Thị trường Nhật Bản là thị trường xuất khẩu không hạn ngạch lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch xuất khẩu tăng rất nhanh. Năm 1997 Việt Nam đã trở thành 1 trong 7 nước xuất khẩu quần áo lớn nhất vào thị trường Nhật Bản với thị phần hàng dệt thoi là 3,5% và hàng dệt kim là 2,3%.
Trong khi hàng may mặc xuất khẩu sang Nhật của hầu hết các nước trong năm 1997 bị giảm mạnh thì xuất khẩu của Việt Nam vào Nhật lại tăng và tiếp tục tăng trong những năm 1999, 2000 với kim ngạch xuất khẩu lên đến 619.581 nghìn USD. Năm 1998 tỷ trọng hàng may mặc xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường Nhật là 3% tổng lượng nhập khẩu của nước này. Đến năm 2001, 2002 tỷ trọng hàng dệt may của Việt Nam xuất khẩu vào Nhật Bản so các năm trước đã giảm (từ 32,74% năm 2000, xuống 29,93% năm 2001 và 17,79% năm 2002). Nguyên nhân là do: Nhật Bản cũng như nhiều quốc gia khác đều bị ảnh hưởng bởi vụ khủng bố 11 - 9 tại Mỹ (mà chúng ta đã biết Mỹ là một nước nhập khẩu lớn của Nhật Bản, cho nên vụ khủng bố đã làm suy yếu nền kinh tế Mỹ và nhiều hợp đồng kinh tế giữa Mỹ và Nhật bị huỷ bỏ), chi phí nhân công cao khiến nhiều nhà sản xuất nội địa giảm sản lượng. Mặt khác, tốc độ tăng trưởng hàng năm của thị trường này cũng ngày càng có xu hướng suy giảm nghiêm trọng. Năm 2001, Việt Nam xuất khẩu hàng dệt may sang Nhật Bản giảm 4,5%; sang năm 2002, chỉ tiêu này còn suy giảm mạnh hơn 17,23% (tương đương 101.551 nghìn USD). Mặc dù có những kết quả không khả quan như vậy, song thị trường Nhật Bản vẫn là một thị trường lớn đối với các doanh nghiệp hàng dệt may của Việt Nam. Bởi vậy, Chính phủ cũng như các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu hàng may mặc cần phải nhanh chóng xúc tiến những biện pháp thiết thực nhằm thúc đẩy mở rộng quy mô xuất khẩu, khôi phục lại ưu thế vốn có của Việt Nam đối với thị trường.
88 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1550 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Những biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam đến năm 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h hiện hành vẫn còn những bất cập, gây khó khăn cho các doanh nghiệp sản xuất, xuất nhập khẩu hàng dệt may. Trong đó có nhiều quy định không hợp lý trong điều kiện sản xuất kinh doanh đã thay đổi.
- Theo Nghị định 86/CP của Chính phủ, hàng hoá chỉ được thông quan khi có giấy chứng nhận đạt chất lượng của các cơ quan kiểm tra chất lượng Nhà nước. Tuy nhiên, lượng hàng hoá luân chuyển ngày càng lớn, cơ quan giám định không đảm bảo được thời hạn giám định hàng hoá để các doanh nghiệp thực hiện hợp đồng.
- Trong tình hình thị trường xuất khẩu gặp nhiều khó khăn như hiện nay thì việc giữ nguyên quy định về tỷ lệ xuất khẩu trong giấy phép đầu tư đang làm các nhà đầu tư nước ngoài lo ngại.
- Việc xin được miễn giảm thuế theo giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư của doanh nghiệp gặp rất nhiều phiền phức như: ngành thuế quy định doanh nghiệp phải làm “Đơn xin được hưởng ưu đãi” hoặc yêu cầu xem lại dự án đầu tư hoặc chỉ được hưởng miễn giảm thuế khi chứng minh được đầu tư có hiệu quả, lợi nhuận năm sau cao hơn năm trước. Trong khi thị trường xuất khẩu đang gặp khó khăn, quy định này trở thành một trở ngại lớn đối với doanh nghiệp
- Trong năm 1999, thuế giá trị gia tăng thay cho thuế doanh thu thì quy định doanh nghiệp được hưởng ưu đãi giảm 50% thuế doanh thu sẽ được xử lý ra sao là thắc mắc của nhiều doanh nghiệp.
- Việc xin ưu đãi vay vốn lãi suất thấp cũng gặp nhiều trở ngại. Ngân hàng thường đòi duyệt lại dự án đầu tư hoặc xét lại giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư.
- Việc thực hiện quy định về thủ tục hoàn thuế nhập khẩu đối với các doanh nghiệp nhập khẩu nguyên vật liệu sản xuất bán sản phẩm cho doanh nghiệp khác để trực tiếp sản xuất ra sản phẩm xuất khẩu trên thực tế cũng gặp nhiều khó khăn.
- Nghị định 57/CP yêu cầu doanh nghiệp sản xuất gia công hàng xuất khẩu có sử dụng nhãn hiệu nước ngoài phải xin giấy chứng nhận tại Cục sở hữu Công nghiệp Việt Nam về việc nhãn hiệu đó không trùng lặp với nhãn hiệu đã đăng ký ở Việt Nam.
- Doanh nghiệp cần in tên sản phẩm tên doanh nghiệp, nơi sản xuất ... lên sản phẩm của mình phải xin hai loại giấy phép: Giấy phép Bộ văn hoá thông tin để được in và giấy phép nhập khẩu máy in, gây rất nhiều phiền hà, tốn kém cho doanh nghiệp.
-Thuế suất, thuế nhập khẩu nguyên liệu để sản xuất trong nhiều trường hợp còn cao hơn thuế xuất, thuế nhập khẩu sản phẩm hoàn chỉnh làm cản trở việc thực hiện nội địa hoá sản phẩm.
3.2.4 Về chính sách phân bổ hạn ngạch
Hạn ngạch xuất khẩu do Bộ Thương mại phân bổ, việc phân bổ hạn ngạch theo nguyên tắc “ bình đẳng”, bảo đảm mọi doanh nghiệp đều có việc làm, tuy nhiên cũng có nhiều bất cập như: hạn ngạch phân tán trong khi khách hàng thường muốn ký hợp đồng với số lượng lớn với một doanh nghiệp, không phải ký nhiều hợp đồng với nhiều cơ sở nhỏ, dẫn đến việc tăng ngoài dự kiến các chi phí về giao dịch, chuyển tải, kho bãi..., và những khó khăn về kiểm tra chất lượng hàng hoá. Vì vậy, các doanh nghiệp Việt Nam có thể mất đi những khách hàng lớn, những hợp đồng có giá trị cao.
Tóm lại, những hạn chế trong hoạt động sản xuất và xuất nhập khẩu đã làm giảm tốc độ phát triển của hàng dệt may Việt Nam, nhưng đó cũng là điều không thể tránh khỏi khi nước ta mới chuyển đổi cơ chế từ kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị trường. Điều chủ yếu là các nhà hoạch định chính sách sẽ thay đổi nó như thế nào.
Nói một cách khái quát, nguyên nhân chủ yếu của những tồn tại trên là:
- Do nền kinh tế của Việt Nam có xuất phát điểm thấp và tích luỹ vật chất không cao nên chưa có điều kiện áp dụng công nghệ hiện đại, cũng như nhập khẩu công nghệ hiện đại từ nước ngoài. Chính vì vậy, công nghệ của ngành dệt may Việt Nam là lạc hậu so với thế giới và không đáp ứng được một số tiêu chuẩn kỹ thuật của một số thị trường như Mỹ, Nhật, EU.
- Nền kinh tế của Việt Nam có quan hệ mật thiết với nền kinh tế của các nước trong khu vực Đông Nam á. Vì vậy, khi cuộc khủng hoảng Châu á xảy ra, Việt Nam chịu ảnh hưởng không nhỏ do đồng tiền của các nước này bị mất giá. Quan hệ thương mại Việt Nam gặp nhiều khó khăn. Đối với ngành may mặc của Việt Nam, thị trường nhập khẩu nguyên vật liệu cho các doanh nghiệp dệt may từ các nước này bị hạn chế. Do đó sản lượng sản xuất của hàng may mặc giảm sút rõ rệt.
- Hầu hết các thị trường chính của Việt Nam như Mỹ, Nhật, EU đều đòi hỏi sản phẩm hàng dệt may phải có mẫu mã đa dạng, đẹp bền đáp ứng được các tiêu chuẩn kỹ thuật của họ. Mà ngành sản xuất hàng may mặc của Việt Nam còn yếu kém nên chưa đáp ứng đủ các yêu cầu của họ. Vì vậy, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang các nước này còn hạn chế.
