhằm tìm ra sự thật. Những câu hỏi mà hội đồng xét xử cũng như những người tham gia tố tụng đưa ra phải rõ ràng nhằm làm sáng tỏ bản chất vụ án. Việc trả lời của bị cáo, người bị hại, của người làm chứng cũng phải diễn đạt một cách rõ ràng, đúng sự thật. Để bị cáo, bị hại, các đương xự cũng như những người làm chứng khác trình bày một cách dễ dàng và chính xác, sự cần thiết phải được diễn đạt bằng tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình. Do đó, trong những trường hợp cần thiết, toà án phải chuẩn bị và cử người phiên dịch.
2.8 Hệ thống và cơ cấu tổ chức của toà án nhân dân.
2.8.1 Cơ cấu tổ chức của toà án nhân dân tối cao được quốc hội quy định tại điều 17 Luật tổ chức toà án nhân dân bao gồm:
Chánh án toà án nhân dân, do Quốc hội bầu ra từ trong số các đại biểu Quốc hội, theo sự giới thiệu của chủ tịch nước, bằng con đường bỏ phiếu kín (thông thường tại kỳ họp đầu tiên của mỗi khoá Quốc hội). Nhiệm kỳ của chánh án toà án nhân dân tối cao theo nhiệm kỳ của Quốc hội.
Các phó chánh án do chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm và cách chức. Nhiệm kỳ của các phó chánh án toà án nhân dân là 5 năm.
Các thẩm phán toà án nhân dân tối cao do Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức theo để nghị của hội đồng tuyển chọn thẩm phán. Nhiệm kỳ của các thẩm phán Toà án nhân dân tối cao cúng là 5 năm.
Các hội thẩm nhân dân của Toà án nhân dân tối cao do Uỷ ban thường vụ Quốc hội cử theo sự giới thiệu của đoàn chủ tịch Uỷ ban trung ương mặt trận tổ quốc Việt Nam. Nhiệm kỳ của hội thẩm nhân dân Toà án nhân dân tối cao cũng là 5 năm.
Thư ký toà án nhân dân tối cao do chánh án toà án nhân dân tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm.
Tổng biên chế của toà án nhân dân tối cao do Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết định theo đề nghị của chánh án toà án nhân dân tối cao.
Để thực hiện nhiệm vụ quyền hạn của mình, Toà án nhân dân tối cao phải có những tổ chức thích hợp. Những tổ chức đó là:
hội đồng thẩm phán toà án nhân dân tối cao.
Hội đồng thẩm phán toà án nhân dân tối cao gồm có: chánh án, các phó chánh án, các chánh toà chuyên trách thuộc toà án nhân dân tối cao và một thẩm phán toà án nhân dân tối cao do chánh án toà án nhân dân tối cao cử và trình Uỷ ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn.
Hội đông thẩm phán Toà án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử cao nhất theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm, đồng thời là cơ quan hướng dẫn công tác xét xử của toà án các cấp.
Uỷ ban thẩm phán toà án nhân dân tối cao.
Uỷ ban thẩm phán toà án nhân dân tối cao gồm có: chánh án, các phó chánh án, chánh toà các toà chuyên trách trong toà án nhân dân tối cao. Uỷ ban thẩm phán thực chất là tổ chức thường tực của Hội đồng thẩm phán toà án nhân dân tối cao, có trách nhiệm xét xử tái thẩm và giám đốc thẩm các vụ án mà bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo quy định của pháp luật tố tụng. Uỷ ban thẩm phán có trách nhiệm hướng dẫn các toà án thực hiện nghị quyết của Hội đồng thẩm phán, thông qua báo cáo của chánh án toà án nhân dân tối cao trước khi trình Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, chủ tịch nước xem xét.
Các toà án chuyên trách của toà án nhân dân tối cao bao gồm:
Toà hình sự, toà dân sự, toà kinh tế, toà lao động, toà hành chính, các toà phúc thẩm, toà án quân sự trung ương. Cụ thể là:
Toà hình sự và toà dân sự, kinh tế, lao động, toà hành chính của toà án nhân dân tối cao gồm có: chánh án, các phó chánh án, thẩm phán và thư ký toà án. Toà hình sự và toà dân sự của toà án nhân dân tối cao là tổ chức xét xử các vụ án hình sự và dân sự theo các thủ tục sơ thẩm đồng thời là chung thẩm( bản án được thi hành ngay) đối với những vụ án theo quy định của pháp luật tố tụng; giám đốc thẩm và tái thẩm những vụ án và bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo kháng nghi theo thủ tục của pháp luật tố tụng. Tuy nhiên, việc xét xử sơ thẩm đồng thời là chung thẩm không thể đảm bảo rằng tất cả các bản án đều xử đúng. Vì vậy cần thực hiện hai cấp xét xử, bỏ thủ tục xét xử sơ thẩm, đồng thời là chung thẩm của các toà án nói trên là rất cần thiết.
Toà án phúc thẩm của toà án nhân dân tối cao hiện nay có ba toà ở Đà Nẵng, Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Gồm có chánh toà, các phó chánh toà, các thẩm phán và thư ký toà án.
Toà phúc thẩm toà án nhân dân tối cao phúc thẩm những vụ án mà bản án quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của toà án cấp dưới trực tiếp bị kháng cáo kháng nghị.
Toà án quân sự trung ương gồm có chánh án (là phó chánh án toà án nhân dân tối cao), các phó chánh án, các thẩm phán và hội thẩm nhân dân, thư ký toà án. Toà án quân sự trùn ương là tổ chức xét xử theo thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm các vụ án hình sự đối với những đối tượng nhất định: quân nhân tại ngũ, công nhân quốc phong hay dân thường xâm phạm đến quân nhân, trang thiết bị của quân đội.
Bộ máy giúp việc.
Bộ máy giúp việc của toà án nhân dân tối cao như: văn phòng , các vụ, viện... nhằm phục vụ cho hoạt động chủ yếu là xét xử của toà án nhân dân tối cao.
