Đề tài Nhật Bản - Thị trường tiềm năng cho thủ công mỹ nghệ Việt Nam, thực trạng và giải pháp

Trong những năm qua, tình trạng những người nông dân bỏ ruộng vườn và làng quê về sinh sống tại các thành phố lớn như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Đà Nẵng . đã gây ra biết bao điều nhức nhối về mặt xã hội. Để giải quyết vấn đề này, thì việc tạo cho họ công ăn việc làm là một trong những biện pháp hữu hiệu vì một mặt chúng ta đã thành công trong công tác xóa đói giảm nghèo cho người dân lao động, mặt khác lại có điều kiện thu về cho đất nước những khoản ngoại tệ mạnh phục vụ trực tiếp sự nghiệp công nghiệp hóa đất nước.

doc110 trang | Chia sẻ: Kuang2 | Lượt xem: 904 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nhật Bản - Thị trường tiềm năng cho thủ công mỹ nghệ Việt Nam, thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
các cơ sở sản xuất kinh doanh dưới dạng các bản tin chuyên đề định kỳ và các bản tin nhanh. Mặt khác, các doanh nghiệp phải chủ động công tác tiếp thị, nắm bắt thông tin theo cách riêng của mình, không thụ động trông chờ vào các cơ quan Nhà nước, các cơ quan xúc tiến thương mại. Có thể nói, vì mục tiêu phát triển hàng thủ công mỹ nghệ và đẩy mạnh lượng xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ, phát huy được tiềm năng và lợi thế về khả năng xuất khẩu, Chính phủ cần nhanh chóng triển khai hiệu quả các biện pháp trên và đề ra những chính sách, biện pháp khuyến khích và hỗ trợ các doanh nghiệp trong công tác xúc tiến thương mại cụ thể hơn nữa để các sản phẩm Việt Nam có thể đứng vững trên thị trường quốc tế. */ Thành lập các hiệp hội cho các mặt hàng thủ công mỹ nghệ Ở nước ta, các doanh nghiệp, các đơn vị xuất khẩu chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, khả năng cạnh tranh kém nên khi tham gia vào thị trường quốc tế thường bị động, phụ thuộc vào thị trường, thị phần nhỏ bé, không ổn định và thường bị ép giá. Vì vậy, trong thời gian qua, để khắc phục yếu điểm trên, nhiều hiệp hội đã được thành lập, tập hợp các doanh nghiệp, các đơn vị sản xuất trong cùng một ngành nghề, cùng mặt hàng như Hiệp hội Cà phê Việt Nam, Hiệp hội xuất khẩu gạo Việt Nam ... Thông qua hoạt động của mình, các hiệp hội này giúp đỡ các thành viên về vốn, tiếp cận nguồn thông tin nhanh, chính xác, đề ra chiến lược sản xuất, kinh doanh và chiến lược giá.... cho toàn ngành nên đã hoạt động rất hiệu quả, tăng vị thế và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường quốc tế. Điều đáng tiếc là việc thành lập những hiệp hội cho các mặt hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu hiện còn chưa được đề cập đến nhiều. Bộ Thương mại cần nhanh chóng xem xét việc thành lập các hiệp hội này trong thời gian ngắn nhất có thể. Các hiệp hội này sẽ quy tụ các doanh nghiệp xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ trong cả nước, các cơ sở sản xuất ở các địa phương, các làng nghề cùng tham gia. Hiệp hội sẽ là nơi để các cơ sở sản xuất và các doanh nghiệp xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ gặp gỡ, trao đổi kinh nghiệm, giúp đỡ nhau giải quyết những khó khăn vướng mắc, học hỏi lẫn nhau, đề ra chiến lược hoạt động chung, đồng thời tìm các biện pháp để nâng cao năng lực cạnh tranh của các mặt hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam, từ đó đẩy mạnh xuất khẩu trực tiếp sang thị trường nước ngoài, không qua trung gian để tăng thu lợi nhuận. 1.2. Sửa đổi bổ xung các quy định cho vay vốn, nhất là vốn ưu đãi Vốn luôn là nỗi băn khoăn không chỉ của các nhà sản xuất mà của cả các nhà quản lý kinh doanh xuất khẩu. Bởi lẽ hầu hết các cơ sở đều thiếu vốn để đầu tư phát triển, cải tiến hay trang bị công cụ thiết bị công nghệ mới, sáng tác thay đổi mẫu mã, nâng cao chất lượng sản phẩm. Theo kết quả điều tra của Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn cho biết chỉ có khoảng 2,4% số cơ sở được vay từ Quỹ quốc gia giải quyết việc làm, và khoảng 13,2% vay được từ Quỹ tín dụng nông thôn, còn lại thường phải vay của tư nhân với lãi suất nặng gấp 2-3 lần. Có đến 97% số cơ sở sản xuất thủ công mỹ nghệ ở quy mô hộ gia đình nên thiếu mối liên kết về kinh tế kỹ thuật. Vậy Nhà nước cần sửa đổi các quy định cho vay vốn để doanh nghiệp sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ có thể được trực pthiếp như vay với lãi suất thấp, giúp mở rộng quy mô sản xuất. */ Theo Nghị định 43/1999/NĐ-CP ngày 29/6/1999 của Chính phủ về tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, thì chỉ những dự án đầu tư tại các vùng khó khăn ( trong đó có các dự án sản xuất hàng xuất khẩu, đặc biệt là các dự án sử dụng nhiều lao động ) mới được vay vốn từ Quỹ hỗ trợ phát triển Nhà nước. Vì vậy Chính phủ cần mở rộng thêm việc cho vay vốn từ Quỹ này đối với các dự án đầu tư sản xuất - kinh doanh thuộc các ngành nghề thủ công mỹ nghệ truyền thống đã được quy định trong danh mục A, không kể là dự án đầu tư tại vùng nào. Đồng thời các dự án này được áp dụng chính sách “Hỗ trợ lãi suất sau đầu tư” quy định tại Nghị định 43 nêu trên, hoặc được Quỹ này bảo lãnh tín dụng đầu tư. Trường hợp dự án đầu tư sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu thì còn có thể được Quỹ hỗ trợ xuất khẩu Quốc gia cấp tín dụng xuất khẩu ưu đãi và bảo lãnh tín dụng xuất khẩu. */ Chính sách khuyến khích, ưu đãi hiện có đối với các ngành nghề truyền thống ( theo Luật khuyến khích đầu tư trong nước ) là áp dụng cho các dự án đầu tư thành lập mới hoặc mở rộng các cơ sở sản xuất kinh doanh các mặt hàng thủ công mỹ nghệ. Thực trạng hiện nay là các đơn vị sản xuất - kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ đều thiếu vốn, không vay được vốn hoặc không đủ sức vay vốn với lãi suất cao để tổ chức sản xuất - kinh doanh ( mua nguyên vật liệu để sản xuất hoặc mua sản phẩm để tiêu thụ trong nước và xuất khẩu ). Vì vậy để khuyến khích khai thác các cơ sở sản xuất - kinh doanh hiện có tăng nguồn hàng cho xuất khẩu, đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh có hợp đồng xuất khẩu đạt mức từ 50.000 USD trở lên Chính phủ nên tạo điều kiện cho hưởng các ưu đãi về vốn kinh doanh như sau: - Được Ngân hàng ưu tiên cho vay đủ vốn sản xuất - kinh doanh theo hợp đồng đã ký - Sau khi thực hiện hợp đồng, được Quỹ hỗ trợ phát triển của Nhà nước hoặc Quỹ hỗ trợ xuất khẩu hỗ trợ lãi suất theo quy định tại Nghị định 43/1999/NĐ-CP, tức là hỗ trợ 50% lãi suất trên số vốn thực tế đã vay của Ngân hàng. - Đồng thời, các nhà sản xuất - kinh doanh hàng xuất khẩu cũng được hưởng các ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp quy định tại điều 27 Nghị định 51/1999/NĐ-CP ngày 08/7/1999 