- Hầu hết các doanh nghiệp dệt may của Việt Nam chưa có tên tuổi hoặc chưa đăng ký thương hiệu trên thị trường thế giới, cho nên việc tìm đối tác cho xuất khẩu trực tiếp gặp rất nhiều khó khăn, sản phẩm của Việt Nam xuất khẩu chủ yếu dưới hình thức gia công.
- Thủ tục hành chính của Việt Nam còn rườm rà qua nhiều khâu, nhiều cửa và chưa đồng bộ. Có nhiều chính sách, Chính phủ lấy của các nước đi trước mà không có sự thay đổi sao cho phù hợp với nền kinh tế Việt Nam, một số chính sách thay đổi quá nhanh làm cho các doanh nghiệp không có sự chuẩn bị kỹ càng, làm cho các doanh nghiệp gặp khó khăn khi sản xuất và xuất khẩu hàng hoá ra thị trường nước ngoài.
Chương III
Phương hướng và biện pháp đẩy mạnh xuất
khẩu hàng dệt may đến năm 2010
---dựd---
I. Phương hướng, triển vọng xuất khẩu hàng dệt may
1.1 Phương hướng, triển vọng xuất khẩu hàng dệt may
Chính phủ đang dành ưu tiên cho sự phát triển của sản xuất hàng dệt may trong chiến lược phát triển xuất khẩu của quốc gia. Mục tiêu cho ngành công nghiệp này là đạt được kim ngạch xuất khẩu 5 tỷ USD trong năm 2005 và 7,5 tỷ năm 2010, với mức tăng trưởng xuất khẩu bình quân hàng năm là 15%. Chiến lược của lĩnh vực này cho các Doanh nghiệp nhà nước cho cùng một thời kỳ này còn lớn hơn nữa với mục tiêu xuất khẩu đạt 8 - 9 tỷ USD năm 2010. Chính phủ còn đặt hy vọng lớn vào thị trường Mỹ sau khi phê chuẩn hiệp định thương mại giữa hai nước và Việt Nam được hưởng Quy chế tối huệ quốc. Chiến lược cho lĩnh vực này bao gồm cả nâng cao nguồn cung cấp đầu vào cho ngành, chủ yếu là nguồn cung cấp đầu vào cho ngành, chủ yếu là nguồn vải cho dự án đầu tư lớn trong ngành may mặc, tiếp đó là các nguyên liệu đầu vào khác như cúc, khoá kéo... hiện tại, Việt nam phải nhập tới 90% nguồn nguyên liệu này từ nước ngoài. Trong tình hình đó, Chính phủ Việt nam đã và đang khuyến khích trồng bông và đặt kế hoạch vào năm 2010, diện tích trồng bông sẽ tăng gấp sáu lần diện tích hiện nay.
Bảng 10: Chỉ tiêu sản xuất đến năm 2010
Chỉ tiêu
Đơn vị tính
Mục tiêu
2005
Mục tiêu
2010
1. Sản phẩm chủ yếu:
Bông xơ
Xơ sợi tổng hợp
Sợi các loại
Vải lụa
Sản phẩm dệt
Sản phẩm may
1000 tấn
1000 tấn
1000 tấn
Triệu m2
Triệu m2
Triệu m2
30
60
150
800
300
780
80
120
300
1400
500
1500
2. Thu dụng lao động
1000 người
2.500 - 3.000
4.000 - 4.500
3.Tỷ lệ giá trị sử dụng nguyên liệu nội địa trên sản phẩm dệt may XK
%
Trên 50
Trên 70
(Nguồn: Bộ Thương mại)
Bảng 11: Đánh giá tiềm năng Xuất khẩu
Tầm quan trọng hiện tại
Vị trí trên thế giới
Tăng trưởng xuất khẩu
Tăng trưởng trên thị trường thế giới
Cung và khả năng cạnh tranh
Uu tiên quốc gia cho xuất khẩu
Giá trị gia tăng và tính liên kết
Giá trị kinh tế xã hội
Rất cao
(1,9 triệu USD)
Nhỏ, ít hơn 0,5%, một số mặt hàng tỷ lệ cao hơn
Tăng trưởng khá nhanh từ giữa những năm 90
(120%)
Khá chậm, 3%/ năm cho tới năm 2005
Sức hấp dẫn nhất là giá nhân công rẻ, sau đó là sức thu hút FDI, tuy nhiên năng suất còn thấp so với TQ
Xuất khẩu dự đoán tăng 300% tới năm 2010 và là mặt hàng xuất khẩu chủ lực
Thấp, với 80% nguyên liệu nhập khẩu
Ngành chính thu hút lao động công nghiệp đặc biệt là LĐ nữ
3
3
3
1
2
3
1
3
Mức độ ưu tiên: Cao (18 điểm)
(Nguồn: Bộ Thương mại)
Dệt may là sản phẩm xuất khẩu quan trọng thứ hai của Việt nam với mức tăng trưởng trong những năm gần đây khá cao. Đây là nguồn thu hút lao động công nghiệp lao động nữ và là một ngành công nghiệp mũi nhọn thúc đẩy tăng trưởng và quá trình công nghiệp hoá của nền kinh tế. Cho tới nay, sự thành công của Việt Nam dựa chủ yếu vào giá nhân công rẻ và sức hấp dẫn đối với nhà sản xuất Châu á muốn tìm địa điểm gia công. Sự thay đổi lớn sẽ diễn ra trên toàn cầu trong thời gian tới khi mà ATC hết thời hạn hoạt động năm 2005 và sự gia nhập của Trung Quốc vào Tổ chức Thương mại Thế giới vào năm 2001 hoặc 2002. Phát triển xuất khẩu trong tương lai gần như phải tập trung vào việc tăng tỷ lệ nội địa của sản phẩm, cải tiến mẫu mã, tăng năng suất lao động ngành may mặc, cải tiến kỹ thuật trong ngành dệt, tạo dựng mối quan hệ với người mua cuối cùng, nâng cao chất lượng sản phẩm để tạo sản phẩm có chất lượng cao hơn. Những phân tích về tiềm năng thị trường trong các báo cáo của ITC cho các sản phẩm của hàng dệt may đã phân định ra các thị trường địa lý khác nhau trong đó Việt Nam vẫn chưa khai thác triệt để tiềm năng của đất nước.
1.2 ưu tiên trợ giúp phát triển xuất khẩu
Mức ưu tiên cao, đây là ngành quan trọng của xuất khẩu Việt Nam và Chính phủ đặt ra những mục tiêu rất cao cho sự tăng trưởng của ngành. Có được thị trường Mỹ đầy tiềm năng nhưng cũng phải đối mặt với những thử thách khi Hiệp định ATC hết hiệu lực và Trung Quốc gia nhập WTO. Phát triển ngành nên tập trung vào kế hoạch lâu dài để chuyển từ gia công CMT bị động sang nhà sản xuất có tỷ lệ nội địa hoá cao hơn và tham gia tích cực hơn trên thị trường. Xâm nhập thị trường Mỹ cũng nên được ưu tiên cao độ sau khi Hiệp định thương mại với Mỹ được phê chuẩn. Phát triển xuất khẩu trong thời gian tới cần phải tập trung vào việc tăng cường tỷ lệ nội địa hoá của Việt Nam, cải thiện mẫu mã, nâng cao năng suất ngành may mặc, cải tiến công nghệ máy móc trong ngành dệt, tạo mối quan hệ với các nhà nhập khẩu, nâng cao chất lượng để tạo sản phẩm có giá trị cao hơn.
Để đạt được những mục tiêu trên, ngành dệt may cần 3973,3 triệu USD, bao gồm 756,9 triệu USD đầu tư chiều sâu, trong đó 709 triệu USD cho nâng cấp thiết bị dệt và 47,9 triệu USD cho thiết bị may và 2516,4 triệu USD đầu tư mới, trong đó 2306,4 triệu USD cho lĩnh vực dệt và 210,2 triệu USD cho may công nghiệp. Từ nay đến năm 2005 là thời kỳ nâng cao chất lượng và giá trị sản phẩm, đa dạng hoá mặt hàng, phấn đấu tạo bước chuyển về chất của thiết bị và công nghệ. Từ năm 2005 đến năm 2010 là giai đoạn đầu tư tổng thể, tập trung vào đầu tư phần mềm thiết kế và công nghệ, theo tiêu chuẩn ISO 9000, chuẩn bị tốt cho hội nhập vào AFTA và WTO.
Trên cơ sở hiện trạng, củng cố và phát triển ba trung tâm công nghiệp dệt của cả nước là vùng Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long, Đồng bằng sông Hồng và vùng Duyên hải miền Trung. Các cơ sở may dự kiến được phân bố rộng rãi trên địa bàn cả nước, ưu tiên phát triển cơ sở may xuất khẩu tại các vùng gần bến cảng, sân bay, trục giao thông chính thuận lợi cho xuất khẩu.