Trong trường hợp cần thiết, Uỷ ban thường vụ quốc hội sẽ quyết định thành lập thêm các toà án khác theo đề nghị của chánh án toà án nhân dân tối cao. Xu hướng chung, Uỷ ban thường vụ Quốc hội xẽ thành lập; Toà vị thành niên, toà thương mại...
2.8.2 Cơ cấu, tổ chức của toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
Cơ cấu tổ chức của toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương cũng do Quốc hội quy định trong Luật tổ chức toà án nhân dân.
Về cơ cấu, toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương gồm có: chánh án, các phó chánh án, các thẩm phán và hội thẩm nhân dân, thư ký toà án. Số lượng thẩm phán và hội thẩm nhân dân toà án tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương do Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết định theo đề nghị Bộ trưởng Bộ tư pháp sau khi đã thống nhất ý kiến với chánh án toà án nhân dân tối cao.
Trong tổ chức, toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương gồm có: Uỷ ban thẩm phán, các toà chuyên trách và bộ máy giúp việc.
Uỷ ban thẩm phán toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương gồm có: chánh án, các phó chánh án, chánh toà các toà chuyên trách của toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Uỷ ban thẩm phán là tổ chức xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm những vụ án mà bản án, quyết định đã có hiệu lực của toà án cấp dưới bị kháng cáo, kháng nghị, đồng thời bảo đảm việc thống nhất pháp luật tại toà án cấp mình và các toà án cấp dưới, tổng kết kinh nghiệm xét xử ở địa phương và thông qua báo cáo của chánh án toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương về công tác xét xử ở địa phương trước khi báo cáo với hội đồng nhân dân cùng cấp và với toà án nhân dân tối cao.
Các toà án chuyên trách bao gồm: toà hình sự, toà dân sự, toà kinh tế, toà lao động và toà hành chính. Mỗi toà chuyên trách đều có chánh toà, phó chánh toà, các thẩm phán, thư ký toà án.
Các toà chuyên trách của toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương xét xử sơ thẩm các vụ án do pháp luật tố tụng quy định, xét xử phúc thẩm những vụ án mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của toà án cấp dưới bị kháng cáo kháng nghị.
2.8.3 Cơ cấu tổ chức của toà án nhân dân huyện và tương đương.
Toà án nhân dân huyện và tương đương cũng gồm có: chánh án, phó chánh án, các thẩm phán và hội thẩm nhân dân, thư ký toà án. Chánh an, phó chánh án, các thẩm phán đều do chủ tịch nước bổ nhiệm.
Còn hội thẩm nhân dân do Hội đồng nhân dân cùn cấp bàu ra theo sự giới thiệu của Uỷ ban mặt trận tổ quốc cùng cấp, số lượng thẩm phán và hội thẩm nhân dân của toà án nhân dân huyện, quận và tương đương do Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ tư pháp sau khi đã thống nhất với chánh án toà án nhân dân tối cao.
Về tổ chức của toà án nhân dân huyện, quận và tương đương, rất đơn giản, không có các toà chuyên trách cũng như các phòng, ban. Tuỳ theo tình hình và tính chất từng vụ án, chánh án toà án nhân dân sẽ phân công phó chánh án, thẩm phán và hội thẩm nhân dân để xét xử các vụ án hình sự, dân sự, lao động, hôn nhân và gia đình theo một trình tự thủ tục xét xử duy nhất là sơ thẩm.
2.8.4 Cơ cấu tổ chức của các Toà án quân sự.
Các toà quân sự gồm có: toà án quân sự trung ương, các toà quân sự quân khu, quân chủng và tương đương, các toà án quân sự khu vực.
Các toà án quân sự được tổ chức trong quân đội nhân dân Việt Nam để xét xử những vụ án hình sự mà bị cáo là những quân nhân tại ngũ, công nhân quốc phòng và những vụ án khác theo quy định của pháp luật.
Đối với toà án quân sự trung ương như đã nghiên cứu, còn đối với các toà án quân sự quân khu, quân chủng và tương đương; toà án quân sự khu vực cuungx gồm có chánh án, các phó chánh án, các thẩm phán, hội thẩm nhân dân và thư ký toà án. Số lượng thẩm phán và hội thẩm quân nhân của toà án quân sự quân khu và tương đương, toà án quân sự khu vực do Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết định theo sự đề nghị của Bộ trưởng, Bộ tư pháp và sau khi đã thống nhất ý kiến với Bộ trưởng quốc phòng và chánh án toà án nhân dân tối cao. Tổ chức cụ thể của toà án quân sự các cấp do Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định.
CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN HIỆN NAY VÀ PHƯƠNG HƯỚNG ĐỔI MỚI HỆ THỐNG TOÀ ÁN.
3.1 Thực trạng tổ chức và hoạt động của toà án nhân dân hiện nay.
Về hoạt động xét xử, trong năm 2009, Toà án nhân dân (TAND) và Toà án quân sự các cấp đã giải quyết được 274.147 vụ án trong tổng số 295.989 vụ án đã thụ lý. Số vụ án còn lại là 21.842 vụ còn trong thời hạn luật định và đang được tiếp tục giải quyết theo quy định của pháp luật… Theo đánh giá chung của ông Trương Hoà Bình - Chánh án Toà án nhân dân tối cao (TANDTC), các phán quyết của Toà án căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng, trên cơ sở xem xét khách quan, toàn diện các chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên toà, nên chất lượng xét xử được đảm bảo. Toà án các cấp đã chú trọng đào tạo, tập huấn, rút kinh nghiệm nhằm nâng cao trình độ, kỹ năng xét xử cho Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân.
Tuy nhiên, tại Hội triển khai công tác năm 2010 của ngành TAND vừa mới diễn ra cách đây chưa lâu, báo cáo của TANDTC đã thẳng thắn chỉ ra nhiều yếu kém, tồn tại của ngành Toà án trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự (chưa chấp hành đúng các hướng dẫn của TANDTC). Qua kiểm tra đã phát hiện 360/21.749 trường hợp Toà án áp dụng hình phạt tù cho hưởng án treo không đúng quy định pháp luật. Theo Chánh án TANDTC Trương Hoà Bình, những trường hợp này phải kháng nghị để sửa chữa sai lầm và có hình thức xử lý nghiêm túc đối với Thẩm phán đã xét xử sai (tạm dừng tái bổ nhiệm 12 Thẩm phán vì có vi phạm áp dụng án treo không đúng pháp luật).
Đặc biệt, trong các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại, việc chấp hành quy định về thời hạn giải quyết, xét xử của ngành Toà án chưa thật tốt. Cụ thể, còn trên 1.000 vụ án (chiếm 0,3% số vụ án phải giải quyết) để quá thời hạn xét xử. Các vụ án quá hạn luật định phần lớn là các vụ việc dân sự tập trung ở Hà Nội, TP HCM, Lâm Đồng... Việc xét xử các vụ án dân sự về tranh chấp đất đai còn bị kháng cáo theo thủ tục giám đốc thẩm với số lượng nhiều. Nguyên nhân chủ yếu là do người dân chưa có nhận thức thống nhất về giá trị của giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Kỹ năng viết bản án của nhiều Toà còn chưa đúng với hướng dẫn của Hội đồng Thẩm phán TANDTC tại các Nghị quyết số 04/2004 và số 05/2005. Điều này dẫn đến một số bản án tuyên không rõ ràng và Toà án phải giải thích, đính chính những sai sót. Cá biệt, có trường hợp phải kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm vì không thể thi hành được trên thực tế.
Theo Phó Chánh án TANDTC Đặng Quang Phương, ngành Toà án cần giải quyết nhanh, dứt điểm các vụ án hình sự và tranh chấp, yêu cầu về dân sPhát biểu tại Hội nghị của ngành Toà án nói trên, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết chỉ đạo: Trong thời gian tới, ngành Toà án cần chú trọng khắc phục sai sót trong xét xử, hạn chế tình trạng sửa án, huỷ án... Đó là TAND các cấp phải xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan người vô tội... Đẩy mạnh thực hiện cải cách tư pháp trong ngành Toà án theo Nghị quyết số 49 theo Nghị quyết số 49 của Bộ Chính trị. Đảm bảo nguyên tắc: Thẩm phán xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật...
Một Thẩm phán có thâm nhiên lâu năm trong ngành Toà án đặt vấn đề: Trong thực tiễn xét xử các loại vụ án, việc huỷ, sửa bản án, quyết định có mức độ khác nhau. Có Thẩm phán xử nhiều vụ, mà bị huỷ một vài vụ, thì tỷ lệ huỷ, sửa án thấp. Trong khi đó, nếu Thẩm phán xét xử ít (dưới 100 vụ/năm), chỉ cần huỷ một vụ cũng đã vượt quá tỷ lệ 1,15% án huỷ. Do vậy, TANDTC cần nghiên cứu vấn đề này, vừa để đảm bảo việc nâng cao chất lượng công tác xét xử, vừa bảo đảm việc đánh giá đúng phẩm chất, năng lực của Thẩm phán trong quá trình tái bổ nhiệm.
Thi hành án hình sự là một trong những nhiệm vụ quan trọng của ngành Toà án. Các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, nếu không được thi hành nghiêm túc, sẽ hạn chế lớn đến tác dụng giáo dục, phòng ngừa và răn đe tội phạm. Căn cứ vào Bộ luật Hình sự và Bộ luật Tố tụng hình sự, Toà án có thẩm quyền ra quyết định thi hành án hình sự, quyết định hoãn, tạm đình chỉ thi hành án phạt tù, xét miễn giảm thời gian chấp hành hình phạt tù, rút ngắn thời gian thử thách của án treo, xoá án tích, miễn giảm tiền phạt, tiền án phí... Như vậy, về mặt pháp lý, trách nhiệm của Tòa án trong công tác thi hành án hình sự là rất lớn. Tuy nhiên, trên thực tế, quá trình bắt giam, đưa phạm nhân đi cải tạo do cơ quan điều tra thực hiện. Việc quản lý giáo dục đối với bị cáo có hình phạt không giam giữ hoặc được hưởng án treo thuộc cơ quan, tổ chức trực tiếp quản lý người bị kết án hoặc chính quyền địa phương nơi người bị kết án cư trú. VKS thực hiện chức năng giám sát việc giáo dục, cải tạo đối với người bị kết án. Vì vậy, trách nhiệm của Toà án trong công tác nói trên có mức độ và chưa cụ thể. Nhều chuyên gia pháp lý nêu ý kiến: cần có một quy chế phối hợp xác định rõ trách nhiệm cụ thể của từng cơ quan tố tụng. Từ đó tổ chức một bộ máy thích hợp, bảo đảm áp dụng đúng quy định của pháp luật.ự nổi cộm, gây bức xúc trong dư luận.
Về công tác thi hành án, việc chuyển giao bản án, quyết định và tang vật từ Toà án nhân dân cho cơ quan thi hành án cơ bản được thực hiện kịp thời, tạo thuận lợi cho các cơ quan thi hành án tiếp nhận, thụ lý, đưa bản án, quyết định ra thi hành theo đúng quy định của pháp luật. Trong quá trình tổ chức thi hành án, có nhiều trường hợp bản án, quyết định của Toà án tuyên không rõ ràng, có sai sót về số liệu, Thủ trưởng cơ quan thi hành án có văn bản yêu cầu giải thích thì Toà án đã kịp thời ra văn bản giải thích, đính chính, tháo gỡ được những tồn tại, vướng mắc trong quá trình tổ chức thi hành án của Chấp hành viên. Trong công tác xét miễn, giảm án phí, tiền phạt theo quy định của pháp luật, Toà án nhân dân cấp huyện đã tạo điều kiện thuận lợi và phối kết hợp tốt với cơ quan thi hành án dân sự nên đã tiến hành xét miễn, giảm đạt kết quả tốt.
