Đề tài Những cơ sở xác định và điều tiết tỷ giá trong lịch sử. liên hệ thực tế ở Việt Nam hiện nay

Vàng được sử dụng làm tiêu chuẩn về tiền tệ vì vàn là một kim loại đồng chất được chuẩn hóa trên toàn thế giới, đồng thời lại dễ lưu trữ, dễ vận chuyển và dễ chia thành những đơn vị nhỏ các loại. Mặt khác, chi phí sản xuất vàng khi đó khá cao tạo thêm cho vàng có một đặc tính quan trọng khác đó là chính phủ các nước khó có thể tăng lượng vàng trong lưu thông một cách dễ dàng Bản vị vàng là một cơ chế tỷ giá được đảm bảo bằng hàng hóa vì giá của các đồng tiền được đảm bảo bằng một hàng hóa có nguồn cung ứng cố định sẽ tạo nên sự ổn định giá cả trong dài hạn. Do chính phủ phải có vàng để đảm bảo cho lượng tiền được phát hành nên lượng cung ứng tiền sẽ phụ thuộc vào lượng cung ứng vàng. Gía cả của các hàng hóa khác có thể biến động do sự biến động của sản lượng vàng khai thác hoặc do sự tăng trưởng của nền kinh tế, song chúng vẫn có xu hướng ổn định trong dài hạn. Do các đồng tiền quốc gia đều có thể được chuyển đổi thành vàng nên mức tăng lượng cung tiền cung ứng phụ thuộc chặt chẽ vào mức tăng của lượng dữ trữ vàng . Khi dự trữ vàng ổn định thì giá cả cũng ổn định. Sau này khi lượng vàng khai thác tăng đột biến, giá các loại hàng hóa khác cũng tăng đột biến.

doc35 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1120 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Những cơ sở xác định và điều tiết tỷ giá trong lịch sử. liên hệ thực tế ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i. 1.1.3.3 Tỷ giá hối đoái và mức chênh lệch lãi suất giữa các nước Nói chung, nếu các điều kiện và môi trường kinh doanh của các nước là tương đương nhau, nước nào có lãi suất ngắn hạn cao hơn thì vốn ngắn hạn sẽ chảy vào nhằm thu phần chênh lệch do tiền lãi tạo ra, do dó sẽ làm cho cung ngoại hối tăng lên, cầu ngoại hối giảm đi, tỷ giá hối đoái sẽ giảm xuống. Chẳng hạn, khi Việt Nam nâng cao lãi suất tiền gửi hơn các nước trong khu vực thì lượng ngoại tệ sẽ chạy vào Việt Nam để mua các tín phiếu ngắn hạn, do đó sẽ làm cho cung ngoại tệ và đồng thời cũng làm giảm nhu cầu ngoại tệ xuống. Tỷ giá hối đoái do đó cũng giảm xuống. Tuy nhiên điều này có thực sự xảy ra hay không còn phụ thuộc vào điều kiện và môi trường kinh doanh của Việt Nam có đảm bảo an toàn cho các nhà đầu tư hay không, bởi vì các nhà đầu tư không chỉ quan tâm đến lợi nhuận thu được từ đầu tư mà còn rất quan tâm đến yếu tố an toàn vốn đầu tư. 1.1.3.4 Yếu tố tâm lý Yếu tố tâm lý là một yếu tố chủ yếu dựa vào sự phán đoán từ các sự kiện, tình hình chính trị, kinh tế của các nước và thế giới có liên quan. Chẳng hạn, mức thu nhập thực tế (mức độ tăng GNP thực tế) tăng lên sẽ làm tăng nhu cầu về hàng hóa và dịch vụ nhập khẩu, do đó làm cho nhu cầu ngoại hối để thanh toán hàng nhập khẩu cũng tăng lên. Tăng trưởng hay suy thoái kinh tế cũng có ảnh hưởng tới tỷ giá hối đoái. Khi nền kinh tế trong thời kỳ tăng trưởng nhanh, nhu cầu về ngoại tệ tăng và lúc đó giá ngoại tệ có xu hướng tăng. Ngược lại, trong thời kỳ kinh tế suy thoái, khủng hoảng, nhu cầu về ngoại tệ giảm làm cho giá ngoại tệ có xu hướng giảm. Tỷ giá hối đoái là giá quốc tế, do đó những sự kiện kinh tế, chính trị tr ên thế giới cũng sẽ gây ảnh hưởng rất nhạy bén đến tỷ giá hối đoái. Chẳng hạn như sự kiện ở Mỹ xảy ra vào tháng 9/2001 hay chiến tranh Iraq tháng 3/2003 vừa qua đã làm khuynh đảo thị trường hối đoái thế giới, giá USD đã giảm đáng kể. 1.1.3.5 Vai trò quản lý của ngân hàng trung ương Trong chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi có quản lý, vai trò can thiệp của Nhà nước giữ vị trí quan trọng. Cần nhấn mạnh rằng Nhà nước can thiệp bằng công cụ của thị trường thông qua Ngân hàng Nhà nước Trung ương chứ không phải bằng các công cụ hành chính, tức là Ngân hàng Trung ương tham gia vào thị trường với tư cách là người tham gia trên thị trường (người mua hoặc người bán) trong từng thời điểm để tác động lên cung hoặc cầu ngoại hối, từ đó tác động lên tỷ giá hối đoái phù hợp với chính sách tiền tệ của Nhà nước. 1.1.3.6 Những yếu tố chính trị và điều kiện kinh tế Các điều kiện kinh tế thay đổi hoặc các sự kiện kinh tế, tài chính sẽ ảnh hưởng đến các hoạt động kinh doanh và đầu tư của quốc gia, từ đó ảnh hưởng đến các luồng tiền chạy ra và chạy vào quốc gia đó và kết quả là ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái. Ví dụ như cuộc khủng tài chính năm 1997 ở Châu Á đã làm đồng tiền của một số nước Châu Á mất giá khá nhiều. Các chính sách thuế, mức độ tăng tr ưởng kinh tế, chính sách đầu t ư của các quốc gia đều có thể ảnh hưởng đến sự dịch chuyển các luồng vốn đầu tư giữa các nước, từ đó tác động lên tỷ giá hối đoái. 1.2 TẦM QUAN TRỌNG CỦA TỶ GIÁ – Ý NGHĨA KINH TẾ CỦA TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI a. So sánh sức mua giữa các đồng tiền Tỷ giá hối đoái phản ánh tương quan giá trị giữa hai đồng tiền, thông qua đó có thể so sánh giá cả tại thị trường trong nước và trên thế giới, đánh giá năng suất lao động, giá thành sản phẩm trong nước với các nước khác. b. Vai trò kích thích và điều chỉnh xuất nhập khẩu Thông qua cơ chế tỷ giá, chính phủ sử dụng tỷ giá để tác động đến xuất nhập khẩu trong từng thời kỳ, khuyến khích những ngành hàng, chủng loại hàng hóa tham gia hoạt động kinh tế đối ngoại, hạn chế nhập khẩu nhằm thực hiện định hướng phát triển cho từng giai đoạn. c. Điều tiết thu nhập trong hoạt động kinh tế đối ngoại Phân phối lại thu nhập giữa các ngành hàng có liên quan đến kinh tế đối ngoại và giữa các nước có liên quan về kinh tế với nhau. Khi tỷ giá cao, tức là giảm sức mua của đồng tiền trong nước so với đồng tiền nước ngoài. Điều này có tác dụng giúp cho nhà xuất khẩu có thêm lợi thế để cạnh tranh tăng thêm thu nhập cho nhà xuất khẩu. d. Tỷ giá còn là công cụ sử dụng trong cạnh tranh thương mại, giành giật thị trường tiêu thụ hàng hóa, khai thác nguyên