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật khuyến khích đầu tư trong nước ( sửa đổi ), tức là các ưu đãi bổ sung về thuế đối với nhà đầu tư sản xuất – kinh doanh hàng xuất khẩu. 1.3. Nâng cao chất lượng lao động */ Có chính sách lâu dài về phương hướng phát triển, đào tạo đội ngũ thợ lành nghề. Hiện nay số thợ thủ công lành nghề của chúng ta có thể nói là không thiếu, song số thợ có tay nghề giỏi, các nghệ nhân thì còn rất ít và trong tương lai con số này có nguy cơ giảm xuống đáng kể do tuổi tác và bỏ nghề. Thực trạng trên là do việc hỗ trợ đào tạo truyền nghề cho lớp trẻ trong thời gian qua không được quan tâm thích đáng. Chủ yếu việc đào tạo thợ trong các làng nghề truyền thống của ta từ trước đến nay vẫn được thực hiện theo lối truyền nghề trực tiếp, các thế hệ sau tự quan sát, học hỏi người đi trước. Ưu điểm của loại hình dạy nghề này là kinh phí đào tạo thường thấp và trong thời gian học nghề người học viên vẫn tạo ra được sản phẩm. Tuy nhiên nhược điểm là đa số học viên chỉ được học kỹ thuật làm ra sản phẩm thủ công mỹ nghệ mà không tiếp thu được giá trị nghệ thuật, tính thẩm mỹ của từng sản phẩm. Đồng thời người học cũng thường đi theo lối mòn của người đi trước nên khó có được sự sáng tạo trong qua trình sản xuất. Vì vậy Nhà nước cần có các biện pháp thiết thực, kịp thời để giúp đỡ các làng nghề truyền thống trong việc đào tạo tay nghề cho lớp trẻ cũng như giúp đỡ các nghệ nhân trong việc truyền nghề như mở một số trường mỹ thuật, hoặc các khoa mỹ thuật thực hành để đào tạo thợ thủ công theo phương thức vừa học vừa lao động sản xuất tại các làng nghề, cơ sở sản xuất, nhất là các cơ sở có nhiều hàng xuất khẩu. Mặt khác Nhà nước có thể hỗ trợ chi phí từ Quỹ hỗ trợ việc làm để các cơ sở sản xuất tự tổ chức việc đào tạo nghề. Khuyến khích các nghệ nhân giỏi đào tạo những nghệ nhân nối nghiệp mình bằng cách cấp bằng khen hoặc trao Huy chương “Vì sự nghiệp phát triển ngành nghề truyền thống” kèm theo một khoản tiền thưởng xứng đáng. Mặt khác Nhà nước cần có những chính sách hỗ trợ để nâng cao đời sống người thợ. Hiện nay do nhiều nguyên nhân khác nhau, nhiều người thợ thủ công mỹ nghệ có tay nghề giỏi bỏ việc làm để làm những việc khác có thu nhập cao hơn. Số thợ còn lại chưa thật an tâm với nghề, vì theo họ, lao động của mình chưa được quan tâm đúng mức, mức thu nhập còn thấp và không nhận được những hỗ trợ của chính sách quốc gia. Do vậy, Nhà nước cần có chính sách trợ giá cho sản phẩm thủ công mỹ nghệ, giúp người lao động cải thiện đời sống để yên tâm bám nghề, nâng cao tay nghề. Đồng thời Nhà nước cần phối hợp với các đơn vị xuất khẩu nghiên cứu hạn chế bớt các khâu trung gian để người thợ không bị cắt xén phần thu nhập của mình thì họ mới có thể tận tâm tận lực với công việc. Có chính sách khuyến khích nâng đỡ các nghệ nhân, người có tay nghề cao về tinh thần và vật chất để họ có điều kiện sáng tác, chế tạo các sản phẩm mới nhằm bảo tồn và làm chuẩn mực cho lớp trẻ học tập và nâng cao kiến thức tay nghề. Bên cạnh đó cần tạo điều kiện cho các nghệ nhân, thợ giỏi ở các làng nghề có cơ hội gặp gỡ, trao đổi kinh nghiệm, tiến hành tổ chức cho họ đi tham quan thực tế các Hội chợ triển lãm hàng thủ công mỹ nghệ Quốc tế, các nước xuất khẩu cũng như nhập khẩu măth hàng thủ công mỹ nghệ lớn trên thế giới, để từ đó người thợ của ta có cơ hội tìm hiểu xu hướng cũng như thị hiếu của người tiêu dùng trên thị trường trong nước cũng như thế giới. */ Tổ chức thi tay nghề, phong danh hiệu nghệ nhân theo định kỳ Hàng năm nên tổ chức thi tay nghề, thi sáng tác mẫu, qua đó sẽ khuyến khích cổ vũ người thợ tự rèn luyện nâng cao tay nghề, làm cơ sở tôn vinh các nghệ nhân, thợ giỏi, vô hình sẽ tạo ra một không khí làm việc nỗ lực, nghiêm túc trong nghề. Mặt khác, những cuộc thi tay nghề còn có ý nghĩa về mặt hỗ trợ xúc tiến vì đây là một trong những thước đo đánh giá trình độ của nghệ nhân, trình độ thợ của từng cơ sở sản xuất, thu hút những đơn đặt hàng tới những cơ sở đạt nhiều danh hiệu, có uy tín, tạo nên tính cạnh tranh công bằng, công khai về chất lượng. Qua những cuộc thi như vậy có thể tuyển chọn những sản phẩm chất lượng, tạo thành bộ sưu tập về các nghề thủ công Việt Nam qua từng thời kỳ, chuẩn bị cho trưng bày trong các khu trung tâm trưng bày cố định nhằm giới thiệu khả năng đích thực của thủ công mỹ nghệ Việt Nam với bạn hàng các nước. */ Đầu tư thiết bị công nghệ kết hợp với kỹ xảo làm tay hình thành dây chuyền sản xuất hoàn thiện Ngành nghề thủ công dường như vẫn nằm ngoài các chương trình đầu tư khoa học-công nghệ của Nhà nước. Điều khá ngạc nhiên là cả bên cung (các nhà khoa học, mỹ thuật) rất cần đến nhà sản xuất để chuyển những đề tài nghiên cứu của mình từ bàn giấy, phòng thí nghiệm thành sản phẩm thương mại; ngược lại bên cầu (nhà sản xuất) cũng rất cần các nhà khoa học, mỹ thuật đưa công nghệ, sáng tác mẫu mã mới cho sản phẩm. Nhưng cả hai bên đến nay vẫn chưa gặp nhau. Do đó bên cung tiếp tục kêu không có đất dụng võ, bên cầu tiếp tục phàn nàn tiếp tục phàn nàn sự hờ hững của nhà khoa học, mỹ thuật. Thực tế, trong sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ đang có nhiều vấn đề cần sự hợp tác của hai bên. Chẳng hạn ở nhóm hàng mỹ nghệ kim hoàn, đến nay một số hàng đồng ghép tam khí, ngũ khí đã bị thất truyền. Các màu xanh (để thể hiện lá cây), màu đen (thể hiện con trâu) không làm được, đều thể hiện bằng màu trắng, màu đỏ. Thứ hai, việc làm bằng tay đã tạo ra các sản phẩm bản gốc (đơn chiếc) có tính độc đáo, tinh xảo nhưng đồng thời giá quá cao không hợp túi tiền người nông dân trong nước, giảm sức cạnh tranh xuất khẩu, đang đòi hỏi đưa thiết bị công nghệ vào để có thể sản xuất hàng loạt. Thứ ba, trang trí và mẫu mã sản phẩm còn đơn điệu nghèo nàn. Đây chỉ là 3 trong nhiều vấn đề mà hai bên có thể hợp tác. Sự ách tắc không phảI do cơ chế quản lý mà do chưa hình thành một cơ chế (tự nguyện) hợp tác “thương mại hóa phát minh khoa học” */ Đa dạng hóa sản phẩm, khai thác điểm mạnh, tính độc đáo của sản phẩm của mình. Cần có thông tin cần thiết về nhu cầu thị trường, từ đó thiết kế được các mẫu mã có khả năng hấp dẫn thị trường. Có thể sử dụng chuyên gia tư vấn Nhật Bản trong việc cải tiến mẫu mã sản phẩm cho phù hợp thị hiếu tiêu dùng của người Nhật. 1.4. Ban hành khung pháp lý hỗ trợ hoạt động xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ Thời gian gần đây, Chính phủ đã có nhiều tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp hoạt động xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ. Ngày 24/1/2000, Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định 132/2000/QĐ-TTg về một số chính sách khuyến khích phát triển ngành nghề nông