Lực lượng công an thường xuyên tham gia phối hợp chặt chẽ với cơ quan thi hành án khi có yêu cầu tham gia bảo vệ cưỡng chế thi hành án hoặc xác minh nhân thân của người phải thi hành án. Trước khi tham gia bảo vệ, Lãnh đạo công an đã cử lực lượng tiến hành khảo sát địa bàn cưỡng chế, lập kế hoạch bảo vệ cưỡng chế phù hợp với đặc điểm, tình hình, từng đối tượng và từng vụ việc cụ thể. Nhờ làm tốt công tác chuẩn bị, các cơ quan thi hành án đã tổ chức cưỡng chế thi hành án nhiều vụ việc, ngăn chặn và làm hạn chế hành vi chống đối của đương sự đối với người thi hành công vụ, bảo vệ an toàn tính mạng của những người tham gia cưỡng chế và các tài sản có liên quan đến việc thi hành án.
Các cơ quan chuyên môn như: Tài chính, Tài nguyên và Môi trường, Xây dựng, Giao thông vận tải, Khoa học và công nghệ, Phòng quản lý đô thị, Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình đã tạo điều kiện thuận lợi giúp cho cơ quan thi hành án dân sự hoàn thành nhiệm vụ, như: cử người tham gia cưỡng chế, kê biên, định giá, gia tài sản để thi hành án, lập thủ tục chuyển quyền sở hữu tài sản, xác nhận quyền sở hữu tài sản. Các tổ chức chính trị - xã hội ở địa phương luôn thể hiện sự nhiệt tình, kịp thời tuyên truyền, động viên, giáo dục, thuyết phục người phải thi hành án hoặc cán bộ, công chức là người phải thi hành án, thuộc hội đoàn thể của mình và nhân dân hiểu quy định của pháp luật về thi hành án dân sự để tự nguyện thi hành án, góp phần làm cho cơ quan thi hành án dân sự giải quyết dứt điểm nhiều vụ án có tính chất phức tạp hoặc những vụ việc liên quan đến họ tộc, người thân của người phải thi hành án.
Tuy nhiên, công tác phối hợp trong thi hành án dân sự vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế cần khắc phục trong thời gian tới.
Một là, việc chuyển giao các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và tang vật cho cơ quan thi hành án dân sự từng lúc, từng nơi thiếu kịp thời, nhất là các việc thi hành án thuộc diện Thủ trưởng cơ quan thi hành án chủ động ra quyết định thi hành án; một số vụ án có tang vật nhưng khi chuyển giao bản án, quyết định, Tòa án chưa chuyển giao tang vật hoặc có chuyển giao nhưng không đầy đủ, không đúng số lượng. Do đó, nhiều trường hợp đương sự đến cơ quan thi hành án yêu cầu tự nguyện thi hành án nhưng vật chứng, tài sản chưa được Tòa án chuyển giao nên gặp nhiều khó khăn khi tổ chức thi hành án.
Có một số trường hợp, bản án, quyết định của Tòa án tuyên không rõ ràng, có sai sót về số liệu, Trưởng Thi hành án dân sự có văn bản yêu cầu giải thích, đính chính nhưng Tòa án trả lời không kịp thời, đầy đủ, cá biệt có trường hợp không trả lời, làm cho việc thi hành án có lúc, có nơi còn tồn đọng, ảnh hưởng đến hoạt động thi hành án và quyền lợi của các đương sự.
Một số Tòa án nhân dân cấp huyện chưa quan tâm xem xét phối hợp trong công tác xét miễn, giảm tiền phạt, án phí, nhiều năm liền chưa xét được trường hợp nào.
Hai là, Viện kiểm sát nhân dân thường xuyên kiểm sát việc tuân theo pháp luật đối với cơ quan thi hành án dân sự nhưng chưa quan tâm đến việc kiểm sát các cơ quan trong việc phối hợp thi hành án hoặc kiểm sát việc tuân theo pháp luật đối với người phải thi hành án, người được thi hành án và những cá nhân, tổ chức khác có liên quan đến việc thi hành án.
Ba là, khi cơ quan thi hành án dân sự có kế hoạch tổ chức cưỡng chế thi hành án đối với các vụ việc có tính chất phức tạp, có văn bản yêu cầu lực lượng Cảnh sát bảo vệ và hỗ trợ tư pháp thực hiện nhiệm vụ bảo vệ trật tự cưỡng chế, vẫn còn một số đơn vị chưa đáp ứng yêu cầu của cơ quan thi hành án, như: cử không đủ lực lượng tham gia, tham gia thiếu nhiệt tình, tinh thần trách nhiệm bảo vệ chưa cao, cá biệt có trường hợp khước từ không cử lực lượng công an tham gia bảo vệ cưỡng chế thi hành án.
Bốn là, công tác vận động, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật nói chung và pháp luật về thi hành án dân sự nói riêng trong các cơ quan, đoàn thể, tổ chức chính trị - xã hội còn hạn chế, chưa thường xuyên. Vì vậy, ý thức chấp hành việc thi hành án dân sự của người có nghĩa vụ thi hành án ở một số nơi còn xem nhẹ, nhiều trường hợp chây ỳ, thách thức, chống đối làm ảnh hưởng đến hoạt động thi hành án dân sự và ảnh hưởng đến tính nghiêm minh của pháp luật.