liệu của nước khác với giá rẻ. Đó là biện pháp phá giá đồng tiền. Điển hình là nước Mỹ đã dùng công cụ tỷ giá để cản trở sự xuất khẩu các hàng hóa của Nhật sang Mỹ (đặc biệt là xe hơi). Việc làm này đã gây thiệt hại cho Nhật, làm giảm thu nhập từ xuất khẩu của Nhật. Phá giá đồng tiền là việc chính phủ đứng ra tuyên bố giảm giá nội tệ so với ngoại tệ. Tác động của tỷ giá đến các quan hệ kinh tế quốc tế Tác động đến thương mại quốc tế - Khi tỷ giá hối đoái tăng theo nghĩa là đồng nội tệ có giá trị giảm xuống so với đồng ngoại tệ sẽ có tác động bất lợi cho nhập khẩu nhưng lại có lợi cho xuất khẩu. - Khi tỷ giá giảm có tác động hạn chế xuất khẩu, khuyến khích nhập khẩu. Tác động đến hoạt động đầu tư Khi TGHĐ tăng lên sẽ hạn chế việc đầu tư ra nước ngoài của nhà đầu tư trong nước , vì họ sẽ không có lợi nếu chuyển vốn bằng đồng nội tệ ra nước ngoài để đổi lấy ngoại tệ tăng giá. Các khoản vốn đầu tư này nếu được tái đầu tư hoặc để mua hàng hóa trong nước thì sẽ đem lại hiệu quả cao hơn. Và ngược lại. PHẦN II: CƠ SỞ XÁC ĐỊNH VÀ ĐIỀU TIẾT TỶ GIÁ TRONG LỊCH SỬ 2.1 CĂN CỨ VÀO NGANG GIÁ VÀNG- CHẾ ĐỘ BẢN VỊ VÀNG (1880- 1914) Vàng được công nhận tuyệt đối là tiền không chỉ trong phạm vi Quốc gia mà còn được công nhận là tiền trên toàn thế giới Các đồng tiền được định giá theo vàng VD: 1 ounce( oz)= 20,67 USD Để duy trì cơ chế bản vị vàng, các quốc gia thành viên phải cam kết mua hoặc bán vàng cho bất kỳ cá nhân, tổ chức, hay quốc gia khác có nhu cầu tại một mức giá cố định Vàng được sử dụng làm tiêu chuẩn về tiền tệ vì vàn là một kim loại đồng chất được chuẩn hóa trên toàn thế giới, đồng thời lại dễ lưu trữ, dễ vận chuyển và dễ chia thành những đơn vị nhỏ các loại. Mặt khác, chi phí sản xuất vàng khi đó khá cao tạo thêm cho vàng có một đặc tính quan trọng khác đó là chính phủ các nước khó có thể tăng lượng vàng trong lưu thông một cách dễ dàng Bản vị vàng là một cơ chế tỷ giá được đảm bảo bằng hàng hóa vì giá của các đồng tiền được đảm bảo bằng một hàng hóa có nguồn cung ứng cố định sẽ tạo nên sự ổn định giá cả trong dài hạn. Do chính phủ phải có vàng để đảm bảo cho lượng tiền được phát hành nên lượng cung ứng tiền sẽ phụ thuộc vào lượng cung ứng vàng. Gía cả của các hàng hóa khác có thể biến động do sự biến động của sản lượng vàng khai thác hoặc do sự tăng trưởng của nền kinh tế, song chúng vẫn có xu hướng ổn định trong dài hạn. Do các đồng tiền quốc gia đều có thể được chuyển đổi thành vàng nên mức tăng lượng cung tiền cung ứng phụ thuộc chặt chẽ vào mức tăng của lượng dữ trữ vàng . Khi dự trữ vàng ổn định thì giá cả cũng ổn định. Sau này khi lượng vàng khai thác tăng đột biến, giá các loại hàng hóa khác cũng tăng đột biến. Ngày nay, thời kỳ bản vị vàng được xem là một” kỷ nguyên vàng” của sự phát triển kinh tế,. Vẫn thường xuyên có nhiều ý kiến ủng hộ và đề xuất quay trở lại cơ chế bản vị vàng. Những ý kiến như vậy thường tập trung vào những lợi ích có được trong thời kỳ bản vị vàng như sự ổn định về giá cả, tăng trưởng kinh tế và sự phát triển thương mại quốc tế. Tuy nhiên, một số ý kiến khác cho rằng sự phát triển và ổn định của nền kinh tế thế giới trong thời gian đó không nhất thiết do cơ chế bản vị vàng mang lại mà có thể là do đó là một thời kỳ tương đối yên bình, không có những cú sốc mạnh như các cuộc chiến tranh thế giới. Nhưng nhận xét một cách khách quan thì sự ổn định về giá cả và mối tương quan giữa các đồng tiền quốc gia dưới cơ chế bản vị vàng đã hỗ trợ cho sự phát triển của thương mại quốc tế một cách đáng kể. Trong cơ chế bản vị vàng, vàng đóng vai trò là tiền tệ thế giới và từ đó tạo nên cơ chế tự cân bằng cán cân thanh toán. Nước nào bị thâm hụt cán cân thanh toán sẽ phải dùng vàng ra để thanh toán bù đắp, qua đó làm giảm lượng tiền trong lưu thông và làm giảm giá các hàng hóa khác. Hàng hóa giảm giá này sẽ làm tăng tính cạnh tranh, cải thiện cán cân thương mại. Ngược lại, một nước có cán cân thanh toán thặng dư sẽ thu vàng về và từ đó làm tăng lượng tiền cung ứng và tăng giá các hàng hóa thông thường . Việc tăng giá này sẽ làm giảm tính cạnh tranh và như vậy, cán cân thanh toán sẽ tự động điều chỉnh về trạng thái cân bằng. Trên thực tế, vàng không phải là phương tiện duy nhất, thậm chí không phải là quan trọng nhất, để thực hiện việc thanh toán giữa các quốc gia trong thời kỳ này. Do luân Đôn là trung tâm tài chính của thế giới nên đồng Bảng Anh cũng được xem là đồng tiền chung của thế giới. Các giao dịch thương mại quốc tế thường được thanh toán bằng đồng Bảng Anh cho dù nước Anh không hề tham gia vào hoạt động thương mại đó. 2.2 CĂN CỨ VÀO GIÁ TRỊ ĐỒNG BẢNG ANH- CHẾ ĐỘ BẢN VỊ ĐỒNG BẢNG ANH (1914- 1944) Cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất đã đặt dấu chấm hết cho thời kỳ bản vị vàng. Các quan hệ tài chính quốc tế bị ảnh hưởng rất lớn bởi các cuộc chiến tranh là do ngân hàng và các nhà hoạt động thương mại lo ngại khả năng các quốc gia không cho phép các luồng vốn được tự do chu chuyển. Khi chiến tranh thế giới thứ nhất nổ ra, việc chu chuyển vàng bị tạm dừng do bị luật pháp hạn chế và do tinh thần yêu nước của người dân các nước. Các nước tham gia cuộc chiến phải kiểm soát lượng dự trữ quốc tế của mình một cách nghiêm ngặt nên việc đưa vàng ra nước ngoài được xem là một hành động không yêu nước. Chính phủ các nước cũng khuyến khích, thậm chí còn buộc các cá nhân sở hữu vàng và ngoại tệ phải bán lại cho nhà nước. Hầu hết các nước khôi phục lại cơ chế bản vị vàng với mức giá quy đổi như trước là điều không thể. Trong khi đó, lạm phát ở Mỹ lại tương đối thấp vì vậy Mỹ đã quay lại cơ chế bản vị vàng vào tháng 6 năm 1919. Cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất cũng chấm dứt sự thống trị của nước Anh trên thị trường tài chính quốc tế do sự nổi lên của Mỹ với tư cách là nơi tập trung các ngân hàng lớn của thế giới. Những năm ngay sau chiến tranh, tỷ giá giữa Bảng Anh và USD