II. Các nhân tố ảnh hưởng đến triển vọng xuất khẩu hàng dệt may
Trên cơ sở năng lực sản xuất, thực trạng sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam trong những năm qua cũng như triển vọng xuất nhập khẩu hàng dệt may trên thị trường thế giới, có thể từ đó ta có thể đánh giá khả năng thực thi các chỉ tiêu đề ra trong “Quy hoạch tổng thể phát triển ngành công nghiệp dệt may đến năm 2010” như sau
2.1 Về sản xuất
- Về cơ sở sản xuất, trang thiết bị công nghệ của ngành may hiện hoàn toàn có khả năng đáp ứng mục tiêu đặt ra cho sản xuất các sản phẩm chủ yếu mà nhà nước đã đặt ra. Hệ số sử dụng năng lực thiết bị của ngành may còn rất thấp, chưa được khai thác đầy đủ. Một số sản phẩm có công nghệ may phức tạp là chưa sản xuất được, cần đầu tư mới.
- Về khả năng thu hút vốn đầu tư phát triển
Với quan điểm ưu tiên đầu tư cho ngành dệt, để hình thành các cơ sở sản xuất sợi, dệt, nhuộm, hoàn tất từ nguồn vốn đầu tư của nhà nước kết hợp với vốn đầu tư tích luỹ của doanh nghiệp và các chính sách khuyến khích thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực sản xuất sợi, dệt, ngành dệt có nhiều khả năng tạo được nguồn vốn cần thiết để đầu tư phát triển.
Tuy nhiên để phát huy được năng lực sản xuất trong nước, giảm sức ép cạnh tranh từ các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong điều kiện thị trường tiêu thụ đang gặp nhiều khó khăn. Cần khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài vào sản xuất các sản phẩm mới, công nghệ cao, sản xuất các sản phẩm xuất khẩu sang thị trường phi hạn ngạch mà trong nước chưa có khả năng. Nguồn vốn trong nước của ngành may chủ yếu giải quyết bằng cổ phần hoá các doanh nghiệp mặc dù hiện còn gặp nhiều khó khăn nhưng có khả năng sớm được giải quyết trong những năm tới.
2.2. Về thị trường
Thị trường hàng dệt may của Việt Nam khá rộng lớn với các thị trường như EU, Nhật Bản, Mỹ, Canada... mỗi năm hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu hàng nghìn tỷ USD. Tuy nhiên cũng có những khó khăn về thị trường như:
ứ Trong những năm qua, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam tăng với tốc độ cao một phần do đầu tư từ điểm xuất phát thấp và đang có xu hướng giảm, khó có thể tăng cao trong những năm tới.
ứ Bên cạnh tác động của khủng hoảng kinh tế, xuất khẩu hàng dệt may phải đương đầu với rất nhiều thách thức, đối với từng thị trường lại có những thách thức riêng như:
T Thị trường EU
Từ năm 1997, EU bắt đầu thực hiện quy chế GSP mới. Theo quy chế này, EU bỏ mức thuế 0% cho các sản phẩm được ưu đãi, thay bằng các mức thuế ưu đãi khác nhau cho các sản phẩm dựa trên mức độ nhạy cảm của sản phẩm và phải chịu mức thuế bằng 85% mức thuế hải quan chung. GSP mới còn quy định các điều khoản ưu đãi xã hội và môi trường cũng như các thông lệ buôn bán với các nước được ưu đãi. Như vậy, thay vì thuế suất là 0% như những năm qua, thì hàng dệt may Việt Nam trong những năm tới phải chịu một mức thuế khác và cả các điều khoản khác trong Hiệp định quốc tế về lao động.
Sau năm 2005, chế độ hạn ngạch bãi bỏ, tuy không còn các hạn chế định lượng nhưng đồng thời Việt Nam cũng sẽ không được hưởng các ưu đãi về thuế, đòi hỏi sản phẩm dệt may phải nâng cao khả năng cạnh tranh để duy trì vị trí trên thị trường. Mặt khác, EU là một thị trường đòi hỏi cao về chất lượng, mẫu mốt... để đáp ứng được yêu cầu của thị trường EU thì dệt may Việt Nam cần phải đa dạng hoá mẫu mốt, nắm bắt được yêu cầu của thị trường, dần nâng cao chất lượng sản phẩm.
T Thị trường Nhật
Xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Nhật Bản có một thuận lợi là được hưởng thuế ưu đãi theo GSP của Nhật nhưng cũng còn nhiều khó khăn. Cạnh tranh với hàng hoá của Trung Quốc và của các nước trong ASEAN là một khó khăn rất lớn, do các nước này được trợ cấp của Chính phủ và có sức cạnh tranh về giá cả đối với Việt Nam.
Nhật Bản là thị trường đòi hỏi rất khắt khe về tiêu chuẩn chất lượng, về nguyên phụ liệu, quy trình sản xuất, bao gói, nhãn mác theo tiêu chuẩn JIS mà không có nhiều doanh nghiệp dệt may của Việt Nam đáp ứng được.
Một khó khăn khác là trong thời gian tới các doanh nghiệp dệt may của Nhật Bản yêu cầu Chính phủ Nhật áp đặt hạn ngạch với hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam.
T Thị trường Mỹ
Khó khăn lớn nhất của ngành dệt may của Việt Nam sang thị trường Mỹ là chịu thuế suất cao. Thị trường Mỹ cũng đòi hỏi phải đáp ứng các quy định chặt chẽ về sản phẩm theo ISO 9000, tuân thủ theo luật thương mại Mỹ về thủ tục xuất khẩu về nhãn hiệu hàng hoá và xuất xứ sản phẩm cũng như quy định khắt khe về thời gian giao hàng. Một khó khăn nữa là theo tập quán thương mại, Mỹ thường giao dịch theo điều kiện FOB trong khi ngành may Việt Nam chủ yếu là do gia công xuất khẩu xu hướng tăng buôn bán nội khu vực với các nước được hưởng ưu đãi NAFTA của Mỹ trong những năm gần đây gây nhiều khó khăn cho các nước xuất khẩu hàng dệt may Châu á nói chung và Việt Nam nói riêng.
2.3. Về khả năng cạnh tranh của sản phẩm dệt may xuất khẩu:
Ngành dệt may Việt Nam được đánh giá là ngành có lợi thế so sánh cao trên thế giới nhờ vào các yếu tố sau:
Nguồn lao động dồi dào và giá nhân công rẻ
Có thể nói đây là lợi thế nổi bật của ngành dệt may Việt Nam. Việt Nam có dân số trên 80 triệu người, trong đó số người trong độ tuổi lao động là rất lớn. Người Việt Nam có truyền thống là cần cù, khéo léo, ham học hỏi, tiếp thu nhanh các kỹ thuật và công nghệ mới. Mức lương hiện nay của người lao động Việt Nam còn khá thấp so với các nước trên thế giới cũng như trong khu vực.
Lao động dồi dào và tiền lương thấp là thế mạnh cơ bản của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay để tiếp nhận sự chuyển dịch của ngành dệt may từ các nước phát triển và các nước Nics, thu hút vốn đầu tư cho sự phát triển của ngành.
Nhưng giá nhân công rẻ không phải là lợi thế ổn định trong cạnh tranh. Khi trình độ khoa học công nghệ nâng cao, lợi thế về lao động sẽ không hấp dẫn được đối với các nhà đầu tư. Sự chênh lệch về giá nhân công còn phụ thuộc vào năng suất lao động của người lao động vì tuy giá nhân công ở Việt Nam rẻ hơn các nước khác nhưng năng suất lao động của họ lại cao hơn ta rất nhiều. Cho nên nếu tính kỹ ra thì giá nhân công của ta không rẻ hơn họ không quá nhiều.
Vị trí địa lý và điều kiện giao lưu hàng hoá
Việt Nam nằm trong khu vực Đông Nam á, khu vực hiện nay có tốc độ tăng trưởng cao nhất thế giới, với mức tăng trưởng bình quân 6 - 8%/ năm trong những năm qua và cũng là khu vực có dân số đông nhất thế giới.
Nền kinh tế phát triển nhanh dẫn đến mức tiêu thụ hàng tiêu dùng, trong đó hàng dệt, may tăng với tốc độ vượt xa tốc độ tăng tiêu thụ của các nước Châu Mỹ hay Châu Âu.
Vị trí của Việt Nam cũng thuận tiện cho việc giao lưu hàng hải quốc tế với các khu vực trên thế giới với bờ biển dài (trên 300000 km), có nhiều cảng có nước sâu và khí hậu tốt cũng như có điều kiện phát triển đường bộ và đường sắt.