Năm là, sự chỉ đạo của cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương có lúc, có nơi chưa thực sự quan tâm, chỉ đạo đúng mức trong công tác phối hợp, hỗ trợ giữa các cơ quan hữu quan với cơ quan thi hành án dân sự, vẫn còn quan niệm cho rằng việc đó là của cơ quan thi hành án dân sự, nên chưa tập trung chỉ đạo giải quyết dứt điểm những vụ việc thi hành án còn tồn đọng, kéo dài nhiều năm, nhất là những vụ thi hành án dân sự có liên quan đến Ủy ban nhân dân cấp xã và các Hợp tác xã nông nghiệp là đơn vị phải thi hành án. Nhiều Ban chỉ đạo thi hành án chưa duy trì họp định kỳ, nên những vụ việc phức tạp, liên quan đến nhiều ngành, nhiều cấp chưa được đưa ra bàn bạc thống nhất để chỉ đạo thi hành, nhiều vụ việc còn tồn đọng, kéo dài dẫn đến khiếu nại vượt cấp.
Sáu là, việc phối hợp giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với công tác thi hành án dân sự còn gặp nhiều khó khăn như: đương sự chưa nắm bắt đầy đủ các quy định của pháp luật, án có điều kiện thi hành nhưng khiếu nại, tố cáo vượt cấp, kéo dài, trong khi đó cấp Ủy và chính quyền địa phương cũng như các ngành có liên quan thiếu sự quan tâm chỉ đạo và phối hợp tập trung giải quyết dứt điểm, làm cho số lượng đơn khiếu nại, tố cáo vượt cấp chưa giảm.
Bảy là, việc phối hợp xử lý tài sản để đảm bảo thi hành án, như công tác định giá tài sản, có một số cơ quan chuyên môn cử người chưa đảm bảo chuyên môn nên gặp khó khăn trong việc xác định giá trị tài sản. Có một số trường hợp, khi Chấp hành viên mời các cơ quan tham gia Hội đồng định giá tài sản kê biên nhưng không cử người hoặc có cử nhưng không đủ thành phần, làm cho vụ việc phải hoãn nhiều lần, gây trở ngại cho việc tổ chức thi hành án.
Thủ tục đăng ký, chuyển quyền sử dụng, sở hữu nhà đất và tài sản khác do cơ quan thi hành án phát mãi cũng còn nhiều khó khăn, kéo dài thời gian, yêu cầu nhiều loại giấy tờ có liên quan đến tài sản mà cơ quan thi hành án không thể đáp ứng được. Việc bán đấu giá tài sản để thi hành án trong một số trường hợp còn chậm, phải bổ sung thủ tục, đi lại nhiều lần và chưa tổ chức bán đấu giá tại nơi có tài sản để tạo điều kiện cho nhiều người tham gia đấu giá và đảm bảo được giá trị thật của tài sản bán đấu giá.
Để góp phần làm cho công tác thi hành án dân sự ngày càng hiệu quả hơn, thì công tác phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức hữu quan với cơ quan thi hành án dân sự cần được quan tâm, chú trọng hơn. Các cấp ủy Đảng và chính quyền địa phương cần tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo thường xuyên, sát sao hơn việc phối hợp giữa các cơ quan hữu quan trong công tác thi hành án dân sự.
3.2 Phương hướng đổi mới tổ chức và hoạt động của toà án nhân dân hiện nay.
Vừa qua, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2-6-2005 đề cập đến những yêu cầu cơ bản về cải cách tư pháp từ nay đến 2020, trong đó đưa ra nhiệm vụ “Tổ chức hệ thống toà án theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính. Đổi mới tổ chức toà án nhân dân tối cao theo hướng tinh gọn với đội ngũ thẩm phán là những chuyên gia đầu ngành về pháp luật, có kinh nghiệm trong ngành”. Để thực hiện phương hướng nêu trên, bài viết dưới đây nêu ra một số vấn đề liên quan cần lưu ý và đề xuất ý kiến nhằm góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của Toà án.
Đánh giá về thực trạng cơ quan tư pháp, tại Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2-6-2005, Bộ Chính trị nêu rõ: “Tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ, cơ chế hoạt động của các cơ quan tư pháp còn bất hợp lý. Đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp còn thiếu; trình độ nghiệp vụ và bản lĩnh chính trị của một bộ phận cán bộ còn yếu, thậm chí có một số cán bộ sa sút về phẩm chất, đạo đức và trách nhiệm nghề nghiệp. Vẫn còn tình trạng oan, sai trong điều tra, bắt, giam giữ, truy tố, xét xử. Cơ sở vật chất, phương tiện làm việc của cơ quan tư pháp còn thiếu thốn, lạc hậu”. Thực hiện đường lối cải cách tư pháp của Đảng, tại Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2-6-2005, Bộ Chính trị đưa ra những yêu cầu nhiệm vụ cụ thể trong thời gian tới như sau:
1. Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và hoàn thiện tổ chức bộ máy các cơ quan tư pháp. Trọng tâm là xây dựng, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của toà án nhân dân.
2. Tổ chức hệ thống toà án theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính, gồm: toà án sơ thẩm khu vực được tổ chức ở một hoặc một số đơn vị hành chính cấp huyện; toà án phúc thẩm có nhiệm vụ chủ yếu là xét xử phúc thẩm và xét xử sơ thẩm một số vụ án; toà thượng thẩm được tổ chức theo khu vực có nhiệm vụ xét xử phúc thẩm. Toà án nhân dân tối cao có nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, phát triển án lệ và xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm. Việc thành lập toà chuyên trách phải căn cứ vào thực tế xét xử của từng cấp toà án, từng khu vực.
3. Đổi mới tổ chức toà án nhân dân tối cao theo hướng tinh gọn với đội ngũ thẩm phán là những chuyên gia đầu ngành về pháp luật, có kinh nghiệm trong ngành
Như vậy, cơ sở lý luận để tiến hành đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống toà án nhân dân theo thẩm quyền xét xử (mà không theo đơn vị hành chính như hiện nay) bao gồm:
- Toà sơ thẩm khu vực có nhiệm vụ xét xử sơ thẩm những vụ án thuộc thẩm quyền.