biến động tương ứng với tương quan mức giá cả của hai nước. Các nước từ bỏ cơ chế bản vị vàng Kiểm soát lượng dự trữ quốc tế nghiêm ngặt, bắt buộc cá nhân bán vàng và ngoại tệ cho Nhà Nước. Một số nước Phục hồi lại cơ chế bản vị vàng, dưới dạng cơ chế bản vị hối đoái vàng Năm 1925 nước Anh phục hồi lại cơ chế bản vị vàng dưới dạng " Bản vị hối đoái vàng" 1 ounce (oz) = 31,135 gr Các NHTW đưa ngoại tệ ( Đồng bảng Anh và đồng Đôla Mỹ ) vào trong dự trữ vàng Mức giá quy đổi đồng bảng Anh ra vàng bằng với trước chiến tranh cho dù giá cả các hàng hóa khác đã tăng rất nhiều. Do đồng bảng Anh định giá quá cao, xuất khẩu của Anh bị ảnh hưởng , dẫn đến tình trạng tiền lương bị giảm thấp và giá cả các hàng hóa thông thường ở trong tình trạng giảm phát. Năm 1931, chính phủ Anh buộc phải tuyên bố không thể chuyển đổi đồng Bảng Anh ra vàng không hạn chế vì dự trữ vàng bị giảm sút trước nhu cầu đổi đồng bảng Anh ra vàng rất lớn và từ đó cũng chấm dứt cơ chế bản vị hối đoái vàng ở Anh Khi đồng Bảng mất khả năng chuyển đổi ra vàng thị sự chú ý lại dồn vào đồng USD. Nhu cầu đổi đồng USD ra vàng lớn đến nỗi vào cuối năm 1931, lượng dự trữ vàng của Mỹ đã giảm 15%. Cho dù điểu này không làm thay đổi chính sách của Mỹ ngay sau đó nhưng rốt cuộc đến năm 1933, chính phủ Mỹ cũng phải từ bỏ cơ chế bản vị vàng. 2.3. CĂN CỨ VÀO GIÁ TRỊ ĐỒNG ĐÔ LA MỸ - CHẾ ĐỘ TỶ GIÁ ĐỒNG ĐÔ LA MỸ (1944-1973) Hội nghị Bretton Woods tại New Hampshire, Hoa kỳ năm 1944, Các nước muốn có một hệ thống tiền tệ quốc tế dựa trên sự hợp tác và khả năng tự do chuyển đổi các đồng tiền Thỏa thuận Bretton Woods ràng buộc các nước duy trì việc chuyển đổi đồng nội tệ ra vàng theo một mức giá cố định Mỹ cam kết duy trì đôla Mỹ tại 1 nội dung vàng cố định 1 ounce vàng = 35 USD; (1USD =0,888671 gr vàng) Cuối thập kỷ 60: 1 ounce vàng =38 USD Đầu năm 1971 Hoa kỳ đơn phương từ chối thực hiện hiệp ước Bretton Woods Tháng 12/1971 Hội nghị tiền tệ quốc tế lại được tổ chức nhằm tính toán lại tỉ giá giữa các đồng tiền chủ chốt trên Thế Giới và đã đạt được thỏa thuận Smithson. Thỏa thuận này cho phép mức giá quy đổi USD ra vàng dao động từ 35 USD-38,02 USD/oz . Đồng thời. đồng USD cũng bị phá giá tới 8%. Điều này dẫn đến đồng tiền của các nước có cán cân thanh toán thặng dư được tăng giá. Sau đợt điều chỉnh tỷ giá này, các NHTW sẽ duy trì mức tỉ giá cố định thông qua việc mua bán đồng tiền của mình với biên độ giao động 2,25% Chế độ tỷ giá đồng đôla Mỹ sụp đổ vào tháng 3/ 1973, đồng thời đồng tiền mạnh của thế giới cũng được thả nổi 2.4. CĂN CỨ VÀO QUAN HỆ CUNG CẦU NGOẠI TỆ TRÊN THỊ TRƯỜNG (TỪ 1973 ĐẾN NAY) Năm 1976 Hội nghị Jamaica xác nhận việc các nước thành viên của IMF có quyền lựa chọn 1 chế độ tỷ giá riêng của nước mình và chính thức bãi bỏ giá pháp định cho vàng. Gía trị của đồng tiền của các nước được đo bằng sức mua đối với hàng hoá chứ không còn được đảm bảo cố định bằng vàng Đồng tiền do NHTW các nước phát hành không được đảm bảo bằng vàng gọi là tiền giấy Tỉ giá đồng tiền các nước được hình thành và biến động tự do theo các quan hệ thị trường- chủ yếu quan hệ cung cầu về ngoại tệ Chính phủ không hề tác động hay can thiệp Gía 1 đồng nội tệ đối với 1 đồng ngoại tệ được xác định tại điểm mà cung ngang bằng cầu Các nước trải qua tỉ giá thả nổi cho rằng: “ chế độ tỉ giá thả nổi hoàn toàn không làm ổn định, phát triển kinh tế mà ngược lại làm tăng tính bất ổn kinh tế 2.5. KẾT HỢP GIỮA CUNG CẦU NGOẠI TỆ TRÊN THỊ TRƯỜNG VÀ SỰ ĐIỀU TIẾT CỦA CHÍNH PHỦ - Chế độ tỉ giá gắn vào đồng tiền dự trữ - Tỉ giá được hình thành và giao động chủ yếu là do các yếu tố thị trường - Trong những tình huống nhất định Nhà Nước có thể can thiệp để đảm bảo tỉ giá không biến động quá mức - Sự can thiệp của Nhà Nước được hình thành bởi việc tham gia mua bán ngoại tệ trên thị trường của NHTW trong khuôn khổ chính sách tiền tệ PHẦN III: CHẾ ĐỘ VÀ CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ Ở VIỆT NAM 3.1 QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH TỶ GIÁ Ở VIỆT NAM 3.1.1 Giai đoạn trước năm 1991- Tỷ giá bao cấp a. Bối cảnh chung Đây là thời kỳ nền kinh tế mang tính kế hoạch hóa tập trung bao cấp, nhà nước can thiệp vào mọi mặt của đời sống kinh tế xã hội, quyết định các chính sách kinh tế vĩ mô và vi mô theo một kế hoạch tập trung trên toàn quốc. Sự can thiệp này đã ngăn cản khả năng phát huy tác dụng của qui luật cung cầu trên thị trường. Cung giống như mô hình chung của tất cả các nước xã hội chủ nghĩa lúc bấy giờ thì VN cũng thực hiện chính sách kinh tế hướng nội, bế quan tỏa cảng, các mối quan hệ với bên ngoài đều thông qua hệ thống độc quyền nhà nước về ngoại thương và ngoại hối. b. Chế độ tỷ giá Áp dụng chế độ tỷ giá cố định do nhà nước độc quyền xác định, vẫn không tính đến các yếu tố của cung cầu trên thị trường. Việt Nam cũng giống như các nước xã hội chủ nghĩa khác duy trì phương pháp xác định tỷ giá trên cơ cở so sánh sức mua đối nội và đối ngoại giữa các đồng tiền và sau đó được quyết định bằng những thỏa thuận đa biên trong các hiệp định thanh toán được ký kết giữa các nước xã hội chủ nghĩa với nhau. Sản phẩm của cơ chế xác định tỷ giá này là các nước xã hội chủ nghĩa duy trì chế độ tỷ giá cố định và đa tỷ giá, bao gồm: tỷ giá mậu dịch ( hay tỷ giá chính thức), tỷ giá phi mậu dịch ( bao gồm cả tỷ giá kiều hối) và tỷ giá kết toán nội bộ, đồng thời triệt tiêu môi trường và mọi điều kiện để hình thành và phát triển thị trường ngoại hối. Hậu quả của một cơ chế tỷ giá cố định và đa tỷ giá mang tính áp đặt, bất chấp qui luật cung cầu tiền tệ đã để lại hậu quả hết sức nghiêm trong. Đồng tiền Việt Nam được định giá quá cao so với các đồng tiền tự do chuyển đổi. Tỷ giá chính thức ngày càng chênh lệch xa tỷ giá thực tế, làm cho hoạt động xuất khẩu khó khăn, cán cân thương mại bị thâm hụt nặng. c. Bước phát triển trong chính sách tỷ giá - Ngày 26/03/1988 Nghị đinh 53/HDBT, tách ngân hàng