Khả năng cung cấp nguyên liệu
Việt Nam có rất nhiều vùng có khí hậu thổ nhưỡng phù hợp cho việc phát triển cây bông. Chương trình phát triển cây bông đến năm 2010 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã được đưa vào thực hiện và có những kết quả bước đầu. Nghề trồng dâu nuôi tằm, dệt lụa của Việt Nam đã được phát triển với việc áp dụng kỹ thuật mới, cho ra những sản phẩm có chất lượng cao, được ưa chuộng trên thị trường trong nước và thế giới tuy số lượng sản phẩm còn thấp. Việt Nam cũng có tiềm năng phát triển sản xuất sợi tổng hợp và vải không dệt với triển vọng hình thành và phát triển các cơ sở hoá dầu.
Khả năng đổi mới thiết bị công nghệ
Ngành dệt, may của Việt Nam được đánh giá là rất lạc hậu so với thiết bị ngành dệt của thế giới. Do ngành dệt đòi hỏi vốn đầu tư lớn, thời hạn thu hồi vốn kéo dài nên khó có khả năng đổi mới nhanh thiết bị công nghệ, đòi hỏi phải có những chương trình đầu tư lớn, đổi mới trang thiết bị về cơ bản. Tuy nhiên trong những năm qua, trang thiết bị hàng may đã có những thay đổi đáng kể với những thiết bị công nghệ mới của các nước tiên tiến, Việt Nam đã có thể sản xuất ra những sản phẩm có chất lượng thế giới.
Khả năng cạnh tranh
Từ những lợi thế trên, mặc dù sản phẩm dệt, may của Việt Nam hầu hết chưa được biết đến trên thị trường thế giới (chủ yếu xuất khẩu qua trung gian, lấy nhãn hiệu của trung gian) nhưng sản phẩm may của Việt Nam được đánh giá cao trên phương diện chất lượng sản phẩm tốt, ổn định, thời gian giao hàng được tuân thủ vào loại tốt nhất so với các nước ở Châu á.
Hiện sản phẩm dệt, may Việt Nam vẫn kém cạnh tranh hơn nhiều nước khác trong khu vực về nhiều mặt.
Về giá: Giá hàng dệt kim của Việt Nam tương đối có sức cạnh tranh do Việt Nam chủ động được từ sản xuất sợi đến may thành phẩm nhưng giá hàng dệt thoi của Việt Nam được đánh giá là khá đắt. Một mặt do từ nguyên phụ liệu đến công nghệ, thiết bị hầu hết phải nhập khẩu...
Bảng 12: Bảng so sánh giá hàng dệt may xuất khẩu sang thị trường
Nhật Bản
(Đơn vị: Yên/Sản phẩm)
Tên nước
Hàng dệt kim
Hàng dệt thoi
Các loại khác
Việt Nam
390
1185,2
1345
Trung Quốc
436
867
1030
Inđônêsia
534
574
893,4
Thái Lan
397
1274,8
1438,6
Hàn Quốc
452
1376,4
1616
(Nguồn: Bộ thương mại)
Từ bảng trên ta thấy, giá hàng dệt kim của Việt Nam là rẻ hơn hẳn so với các nước khác trong khu vực (390 yên/sản phẩm), đây là một lợi thế của hàng dệt kim Việt Nam trên thị trường thế giới nhưng hàng dệt kim của không phải là mặt hàng chính của ngành dệt may Việt Nam. Mặt hàng xuất khẩu chính của ngành dệt may Việt Nam là hàng dệt thoi, theo bảng trên ta thấy giá hàng dệt thoi của Việt Nam vào loại trung bình trong khu vực Châu á với 1185,2 Yên/sản phẩm rẻ hơn so với Thái Lan và Hàn Quốc nhưng lại đắt hơn đối thủ cạnh tranh chính của ta là Trung Quốc (867 Yên/sản phẩm) làm cho sức cạnh tranh của hàng dệt thoi của Việt Nam bị hạn chế. Vì vậy, các doanh nghiệp cần phải có biện pháp giảm tối đa chi phí nhưng chất lượng không đổi.
Về cơ cấu sản phẩm: Sản phẩm dệt may Việt Nam còn đơn giản. Khả năng đa dạng hoá mặt hàng không theo kịp với sự thay đổi của yêu cầu thị trường, đặc biệt với trang phục cao cấp.
Về thị trường: Việt Nam tham gia vào thị trường thế giới khi thị trường đã khá định hình, phải cạnh tranh với cùng loại sản phẩm xuất khẩu nhưng có trình độ phát triển cao hơn, có tên tuổi và uy tín trên thị trường, lại được ưu đãi hơn trong các Hiệp định song biên hay đa biên về hàng dệt may với các nước nhập khẩu.
Về môi trường kinh doanh: Theo đánh giá của các nhà đầu tư nước ngoài, Việt Nam kém hấp dẫn hơn nhiều nước trong khu vực do các thủ tục quản lý hành chính trong đầu tư nước ngoài. Thời gian chờ cấp giấy phép đầu tư thường bị phụ thuộc vào nhiều cấp quản lý. Khó khăn trong việc chuyển đổi ngoại tệ để mua nguyên vật liệu từ nước thứ ba trong khi nguồn cung cấp trong nước hạn chế và chất lượng không bảo đảm.
Ngoài ra, điều kiện cơ sở hạ tầng là một trong những yếu tố quan trọng để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. So với nhiều nước trong khu vực, cơ sở hạ tầng của Việt Nam kém cạnh tranh hơn về nhiều phương diện: dịch vụ tài chính, ngân hàng kém phát triển, điều kiện giao thông vận tải, kho tàng, bến bãi vừa thiếu vừa yếu, chi phí điện, nước, viễn thông cao (do độc quyền)...
III. Những biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt - may
3.1 Những biện pháp từ phía Nhà nước
3.1.1 Một số giải pháp về mở rộng thị trường.
3.1.1.1 Hỗ trợ các doanh nghiệp trong tìm hiểu thị trường, nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức xúc tiến thị trường.
Marketing thị trường đặc biệt quan trọng đối với thị trường dệt may do đặc điểm của nhóm hàng này là yêu cầu cao về sự phù hợp với các tiêu chuẩn xã hội, truyền thống văn hoá, xu hướng thời trang... đã có nhiều doanh nghiệp quan tâm đến vấn đề này nhưng các hoạt động tìm hiểu thị trường thường vượt quá khả năng tài chính của các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ như hầu hết các doanh nghiệp may. Hoạt động của các tổ chức xúc tiến thương mại như: tổ chức các đoàn đi khảo sát thị trường, tổ chức giới thiệu sản phẩm Việt Nam ở nước ngoài qua các hội chợ, triển lãm... cung cấp thông tin về thị trường cũng như các đặc điểm kinh tế xã hội, qui định, pháp luật, chính sách thương mại, chế độ ưu đãi thuế quan,... cho các doanh nghiệp là hết sức cần thiết.
Trong các hoạt động này, các đại diện thương vụ tại các nước nhập khẩu đóng vai trò quan trọng. Việt Nam đã có thương vụ tại hầu hết các nước có quan hệ thương mại song phương. Các đại diện thương mại có thể nắm bắt nhanh nhạy các nhu cầu diễn biến thị trường để thông tin kịp thời cho các doanh nghiệp. Tuy nhiên, đại diện thương mại chung khó có thể bao quát các vấn đề của từng ngành. Vì vậy, để nâng cao hoạt động của thương vụ, có thể cử một đại diện của ngành tại thương vụ ở các thị trường xuất khẩu quan trọng nhất như: EU, Nhật Bản, và các thị trường có tiềm năng lớn như: Bắc Mỹ, Đông Âu, và các nước Liên Xô cũ....
- Tiếp cận kịp thời các biến động thị trường, các thay đổi về quy định, pháp luật, xu hướng thương mại, thuế quan ..., của các thị trường nhập khẩu, từ đó định hướng cho hoạt động xuất khẩu.
- Thúc đẩy xuất khẩu mẫu mốt, các mẫu hàng sẽ phong phú và sát thực tế thị trường.
- Giới thiệu nguyên liệu, phụ liệu: vải chất lượng cao do ta sản xuất được chưa nhiều nhưng cần thông tin, quảng cáo, tiếp cận và giới thiệu được với khách hàng. Các phụ liệu may Việt Nam đã đủ sản xuất gần đủ với chất lượng cao: chỉ may, tấm bông hoá học làm lót áo lạnh, cúc, khoá... cần được trưng bày tại phòng đại diện của ngành dệt may Việt Nam.