-Toà án phúc thẩm có nhiệm vụ chủ yếu xét xử phúc thẩm những vụ án của toà sơ thẩm mà bản án, quyết định có kháng cáo, kháng nghị và xét xử một số vụ án sơ thẩm thuộc thẩm quyền.
-Toà thượng thẩm xét xử phúc thẩm những vụ án của toà phúc thẩm xử sơ thẩm mà bản án hoặc quyết định có kháng cáo, kháng nghị.
- Toà án nhân dân tối cao có nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, phát triển án lệ và xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm.
Những vấn đề đặt ra
Để thực hiện việc đổi mới tổ chức và hoạt động của toà án nhân dân theo, mô hình đổi mới nêu trên, theo chúng tôi, cần giải quyết mấy vấn đề cơ bản sau đây:
Về trách nhiệm và báo cáo công tác của Chánh án toà án
Việc Chánh án Toà án nhân dân địa phương chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân được quy định tại Điều 135 Hiến pháp năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001, thể hiện nguyên tắc hoạt động của toà án phải chịu sự giám sát của nhân dân thông qua cơ quan đại diện cho họ là Hội đồng nhân dân các cấp. Hiện nay, toà án được tổ chức theo các đơn vị hành chính, tương ứng với các cấp chính quyền từ cấp huyện trở lên đều có một toà án nhân dân. Các toà án nhân dân ở mỗi cấp chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân cấp đó.
Theo Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2-6-2005 của Bộ Chính trị , toà án được bố trí theo khu vực. Toà án cấp sơ thẩm có thể bao gồm nhiều huyện, vậy chế độ báo cáo và chịu sự giám sát trước Hội đồng nhân dân được thực hiện thế nào. Tương tự như vậy đối với toà thượng thẩm, đây là cấp toà án mà pháp luật hiện hành không có quy định. Hệ thống các cơ quan nhà nước hiện nay có cơ quan trung ương, ở địa phương là cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã, không có cơ quan tương đương với toà thượng thẩm. Nếu thành lập toà thượng thẩm thì đây là đặc thù của ngành toà án. Vậy toà thượng thẩm là cơ quan trung ương hay cơ quan địa phương, toà thượng thẩm chịu trách nhiệm và báo cáo trước cơ quan quyền lực nào, trung ương hay địa phương, trong khi đó Điều 135 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) quy định, Chánh án toà án nhân dân tối cao chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội; Chánh án toà án nhân dân địa phương chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân.
Về chế độ bổ nhiệm Chánh án, Phó chánh án, Thẩm phán toà án
Theo quy định tại Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân năm 2002 thì hồ sơ bổ nhiệm Chánh án, Phó chánh án cấp tỉnh hoặc cấp huyện đều phải có sự đồng ý của thường trực Hội đồng nhân dân cùng cấp. Việc bổ nhiệm Thẩm phán phải thông qua Hội đồng tuyển chọn thẩm phán do Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân cấp tỉnh làm chủ tịch hội đồng. Hội đồng này có trách nhiệm tuyển chọn cả Thẩm phán cấp tỉnh và Thẩm phán cấp huyện trong phạm vi tỉnh mình trước khi trình Chánh án toà án tối cao ký quyết định bổ nhiệm. Trong trường hợp Toà sơ thẩm khu vực được thành lập theo các đơn vị hành chính trong cùng một tỉnh, thành phố thì không có gì xáo trộn, nếu không cùng đơn vị hành chính cấp tỉnh thì giải quyết thế nào. Chánh án, Phó chánh án, Thẩm phán Toà thượng thẩm sẽ được tuyển chọn theo cơ chế nào, vì đây là cấp toà án mang tính đặc thù trong khi hệ thống các cơ quan nhà nước không có cấp tương đương.
Về chế độ bầu Hội thẩm nhân dân
Việc xét xử của Toà án nhân dân có Hội thẩm nhân dân tham gia đã được quy định trong Hiến pháp và Luật tổ chức toà án nhân dân năm 2002. Điều này thể hiện bản chất của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Nhân dân không chỉ giám sát mà còn trực tiếp tham gia vào các hoạt động của toà án.
Theo quy định tại Điều 41, Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 2002 thì Hội thẩm nhân dân được Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra theo nhiệm kỳ của Hội đồng nhân dân. Trong trường hợp toà sơ thẩm khu vực được thành lập thì Hội thẩm nhân dân có còn do Hội đồng nhân dân cấp huyện bầu ra không. Có ý kiến cho rằng, vẫn nên quy định Hội đồng nhân dân cấp huyện bầu ra Hội thẩm nhân dân toà án sơ thẩm khu vực nhưng tỷ lệ Hội thẩm nhân dân ở mỗi huyện trong khu vực của toà án sơ thẩm sẽ được phân bổ theo số lượng cụ thể tuỳ theo đặc điểm dân cư, địa lý ở mỗi huyện.
Theo quy định của pháp luật hiện hành thì các cấp toà án được phân theo đơn vị hành chính. Theo tinh thần cải cách tư pháp trong Nghị quyết 49 nêu trên, các cấp toà án sẽ được phân định theo thẩm quyền xét xử. Hiện nay, Toà án cấp huyện xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự, dân sự, kinh tế, hành chính, lao động thuộc thẩm quyền; Toà án cấp tỉnh xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự, dân sự, kinh tế, hành chính, lao động thuộc thẩm quyền, xét xử phúc thẩm các bản án sơ thẩm của toà án cấp huyện có kháng cáo, kháng nghị. Xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm những vụ án mà bản án, quyết định sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo quy định của pháp luật tố tụng; Toà án tối cao xử phúc thẩm những vụ án mà các bản án, quyết định của toà án cấp tỉnh xử sơ thẩm có kháng cáo, kháng nghị và xử giám đốc thẩm, tái thẩm những vụ án mà bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo quy định của pháp luật tố tụng.