Việt Nam từ 1 cấp ra thành 2 cấp: ngân hàng nhà nước và hệ thống ngân hàng thương mại. Ngân hàng nhà nước (ngân hàng trung ương) thực hiện chức năng quản lý vĩ mô, ban hàng chính sách tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, hệ thống ngân hàng thương mại thực hiện chức năng kinh doanh tiền tệ tín dụng. - Ngày 18/10/1988, nghị định số 161/HĐBT về điều lệ quản lý ngoại hối được ban hành, thay thế nghị định số 102/CP ngày 6/7/1963 của hội đồng chính phủ. Nó đã xoa bỏ thế độc quyền trong kinh doanh ngoại hối. Các ngân hàng thương mại muốn kinh doanh ngoai hối đều có thể làm thủ tục để ngân hàng nhà nước cấp phép. Đây có thể coi như là sự khởi đầu tạo ra môi trường và điều kiện của thị trường ngoại hối có tổ chức, hình thành một sân chơi chứa đựng yếu tố cạnh tranh của thị trường. - Một sự kiện lớn trong giai đoạn này là theo nghị quyết đại hội đảng 6, nước ta bắt đầu thực hiện chính sách đổi mới. Bên cạnh việc mở cửa giao thương với bên ngoài, đảng và nhà nước ta chủ trương thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Sau khi thông qua luật đầu tư nước ngoài vào Việt Nam năm 1987, luồng vốn đầu tư nước ngoài bằng ngoại tệ bắt đầu đổ vào VN. Trong bối cảnh như vây, chúng ta vẫn duy trì tỷ giá chính thức do ngân hàng nhà nước áp đặt. Tỷ giá mua, bán của các ngân hàng được phép kinh doanh ngoại hối được xác định trên cơ sở tỷ giá chính thức do ngân hàng nhà nước công bố công trừ 5% và chênh lệch giữa tỷ giá mua và bán qui định là 0.5%. Như vậy cho dù đã có bước chuyển biến, nhưng ở VN vẫn thiếu một thị trường ngoại hối chính thức hoàn chỉnh để kết nối cung cầu ngoại tệ và tạo cơ sở để xác định tỷ giá chính thức một cách khách quan. 3.1.2 Thời kỳ từ 1991 đến 1993- Tỷ giá trung tâm giao dịch ngoại tệ a. Bối cảnh Đây là giai đoạn tiếp theo của quá trình chuyển đổi cơ chế theo hướng thị trường. Về phương diện thanh toán quốc tế VN đừng trước một tình thế vô cùng khó khăn vì sau khi hệ thống các nước XHXN ở Đông Âu sụp đổ, thị trường với các nước XHCN bị thu hẹp đáng kể. Hệ thống thanh toán đa biên bị tan rã, tất cả các nước XHXN đều đồng loạt chuyển đổi đồng tiền thanh toán với VN sang ngoại tệ tự do chuyển đổi (chủ yếu bằng USD). Việc chuyển đổi đồng tiền thanh toán đã tác động lớn đến khả năng thanh toán của VN bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi bởi vì từ trước năm 1991, hầu hết nguồn thu ngoại tệ của VN đều bằng đồng Rúp chuyển nhượng. Cán cân vãng lai và cán cân thương mại của VN thâm hụt lớn. b. Chế độ tỷ giá Trước tình hình trên ngày 16/8/1991, thống đốc ngân hàng NNVN đã ra quyết định số 107/NHQĐ ban hành qui chế hoạt động của trung tâm giao dịch ngoại tệ, trên cơ sở đó hai trung tâm giao dịch ngoại tệ được thành lập và đi vào hoạt động tại thành phố HCM và HN. Năm 1991 là năm bản lề đối với sự phát triển của thị trường ngoại hối cũng như đối với việc xây dựng và điều hành chính sách tỷ giá của VN. Với sự hình thành của TTCDNT, thị trường ngoại hối VN đã có biến đổi về chất, đánh dấu bước khởi đầu thành công trong chính sách tỷ giá ổn định, theo cung cầu thị trường. Trung tâm giao dịch ngoại tệ ra đời có qui chế tổ chức và hoạt động riêng. Đây là lần đầu tiên, các thành viên của thị trường (bao gồm các NHTM và một số doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu lớn) được tập trung trên thị trường có tổ chức, được làm quen dần với cơ chế thị trường thông qua việc đấu giá ngoại tệ để xác định tỷ giá theo đúng qui luật cung cầu. Mặc dù doanh số mua bán tại 2 trung tâm giao dịch còn ở mức khiêm tốn (tính đến thời điển chấm dứt hoạt động ngày 1/2/1994 thì tổng số giao dịch là 660.5 triệu USD. Trong 692 phiên giao dịch tức là gần 1 triệu USĐ /1 phiên. Trong giai đoạn này tỷ giá dường như đã thoát xác khỏi chế độ cố định được công bố hàng tháng để làm quen với khái niệm cung cầu ngoại tệ- vốn là bản chất của nó. Từ cơ chế đa tỷ giá, sử dụng mệnh lệnh hành chính để cố định tỷ giá trong một thời gian dài trong giai đoạn trước 1991, nay tỷ gía được hình thành trên cơ sở đấu giá tại TTTGDNT theo cơ chế thị trường, thể hiện bước đột phá trong chính sách tỷ giá của VN. Tỷ giá chính thức được NHNN xác định và công bố dựa trên tỷ giá đóng cửa tại TTGDNT của ngày hôm trước làm cơ sở để NHTM xác định tỷ giá giao dịch với khách hàng ngày hôm sau. Ngân hàng nhà nước trực tiếp theo dõi và tham gia vào các phiên giao dịch, do đó có thể nắm bắt kịp thời cung cầu ngoại tệ để có căn cứ hợp lý xác định tỷ giá chính thức (dựa vào tỷ giá đóng cửa tại TTGDNT). Trên cơ sở đó, có biện pháp ổn định tỷ giá phù hợp với mục tiêu của chính sách tiền tệ thông qua can thiệp mua, bán trực tiếp tại hai trung tâm GDNT. c. Hạn chế - Thị trường ngoại hối tập trung tại 2 TTGDNT ở hai khu vực đại lý chưa thể đại diện đầy đủ cung cầu ngoại tệ của cả nền kinh tế. Do đó, tỷ giá hình thành trên cơ sở đấu giá ngoại tệ tại hai trung tâm này chưa phản ánh chính xác tương quan cung cầu ngoại tệ trong nền kinh tế. -Trung tâm giao dịch ngoại tệ chỉ có vai trò lịch sử trong thời gian rất ngắn, tính thiết thực đối với các thành viên tham gia không cao, các phiên giao dịch không liên tục (chỉ vào một vài ngày trong tuần) nên chưa đáp ứng đủ nhu cầu giao dịch của NHTM và khách hàng. -Thành viên thị trường bao gồm cả các tổ chức kinh tế nên việc tách bạch cung cầu thực tế của nền kinh tế với khả năng điều hòa ngoại tệ trong hệ thống ngân hàng thương mại là không rõ ràng. -Dự trữ ngoại tệ của NHNN còn quá mỏng đã hạn chế khả năng can thiệp của NHNN trên thị trường để thực hiện mục tiêu chính sách tỷ giá và tiền tệ. 3.1.3 Thời kỳ 1994-1996- Tỷ giá thị trường liên ngân hàng a. Bối cảnh Những hạn chế của TTGDNT và chính sách tỷ giá đã đặt NHNN trước những yêu cầu phải đổi mới để đáp ứng nhu cầu phát triển của thị trường. Ngày 20/9/1994, thống đốc NHNN đã ban hành quyết định số 203/QĐ-NH9 về việc thành lập thị trường ngoại tệ liên ngân hàng và 203/QĐ-NH13 ban hành qui chế tổ chức và hoạt động của thị trường ngoại tệ LNH. Việc thành lập TTNTLNH là bước phát triển mới của thị trường ngoại hối VN. So với TTGDNT thì TTNTLNH có một bước tiến đáng kể, thể hiện sự thích nghi dần của thị trường ngoại hối VN với thị trường ngoại hối quốc tế: - Thành viên thị trường chỉ bao gồm NHTM, công ty tài chính được phép kinh doanh ngoại tệ và NHNN. Như vậy, NHNN không trực tiếp mua bán ngoại tệ với các tổ chức kinh tế, đồng thời các tổ chức, cá nhân muốn mua bán ngoại tệ phải giao dịch trực tiếp với các NHTM. Qui định này giúp phân tách hai khu vực trên thị trường ngoại hối: Thị trường LNH (phản ánh khả năng điều hòa và kinh doanh ngoại tệ vủa hệ thống NHTM, đồng thời là nơi NHNN có thể thực hiện các can thiệp thị trường một cách có hiệu quả), Thị trường ngoại tệ giữa NHTM với khách hàng (phản ánh trực tiếp cung cầu ngoại tệ của nền kinh tế). - Thông qua thị trường, NHNN sử dụng quĩ điều hòa ngoại tệ với tư cách là người mua, người bán cuối cùng để can thiệp thị trường nhằm thực hiện mục tiêu chính sách tỷ giá, chính sách tiền tệ của nhà nước. - Mở rộng thời gian, không gian và phạm vi hoạt động giao dịch: thời gian giao dịch không theo phiên mà vào tất cả các ngày làm việc trong tuần, giao dịch trực tiếp giữa các thành viên và nối mạng toàn hệ thống, đồng tiền giao dịch không chỉ là USD mà còn mở rộng sang các ngoại tệ tự do chuyển đổi khác b. Chế độ tỷ giá Trong giai đoạn này cơ chế xác định và điều hành tỷ giá đã có bước thay đổi đáng kể so với việc xác định tỷ giá trên cơ sở đấu giá ngoại tệ tại TTGDNT trước đây. Với quyết định số 206/QĐ –NH7 ngày 20/9/1994 của thống đốc ngân hàng NN ban hành qui chế xác định điều chỉnh và công bố của tỷ giá VND so với ngoại tệ, công tác điều hành tỷ giá đã đưa ra những cơ sở đề xây dựng và điều hành chính sách tỷ giá của VNĐ so với USD như sau: -Chính sách tỷ giá cho cả năm được xây dựng trên cơ sở tình hình thực hiện cán cân thanh toán quốc tế trong năm, chỉ số lạm phát trong năm của VN và Mỹ, chính sách tiền tệ và chính sách xuất nhập khẩu. - Việc điều hành tỷ giá trong quí được thực hiện trên cơ sở tính hình thực hiện cán cân thanh toán quốc tế quý trước và dự kiến trong quý, cung cầu ngoại tệ trên TTNTLNH, biên độ giao động dự kiến trong năm, lạm phát trong quý của VN và Mỹ, tình hình cung ứng tiền các quý trước. -Tỷ giá hàng ngày được xác định trên cơ sở tỷ giá bình quân ngày hôm trước trên TTNTLNH, biên độ giao động tỷ giá dự kiến trong quý, tình hình tỷ giá và giá cả thị trường hàng ngày. Trên cớ sở đó, NHNN đã chủ động xác định và công bố tỷ giá chính thức của VNĐ với USĐ và với một số ngoại tệ hàng ngày. Trong phạm vi biên độ cho phép, các ngân hàng TM xác định tỷ giá giao dịch áp dụng cho khách hàng của mình. Với cơ chế tỷ giá này, NHNN đã có thể duy trì chính sách tỷ giá theo hường ổn định trong điều kiện một nền kinh tế có cung cầu ngoại tệ tương đối cân bằng. c. Một số hạn chế - Nguyên tắc xác định tỷ giá đã bước đầu dựa trên căn cứ khoa học, song trong điều kiện khả năng thu thập và cập nhật thông tin số liệu của VN còn sơ khai nên khó có thể đưa ra những nhận định chính xác về cung cầu ngoại tệ. Vì vậy, tỷ giá được hình thành trên cơ sở này khó tránh khỏi những bất cập. Ngoài ra các yếu tố biến động tỷ giá trên thị trường quốc tế cũng chưa được thể hiện đầy đủ. - Có một số quan điểm cho rằng việc duy trì chính sách tỷ giá ổn định quá mức trong điều kiện USD có biến động mạnh và thất thường với các ngoại tệ của các nước đối tác thương mại chính của VN (Nhật, Singapore, Trung Quốc) trong giai đoạn này không góp phần tích cực cải thiện tình trạng thâm hụt thương mại của VN (trong 3 năm 1994-1996, thâm hụt thương mại của VN lần lượt là 1.7 tỷ USD; 2.7 tỷ USD và 3.8 tỷ USD). Nhìn lại diễn biến tỷ giá của USD so với JPY, SGD và CNY trên thị trường quốc tế trong giai đoạn này cho thấy: Đồng USD sau khi giảm gía mạnh khoảng 10% so với Yên Nhật và đô la Singapore trong năm 1994 đồng Nhân dân tệ đã phá giá khoảng 43% so với năm 1993. Do VNĐ được gắn tương đối nhất định so với USD nên khi USD lên giá so với các ngoại tệ này, vô hình chung VNĐ cũng trong xu hướng lên giá. Điều này trong một mức độ nhất định đã ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu VN trên thị trường quốc tế. 3.1.4 Thời kỳ 1997-1998: Tỷ giá trong giai đoạn khủng hoảng tài chính khu vực a. Bối cảnh Đây là giai đoạn khủng hoảng tài chính tiền tệ ở khu vực Châu Á, nó đã tác động rất lớn đến hầu hết các nền kinh tế và các đồng tiền của các nước Châu Á, trong đó có các đối tác thương mại và đầu tư chính của VN như Nhật, Singapore, cũng như các đối thủ thương mại lớn của VN như Thái Lan và kéo theo các tác động lan truyền đến toàn bộ nền kinh tế thế giới. b. Chế độ tỷ giá Khác với sự ổn định trong giai đoạn trước, điểm nổi bật của chính sách tỷ giá trong giai đoạn này là NHNN đã liên tục điều chỉnh tỷ giá VNĐ trước những biến động của thị trường trong nước và quốc tế. Vẫn với cơ chế công bố tỷ giá chính thức và điều hành tỷ giá giao dịch của ngân hàng thương mại thông qua biên độ, trong hai năm 1997-1998 NHNN đã bốn lần chủ động điều chỉnh tỷ giá VNĐ dưới hai hình thức: 1. Mở rộng biên độ giao dịch 2. Nâng tỷ giá chính thức. Đặc điểm chung của bốn đợt điều chỉnh tỷ giá này là NHNN chủ động tiến hành điều chỉnh theo hướng giảm mạnh sự lên giá của VNĐ, sau đó duy trì ổn định trong một thời gian đủ dài (khoảng 6 tháng) nhằm ổn định tâm lý thị trường. Nhờ đó, tỷ giá trên thị trường tự do chỉ đột biến trong thời gian ngắn ngay sau đợt điều chỉnh của NHNN, sau đó lại trở về ổn định. Điểm quan trọng nhất trong giai đoạn này là lần đầu tiên NHNN đã chính thức xác định cơ chế tỷ giá của VN, thể hiện trong các văn bản qui phạm pháp luật. Điều 19 luật ngân hàng nhà nước và điều 34 nghị định 63 về quản lý ngoại hối đã qui định: “Tỷ giá hối đoái của đồng