- Tìm hiểu và tiếp cận các hệ thống phân phối sản phẩm dệt may của từng nước và giúp doanh nghiệp tiếp cận với các nhà nhập khẩu trực tiếp.
- Với thị trường EU, Việt Nam sẽ có điều kiện sử dụng tốt hơn số hạn ngạch công nghiệp (30% tổng kim ngạch) bằng cách tiếp cận trực tiếp với khách hàng, tránh bị “khê” hạn ngạch công nghiệp vào cuối năm cũng như sử dụng tốt hơn số hạn ngạch được tính thêm khi thực hiện gia công thuần tuý (TPP) mà hiện chưa được sử dụng tốt.
- Các đại diện thương mại, bên cạnh việc nghiên cứu thị trường nước ngoài, còn có nhiệm vụ giúp các doanh nghiệp trong nước tìm hiểu, tiếp cận các đối tác nước ngoài, nâng cao hiểu quả của việc tham gia triển lãm hội trợ. Khi đưa sản phẩm sang giới thiệu ở các hội chợ triển lãm, các doanh nghiệp cần có sẵn danh mục các đối tác đã được nghiên cứu, chọn lọc từ trước để giới thiệu sản phẩm, ký kết hợp đồng.
3.1.1.2 Một kinh nghiệm của các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Trung Quốc hay Thái Lan là cử nhận viên tiếp thị mang sản phẩm mẫu đi chào hàng trực tiếp với các Công ty nhập khẩu hàng dệt may mặc. Để có bước đi này cần có sự chuẩn bị kỹ lưỡng, tìm hiểu kỹ hệ thống phân phối của các nước nhập khẩu thông qua các phòng thương mại, các đại diện thương mại và có một đội ngũ nhân viên tiếp thị giàu kinh nghiệm. Phương pháp tiếp thị thứ hai cũng được nhiều doanh nghiệp sử dụng là thuê nhân viên tiếp thị của các thị trường xuất khẩu dưới hình thức trả hoa hồng theo hợp đồng mà họ ký được.
3.1.1.3 Thành lập trung tâm thông tin ngành dệt may với các chức năng: Thu thập, phân tích và thông tin cho các doanh nghiệp thành viên về xu thế mới, kiểu dáng, chất liệu vải, thời trang, tư liệu kỹ thuật mới và dự báo tình hình thị trường thế giới, tổ chức dự thảo hội nghị định kỳ, xuất bản các ấn bản chuyên môn và các dịch vụ tư vấn khác.
3.1.1.4 Khẩn trương tiến hành các bước cần thiết để tham gia vào “Hệ thống thông tin ngành dệt may khu vực Châu á - Thái Bình Dương” theo thoả thuận tại hội nghị hàng dệt may của các nước trong khu vực tháng 10/1997 và tháng 4/1998. Theo thoả thuận này, hiện đã có 7 nước và khu vực là: Trung Quốc, ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Philippin, Đài Loan và Mỹ đã tham gia vào hệ thống thông tin để hoà nhập vào mạng thông tin khu vực. Hệ thống này tạo khả năng truy cập nhanh, kịp thời, đầy đủ thông tin về tình hình sản xuất, buôn bán, tiêu thụ, đầu tư trong nước và nước ngoài của các nước trong khu vực, trong đó có các thị trường xuất khẩu tiềm năng của Việt Nam là Mỹ, Nhật Bản, Niuzilân... và các thị trường trung chuyển như Đài Loan, Hàn Quốc, Hồng Kông... và các thị trường cạnh tranh chủ yếu như Trung Quốc, Philipin, ấn Độ... sẽ rất hữu ích và tiết kiệm nhiều chi phí cho doanh nghiệp trong công tác tìm hiểu thị trường xuất khẩu.
3.1.1.5 Sau năm 2005, sản phẩm dệt may sẽ phải hoà nhập trở lại theo các nguyên tắc chung của WTO, một mặt tạo ra những thuận lợi mới cho các nước xuất khẩu, mặt khác đặt ra những thử thách lớn đối với các nước mà sức cạnh tranh của sản phẩm còn thấp. Vì vậy, chiến lược đầu tư đúng đắn, có hiệu quả, một là theo hướng đầu tư thêm thiết bị hiện đại để nâng cao chất lượng sản phẩm đủ sức cạnh tranh, hai là tăng cường đầu tư chiều sâu, chỉ giữ lại những sản phẩm truyền thống có khả năng hoà nhập là những hướng đầu tư cần quan tâm trong điều kiện vốn đầu tư hạn hẹp. Để tạo nguồn vốn và tăng hiệu quả vốn đầu tư.
3.1.1.6 Phát huy vai trò của Tổng công ty và Công ty Tài chính dệt
Tăng cường vai trò của Tổng Công ty dệt may và Hiệp hội dệt may trong các hoạt động hỗ trợ tài chính, làm đầu mối xuất nhập khẩu cho các doanh nghiệp nhỏ và giải quyết các vấn đề mà từng doanh nghiệp riêng lẻ không giải quyết được: tìm kiếm, mở rộng thị trường, tổ chức triển lãm, hội trợ, giới thiệu sản phẩm trong và ngoài nước, giao dịch buôn bán chuyển giao công nghệ, mẫu mốt sản phẩm, nhãn hiệu hàng hoá, cung cấp thông tin thị trường...
Công ty tài chính dệt may cần trở thành đầu mối thu hút vốn và cân đối nhu cầu vốn của các đơn vị dệt may.
3.1.1.7 Tạo nguồn vốn trong nước
- Cổ phần hoá doanh nghiệp, trước hết là các doanh nghiệp may, là giải pháp cơ bản nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư trong nước. Một giải pháp để tháo gỡ những vướng mắc hiện đang cản trở quá trình cổ phần hoá ngành dệt may là tiến hành ngay từ đầu các doanh nghiệp thành lập mới ở các địa phương theo hình thức hợp tác giữa Tổng công ty dệt may và địa phương.
- Trong hoàn cảnh thị trường xuất khẩu hàng dệt may đang gặp khó khăn, đề nghị tạm thời đưa hàng dệt may vào danh mục các mặt hàng được hỗ trợ lãi suất vay vốn ngân hàng theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 178/1998/TTg ngày 19/9/1998 về hỗ trợ lãi xuất vay vốn ngân hàng đối với một số mặt hàng xuất khẩu, đặc biệt là các doanh nghiệp vay vốn đầu tư thiết bị sản xuất hàng xuất khẩu sang thị trường không hạn ngạch hoặc các “cat lạnh” sang các thị trường hạn ngạch, trước hết là các mặt hàng mà Việt Nam chưa tận dụng được như cat 75, cat 48, cat 50 hoặc những mặt hàng đã được bỏ hạn ngạch mà Việt Nam có khả năng cạnh tranh cao như cat 40, cat 72, cat 77, cat 91, cat 96, cat 130, cat 136...
3.1.1.8 Chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài
Đối với ngành dệt đòi hỏi có nguồn vốn đầu tư lớn, cần có những chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài dưới mọi hình thức - các xí nghiệp liên doanh, cổ phần hay 100% vốn nước ngoài.
Với ngành may, hiện đang có hai quan điểm trái ngược. Thứ nhất, cho rằng hiện năng lực ngành may đã dư thừa trong khi thị trường tiêu thụ đang gặp khó khăn, bên cạnh đó, các doanh nghiệp may không cần vốn lớn, có thể thu hút từ vốn cổ phần trong nước. Vì vậy, nên hạn chế đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực này, giảm sức ép cạnh tranh của các doanh nghiệp may có vốn đầu tư nước ngoài có vốn và công nghệ cũng như khả năng tiếp cận thị trường lớn mạnh hơn so với các doanh nghiệp nội địa.
Thứ hai, cho rằng thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực may vẫn cần thiết nếu như chúng ta muốn có một ngành công nghiệp may thực sự hướng tới xuất khẩu. Các sản phẩm may của các doanh nghiệp này, với các ưu thế công nghệ, nguyên liệu, mẫu mã sẽ “mở đường” cho sản phẩm may với nhãn hiệu hàng hoá của Việt Nam trên thị trường thế giới. Tuy nhiên, nên tập trung vào các mặt hàng mới, phức tạp, mà các doanh nghiệp hiện có chưa sản xuất được cũng như ưu tiên phân bổ hạn ngạch xuất khẩu sang EU cho các doanh nghiệp trong nước, khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài tìm thị trường phi hạn ngạch.