Với quy định này, để đảm bảo nguyên tắc hai cấp xét xử, Toà án nhân dân tối cao vẫn phải đảm nhiệm chức năng xét xử phúc thẩm các bản án và quyết định sơ thẩm của toà án cấp tỉnh có kháng cáo, kháng nghị. Điều này đã có ảnh hưởng rất lớn đến nhiệm vụ của Toà án tối cao về hướng dẫn các toà án thống nhất áp dụng pháp luật, tổng kết kinh nghiệm xét xử của các toà án, dẫn đến những khó khăn nhất định đối với toà án các cấp trong việc áp dụng pháp luật, nhất là những quy định mới của pháp luật. Trong những năm qua, bằng việc sửa đổi luật để tăng thẩm quyền xét xử cho toà án cấp huyện về hình sự, dân sự, kinh tế, toà án cấp tỉnh đã giảm bớt xét xử sơ thẩm, do vậy đã phần nào giảm bớt áp lực đối với Toà án tối cao về xét xử phúc thẩm.
Tuy nhiên, xét cả về lý luận và thực tiễn thì với năng lực của toà án cấp huyện, hay toà sơ thẩm khu vực theo định hướng đổi mới đều không thể xét xử tất cả các vụ án sơ thẩm, bên cạnh đó còn một số loại án vẫn phải do toà án cấp tỉnh xét xử sơ thẩm.Vì vậy, để đảm bảo nguyên tắc hai cấp xét xử, việc thành lập thêm một cấp toà án nữa đó là toà thượng thẩm để xét xử phúc thẩm những vụ án mà bản án và quyết định của toà án cấp tỉnh có kháng cáo, kháng nghị là cần thiết. Toà án nhân dân tối cao chỉ làm nhiệm vụ xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm, hướng dẫn thống nhất áp dụng pháp luật và phát triển án lệ. Toà án nhân dân tối cao sẽ được đổi mới theo hướng tinh gọn với đội ngũ thẩm phán là những chuyên gia đầu ngành về pháp luật, có kinh nghiệm xét xử và giải quyết án.
Khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật
Thực tiễn xét xử trong những năm qua cho thấy có một số vấn đề cần phải được xem xét trong quá trình cải cách tư pháp nhằm đảm bảo cho Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân thực sự độc lập và chỉ tuân theo pháp luật khi xét xử, đó là:
Phân định rõ ràng thẩm quyền quản lý và thẩm quyền tố tụng trong các cơ quan toà án
Để đảm bảo nguyên tắc này cần phải giải quyết mối quan hệ giữa cán bộ lãnh đạo trong các cơ quan toà án với việc điều hành hoạt động của cơ quan, tổ chức xét xử các vụ án và thẩm quyền xét xử của Thẩm phán. Pháp luật quy định khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là để đề cao yếu tố khách quan, vô tư, không bị ràng buộc bởi yếu tố chủ quan, khách quan, phải tự quyết định và chịu trách nhiệm về những phán quyết của mình trong khi xét xử. Thực tế cho thấy, một số Thẩm phán khi xét xử vẫn chưa hoàn toàn độc lập, vẫn đang còn việc lãnh đạo nghe báo cáo án, định hướng đường lối xét xử, như vậy phần nào đã ảnh hưởng đến nguyên tắc độc lập khi xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân. Có ý kiến cho rằng, lãnh đạo nghe báo cáo án, định hướng đường lối xét xử là để thực hiện nhiệm vụ tổ chức xét xử mà luật đã quy định, mặt khác, lãnh đạo hoặc Uỷ ban thẩm phán cho ý kiến vào việc xét xử các vụ án cũng là để đảm bảo thống nhất đường lối xét xử, còn Thẩm phán phải là người chịu trách nhiệm cuối cùng về quyết định của một bản án. Trong các văn bản nghị quyết của Đảng, quy định của Nhà nước về trách nhiệm người đứng đầu cơ quan phải chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động của cơ quan. Nhiệm vụ chính của Toà án, là xét xử các vụ án, Chánh án có nhiệm vụ tổ chức xét xử. Vì vậy, theo chúng tôi, cần phải có quy định rõ ràng hơn về trách nhiệm của Chánh án để không vi phạm nguyên tắc độc lập xét xử của Thẩm phán.
Hiện nay, những mặt trái của cơ chế thị trường đã tác động trực tiếp đến hoạt động của các cơ quan nhà nước, trong đó, có Toà án, dẫn đến tình trạng phẩm chất đạo đức của một số thẩm phán bị giảm sút; năng lực của một bộ phận thẩm phán không đáp ứng trước yêu cầu đổi mới. Vì vậy, song song với việc nâng cao phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên môn nghiệp vụ Thẩm phán, cần phải có các cơ chế để kiểm tra, giám sát hoạt động xét xử để các Thẩm phán có đủ bản lĩnh thực hiện nguyên tắc độc lập khi xét xử.
Đổi mới trình tự thủ tục bổ nhiệm Thẩm phán theo hướng Thẩm phán được bổ nhiệm dài hạn, không theo nhiệm kỳ.
Hiện nay, nhiệm kỳ của Thẩm phán được quy định là năm năm, sau năm năm, Thẩm phán được xem xét để tái bổ nhiệm. Việc quy định nhiệm kỳ Thẩm phán đã phần nào đòi hỏi Thẩm phán phải cố gắng phấn đấu học tập về chuyên môn nghiệp vụ, giữ gìn phẩm chất đạo đức để được bổ nhiệm lại trong nhiệm kỳ tiếp theo, nhưng đây cũng là điểm làm hạn chế tính độc lập của Thẩm phán khi xét xử. Các Thẩm phán rất ngại xét xử những vụ án có liên quan đến những người có thẩm quyền nhận xét, đề nghị, bổ nhiệm thẩm phán, nhất là các vụ án hành chính. Tuy nhiên, trong giai đoan hiện nay, theo chúng tôi, việc quy định bổ nhiệm Thẩm phán theo nhiệm kỳ vẫn cần thiết, bởi vì như trên đã nói, do tác động của ngoại cảnh, do trình độ chuyên môn nghiệp vụ, cần thiết phải cách chức hoặc thay thế một số Thẩm phán. Trong khoảng 10 năm tới, chúng ta vẫn cần phải quy định nhiệm kỳ bổ nhiệm Thẩm phán để dần dần thanh lọc, chuẩn bị tiến tới bổ nhiệm Thẩm phán dài hạn.