thôn, trong đó nội dung chủ yếu là đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ. Quyết định này đã có những quy định cụ thể đối với từng lĩnh vực như đất đai xây dựng cơ sở sản xuất-kinh doanh, phát triển khai thác nguyên liệu phục vụ sản xuất, các chính sách về đầu tư, tín dụng, thuế, lệ phí, hỗ trợ xúc tiến thương mại Hiện nay, một số bộ ngành liên quan đang cụ thể hóa về mức độ và thủ tục thực hiện. Theo Thông tư số 61 của Bộ Tài chính, kể từ ngày 1/1/2002 các doanh nghiệp sẽ được Nhà nước hỗ trợ chi phí hoạt động xúc tiến thương mại bằng 0,2% kim ngạch xuất khẩu thực thu trong năm. Tiếp theo đó, Thông tư số 62 của Bộ này cũng tháo gỡ các khó khăn của doanh nghiệp về chi hoa hồng môI giới xuất khẩu. Theo đó, các khoản chi này sẽ được hạch toán vào chi phí bán hàng của doanh nghiệp, đối tượng hưởng hoa hồng xuất khẩu gồm cả các doanh nghiệp, các cơ quan đại diện ngoại giao của Việt Nam ở nước ngoài. Bên cạnh đó, khó khăn về vay vốn ưu đãI đã được Chính phủ “khai thông” qua Quyết định 02/2001/QĐ-TTg ngày 2/1/2001 về chính sách hỗ trợ đầu tư từ Quỹ hỗ trợ phát triển đối với các dự án sản xuất, chế biến hàng xuất khẩu và sản xuất nông nghiệp. Một khuyến khích rất cụ thể nữa đã được áp dụng là chính sách thưởng xuất khẩu cho doanh nghiệp theo năm tiêu chuẩn: có mặt hàng mới, thị trường mới, chất lượng cao, đạt quy mô về kim ngạch và tốc độ tăng trưởng xuất khẩu theo quy định. Đã có một doanh nghiệp được thưởng cả năm tiêu chuẩn này, đó là Công ty Sản xuất - Xuất nhập khẩu Tổng hợp Hà Nội (Haprosimex). Có thể nói nhiều cơ chế, chính sách mới rất thông thoáng đã tạo điều kiện thuận lợi, tiếp sức cho doanh nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu. Vấn đề còn lại là tổ chức thực hiện có hiệu quả các chính sách biện pháp được đề ra. Tuy nhiên, trong thực tế vẫn còn không ít trường hợp chậm triển khai hay thực hiện chưa đồng bộ giữa các bộ, ngành, tạo rào cản không đáng có đối với doanh nghiệp xuất khẩu. Nhìn chung, nhiều cơ chế, chính sách mới rất thông thoáng đã tạo điều kiện thuận lợi, tiếp sức cho doanh nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu. Vấn đề còn lại là tổ chức, thực hiện có hiệu quả các chính sách, biện pháp đề ra. Tuy nhiên, trong thực tế vẫn còn không ít trường hợp chậm triển khai hoặc thực hiện chưa đồng bộ giữa các Bộ ngành, tạo rào cản không đáng có đối với doanh nghiệp xuất khẩu. 2. Các giải pháp vi mô 2.1. Xây dựng chính sách Marketing hợp lý Một trong những yếu điểm lớn nhất của các doanh nghiệp xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam trong việc đẩy mạnh tiêu thụ hàng hoá là công tác xây dựng và triển khai chính sách marketing. Được tiếp xúc với khái niệm marketing tương đối muộn (đầu những năm 1990), các doanh nghiệp xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ chưa thực sự nhận thức được vai trò quan trọng của hoạt động marketing để vận dụng nó một cách hiệu quả trong khi đó, các doanh nghiệp nước ngoài đã coi đây là một chiến lược kinh doanh, quyết định sự thành công của nghiệp vụ kinh doanh. Đặc biệt, trong điều kiện cạnh tranh gay gắt trên thị trường xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ hiện nay, khi mà đa số các doanh nghiệp đều cung cấp các sản phẩm có chất lượng tương đương nhau, doanh nghiệp nào vận dụng chính sách marketing hiệu quả hơn thì sẽ vượt lên các doanh nghiệp khác. Đó chính là nguyên nhân khiến cho các doanh nghiệp xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ mặc dù cung cấp các sản phẩm có chất lượng cao song vẫn không thể cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Vì mục tiêu đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ và nâng cao hiệu quả nói chung, các đơn vị ngoại thương cần đặc biệt coi trọng hoạt động marketing bởi nó đem lại cho doanh nghiệp rất nhiều lợi ích: + Marketing giúp doanh nghiệp tìm ra nhu cầu thị trường và thoả mãn tốt nhất nhu cầu thị trường: marketing nghiên cứu môi trường, thị trường xuất khẩu, thị hiếu khách hàng, giúp doanh nghiệp tiếp cận khách hàng ... từ đó tìm ra các sản phẩm mà thị trường có nhu cầu, đồng thời đề ra kế hoạch sản xuất, cung ứng nguyên liệu, kế hoạch phân phối sản phẩm.... để thoả mãn tốt nhất nhu cầu thị trường. + Thông qua hoạt động marketing, doanh nghiệp có thể đạt được lợi nhuận tối ưu. Marketing nghiên cứu kỹ môi trường bên trong cũng như bên ngoài doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp tìm ra những ưu điểm, hạn chế của mình, những cơ may của thị trường và môi trường, những ưu thế, thế mạnh của mình, khắc phục những hạn chế, nhược điểm. + Thông qua hoạt động marketing, các doanh nghiệp đưa ra chiến lược sản xuất, kinh doanh đồng thời tìm cách cải tiến chất lượng sản phẩm và nhận thức rằng chất lượng là vũ khí hàng đầu trong cạnh tranh, nhờ đó thúc đẩy sản xuất cả về chất lượng. Với những lợi ích như trên, marketing đang trở nên không thể thiếu, thậm chí quyết định sự thành bại của hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Thực tế đã chứng minh trong bối cảnh thị trường cạnh tranh gay gắt hiện nay, chỉ có những doanh nghiệp có chính sách marketing hiệu quả mới có thể đứng vững và vươn xa. Tuy nhiên có một thực trạng là hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam đều biết đến hoạt động marketing nhưng số những doanh nghiệp hiểu rõ tầm quan trọng và vận dụng tốt hoạt động marketing, coi nó là một chiến lược kinh doanh và sử dụng nó có hiệu quả lại không nhiều. Những doanh nghiệp vận dụng hiệu quả marketing tập trung chủ yếu ở khu vực có vốn nước ngoài. Đối với doanh nghiệp Việt Nam, marketing đơn thuần chỉ là hoạt động quảng cáo. Chính quan niệm này khiến cho các doanh nghiệp Việt Nam mất đi khả năng cạnh tranh, không chỉ trên thị trường quốc tế mà ngay trên thị trường trong nước. Phần lớn doanh nghiệp Nhà nước đã quen với cơ chế xin cho, xuất khẩu theo chỉ tiêu kế hoạch của Nhà nước, nay phải tự hạch toán kinh doanh, đương đầu với những đối thủ cạnh tranh mạnh hơn ta rất nhiều, các doanh nghiệp xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam cần đề ra cho mình một chiến lược kinh doanh phù hợp, đặc biệt là xây dựng một chính sách marketing hiệu quả. 2.2. Nâng cao hiệu quả của việc nghiên cứu thị trường xuất khẩu - thị trường đầy tiềm năng Nhật Bản Ngày nay Nhật Bản là một thị trường mở quy mô lớn đối với các nhà đầu tư và các sản phẩm nước ngoài với khoảng 1259 triệu dân có mức sống khá cao. Năm 1999, tổng kim ngạch nhập khẩu của Nhật Bản là 327 tỷ USD. Do Nhật Bản là một thị trường hết sức cạnh tranh vì lượng hàng hóa nhập khẩu rất nhiều nên doanh nghiệp cần nghiên cứu thị trường và phát triển sản phẩm phù hợp với