vn với các ngoại tệ khác được hình thành dựa trên cơ sở cung cầu ngoại tệ trên thị trường, có sự điều tiết của nhà nước”. c. Một số hạn chế - Cơ chế tỷ giá và điều hành chính sách tỷ giá thông qua tỷ giá chính thức và biên độ tương đối rộng trong giai đoạn này đã tạo ra một thị trường với nhiều mức tỷ giá cách biệt khác nhau (tỷ giá chính thức, tỷ giá giao dịch của NHTM, tỷ giá thị trường tự do) khiến việc lựa chọn, xác định một mức tỷ giá đúng cho các giao dịch của các thành phần trong nền kinh tế gặp nhiều khó khăn (tỷ giá hạch toán, tính thuế, tỷ giá giao dịch thực tế) nhiều khi gây hiểu nhầm VN đang quay lại chế độ đa tỷ giá của những năm trước thập kỷ 90. Hạn chế trong quy định về tỷ giá trần kỳ hạn: trong giai đoạn này, tỷ giá trần kỳ hạn được qui định theo biên độ phần trăm tối đa so với tỷ giá giao ngay cho từng kỳ hạn nhỏ từ 3-5 ngày, 7-15 ngày, 15-30 ngày. Tuy căn cứ để xác định các mức trần kỳ hạn này là chênh lệch lãi suất giữa hai đồng tiền (VNĐ và USD), song không được điều chỉnh thường xuyên để cập nhật biến động lãi suát. Chính vì vậy, trong nhiều giai đoạn khi lãi suất biến động, NHTM không thể thực hiện giao dịch kỳ hạn với khách hàng. 3.1.5 Thời kỳ 1999 đến nay- Tỷ giá bình quân liên ngân hàng a. Bối cảnh Đây là giai đoạn nền kinh tế VN tiếp tục khắc phục hậu quả của cuộc khủng hoảng, bắt đầu bước vào ổn định và tăng trưởng. Một nền kinh tế với chỉ số lạm phát ở mức thấp, tăng trưởng GDP ở mức cao và ổn định so với các nước trong khu vực, chính sách quản lý ngoại hối ngày càng thông thoáng nhằm thu hút kiều hối và vốn đầu tư nước ngoài đã tạo điều kiện thuận lợi cho chính sách tỷ giá từng bước phát triển theo kịp với sự phát triển kinh tế và hội nhập. b. Những biến đổi của chính sách tỷ giá - Trong điều hành tỷ giá giao ngay: Nhận thức được những hạn chế của cơ chế tỷ giá gắn với một biên độ, với mức biên độ tương đối rọng trong các giai đoạn trước, được sự hỗ trợ bởi tình hình kinh tế VN cũng như thế giới đang đi vào ổn định, NHNN đã có những điều chỉnh căn bản trong chính sách tỷ giá. Ngày 25/2/1999, thống đốc ngân hàng NN đã ký các quyết định số 64/1999/QĐ-NHNN và quyết định số 65/1999/QĐ-NHNn ban hành cơ chế tỷ giá dựa trên tỷ giá bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. Nội dung cơ bản của qui chế là: hàng ngày NHNN công bố tỷ giá BQLNH của ngày hôm trước để làm cơ sở cho các NHTM xác định tỷ giá giao dịch với khách hàng cho ngày hôm sau. Tỷ giá giao dịch của NHTM được xác định trong phạm vi biên độ 0.1% so với TGBQLNH do NHNN công bố. Cơ chế này đã khẳng định nguyên tắc cơ bản của chính sách tỷ giá của VN trong giai đoạn này là tỷ giá được xác định theo cung cầu của thị trường, có sự điều tiết của nhà nước: + Tính thị trường được thể hiện ở sự tôn trọng cung cầu ngoại tệ trong việc hình thành nên tỷ giá + Sự điều tiết của nhà nước thể hiện ở chỗ: NHNN qui định biên độ giao động cho phép trong từng thời kỳ, NHNN trực tiếp can thiệp lên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng để tác động lên tỷ giá bình quân liên ngân hàng hàng ngày. Ngày 1/7/2002, thống đốc NHNN ban hành quyết định số 679/2002/QĐ điều chỉnh mở rộng biên độ xác định tỷ giá giao dịch của NHTM lên +/- 0.25%. Quyết định này đã mở rộng quyền tự chủ của các NHTM trong việc xác định tỷ giá, nâng cao tính cạnh tranh trong hệ thống NHTM. Với cơ chế này, NHNN vừa tôn trọng cơ chế thị trường, vừa có thể chủ động định hướng tỷ giá cho phù hợp với mục tiêu của chính sách tiền tệ và tăng trưởng kinh tế. Trong giai đoạn này, tỷ giá được điều chỉnh linh hoạt trong ngắn hạn và ổn định trong dài hạn. Tính linh hoạt ngăn chặn thể hiện ở chỗ tỷ giá hàng ngày được tăng, giảm theo tương quan cung cầu ngoại tệ trên thị trường. Qua đó, NHTM và khách hàng làm quen dần với sự biến động của tỷ giá để từ đó có quan tâm đúng mức đến những công cụ phòng ngừa rủi ro tỷ giá. Tính ổn định trong dài hạn thể hiện ở vai trò của NHNN trong công tác định hướng tỷ giá dài hạn, theo dõi sát tỷ giá hàng ngày để có những can thiệp kịp thời nhằm hướng cho tỷ giá dài hạn đạt đến mức mục tiêu phù hợp với mục tiêu chính sách tiền tệ và điều kiện kinh tế vĩ mô. Và hết quả đạt được là bằng sự chủ động của NHNN trong việc điều hành chính sách tỷ giá thì tỷ giá trên thị trường chính thức từ chỗ luôn chịu sức ép tăng giá theo tỷ giá của thị trường tự do, nay đã lại định hướng cho thị trường tự do. - Trong điều hành tỷ giá kỳ hạn Cùng với những đổi mới trong cơ chế điều hành tỷ giá giao ngay, NHNN cũng đã đạt được bước tiến đáng khích lệ trong cơ chế quản lý tỷ giá kỳ hạn. Kể từ khi ra đời giao dịch kỳ hạn (1-1998), trần tỷ giá kỳ hạn được khống chế dưới hình thức biên độ % của tỷ giá giao ngay đối với từng khoảng kỳ hạn..Trong giai đoạn từ 1999 đến 5/2004, NHN đã cba lần điều chỉnh mức trần kỳ hạn theo hướng giảm số lượng các mức trần kỳ hạn ( từ 11-12 mức trần theo các khoảng kỳ hạn được chia nhỏ theo 15 ngày, giảm xuống còn 3-4 mức trần do nới rộng các khonagr kỳ hạn dài hơn từ 1-3 tháng). Các mức biên đọ cũng được mở rộng nhằm phần nào lượng hóa hết được sự biến động của chênh lệch lãi suất VNĐ-USD, đồng thời tăng tính cạnh tranh giữa các NHTM trong việc yết tỷ giá kỳ hạn. Tuy vậy rõ rang là cơ chế quản lý trần kỳ hạn theo biên độ % vẫn gặp hạn chế do không thể bắt kịp với biến động lãi suất. Do đó ngày 28/5/2004, thống đốc NHNN đã ban hành quyết định số 648/2004/QĐ NHNN qui định cơ chế tự thỏa thuận tỷ giá kỳ hạn giữa NHTM với khách hàng trên cơ sở chênh lệch lãi suất cơ bản của VNĐ (DO NHNN công bố) với lãi suất của USD (do FED công bố). Cơ chế quản lý mới này đã tuân theo thông lệ quốc tế về tính điểm kỳ hạn, tháo gỡ được những vướng mắc nhằm phát triển thị trường các giao dịch kỳ hạn. NHNN đã xóa bỏ các mức trần kỳ hạn, nhờ đó giải tỏa tâm lý của thị trường kỳ vọng về biến động tỷ giá trong tương lai. c. Hạn chế - Cơ chế tỷ giá từ năm 1999 