Nhà nước cần phải đảm bảo về cơ sở vật chất, điều kiện làm việc, chế độ đãi ngộ cho Thẩm phán, tạo điều kiện để Thẩm phán độc lập khi xét xử
Để các Thẩm phán không bị chi phối bởi tiêu cực của xã hội, ngoài các quy định cụ thể rõ ràng của pháp luật, sự giám sát của nhân dân, Nhà nước cần có sự đãi ngộ đúng mức để cho họ có thể vô tư khách quan trong xét xử. ở các nước trên thế giới, Thẩm phán được xếp ngạch lương cao nhất trong các cơ quan nhà nước. Trong quá trình đổi mới tổ chức, hoạt động của các cơ quan toà án, cũng cần phải xem xét, có lộ trình để nâng dần chế độ đãi ngộ cho Thẩm phán để họ yên tâm làm tốt công tác xét xử. Tuy nhiên, chế độ đãi ngộ cho Thẩm phán phải căn cứ vào thực trạng nền kinh tế nước ta và phải xem xét đến thực trạng phẩm chất, năng lực đội ngũ Thẩm phán. Hiện nay, không thể áp dụng tăng lương để làm biện pháp hạn chế tiêu cực của Thẩm phán mà cần giải quyết đồng bộ với các biện pháp khác về tổ chức, quy định của pháp luật, dư luận xã hội, cơ chế quản lý... Đối với các Thẩm phán yếu kém về chuyên môn nghiệp vụ thì phải bồi dưỡng, đào tạo, thay thế kịp thời.
Đổi mới tổ chức và hoạt động của Toà án nhân dân là yêu cầu bức thiết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của Toà án. Việc đổi mới tổ chức và hoạt động của Toà án nhân dân không chỉ tác động đến ngành toà án mà còn liên quan đến tổ chức và hoạt động của các cơ quan khác, như cơ quan điều tra, Viện kiểm sát; liên quan đến việc sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật hiện hành và có thể phải sửa đổi cả Hiến pháp, vì vậy cần phải có bước đi thích hợp nhằm đảm bảo sự thống nhất trong hoạt động của cả hệ thống các cơ quan nhà nước.
PHẦN KẾT LUẬN
Nguyên tắc và tổ chức của Toà án nhân dân là một vấn đề quan trọng, không chỉ đối với khoa học pháp lý mà với cả nền kinh tế, chính trị, văn hoá xã hội. Muốn một đất nước phát triển ổn định về tất cả các mặt kinh tế - chính trị - văn hoá thì cần phải có một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, tiến bộ. Tuy nhiên, để có thể bảo vệ tốt hệ thống pháp luật, tăng cường sức mạnh của luật pháp, cũng như việc đưa pháp luật vào cuộc sống thì cần phải xây dựng một hệ thống toà án để bảo vệ pháp luật.
Trong bối cảnh hiện nay, nền kinh tế thị trường nhiều thành phần đang hình thành và phát triển, nó kéo theo nhiều tranh chấp phức tạp, nhiều loại tội phạm mới, vì vậy hệ thống toà án trước đây vốn để đáp ứng các điều kiện kinh tế xã hội cũ theo cơ chế tập trung quan liêu bao cấp vốn dĩ đã lạc hậu nay không thể đáp ứng các yêu cầu của đất nước nữa thì cần phải cải tiến và đổi mới.
Do đó, trong nội dung nghiên cứu của mình, tôi cố gắng làm rõ các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của hệ thống toà án ở Việt Nam hiện nay, để từ đó nêu ra những yếu kém, khuyết điểm hiện nay của ngành toà án, kèm theo các phương pháp, chính sách đổi mới của Đảng, Nhà nước ta đối với hệ thống toà án, đáp ứng yêu cầu mới chung của toàn xã hội.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1) Bộ Chính trị, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2-6-2005 đề cập đến những yêu cầu cơ bản về cải cách tư pháp từ nay đến 2020.
2) Bộ Chính trị,Chỉ thị số 53 – CT/TW
ngày 21-3-2000 về Một số công việc cấp bách của các cơ quan tư pháp cần thực hiện trong năm 2000.
3) Ban Bí thư,Chỉ thị số 34 – TC/TW ngày 18-3-1994 về Sự lãnh đạo của Đảng đối với việc tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán Toà án nhân dân, Thẩm phán Toà án quân sự các cấp.
4) Bộ Chính trị, Nghị quyết số 08-NQ/TW Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới.
5) Quốc hội, Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hoà 1946, 1960.
6) Quốc hội, Hiến pháp nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1980.
7) Quốc hội, Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1992, sửa đổi và bổ sung 2001.
8) Quốc hội, Luật tổ chức toà án nhân dân 2002.
9) Quốc hội, Luật tổ chức toà án nhân dân 1992, sửa đổi 1993.
10) Trường đại học quốc gia Hà Nội, Giáo trình Luật hiến pháp Việt Nam, Nhà xuất bản Công an nhân dân, 1998.
Các wed site:
www.cpv.org.vn/
www.chinhphu.vn/
www.nclp.org.vn/
www.google.com.vn
www.diendanluathoc.com.vn
www.vi.wikipedi.org.vn
www.thanhtra.gov.vn
www.vietnamnet.vn
www.tapchiluathoc.com.vn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- phanada.doc