Thu hút sự trợ giúp của các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức môi trường trên thế giới cho “sản phẩm công nghiệp xanh và sạch”. Hiện các doanh nghiệp dệt đang rất khó khăn trong tìm nguồn vốn để thay đổi công nghệ dệt - nhuộm theo các quy định ISO 9000 và ISO 14000. Kinh nghiệm tranh thủ sự giúp đỡ của các tổ chức môi trường của các nước quan tâm nhiều đến vấn đề này như Hà Lan, Đức, Canada, Niuzilan... mà các nước xuất khẩu sản phẩm dệt trong khu vực như ấn Độ, Nêpan... đã áp dụng có thể là một kinh nghiệm cho Việt Nam trong giải quyết vấn đề này.
3.1.1.9 Về quy mô đầu tư
Phát triển ngành may dưới hình thức các doanh nghiệp vừa và nhỏ như hiện nay là một xu hướng hợp lý. Chỉ các doanh nghiệp kéo sợi, dệt, nhuộm hoàn tất là nên tổ chức sản xuất theo quy mô lớn.
Các nhà máy dệt có quy mô lớn, trang bị đồng bộ mới đủ khả năng cung cấp nguyên liệu cho những lô hàng lớn (nhu cầu thường tăng lên rất cao trong “vụ” sản xuất) đủ tiêu chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn chất lượng cho may xuất khẩu.
Các doanh nghiệp may xuất khẩu với quy mô 350 - 500 đơn vị thiết bị được đánh giá là có hiệu quả sản xuất cao. Các doanh nghiệp có quy mô dưới 350 đơn vị thiết bị thì khó đáp ứng yêu cầu của đơn đặt hàng lớn cũng như khó có khả năng chịu những chi phí về giao nhận, vận tải cũng như tiếp cận thị trường, cần có sự “ đỡ đầu” về kỹ thuật, thị trường hoặc bao tiêu sản phẩm. Trong khi các doanh nghiệp may có quy mô quá lớn thường không áp dụng được hết năng lực thiết bị. Đồng thời khó chuyển đổi công nghệ sản xuất các sản phẩm mới.
3.1.2 Hoàn thiện cơ chế quản lý xuất nhập khẩu
3.1.2.1. Cải tiến thủ tục xuất khẩu
- Cần đơn giản hoá thủ tục nhập khẩu nguyên phụ liệu, nhập hàng mẫu, nhập bản vẽ để thực hiện các hợp đồng gia công xuất khẩu hiện vẫn còn rườm rà, mất nhiều thời gian, gây nhiều khó khăn cho doanh nghiệp đặc biệt là với các hợp đồng gia công xuất khẩu có thời hạn ngắn.
- Đơn giản thủ tục hoàn thuế nhập khẩu và xây dựng mức thuế chi tiết cho các loại nguyên liệu nhập khẩu. Tình trạng một loại nguyên liệu nhưng có các thông số kỹ thuật khác nhau với định mức tiêu hao và chức năng khác nhau vẫn được áp dụng cùng một mức thuế đem lại nhiều thiệt hại cho doanh nghiệp.
- Cải tiến thủ tục hoàn thuế cho các doanh nghiệp sản xuất hàng nguyên phụ liệu cho các doanh nghiệp khác may xuất khẩu. Đồng thời tính phần “ xuất khẩu tại chỗ” này vào tỷ lệ sản phẩm xuất khẩu qui định tại giấy phép đầu tư, giảm khó khăn của doang nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong việc thực hiện quy định này, đặc biệt là những năm đầu tiên sản xuất chưa ổn định.
- Cho phép doanh nghiệp xuất khẩu nộp thuế giá trị gia tăng đôí với nguyên liệu đầu tư vào sau khi xuất khẩu, thay vì phải nộp ngay sau khi hàng về.
3.1.2.2. Các cơ chế quản lý xuất nhập khẩu khác
- Cải tiến cơ chế phân bổ hạn ngạch theo hướng khuyến khích doanh nghiệp tìm thị trường không hạn ngạch và khuyến khích sử dụng nguyên liệu trong nước: nâng tỷ lệ hạn ngạch phân bổ theo hình thức thưởng lên 30%, ưu tiên cấp đủ hạn ngạch cho các doanh nghiệp xuất khẩu sử dụng nguyên liệu sản xuất trong nước (tương ứng với phần nguyên liệu được sử dụng).
- Sử dụng quỹ thưởng xuất khẩu để khuyến khích các doanh nghiệp tăng tỷ lệ sản phẩm xuất khẩu và tìm thị trường xuất khẩu mới.
3.1.3 Các giải pháp tài chính, tín dụng để thúc đẩy xuất khẩu
Vốn là một yếu tố quan trọng và đang là vấn đề được các nhà sản xuất kinh doanh hết sức quan tâm. Đó cũng là nguyên nhân khiến các nhà sản xuất và xuất khẩu dệt may vẫn chủ yêú đi theo phương thức gia công, xuất khẩu trực tiếp chiếm tỷ trọng chưa lớn, chưa tương xứng với khả năng sản xuất của ngành. Bên cạnh sự nỗ lực, chủ động của ngành, Nhà nước cũng có các định hướng trong công tác tài chính, tín dụng nhằm hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp dệt may Việt Nam.
3.1.3.1 Chính sách tín dụng
Phần lớn các doanh nghiệp dệt may Việt Nam đều có quy mô vừa và nhỏ, nên khả năng và hiệu quả xuất khẩu chưa cao. Để đẩy mạnh, mở rộng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam cần có sự hỗ trợ của Nhà nước với các doanh nghiệp thông qua một số biện pháp sau:
- Sử dụng hiệu quả quỹ hỗ trợ xuất khẩu để các doanh nghiệp được vay vốn với lãi suất thấp, giải quyết những khó khăn về vốn lưu động và vốn đầu tư đổi mới trang thiết bị.
- Đảm bảo quan hệ tín dụng thực sự bình đẳng trên cơ sở pháp luật giữa các thành phần kinh tế. Đơn giản hoá thủ tục vay vốn và yêu cầu thế chấp tài sản của ngân hàng và các tổ chức tín dụng.
- Mở rộng khả năng tiếp cận các nguồn vốn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Thành lập quỹ bảo lãnh tín dụng. Mục đích của quỹ này là giúp đỡ các doanh nghiệp có khả năng phát triển, cần vay vốn nhưng không có đủ tài sản thế chấp. Quỹ bảo lãnh tín dụng được hình thành dưới hình thức một tổ chức tài chính của Nhà nước, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, cho phép các doanh nghiệp vừa và nhỏ sản xuất kinh doanh hiệu quả.
- Thực hiện lãi suất ưu đãi với các doang nghiệp vừa và nhỏ có tham gia hoạt động xuất khẩu.
- Mở rộng hình thức tín dụng thuê mua nhằm giúp các doanh nghiệp giải quyết các vấn đề khó khăn về vốn trung và dài hạn, phát triển mạnh hình thức thuê mua tài chính với các thiết bị dây chuyền sản xuất.
- Thông qua ngân hàng, linh hoạt hạ mức lãi suất chiết khấu để đẩy mạnh xuất khẩu. Ngân hàng thực hiện chiết khấu các kỳ phiếu, hối phiếu chưa đến hạn thanh toán trong trường hợp doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu mà thiếu vốn. Hạ lãi suất triết khấu sẽ kéo theo giá hàng hoá hạ, khả năng cạnh tranh và khả năng mở rộng thị trường xuất khẩu do đó tăng lên.
- Chính phủ nên bảo lãnh cho các doanh nghiệp Nhà nước được mua trả chậm, vay thương mại của các nhà cung cấp hoặc các tổ chức tài chính nước ngoài.
Như vậy, mục tiêu cơ bản của chính sách tín dụng là giúp đỡ cho các doanh nghiệp dệt may Việt Nam có vốn cần thiết để đầu tư cho sản xuất, nâng cao chất lượng và đa dạng hoá sản phẩm, từ đó đạt được mục đích và đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường EU.
3.2 Những biện pháp từ phía doanh nghiệp:
3.2.1 Nâng cao hiệu quả gia công xuất khẩu, từng bước tạo tiền đề để chuyển sang xuất khẩu trực tiếp
Cần khẳng định rằng, trong vài năm tới, Việt Nam vẫn gia công hàng may xuất khẩu là chủ yếu, một mặt xuất phát từ xu hướng chuyển dịch sản xuất tất yếu của ngành dệt may thế giới, mặt khác do ngành dệt may Việt Nam chưa đủ “Nội lực” để xuất khẩu trực tiếp.
Trong điều kiện hiện nay, khi mà khâu tiếp thị, cung cấp nguyên liệu, thiết kế... và đặc biệt là phối hợp các “công đoạn” này để cho ra đời một sản phẩm có sức cạnh tranh của ngành dệt may Việt Nam còn yếu kém thì gia công vẫn là hình thức cần thiết và hiệu quả.