nhu cầu thị trường để có thể thâm nhập thị trường Nhật Bản. Nghiên cứu thị trường xuất khẩu có ý nghĩa rất quan trọng, nó cho phép doanh nghiệp đánh giá được quy mô và tiềm năng thị trường xuất khẩu và là cơ sở để lựa chọn thị trường xuất khẩu tốt nhất. Để làm tốt việc này, các doanh nghiệp cần phải tổ chức củng cố lại phòng điều tra nghiên cứu thị trường, tổng hợp tin tức và xử lý thông tin để đưa ra định hướng và quyết định kinh doanh đúng đắn, kịp thời, chính xác và hiệu quả cao. Trong việc nghiên cứu các thông tin thị trường, phương pháp nghiên cứu phổ biến hiện nay là nghiên cứu tài liệu. Phương pháp này tuy đỡ tốn kém và phù hợp với khả năng của nhiều doanh nghiệp nhưng độ tin cậy không cao, hơn nữa thông tin lại không cập nhật. Vì vậy, các doanh nghiệp nên chuyển hướng khai thác các nguồn thông tin khác bằng nhiều phương pháp hiện đại như tìm kiếm thông tin qua mạng Internet, qua các tổ chức xúc tiến thương mại, đặc biệt là Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), Tổ chức xúc tiến thương mại Nhật Bản JETRO. Để tăng cường xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ vào thị trường Nhật Bản Bên các doanh nghiệp cần lưu ý: - Nghiên cứu chính sách ngoại thương của Nhật Bản về tính ổn định, mức độ tác động, sự can thiệp của Chính phủ Nhật .. đối với các vấn đề: chính sách thị trường, chính sách mặt hàng, chính sách hỗ trợ ... - Xác định và dự báo biến độ nhu cầu hàng hoá trên thị trường thế giới, trong đó cần chú ý một số vấn đề: + Xác định tiềm năng của thị trường Nhật Bản về những mặt hàng thủ công mỹ nghệ đang cần nhập khẩu qua số liệu thống kê, thăm dò ý kiến khách hàng, bán hàng thử ... + Xác định yêu cầu cụ thể của thị trường Nhật Bản về các sản phẩm thủ công mỹ nghệ của Việt Nam như kiểu dáng, mẫu mã, tiêu chuẩn, chất lượng, những quy định về xuất nhập khẩu, phương thức bán hàng ... để có những thay đổi linh hoạt cho phù hợp với nhu cầu và điều kiện thị trường Nhật Bản. + Nghiên cứu những nhu cầu mới phát sinh của thị trường Nhật Bản để có thể mở rộng hoạt động kinh doanh trong nhiều lĩnh vực mới nếu được Nhà nước cho phép. + Nghiên cứu tiềm năng bán hàng của các đối thủ cạnh tranh khác trên thế giới, phân tích các kênh bán hàng, giá cả, mẫu mã, quảng cáo .. để tìm ra điểm mạnh, điểm yếu của đối thủ cạnh tranh. Từ đó đưa ra những kết luận bổ ích cho việc xâm nhập thị trường Nhật Bản ngày càng dễ dàng hơn sau này. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp Việt Nam cũng cần nghiên cứu về sự biến động nhu cầu đối với hàng thủ công mỹ nghệ và những nhân tố ảnh hưởng đến sự biến động đó để có chính sách xuất khẩu phù hợp. Thông thường có thể thấy các nhân tố ảnh hưởng đến sự biến động nhu cầu này bao gồm: Nhân tố có tính chu kỳ làm dung lượng thị trường biến đổi như sự vận động của tình hình kinh tế các nước trên thế giới, tính chất thời vụ trong sản xuất, phân phối và lưu thông hàng hoá. Nhân tố ảnh hưởng lâu dài đến dung lượng thị trường như sự tiến bộ của khoa học công nghệ, tập quán tiêu dùng, các hàng hoá thay thế. Nhân tố ảnh hưởng tạm thời đến dung lượng thị trường như sự đầu cơ, chiến tranh, hạn hán, bão lụt, các xung đột chính trị xã hội. Bên cạnh đó, để đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ, các doanh nghiệp cần nghiên cứu các yếu tố môi trường bên ngoài, đặc biệt là môi trường kinh tế, môi trường văn hoá và môi trường cạnh tranh. Do sản phẩm thủ công mỹ nghệ không thuộc nhóm các nhu yếu phẩm nên chỉ ở những nước có nền kinh tế tương đối phát triển như Nhật Bản, người tiêu dùng mới quan tâm đến các sản phẩm mang tính nghệ thuật trang trí. Tuy nhiên, ở mỗi nước, đặc điểm về văn hoá, lối sống, thị hiếu người tiêu dùng lại rất khác nhau nên doanh nghiệp cần nghiên cứu, nắm bắt được đặc điểm của thị truờng Nhật Bản khi muốn đẩy mạnh xuất khẩu vào thị trường rất “kén chọn” này. Ngoài yêu cầu về chất lượng, các doanh nghiệp sản xuất cần đặc biệt chú ý đến việc tạo ra những sản phẩm phù hợp với những nét đặc trưng về văn hoá của người tiêu dùng Nhật Bản. Chẳng hạn như đồ gốm sứ, người Nhật đánh giá cao đồ gốm sứ mang phong cách châu Á với màu trắng, hoa văn đơn giản, kiểu dáng cổ ... chứ không ưa chuộng màu sắc sặc sỡ, kiểu dáng hiện đại khoáng đạt. Đặc biệt, cần tìm hiểu rõ tình hình cạnh tranh trên thị trường Nhật Bản để xem xét khả năng thâm nhập thị trường của doanh nghiệp. Do năng lực cạnh tranh chưa cao, các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam có thể lựa chọn thâm nhập vào các thị trường ngách (niche market) là những thị trường, nhóm khách hàng hoặc sản phẩm có nhu cầu mà các doanh nghiệp lớn không để ý tới để khai thác triệt để, bán được nhiều hàng hơn, tăng thu lợi nhuận. Sau đó, doanh nghiệp cần nghiên cứu môi trường bên trong của mình để xem xét khả năng sản xuất sản phẩm của mình: khả năng cung ứng nguyên liệu, nguồn nhân công, khả năng tài chính ... Từ đó, xây dựng kế hoạch xuất khẩu sao cho tận dụng được tối đa các nguồn lực của mình. 2.3. Xây dựng chính sách giá như một công cụ cạnh tranh hữu hiệu Từ trước đến nay, các doanh nghiệp xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam thường chỉ lựa chọn chính sách giá phù hợp với giá trên thị trường chứ chưa sử dụng nó như một công cụ cạnh tranh. Điều này khiến cho giá xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam hoàn toàn phụ thuộc vào sự biến động của thị trường xuất khẩu, đôi khi không đem lại doanh thu và lợi nhuận tối ưu cho doanh nghiệp. Để xây dựng một chính sách giá hiệu quả, trước hết doanh nghiệp cần căn cứ vào mục tiêu của doanh nghiệp trong từng giai đoạn cụ thể: mục tiêu doanh số, lợi nhuận, xâm nhập thị trường, tập trung xuất khẩu số lượng lớn hay mở rộng và chiếm lĩnh thị trường. Nếu mục tiêu của doanh nghiệp là xâm nhập thị trường, doanh nghiệp nên bán với giá hợp lý để hấp dẫn thu hút khách hàng. Nếu mục tiêu của doanh nghiệp là doanh thu và lợi nhuận, doanh nghiệp cần tính toán sao cho sản phẩm được bán với giá có lợi nhất để thu lợi nhuận tối ưu. Đồng thời, đối với từng loại sản phẩm, doanh nghiệp cũng nên có chính sách giá thích hợp. Với những sản phẩm mà Việt Nam có ưu thế, chúng ta có thể xuất khẩu với giá cao hơn giá của đối thủ cạnh tranh. Với những sản phẩm tương tự sản phẩm của đối thủ cạnh tranh, giá xuất khẩu phải ngang bằng thậm chí thấp hơn giá của đối thủ cạnh tranh mới có thể tiêu thụ được do khả năng cạnh tranh của chúng ta kém hơn họ. 2.4 Lựa chọn tham gia hội chợ triển lãm quốc tế về hàng thủ công mỹ nghệ phù hợp Trong các hình thức để thông tin tới khách hàng về doanh nghiệp và sản phẩm của doanh nghiệp như: quảng cáo, tham dự hội chợ triển lãm, xúc tiến bán hàng, quan hệ với công chúng ... các doanh nghiệp xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ thường lựa chọn hình thức tham gia hội chợ triển lãm. Thông qua hội chợ như vậy, doanh nghiệp có thể thông tin kịp thời cho đông đảo khách hàng để họ nhận diện được sản phẩm của doanh nghiệp, đồng thời tìm hiểu sản phẩm của các đối thủ cạnh tranh, và nhất là ký kết các hợp đồng xuất khẩu, tìm bạn hàng mới. Tuy nhiên, với điều kiện hạn chế về kinh phí, việc tham dự hội chợ triển lãm đối với doanh nghiệp xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ là rất tốn kém lại chỉ diễn ra trong thời gian ngắn. Doanh nghiệp xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ nên tham gia các hội chợ quốc tế về hàng thủ công mỹ nghệ được tổ chức định kỳ hàng năm ở Nhật, là những hội chợ có uy tín, tập trung đầy đủ các nhà cung ứng hàng thủ công mỹ nghệ lớn và các nhà trung gian mua bán hàng có uy tín trên thế giới. Đối với mỗi hội chợ triển lãm, doanh nghiệp cần xác định mục tiêu của mình khi tham gia và chuẩn bị thật chu đáo cho hội chợ triển lãm đó. Trong thời buổi cạnh tranh cao, việc chủ động tìm đến với thị trường và tiếp xúc bạn hàng, người tiêu dùng sẽ mang lại cơ hội kinh doanh và thành công cho doanh nghiệp. Hiện nay lượng khách du lịch Nhật Bản vào Việt Nam ngày càng tăng, hơn nữa lại có nhiều người Nhật đang sống và làm việc tại Việt Nam nên việc tăng cường tiếp thị tại chỗ qua các cửa hàng bán lưu niệm tại những điểm du lịch hoặc cửa khẩu cũng là một biện pháp tốt tạo tiếng vang cho sản phẩm. Cuối cùng, một công việc rất quan trọng là đánh giá hiệu quả tham gia hội chợ triển lãm của doanh nghiệp sau khi kết thúc hội chợ triển lãm, qua đó rút kinh nghiệm cho lần tham gia sau. Đôi khi đây là công việc quyết định sự thành công của doanh nghiệp trong lần tham gia hội chợ triển lãm sắp tới, nhưng các doanh nghiệp Việt Nam lại rất hay bỏ qua công tác này. Đó cũng chính là một trong những nguyên nhân khiến nhiều doanh nghiệp Việt Nam chưa thu được kết quả như ý muốn khi tham gia hội chợ triển lãm. 2.5 Mở rộng nhiều hình thức kinh doanh hàng xuất khẩu Hàng thủ công mỹ nghệ thường được bán theo từng lô hàng nhỏ, hợp đồng nhỏ. Nhiều khách hàng nước ngoài, nhất là khách mới, muốn mua những lô hàng nhỏ để bán thử trên thị trường, không muốn mua theo phương thức trả tiền ngay. Để có thể tân dụng được mọi đối tượng khách hàng, đề nghị cho phép các doanh nghiệp kinh doanh các mặt hàng này, tùy theo phương thức bán hàng trả chậm, phương thức gửi bán hoặc phương thức đại lý ở nước ngoàI có sự bảo lãnh tín dụng của ngân hàng hoặc của quỹ hỗ trợ xuất khẩu. 2.6 Sử dụng mạng Internet để trao đổi, tìm kiếm thông tin về sản phẩm thủ công mỹ nghệ giữa ta và bạn hàng quốc tế Trước đây, việc giới thiệu sản phẩm thủ công mỹ nghệ chủ yếu bằng hiện vật, tờ rơi, thư tay... thường tốn nhiều thời gian, chi phí và đôi khi lại không đem lại hiệu quả cao. Ngày nay, các doanh nghiệp có thể ứng dụng kỹ thuật hiện đại vào việc quảng cáo, giới thiệu sản phẩm của mình cho đông đảo khách hàng một cách nhanh chóng, hiệu quả hơn bằng cách mở trang Web của riêng mình. Thông qua các trang Web, doanh nghiệp có thể giới thiệu với khách hàng những thông tin mới nhất về sản phẩm của mình kèm theo hình ảnh giới thiệu các mẫu sản phẩm thủ công mỹ nghệ để khách hàng lựa chọn, đồng thời cung cấp những chi tiết cần thiết cho việc ký kết hợp đồng để khách hàng có thể quyết định việc ký hợp đồng ngay lập tức hoặc đàm phán thêm thông qua thư điện tử ... giao thức này vừa nhanh chóng, vừa tiết kiệm được chi phí đi lại cho mỗi bên, đem lại hiệu quả cao cho hợp đồng xuất khẩu. Nhiều khi, thông tin về thị trường, chính sách của Nhà nước là rất quan trọng, có khi quyết định sự thành bại cho các thương vụ của doanh nghiệp. Vì vậy, chúng ta nên xây dựng các trang Web hoặc các văn phòng cung cấp thông tin tại các tỉnh thành. Ngày 7.11.2001 vừa qua, "Mạng điện tử hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam" chính thức khai trương nhằm giới thiệu và bán hàng hoá Việt Nam (chủ yếu là hàng thủ công mỹ nghệ) cho người tiêu dùng Nhật Bản. Tổ chức Xúc tiến thương mại Nhật Bản (JETRO) dưới sự chỉ đạo và hợp tác của Bộ Kinh tế thương mại và công nghiệp Nhật Bản (METI) và Bộ Th- ương mại Việt Nam, Cục Xúc tiến thương mại Việt Nam (VIETRADE) đã tiến hành xây dựng mạng thương mại điện tử thí điểm nhằm phổ cập hình thức thương mại điện tử vốn chưa được phát triển giữa hai nước. Mục đích của chương trình thử nghiệm này là thông qua việc đặt mua hàng qua mạng có tính chất thí điểm của người tiêu dùng Nhật Bản để phát hiện và nắm chắc những điểm cần lưu ý và những vấn đề còn tồn tại để từ đó xây dựng quan hệ thương mại điện tử giữa hai nước ngày càng hiệu quả hơn. Địa chỉ trên mạng: Có 19 công ty, doanh nghiệp của Việt Nam được lựa chọn tham gia chương trình này. Các mặt hàng giao dịch: Gồm 200 mặt hàng, chủ yếu là hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam. Mục đích chủ yếu là thông qua việc đặt mua hàng qua mạng của người tiêu dùng Nhật Bản nhằm kiểm chứng một số vấn đề sau: Tạo mô hình kinh doanh mới (tìm chọn doanh nghiệp, hàng hoá có thể giao dịch, vấn đề xây dựng và hạch toán giá thành...); Cách xây dựng và vận hành mạng (thiết lập hệ thống và xây dựng trang Web, quản lý việc đặt và giao hàng, vấn đề an ninh trên mạng...); Việc giao nhận vận chuyển (quản lý và vận hành việc giao nhận trên mạng ra sao...); Vấn đề thanh toán (cách quản lý và vận hành việc thanh toán trong thương mại điện tử như thế nào...). Cũng trong khuôn khổ chương trình hỗ trợ của JETRO, các doanh nghiệp xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam có thể tiếp cận Chương trình Khuyến khích thắt chặt thương mại (TTPP) qua mạng Internet để tìm kiếm cơ hội kinh doanh tại Nhật Bản. TTPP sẽ cung cấp thông tin về các điều kiện kinh doanh, các dịch vụ sưu tra và danh sách các công ty Nhật Bản có nhu cầu đặt hàng thủ công mỹ nghệ tại địa chỉ trang web Được biết, JETRO đang phối hợp với Sở Kế hoạch và Đầu tư TP. Hồ Chí Minh tiến hành thiết lập trang Web về thị trường Nhật Bản. Trang Web này về có chức năng cung cấp các báo cáo thị trường về các ngành hàng thủ công mỹ nghệ, dệt may, giày dép. 2.7 Doanh nghiệp xuất khẩu và cơ sở sản xuất cần xây dựng mối quan hệ chặt chẽ, gắn bó Sản xuất là đầu vào của xuất khẩu, nhưng thông thường người sản xuất không được tiếp xúc với khách hàng nên những thông tin về thị hiếu tiêu dùng của khách hàng họ không nắm bắt được và họ cũng không biết được ý kiến của khách hàng đánh giá về sản phẩm họ làm ra. Điều này chỉ có thể thông qua công tác đối ngoại của doanh nghiệp hoặc các cơ quan chức năng xúc tiến thương mại. Vì vậy, sự kết hợp chặt chẽ giữa doanh nghiệp xuất khẩu và người sản xuất có tầm quan trọng đặc biệt. Giúp ngừời xuất khẩu nắm rõ tiềm năng sản xuất để chắp nối với thị trường nước ngoài. Đồng thời cung cấp kịp thời cho người sản xuất thị hiếu của khách hàng, định hướng mặt hàng, định hướng thị trường, yêu cầu chất lượng, giúp cơ sở đầu tư phát triển sản xuất, đáp ứng yêu cầu thị trường nước ngoài. Thực tế trong kinh doanh, những doanh nghiệp xuất khẩu nào kết hợp tốt với người sản xuất thì khả năng thành công cao hơn rất nhiều. III. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM ĐẨY MẠNH HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ VIỆT NAM VÀO THỊ TRƯỜNG NHẬT BẢN Như chúng ta đã biết, doanh nghiệp dù kinh doanh trên bất cứ lĩnh vực nào cũng đều chịu sự định hướng, chỉ đạo giám sát của các cấp quản lý vĩ mô. Sự chỉ đạo này có thể tích cực (thúc đẩy) cũng có thể tiêu cực (kìm hãm) đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Quản lý vĩ mô đối với hoạt động xuất nhập khẩu có thể thấy trên các mặt: hệ thống thuế, chính sách tỷ giá hối đoái, chính sách tài chính, chính sách khuyến khích xuất khẩu.... Trong thời gian trước mắt, để khuyến khích hoạt động xuất nhập khẩu nói chung và hoạt động xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ nói riêng, Nhà nước nên xem xét và giải quyết các vấn đề sau: */ Hoàn thiện các chính sách về xuất nhập khẩu và thuế áp dụng cho các doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm thủ công mỹ nghệ phục vụ xuất khẩu Mặc dù cơ chế mới làm cho vấn đề thủ tục xuất nhập khẩu đã thuận tiện và đơn giản hơn nhưng vẫn còn tồn tại nhiều thủ tục phiền hà cho hoạt động xuất nhập khẩu của doanh nghiệp: việc miễn thu lệ phí hải quan đối với hàng xuất khẩu vẫn chưa được thực hiện, doanh nghiệp xuất hàng vào ngày thứ bẩy, chủ nhật hoặc ngày lễ phải làm đơn xin làm thủ tục ngoài giờ gây khó khăn, tốn nhiều thời gian của doanh nghiệp ... Nhà nước cần nhanh chóng phối hợp với Tổng cục Hải quan để nhanh chóng giải quyết những vướng mắc trên, tạo hành lang thông thoáng, thuận tiện nhất có thể cho doanh nghiệp xuất khẩu. Nhiều đơn vị xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ còn gặp khó khăn do qui định của Chính phủ về thời gian nhập nguyên liệu và xuất thành phẩm. Theo qui định này, nếu trễ thời hạn 3 tháng, doanh nghiệp phải đóng thuế bằng 40% giá trị lô hàng nhập. Tuy nhiên, trên thực tế, doanh nghiệp thường mất một tuần để làm thủ tục lấy hàng và nhiều khi không thể tổ chức sản xuất ngay lập tức số nguyên liệu đã nhập. Kết quả là doanh nghiệp chưa kịp xuất khẩu đã phải chịu thuế. Bên cạnh đó, dựa trên cơ sở văn bản Nhà nước cũng nên xem xét việc ưu tiên hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu áp dụng chế độ “luồng xanh” (miễn kiểm hoá, tự chịu trách nhiệm) bởi đây là nhóm hàng làm bằng phương pháp thủ công, chất lượng hàng rất dễ bị ảnh hưởng trong quá trình kiểm hoá. Hải quan cũng cần có biện pháp thông thoáng khi kiểm tra các doanh nghiệp xuất khẩu có uy tín, vì hàng thủ công mỹ nghệ rất cồng kềnh, nhưng giá trị thực ra không nhiều. Về chính sách thuế, theo một số chuyên gia kinh tế thì biểu thuế xuất nhập khẩu của Việt Nam vừa đơn giản, vừa phức tạp và mức thuế suất đối với một số mặt hàng chưa hợp lý. Nhóm hàng thủ công mỹ nghệ được Nhà nước khuyến khích sản xuất và xuất khẩu nhưng vẫn áp dụng mức thuế 5% khi xuất khẩu là chưa hợp lý, Nhà nước cần xem xét giảm mức thuế này xuống còn 0%, đồng thời giải quyết nhanh chóng việc hoàn thuế nhập khẩu nguyên liệu cho nhà sản xuất. Đối với hàng xuất khẩu tại chỗ (bán cho khách nước ngoài vào Việt Nam công tác và du lịch) cũng được coi là hàng xuất khẩu và được hưởng thuế giá trị gia tăng 0% tức là cũng được khấu trừ hoàn thuế giá trị gia tăng đầu vào. Các doanh nghiệp cũng đề nghị giảm thuế thu nhập doanh nghiệp từ 32% xuống còn 25%. Nếu những khó khăn này được giải quyết, các doanh nghiệp có thể hạ giá thành sản phẩm do đó làm tăng khả năng cạnh tranh của hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam. Ngoài ra, do đặc điểm nguyên liệu sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ thường phải đi mua dưới dạng thu gom, số lượng rất nhỏ, giá trị thấp nhưng ngành thuế đòi hỏi một cách máy móc phải có bảng kê chi tiết nguyên liệu đầu vào. Nếu không đơn giản hoá thì vô hình trung sẽ hợp thức hoá những tiêu cực cho một số thủ tục không cần thiết. */ Xây dựng chính sách tỷ giá hối đoái phù hợp Tỷ giá hối đoái và chính sách tỷ giá hối đoái là hai nhân tố quan trọng để thực hiện chiến lược hướng ngoại, đẩy mạnh xuất khẩu. Nó ảnh hưởng trực tiếp hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp xuất khẩu. Do vậy, vấn đề quan trọng là Chính phủ cần có biện pháp để ổn định giá hàng hoá, ổn định trị giá đồng nội tệ và có tỷ giá hối đoái hợp lý, phù hợp với mục tiêu chung trong chiến lược phát triển. Bên cạnh đó, Chính phủ nên xem xét việc áp dụng chính sách tỷ giá cao đối với mặt hàng khuyến khích như hàng thủ công mỹ nghệ nhằm tăng thu lợi nhuận, khuyến khích các doanh nghiệp làm hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu. */ Hoàn thiện hệ thống ngân hàng, tín dụng Khó khăn lớn nhất của doanh nghiệp xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ hiện nay là cơ chế và thanh toán, vay vốn qua ngân hàng. Phần lớn cơ sở vật chất của nhiều doanh nghiệp đều nghèo nàn không thể thế chấp trong vay vốn để kinh doanh, dẫn đến chậm trễ trong thanh toán, thiệt hại cho doanh nghiệp và cả người lao động. Vì vậy, Nhà nước cần hoàn thiện hệ thống ngân hàng, tín dụng, thanh toán để tạo điều kiện dễ dàng cho cả phía Việt Nam lẫn bạn hàng nước ngoài giao dịch, thanh toán một cách nhanh chóng. Đặc biệt, các ngân hàng cần mở rộng nhiều hình thức thanh toán ở nhiều địa điểm khác nhau, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp. */ Chính sách cung ứng nguyên liệu cho sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ Để tạo điều kiện cho các cơ sở sản xuất kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ tiếp cận thuận lợi hơn với nguồn nguyên liệu khai thác trong nước, nhất là một số nguyên liệu như gỗ, song mây, tre lá... đề nghị cho áp dụng một số chính sách biện pháp sau: Đối với gỗ nguyên liệu được khai thác từ các rừng tự nhiên được các bộ ngành và UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương gia hạn mức cho các doanh nghiệp, đơn vị trực tiếp sản xuất kinh doanh, sản phẩm gỗ mỹ nghệ thuộc ngành, địa phương quản lý (trên cơ sở hạn mức chung do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt), đề nghị ưu tiên cho các đơn vị này phải quyết toán việc sử