Gia công là bước đi quan trọng để tạo lập uy tín của sản phẩm Việt Nam trên thị trường thế giới bằng những ưu thế riêng biệt như: giá rẻ, chất lượng tốt, giao hàng đúng hạn...
Đồng thời, thông qua gia công xuất khẩu để học hỏi kinh nghiệm, tiếp thu công nghệ của các nước khác và tích luỹ đổi mới trang thiết bị, tạo cơ sở vật chất để chuyển dần sang xuất khẩu trực tiếp.
Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng tài chính khu vực năm 1997 đã làm giảm lợi thế tương đối của ngành dệt may Việt Nam về giá gia công rẻ và theo dự toán, lợi thế này chỉ được khôi phục sau năm 2000 - 2001. Vì vậy, để giữ được bạn hàng, thị trường... các doanh nghiệp dệt may cần có những biện pháp nâng cao chất lượng, giảm giá thành, tiết kiệm chi phí nhằm duy trì sức cạnh tranh của sản phẩm.
3.2.2 Nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm
3.2.2.1 Cải thiện chất lượng sản phẩm
Ưu điểm của sản phẩm may xuất khẩu của Việt Nam là chất lượng cao và thời hạn giao hàng đúng. Trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt, nhất là sau năm 2005, khi đó hạn ngạch và các hàng rào phi thuế quan khác được bãi bỏ, thị phần của mỗi nước xuất khẩu phụ thuộc phần lớn vào khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Đối với hàng may mặc, các biện pháp cạnh tranh “Phi giá cả ”, trước hết là cạnh tranh về chất lượng hàng hoá, trong rất nhiều trường hợp, trở thành yếu tố quyết định trong cạnh tranh.
Các thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam - EU, Nhật Bản ...và triển vọng là thị trường Mỹ đều là những thị trường rất “khó tính”, đòi hỏi cao về chất lượng. Người tiêu dùng ở các thị trường này có khả năng thanh toán cao, nên yếu tố chất lượng và nhãn mác sản phẩm đuợc chú ý hơn là giá cả.
Các biện pháp nâng cao chất lượng sản phẩm bao gồm:
- Kiểm tra chặt chẽ chất lượng nguyên phụ liệu, tạo bạn hàng cung cấp nguyên phụ liệu ổn định, đúng thời hạn, bảo quản tốt nguyên phụ liệu, tránh xuống phẩm cấp. Khi bảo quản chú ý rằng nguyên liệu sợi vải là những hàng hút ẩm mạnh, dễ hư hỏng.
- Tuân thủ nghiêm ngặt yêu cầu của bên đặt hàng về nguyên phụ liệu, công nghệ, quy trình sản xuất theo đúng mẫu hàng và tài liệu kỹ thuật bên đặt hàng, quy cách kỹ thuật, nhãn mác, đóng gói bao bì...
- Tuân thủ đúng quy định kiểm tra chất lượng trước khi xuất khẩu.
- Để đảm bảo chất lượng hàng xuất khẩu, giữ uy tín trên thị trường thế giới, một hệ thống kiểm tra chất lượng bắt buộc là một biện pháp cần thiết. Hệ thống quản lý chất lượng hàng xuất khẩu của Đài Loan là: phân các doanh nghiệp theo các nhóm phải kiểm tra đột xuất (nhóm A), kiểm tra định ký (Nhóm B) và kiểm tra bắt buộc (nhóm C), có sự điều chỉnh giữa các nhóm theo kết quả kiểm tra thực tế từng giai đoạn - có thể là một kinh nghiệm tốt để giải quyết vấn đề này.
- Trong tương lai, các doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam cần phấn đấu xuất CIF, chủ động trong thuê tàu vận chuyển và bảo hiểm, tránh rủi ro, tổn thất và suy giảm chất lượng thàng phẩm. Đây là biện pháp để đảm bảo thời hạn giao hàng.
3.2.2.2 Đảm bảo yêu cầu về giao hàng:
Giao hàng đúng hạn là yêu câù rất quan trọng với sản phẩm dệt may do yếu tố thời vụ và phù hợp thời trang là một trong những yếu tố quyết định về tính cạnh tranh của nhóm hàng này. Vì vậy cần:
- Chủ động trong vận chuyển, bốc dỡ hàng hoá.
- Ưu tiên cho công nghiệp dệt may xuất khẩu ở các khu vực thuận tiện cho giao hàng xuất khẩu.
- Đơn giản hoá khâu làm thủ tục xuất nhập khẩu.
Một trong những yếu tố cơ bản làm hàng dệt may Việt Nam được đánh giá cao trên thị trường Mỹ là uy tín về giao hàng đúng hạn.
Thị trường Mỹ đòi hỏi rất khắt khe về điều khoản NAFTA, những nước có ưu thế về địa lý, điều kiện vận tải,giao hàng cũng như các ưu đãi về thủ tục nhập cảnh, giữ được ưu thế về giao hàng là nhiệm vụ khó khăn nhưng rất cần thiết.
3.2.3 Giải phát nhằm giảm giá thành sản phẩm
Trong điều kiện hàng dệt may Việt Nam đang giảm ưu thế về giá nhân công, cần có các biện pháp hỗ trợ để tăng sức cạnh tranh về giá sản phẩm. Như kéo dài thời gian hoàn vốn đầu tư, khấu hao trang thiết bị lên 5-7 năm nhằm giảm giá thành sản phẩm.
Do đặc thù của các doanh nghiệp dệt may phần lớn là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, tổ chức sản xuất có hiệu quả cao nhưng có thể gặp khó khăn trong tìm kiếm thị trường và giao dịch xuất khẩu. Giải pháp cho vấn đề này có thể là hình thức tổ chức sản xuất liên kết dọc theo kiểu vệ tinh: một công ty mẹ có nhiều công ty vệ tinh cùng sản xuất một loại sản phẩm. Công ty mẹ sẽ chịu trách nhiệm đặt hàng và cung ứng nguyên phụ liệu cho các công ty con, sau đó thu gom và xuất khẩu dưới nhãn hiệu của một công ty lớn, bảm bảo về thị trường tiêu thụ ổn định.
Hình thức tổ chức này cũng có thể là giải pháp cho vướng mắc hiện nay của các doanh nghiệp nhỏ khi chế độ đấu thầu hạn ngạch được áp dụng. Công ty mẹ sẽ đứng ra đấu thầu và phân bổ hạn ngạch cho các vệ tinh của mình. Quan hệ mật thiết hơn giữa Công ty mẹ và các vệ tinh có thể là hình thức thay thế tốt hơn cho hình thức xuất khẩu uỷ thác hiện đang được áp dụng ở một số doanh nghiệp may xuất khẩu. Nó cũng cho phép gom những lô hàng lớn, thuận tiện hơn cho người nhập khẩu như hiện nay, đặc biệt là các nhà nhập khẩu Đức thường xuyên yêu cầu, đồng thời giảm được chi phí về thủ tục xuất khẩu.
3.2.4 Tăng dần tỷ trọng xuất FOB, tiến tới xuất CIF, giảm tỷ trọng gia công và xuất khẩu qua nước thứ ba:
Xuất khẩu trực tiếp là biện pháp rất quan trọng để nâng cao hiệu quả xuất khẩu. Để nâng cao tỷ trọng xuất khẩu trực tiếp cần phải:
3.2.4.1 Đảm bảo cung cấp nguyên phụ liệu:
- Sản phẩm ngành dệt may phải đáp ứng được yêu cầu của ngành may. Tạo lập mối quan hệ qua lại mật thiết giữa dệt và may. Thành lập bộ phận chuyên trách nắm nhu cầu của ngành may để đặt hàng cho ngành dệt để ngành dệt có hướng đầu tư và tổ chức sản xuất hợp lý.
- Phát triển hệ thống công ty sản xuất phụ liệu may trong nước. Ngay từ đầu phải đầu tư cho công nghệ hiện đại, sản xuất ra các sản phẩm phù hợp với yêu cầu may xuất khẩu.
- Có những chính sách khuyên khích sử dụng nguyên phụ liệu sản xuất trong nước. Quỹ thưởng xuất khẩu có 5% dành cho các doanh nghiệp sử dụng nguyên phụ liệu sản xuất trong nước là một biện pháp tốt cho vấn đề này.
- Có chiến lược đồng bộ về phát triển vùng nguyên liệu cho công nghiệp dệt, chương trình phát triển cây bông, dâu, tằm tơ, tận dụng phế liệu dệt để sản xuất sợi không dệt, giảm giá thành, nâng cao hiệu quả sản xuất, tạo sức cạnh tranh về giá cả cho sản phẩm dệt.
- Ngay từ bây giờ, phải chú ý đến vấn đề nhãn môi trường cho sản phẩm dệt. Thị trường EU hiện đã có quy định về cấm nhập sản phẩm dệt có thuốc nhuộm Ajo và sắp tới thị trường Nhật, Mỹ, Australia, Niuzilan... cũng sẽ áp dụng qui định này. Chỉ có các sản phẩm dệt theo tiêu chuẩn ISO 9000 và ISO14000 mới có thể xuất khẩu và làm nguyên phụ liệu cho may xuất khẩu.
- Kết hợp phát triển xuất phụ liệu trong nước với việc tranh thủ đàm phán để giành quyền chủ động chọn nhà cung cấp phụ liệu cho sản phẩm may. Ước tính, phụ liệu chiếm 10 - 15%, có khi đến 25 - 35% giá thành sản phẩm may nên chủ động và hạ chi phí về phụ liệu có thể đem lại hiệu quả đáng kẻe trong việc giảm giá thành sản phẩm may.
3.2.4.2 Tạo lập tên tuổi và khẳng định uy tín trên thị trường quốc tế
Để xuất khẩu trực tiếp, sản phẩm Việt Nam phải được kinh doanh bằng nhãn mác của mình trên thị trường quốc tế. Để làm được những việc trên ta cần:
- Cần tập trung đầu tư cho công nghệ tiên tiến trong khâu thiết kế mẫu mã vải cũng như sản phẩm may.
- Tổ chức tốt công tác tiếp thị và đăng ký nhãn hiệu hàng hoá.
- Trước mắt, có kế hoạch hợp tác với các Viện mốt, hoặc thuê chuyên gia thiết kế mốt của nước ngoài để đẩy nhanh quá trình hoà nhập vào thị trường thế giới.
- Khắc phục khó khăn về thiếu nguồn tài chính và nhân lực trong khâu thiết kế mẫu mã, phát triển sản phẩm mới thông qua việc trao đổi bản quyền giữa các Công ty và tranh thủ sự hỗ trợ của các nhà nhập khẩu cũng như đại diện của các mạng lưới phân phối tại nước nhập khẩu.
- Khi chưa có tên tuổi trên thị trường thế giới thì cách tốt nhất để xâm nhập thị trường trong giai đoạn đầu là mua bằng sáng chế, nhãn hiệu của các Công ty nước ngoài đê làm ra các sản phẩm của họ với giá rẻ hơn, qua đó thâm nhập vào thị trường thế giới bằng sản phẩm “ sản xuất tại Việt Nam “, đồng thời học tập kinh nghiệm, tiếp thu công nghệ để tiến tới tự thiết kế mẫu mã.
- Khai thác lợi thế của việc tham gia Chương trình hợp tác công nghiệp ASEAN (AICO) nhằm thu hút công nghệ cao của các nước ASEAN, hợp tác trong phát triển sản phẩm mới, đăng ký nhãn hiệu hàng hoá và khai thác lợi thế về thuế suất thuế quan ưu đãi bằng mức thuế suất CEPT của sản phẩm tại thời điểm năm 2006 theo quy định của AICO cũng như các ưu đãi phi thuế quan khác.
Để đẩy nhanh tiến trình triển khai AICO, các tổ chức, cơ quan chức năng
- Bộ Thương mại, Bộ Công nghiệp, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam... cần tổ chức tuyên truyền rộng rãi cho các doanh nghiệp về AICO cũng như các hoạt động hỗ trợ các doanh nghiệp dệt may như tìm đối tác ở các nước ASEAN khác hoặc khuyến khích tăng hàm lượng nội địa của sản phẩm, tăng tỷ lệ sản phẩm xuất khẩu... để đáp ứng các tiêu chuẩn tham gia AICO...
3.2.4.3 Tăng cường công tác đăng ký nhãn hiệu hàng hoá:
ở nhiều nước trên thế giới, đăng ký nhãn hiệu hàng hoá của doanh nghiệp là điều kiện bắt buộc. Hiện nay, các doanh nghiệp dệt may của Việt Nam chủ yếu xuất khẩu qua các nước trung gian hoặc gia công cho các nước khác. Để xuất khẩu trực tiếp, sản phẩm dệt may Việt Nam cần khẳng định vị trí trên thị trường thế giới bằng nhãn hiệu của mình. Tuy nhiên đăng ký nhãn hiệu hàng hoá phải chịu chi phí bởi có khi lên tới vài nghìn USD. Vì vậy, để tiết kiệm chi phí, các doanh nghiệp có thể kết hợp với nhau để đăng ký một nhãn hiệu xuất khẩu chung cho từng loại sản phẩm.
Kết luận
t
heo xu hướng phát triển chung của ngành dệt may toàn cầu, đầu tư vào sản xuất hàng dệt may đã và vẫn tiếp tục chuyển dịch sang các nước đang phát triển. Các nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng đang trong giai đoạn đầu của công nghiệp hoá có lợi thế trong sản xuất hàng dệt may do giá thành nhân công rất rẻ. Trong tương lai, nếu biết khai thác hiệu quả lợi thế này, kết hợp với việc không ngừng đẩy mạnh cải tiến công nghệ, về mẫu mã sản phẩm Việt Nam sẽ trở thành một trong những trung tâm xuất khẩu hàng dệt may của thế giới.
Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu phát triển từ nay đến năm 2010, ngành dệt may còn phải đối mặt với không ít khó khăn thách thức, từ những vấn đề tồn tại trong sản xuất, trong việc thu hút và sử dụng hiệu quả vốn đầu tư, những tồn tại trong hoạt động xuất khẩu đến những biến động, những hạn chế của mội trường pháp lý, môi trường kinh doanh cũng như của thị trường thế giới.
Các doanh nghiệp dệt may tuy đứng trước nhiều cơ hội thuận lợi nhưng cũng gặp không ít trở ngại. Ngoài những khó khăn chung của ngành còn có những hạn chế riêng của từng doanh nghiệp. Đó là khó khăn trong tổ chức sản xuất kinh doanh, trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm, trong các hoạt động marketing hỗn hợp và không thể không kể đến những tồn tại trong thực hiện quy trình xuất khẩu.
Để vượt qua tất cả khó khăn thách thức đó đòi hỏi rất nhiều nỗ lực nghiên cứu, phân tích để đề ra các giải pháp cũng như triển khai thực hiện một cách thật hiệu quả và kịp thời. Đây là nhiệm vụ chung của Chính phủ và các cơ quan hữu quan như các cơ quan hải quan, cơ quan thuế, Bộ Kế hoạch và đầu tư, Bộ Thương mại, Bộ Công nghiệp, các cơ quan nghiên cứu cũng như từng doanh nghiệp dệt may Việt Nam.
Tài liệu tham khảo
---dựd---
B
Báo cáo kim ngạnh xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam từ 1991 - 2002 - Bộ Thương mại.
D
PGS.TS. Tô Xuân Dân - Đàm phán và ký kết hợp đồng ngoại thương - Nhà xuât bản thống kê - Hà Nội - 1998.
D
Dệt may sẽ tăng tốc - (VnExpress.vn /VnExpress.vn - Det, may se tang toc.htm)
H
PGS.TS. Nguyễn Thị Hường (chủ biên) - Giáo trình kinh doanh quốc tế - Nhà xuất bản thống kê - Hà Nội - 2001.
J
GS. Jan Ramberg - Hướng dẫn sử dụng Incoterms 2000 của ICC - Nhà xuất bản VCCI & FTU - Hà Nội - 2000.
K
Kinh tế và dự báo số /2002 - Cạnh tranh quốc tế và bài toán phát triển.
K
Kinh nghiệm làm hàng dệt may xuất sang Mỹ - (Vnexpress.vn/VnExpress - Kinh nghiem lam hang det may xuat sang My.htm
S
SA 8000 là gì? - WWW.vpc.org.vn
T
PGS. Vũ Hữu Tửu - Kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương - Nhà xuất bản giáo dục - Hà Nội - 1998.
T
Thời báo kinh tế Việt Nam(số đặc biệt năm 2001) – Kinh tế 2000, 2001 Việt Nam và thế giới.
T
Thông tin kinh tế xã hội số 4 - Tình hình giá cả thị trường trong tháng 1/2003.
T
Tạp chí CLCSCN số 2/2003 – Chiến lược phát triển tăng tốc ngành dệt may Việt Nam trong xu thế mới.
T
Tạp chí CLCSCN số 1/2003 – Chiến lược phát triển ngành công nghiệp dệt may của Trung Quốc.
T
80% hàng dệt may xuất sang EU là hàng gia công - VnExpress.vn - 80% hang det may xuat sang EU la hang gia cong.htm
V
TS. Nguyễn Cao Văn - Giáo trình marketing quốc tế - Nhà xuất bản giáo dục - Hà Nội - 1999.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- A0401.doc