dụng gỗ nguyên liệu cho các hoạt động đó thì mới được giao hạn mức gỗ nguyên liệu cho năm sau. Tránh việc giao nhận lòng vòng đẩy giá thành lên cao, giảm sức cạnh tranh của sản phẩm. Đối với các nguyên liệu khác như song, mây, tre, lá... các đơn vị khai thác cho sản xuất hàng xuất khẩu kiến nghị Nhà nước có chính sách hỗ trợ các dự án đầu tư xây dựng vùng trồng nguyên liệu phục vụ xuất khẩu (giao đất, giảm tiền thuê đất hoặc tiền thuê sử dụng đất... ). Tại Philippines, Chính phủ đã hỗ trợ cho các công ty tư nhân lập nông trường mây rất hiệu quả. Nhà nước tổ chức xây dựng ngành công nghiệp khai thác và xử lý nguyên liệu để cung cấp cho các cơ sở sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ như nguyên liệu gỗ, nguyên liệu sản xuất gốm sứ... vì các cơ sở sản xuất thường không đủ vốn và kỹ thuật để đầu tư. Nguyên liệu khai thác, xử lý đúng quy trình sẽ đảm bảo chất lượng sản phẩm, tăng thêm độ bền, tính hấp dẫn của hàng hóa. */ Giảm bớt tiền cước vận chuyển và các lệ phí tại các cảng khẩu đối với hàng thủ công mỹ nghệ nhằm mục đích giảm giá thành Hàng thủ công mỹ nghệ thường là hàng cồng kềnh, giá trị không cao (xuất khẩu một cont. 40 feet hàng mây tre đan thường chỉ được 7 – 8 ngàn USD theo giá FOB) nên cần có chính sách hỗ trợ, ưu đãi cho mặt hàng này: Hàng thủ công mỹ nghệ được vận chuyển từ nơi sản xuất đến các cảng khẩu trên tất cả các phương tiện đều được hỗ trợ 30 – 50% cước vận chuyển theo biểu giá cước hiện hành. Nhà nước hỗ trợ thông qua việc công nhận giảm thu trong hạch toán thu nhập chịu thuế của doanh nghiệp hàng năm. Giảm 50% theo biểu giá hiện hành cho tất cả các chi phí, lệ phí tại các cảng khẩu có liên quan đến việc giao hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu (từ việc lưu kho lưu bãi, gửi hàng, lệ phí cảng khẩu, thủ tục phí... ) Giảm 50% theo biểu giá cước hiện nay tiền cước phí bưu phí là hàng mẫu hàng thủ công mỹ nghệ cho khách nước ngoài hoặc hàng mẫu tham gia hội chợ triển lãm nước ngoài. */ Chính sách đối với nghệ nhân Nghệ nhân có vai trò rất lớn đối với làng nghề thủ công truyền thống. Có thể nói không có nghệ nhân không có làng nghề. Vì vậy muốn duy trì và phát triển làng nghề thủ công mỹ nghệ Nhà nước cần có chính sách đối với nghệ nhân, giúp đỡ, hỗ trợ, khuyến khích họ phát huy tài năng phát triển nghề, mở rộng sản xuất, truyền dạy nghề cho con cháu. Đề nghị Chính phủ có chính sách ban hành quy chế chính thức về phong tặng danh hiệu “Nghệ nhân” và giải thưởng “Bàn tay vàng”, hoặc huy chương “Đôi bàn tay vàng” kèm theo giải thưởng cho các nghệ nhân, thợ giỏi theo quy định đề ra. Tiêu chuẩn được phong nghệ nhân phải là thợ giỏi, có tay nghề cao, điêu luyện với thủ pháp nghệ thuật kỹ xảo riêng, tạo ra những sản phẩm tinh xảo độc đáo được đồng nghiệp thừa nhận. Đó phải là những sản phẩm có giá trị nghệ thuật được xã hội công nhận hoặc những sản phẩm mang lại hiệu quả kinh tế xã hội, có những sáng kiến cải tiến kỹ thuật trong sản xuất, có thành tích truyền nghề dạy nghề... Khi đạt được danh hiệu đó nghệ nhân sẽ được hưởng các quyền lợi như: thưởng tiền khi nhận danh hiệu và huy chương, được bồi dưỡng kiến thức về hội họa, mỹ thuật tại trường cao đẳng mỹ thuật, được hưởng thù lao xứng đáng khi tham gia truyền nghề và được thưởng khi có thành tích xuất sắc. Được Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu đối với các sáng chế, giải pháp hữu ích. Khi có sản phẩm độc đáo hoặc mẫu mã hàng hóa xuất khẩu với khối lượng lớn thì được xét thưởng theo kết quả xuất khẩu (hoa hồng). Được Nhà nước hỗ trợ kinh phí cho hoạt động của CLB nghệ nhân trao đổi kinh nghiệm nghề nghiệp. Chính sách đối với nghệ nhân, thợ giỏi được thực hiện tốt là một đảm bảo, duy trì và phát triển độ ngũ thợ thủ công lành nghề trong các ngành nghề thủ công truyền thống, góp phần bảo tồn và phát triển một trong những di sản văn hóa của dân tộc, mang lại lợi ích thiết thực cho đất nước. */ Tăng cường trợ cấp và khuyến khích xuất khẩu Mặt hàng thủ công mỹ nghệ nằm trong danh sách nhóm hàng khuyến khích xuất khẩu và nhóm hàng xuất khẩu quan trọng của nước ta trong thời gian tới. Hoạt động xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ có ý nghĩa xã hội lớn lao, tạo công ăn việc làm cho nhiều người dân ở vùng nông thôn. Tuy nhiên hiện nay, mặt hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam lại kém ưu thế cạnh tranh trên thị trường xuất khẩu do giá xuất khẩu cao hơn so với giá của các đối thủ cạnh tranh do giá thành sản xuất của chúng ta còn cao và trong thời gian ngắn chưa có biện pháp cắt giảm ngay. Do đó, Nhà nước cần có chính sách trợ giá cho hoạt động xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ để tăng khả năng cạnh tranh của hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam trên trường quốc tế. Ngoài hình thức trợ giá xuất khẩu, Chính phủ có thể khuyến khích hoạt động xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ thông qua hình thức thưởng xuất khẩu cho doanh nghiệp đạt được kim ngạch cao trong hoạt động xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ, doanh nghiệp xuất được sản phẩm mới hoặc doanh nghiệp thâm nhập được thị trường mới. Số tiền thưởng xuất khẩu có thể được tính bằng một tỷ lệ % trên kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của doanh nghiệp hoặc là một số tiền nhất định được trích ra từ quỹ hỗ trợ xuất khẩu của Nhà nước. Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt hiện nay, các doanh nghiệp thủ công mỹ nghệ xuất khẩu còn nhiều hạn chế so với các đối thủ cạnh tranh nên rất cần đến sự giúp đỡ của Chính phủ, và dưới hình thức trực tiếp lẫn gián tiếp. KẾT LUẬN ------- Đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ là một trong những định hướng quan trọng của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn phát triển kinh tế hiện nay. Trong báo cáo tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã xác định: Hàng thủ công mỹ nghệ là mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Nước ta có nguồn nguyên liệu và lao động khá dồi dào, thuận lợi cho việc sản xuất các mặt hàng thủ công mỹ nghệ. Hơn nữa, nhu cầu về mặt hàng này ngày càng tăng nhanh, nhất là tại các nước đang phát triển. Vì vậy đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ chúng ta đang có nhiều lợi thế Đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ngoàI ý nghĩa về kinh tế còn có ý nghĩa xã hội rất to lớn. Với dân số khoảng 80 triệu người, trong đó gần 80% hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, Việt nam đang đứng trước các cơ hội và thách thức to lớn. Bên cạnh thế mạnh về nguồn lao động dồi dào - một trong những yếu tố quan trọng phục vụ sự phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia, nhưng nếu chúng ta không biết sử dụng nguồn nhân lực này một cách hợp lý thì trái lại đó lại là một gánh nặng đối với của nền kinh tế quốc dân. Trong những năm qua, tình trạng những người nông dân bỏ ruộng vườn và làng quê về sinh sống tại các thành phố lớn như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Đà Nẵng ... đã gây ra biết bao điều nhức nhối về mặt xã hội. Để giải quyết vấn đề này, thì việc tạo cho họ công ăn việc làm là một trong những biện pháp hữu hiệu vì một mặt chúng ta đã thành công trong công tác xóa đói giảm nghèo cho người dân lao động, mặt khác lại có điều kiện thu về cho đất nước những khoản ngoại tệ mạnh phục vụ trực tiếp sự nghiệp công nghiệp hóa đất nước. Có phải chăng, việc đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu các sản phẩm thủ công mỹ nghệ là một trong những biện pháp trực tiếp khắc phục những nhược điểm nói trên. Theo ước tính cho thấy, nếu Việt Nam hàng năm tăng một triệu USD hàng xuất khẩu thủ công mỹ nghệ thì có thể giải quyết công ăn việc làm cho hơn 50.000 người lao động. Theo sự phân tích trong bài luận văn nói trên, em hoàn toàn tin tưởng rằng thị trường Nhật Bản trong tương lai có thể thu hút thêm hàng chục triệu đôla hàng thủ công mỹ nghệ của Việt nam và điều đó có nghĩa là chúng ta đã giải quyết công ăn việc làm cho hàng triệu người lao động. Mặt khác, phát triển các làng nghề sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ sẽ góp phần làm phong phú bản sắc dân tộc, góp phần tăng cường giao lưu quốc tế. Địa danh các làng nghề sẽ là điểm đến đầy tiềm năng của du lịch. Phát triển sản xuất và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ sẽ góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng giảm tỷ trọng sản xuất nông nghiệp, tăng tỷ trọng sản xuất tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ. Thu nhập từ ngành nghề phi nông nghiệp tạo nguồn vốn quan trọng tại chỗ để chủ động đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng Trên đây là một số suy nghĩ bước đầu của em về đề tài: “Nhật Bản - Thị trường tiềm năng cho thủ công mỹ nghệ Việt Nam” . Đây là một đề tài khá lý thú và bổ ích không chỉ đứng trước góc độ nghiên cứu lý thuyết mà nó còn mang một ý nghĩa thực tiễn to lớn cho các làng nghề truyền thống của Việt Nam. Trong thời gian học tập tại trường, trong các dịp đi thăm các làng nghề thủ công mỹ nghệ, được tiếp xúc với các nghệ nhân lớn tuổi, được nghe những câu chuyện đầy tâm huyết về nghề, được nhìn tận mắt sự cần cù chăm chỉ của người thợ thủ công Việt Nam, em không khỏi có những mong muốn được đóng góp một phần nhỏ bé của mình để tạo ra nhiều công ăn việc làm cho những người nông dân Việt Nam. Tuy còn nhiều khó khăn song với những thế mạnh của hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam như đã được trình bày trong bài luận văn, chắc chắn rằng ngành thủ công mỹ nghệ của Việt Nam sẽ có một vị trí xứng đáng trong danh mục các ngành nghề mang lại nhiều ngoại tệ cho đất nước. TÀI LIỆU THAM KHẢO ------ 1. Một số cơ chế, chính sách và biện pháp khuyến khích phát triển sản xuất hàng hoá XNK - Phụ trương tập san Ngoại thương 8/1999 2. Đề án xuất khẩu hàng Thủ Công Mỹ Nghệ đến năm 2005 - Bộ thương mại, 3/2000 3. Báo cáo tình hình xuất khẩu hàng Thủ Công Mỹ Nghệ - Bộ thương mại, 16/8/2000 4. Báo cáo phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu chủ yếu của kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm từ năm 1996 - 2000 5. Chiến lược phát triển xuất nhập khẩu thời kỳ 2001 - 2010 - Bộ thương mại, 6/2000 6. “Nghề cổ nước Việt” - Vũ Từ Trang, NXB Văn hoá dân tộc 7. “Hướng đi nào cho gốm sứ Việt Nam phát triển trong cơ chế thị trường” - Tạp chí Mỹ nghệ & Kim hoàn số 69 8. “Hàng Thủ Công Mỹ Nghệ Việt Nam : Khắc phục khó khăn, khai thác tiềm năng xuất khẩu” - Tạp chí Mỹ nghệ & Kim hoàn số 72 9. Vai trò Nhật Bản trong quá trình phát triển kinh tế Asean - Tạp chí nghiên cứu Nhật Bản số 4/2002 10. Cải cách cơ cấu kinh tế Nhật Bản: Chính sách quản lý vĩ mô - Tạp chí nghiên cứu Nhật Bản số 5/2002 11. “Hàng Thủ Công Mỹ Nghệ xuất khẩu sang Nhật : Thiên thời, địa lợi ...” - Kinh tế Sài Gòn, 3/2000 12. “Hỗ trợ làng nghề phát triển” - Quý Hào, Thời báo Kinh tế Việt Nam ngày 2/10/2000 13. “Xuất khẩu hàng Thủ Công Mỹ Nghệ: Nhận biết cơ hội qua con mắt nước ngoài” - Felix Abt, Thời báo Kinh tế Việt Nam ngày 18/10/2000 14. “Để hàng Thủ Công Mỹ Nghệ đủ sức cạnh tranh” - Nghiêm Quảng, Sài Gòn giải phóng ngày 29/1/2001 15. “Hàng Thủ Công Mỹ Nghệ: cái khó còn bó cái khôn” - Đỗ Quyên, Doanh nghiệp ngày 28/3/2001 16. “Vị thế hàng thủ công : Trở ngại trong sản xuất và xuất khẩu” - An Yên, Thời báo kinh tế Việt Nam ngày 10/8/2001 17. “Ngành Thủ Công Mỹ Nghệ, những khó khăn cần được tháo gỡ” - Thuý Hải, Sài Gòn giải phóng ngày 15/8/2001 18. “Sẽ hết long đong làng nghề? Thúc đẩy xuất khẩu hàng Thủ Công Mỹ Nghệ” - Phạm Hùng Nghị, Thời báo kinh tế Việt Nam ngày 5/9/2001 19. “Hàng Thủ Công Mỹ Nghệ Việt Nam : Tiềm năng và thuận lợi” - Bảo Minh, Quốc tế ngày 13/9/2001 20. “Nghề thủ công với phát triển đời sống nông thôn” – Vũ Huy Thiều, Tạp chí Sản phẩm và Làng nghề Việt Nam tháng 4/2002 21. “Hàng thủ công mỹ nghệ phát triển hướng tới hội nhập” – Lê Văn Sâm, Tạp chí Sản phẩm và Làng nghề Việt Nam tháng 4/2002 22. “Xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam qua các thời kỳ” – Nguyễn Văn Hóa, Tạp chí Sản phẩm và Làng nghề Việt Nam tháng 4/2002 23. “Hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam: Thực trạng và GiảI pháp” – Ba Đình và Lê Long, Tạp chí Sản phẩm và Làng nghề Việt Nam tháng 8/2002 24. “Đã có nhiều cơ chế hỗ trợ xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ” – Hòa Thanh, Tạp chí Sản phẩm và Làng nghề Việt Nam tháng 8/2002 25. “Khả năng to lớn của ngành thủ công mỹ nghệ Tp Hồ Chí Minh” – Thanh Hòa, Tạp chí Sản phẩm và Làng nghề Việt Nam tháng 8/2002 26. “Văn hóa nông thôn và làng nghề” – TS. Lê Văn Lan, Tạp chí Sản phẩm và Làng nghề Việt Nam tháng 8/2002 27. “Sáu kiến nghị của nghệ nhân Hải Phòng” - Đào Xuân Hùng, Hội nghệ nhân thợ giỏi Hải Phòng, Tạp chí Sản phẩm và Làng nghề Việt Nam tháng 8/2002 28. “Nhũng thị trường chính của hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam” – Lê Văn Sâm, Tạp chí Sản phẩm và Làng nghề Việt Nam tháng 8/2002 29. Xuất nhập khẩu hàng hóa Việt Nam 2000 – NXB Thống kê 2002 30. “Hàng thủ công mỹ nghệ – thị trường và những khó khăn” – Phùng Long, Tạp chí Sản phẩm và Làng nghề Việt Nam tháng 4/2002 31. Kinh doanh với thị trường Nhật Bản – NXB Lao Động 2001

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc8393.doc
Tài liệu liên quan