được xây dựng trên cơ sở tỷ giá bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. Tuy nhiên quy mô của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng ở VN còn quá nhỏ so với qui mô thị trường ngoại tệ giữa ngân hàng thương mại- khách hàng. Vì vậy cung cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng không thể đại diện cho cung cầu ngoại tệ của cả nền kinh tế. Đây là một trong những nguyên nhân tạo ra một thị trường ngoại tệ liên ngân hàng “ảo” với mức tỷ giá giao dịch vượt ngoài biên độ cho phép của NHNN (Đặc biệt trong những giai đoạn căng thẳng cung cầu ngoại tệ). - NHNN theo đuổi chính sách tỷ giá ổn định về dài hạn trên cơ sở tỷ giá mục tiêu được tính toán trong từng thời kỳ phù hợp với các chỉ số kinh tế vĩ mô trong và ngoài nước. Tuy nhiên việc tiếp cận các mô hình tính toán khác nhau để đạt tới tỷ giá mục tiêu không chỉ đòi hỏi hệ thống các dữ liệu đầy đủ để xử lý mà còn gặp phải những khó khăn do biến động của nền kinh tế cần phải giải tiếp bài toàn của sự đánh đổi. 3.2 MỘT SỐ ĐÁNH GIÁ VỀ CHẾ ĐỘ TỶ GIÁ CỦA VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN GẦN ĐÂY 3.2.1 Giai đoạn 2001-2003 Diễn biến của tỷ giá hối đoái trên thị trường quốc tế trong 3 năm 2001-2003 đã ảnh hưởng không nhỏ tới thương mại của nhiều nước trong đó có VN. Ý kiến của bà Susan Adam - Trưởng đại diện Quỹ Tiền tệ quốc tế tại VN (IMF) về vấn đề đó. Theo bà thì những diễn biến của tỷ giá hối đoái trên thế giới trong 3 năm 2001-2003 không tác động tới VN nhiều lắm mà tác động mạnh nhất đến các nước trong khối Liên minh EU. Biểu hiện rõ nhất là sự mạnh lên của đồng euro so với đồng USD và điều này đã ảnh hưởng đến thương mại các nước Châu âu. Theo đánh giá của bà thì việc này cho thấy chế độ tỷ giá của VN rất ổn định. Thể hiện ở chỗ tỷ giá hàng ngày của tiền đồng VN so với USD được ấn định bằng cách cho phép tỷ giá liên ngân hàng của ngày hôm trước di chuyển tối đa là + 0,25%. Chế độ này, theo bà có thể được mô tả bằng "thả nổi có kiểm soát" . Bà cũng cho rằng đồng VN giảm giá tương đối đều đặn so với USD trong 3 năm 2001-2003 nhưng ngược lại đồng euro đang lên giá nhanh chóng so với tiền đồng VN. Tuy nhiên chính những biến cố này đã tạo đà cho xuất khẩu của VN trong những năm qua. Lý do chính, theo bà là do Hiệp định Thương mại Việt Mỹ đã được ký. Sang những năm tới thị phần vào khối Liên minh EU sẽ không có gì thay đổi đáng kể mà còn phụ thuộc rất nhiều vào tỷ giá của đồng euro . Theo bà, tỷ giá hối đoái là một biến số chủ chốt tác động vào tính cạnh tranh của VN. Tiếp theo tỷ giá đó chính là các hiệp định thương mại. Ví dụ như Hiệp định thương mại Việt - Mỹ, AFTA và tiềm năng gia nhập WTO đang có những tác độngrất lớn đến khả năng cạnh tranh của VN. Thực tế hiện nay nhiều người mong đợi USD sẽ yếu đi khoảng 8 - 10% theo một dự báo nhất quán của một tổ chức dự báo tư nhân trong khu vực so với các đồng tiền chủ yếu khác. Tiền đồng của VN sẽ tiếp tục giảm giá nhẹ nhưng một phần của diễn biến này sẽ tác động tới thị trường vàng. Cũng theo dự báo trên thì đến cuối năm 2004 USD có thể chững lại và có thể tác động mạnh làm cho nó được lên giá trong năm 2005. Với dự báo trên có khả năng Chính phủ nới rộng biên độ tỷ giá thêm một chút. Điều này, theo tôi sẽ tạo ra sự linh hoạt lớn hơn do nền thương mại của VN đang tiếp tục mở cửa. Như tôi đã nói ở trên, từ trước cho đến nay VN có chế độ tỷ giá hối đoái phù hợp và được điều hành tốt. Do vậy sẽ không có sự thay đổi lớn lao trong việc điều hành chính sách tỷ giá của Chính phủ trong những năm tới. 3.2.2 Giai đoạn 2004-2006: Đúng như dự đoán của bà Sussan đây có thể được coi là giai đoạn phát triển ổn định và bền vững nhất của VN, theo đó việc điều hành chính sách tỷ giá của VN cũng không có biến động lớn. Từ ba năm nay, tỷ giá VND/USD của các ngân hàng thương mại luôn bằng tỷ giá công bố hằng ngày của Ngân hàng Nhà nước (trên cơ sở tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng giữa đồng Việt Nam với USD) cộng/trừ tối đa 0,25%. 3.2.3 Giai đoạn 2007- nay: Từ đầu năm 2007 tỷ giá ngoại tệ của các ngân hàng thương mại luôn bằng hoặc thấp hơn tỷ giá công bố hằng ngày của Ngân hàng Nhà nước. Đứng trước tình hình trên, từ ngày 1.1.2007, Ngân hàng Nhà nước quyết định, biên độ tỷ giá VND/USD được mở rộng là +/- 0,5%. Diễn biến tỷ giá VND/USD trên thị trường trước các động thái trên có một số điểm đáng lưu ý sau: Tỷ giá VND/USD bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng áp dụng cho ngày giao dịch do Ngân hàng Nhà nước công bố có cao hơn một chút (nếu ngày 26.1.2006 là 16.090 thì ngày 2.1.2007 là 16.101, ngày 3.1 là 16.096, ngày 4.1 là 16.100); Tỷ giá VND/USD do ngân hàng thương mại (Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam) bán ra vẫn cơ bản ổn định ở mức trên dưới 16.055 một chút và thấp hơn tỷ giá do Ngân hàng Nhà nước công bố hằng ngày (tương ứng ngày 26.12.2006 là 16.050, ngày 2.1.2007 là 16.051, ngày 3.1 là 16.055, ngày 4.1 là 16.055). Tỷ giá VND/USD trên thị trường tự do cũng cơ bản ổn định và chỉ cao hơn không đáng kể so với tỷ giá do các ngân hàng thương mại bán ra và cũng thấp hơn tỷ giá do Ngân hàng Nhà nước công bố hằng ngày (ngày 2.1.2007 là 16.070, ngày 3.1 là 16.070, ngày 4.1 là 16.070). Trong điều kiện bình thường, việc điều chỉnh biên độ tỷ giá theo hướng tăng thường được hiểu và sẽ dẫn đến là mở rộng tốc độ giảm giá của VND so với USD. Đây là lần đầu tiên diễn biến tỷ giá đã không tăng lên, thậm chí còn tiếp tục giảm thêm sau khi Ngân hàng Nhà nước công bố tăng biên độ tỷ giá. 3.2.4 Tình hình trên xuất phát từ một số nguyên nhân quan trọng sau đây: Thứ nhất, giá USD gần như liên tục mất giá so với các đồng tiền chủ chốt trên thế giới, nhất là so với đồng euro, đồng bảng Anh, đồng yen Nhật. Khi đồng euro mới được lưu hành, 1 USD ăn 1 euro, sau đó còn ăn tới 1,3 euro, nhưng từ năm 2002 đến nay đã giảm mạnh, hiện chỉ còn ăn khoảng 0,76 euro. Một USD cách đây mươi mười lăm năm còn ăn tới 280 yen Nhật, sau một số năm còn ăn 170 - 180 yen, vài năm gần đây chỉ còn 119 yen. Ngay với đồng nhân dân tệ (NDT) của Trung Quốc cách đây vài năm về trước liên tục ổn định ở mức 1 USD ăn khoảng 8,2 NDT, nhưng nay cũng chỉ còn ăn khoảng 7,8 NDT. Đối với một số đồng bản tệ ở các nước trong khu vực, đồng USD cũng bị mất giá liên tục, như giảm tới 17% so với đồng baht Thái Lan trong 3 năm. Thứ hai, nguồn cung USD vào nước ta tăng khá mạnh trên các kênh. Tổng kim ngạch xuất khẩu tăng mạnh qua các năm và năm 2006 đã lên đến trên 39,6 tỉ USD. Lượng kiều hối năm 2006 lên đến gần 5 tỉ USD. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện đạt khoảng 4,1 tỉ USD. Lượng vốn ODA được giải ngân khoảng 1,8 tỉ USD. Lượng ngoại tệ thu được từ khách quốc tế đến Việt Nam đạt khoảng 2,85 tỉ USD. Lượng USD đầu tư gián tiếp thông qua việc mua cổ phiếu doanh nghiệp, trái phiếu Chính phủ gia tăng mạnh Trong khi đó, cầu về USD lại tăng chậm, thậm chí còn không tăng. Các ngân hàng thương mại chỉ được phép giữ lượng ngoại tệ tương đương với 30% vốn điều lệ, vượt qua mức đó buộc phải bán cho Ngân hàng Nhà nước; trong khi những tuần cuối năm, Ngân hàng Nhà nước ngưng hoặc giảm mua (có thông tin do hết chỉ tiêu đưa tiền ra lưu thông để kiềm chế lạm phát theo mục tiêu do Quốc hội giao, chỉ có thể mua tiếp vào năm kế hoạch, nhưng việc này cũng không thể tăng mạnh do tốc độ tăng giá vào đầu năm thường cao hơn nhiều so với các tháng khác trong năm). Thứ ba, "cánh kéo tỷ giá" có chênh lệch lớn như chúng tôi đã từng đề cập: Một USD tại Việt Nam có sức mua bằng 4-5 USD tại Mỹ, nên tỷ giá VND/USD không thể tăng theo tốc độ tăng giá tiêu dùng trong nước, mà chỉ có thể tăng chậm hơn để giảm bớt cánh kéo tỷ giá trên! Điều đó lý giải tại sao vào cuối những năm  80, đầu những năm 90 của thế kỷ trước, 1 USD đã ăn 16 nghìn đồng VND, sau đó đã giảm mạnh, đến năm 1997, đã có chuyên gia đề xuất phá giá VND để đưa lên 18 - 19 nghìn VND/USD, trong khi đến nay cũng chỉ ở mức trên 16 nghìn VND/USD một chút. Từ các lý do trên và những yếu tố tác động trong thời gian tới (giá USD sẽ tiếp tục giảm trên thị trường thế giới, nguồn USD vào nước ta còn tăng mạnh qua các kênh), có thể dự đoán tỷ giá VND/USD sẽ không thể tăng cao được, trong vài ba năm tới chỉ tăng trên dưới vài phần trăm và đến năm 2010 cũng chỉ đạt mức khoảng trên 18 nghìn VND/USD. Nói như thế có nghĩa là tỷ giá VND/USD sẽ ổn định, sẽ tăng lên nhưng ở mức thấp theo chiều hướng: lãi suất USD gửi ngân hàng + biến động tỷ giá thấp hơn tốc độ tăng giá tiêu dùng và thấp hơn lãi suất VND gửi ngân hàng. 3.3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỂ HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI CỦA VIỆT NAM Việc xác định một chính sách tỷ giá phù hợp đối với từng giai đoạn phát triển của một quốc gia có tác động rất lớn đến xuất nhập khẩu hàng hóa, xuất nhập khẩu tư bản và đến giá cả hàng hóa trong nước... Trong thời gian qua chính sách tỷ giá hối đoái (TGHĐ) ở nước ta đã đóng góp những thành tựu đáng kể trong chính sách tài chính – tiền tệ như: hạn chế lạm phát, thực hiện mục tiêu hỗ trợ xuất khẩu, cải thiện cán cân thanh toán, tạo điều kiện ổn định ngân sách, ổn định tiền tệ. Tuy nhiên trong việc điều hành tỷ giá, Nhà nước vẫn còn thiếu những giải pháp hữu hiệu trong từng giai đoạn để sử dụng công cụ tỷ giá một cách phù hợp. Như vậy phải có mục tiêu và định hướng rõ ràng để có giải pháp thích hợp. 3.3.1 Mục tiêu và định hướng 3.3.1.1 Mục tiêu: Chúng tôi cho rằng mục tiêu của chính sách tỷ giá nước ta trong thời gian tới là: - Chính sách tỷ giá phải giữ vững thế cân bằng nội và cân bằng ngoại. - Ổn định tỷ giá trong mối tương quan cung cầu trên thị trường xuất khẩu, kích thích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế và tăng dự trữ ngoại tệ. - Từng bước nâng cao uy tín VND, tạo điều kiện cho VND có thể trở thành đồng tiền chuyển đổi. - Phối hợp với chính sách ngoại hối để chống hiện tượng đô la hoá. 3.3.1.2 Định hướng: Để đạt được mục tiêu trên chúng tôi đưa ra  một số định hướng hoàn thiện chính sách TGHĐ như sau: Quá trình mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi chính sách TGHĐ phải liên tục được hoàn thiện và điều chỉnh thích ứng với môi trường trong nước và quốc tế thường xuyên thay đổi. Để góp phần khai thác tối đa những lợi ích và giảm thiểu những tổn thất từ hội nhập kinh tế quốc tế, chính sách TGHĐ ở Việt Nam trong thời gian tới cần hoàn thiện theo những định hướng cơ bản sau: Thứ nhất : Tiếp tục duy trì cơ chế tỷ giá thả nổi có quản lý của Nhà nước. Trong xu thế toàn cầu hóa Việt Nam  cần lựa chọn một chính sách tỷ giá thả nổi có quản lý để thích ứng và tạo ra động lực phát triển nền kinh tế nước ta trong tiến trình hội nhập vì chế độ tỷ giá thả nổi có ưu điểm là tỷ giá luôn gắn liền với quan hệ cung cầu và tỷ giá này thích ứng với điều kiện toàn cầu hóa của thị trường tài chính quốc tế. Bên cạnh đó Nhà nước vẫn có thể quản lý được mức độ biến động của tỷ giá. Thứ hai: Chính sách TGHĐ phải đóng vai trò tích cực trong việc bảo hộ một cách hợp lý các doanh nghiệp trong nước. Thứ ba: Kết hợp hài hòa lợi ích giữa hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu theo hướng đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu các sản phẩm mà mình có lợi thế so sánh, nhưng mặt khác cũng cần gia tăng nhập khẩu các sản phẩm không có lợi thế so sánh để thỏa mãn tốt hơn nhu cầu ngày càng tăng về sản xuất và tiêu dùng nội địa. 3.3.2 Giải pháp Trên cơ sở khoa học trên chúng tôi xin đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện chính sách TGHĐ ở Việt Nam Một là:  Hoàn thiện cơ chế điều chỉnh TGHĐ Việt Nam. Để đảm bảo cho tỷ giá phản ánh đúng quan hệ cung cầu ngoại tệ trên thị trường nên từng bước loại bỏ dần việc qui định khung tỷ giá với biên độ quá chặt của Ngân hàng nhà nước đối với các giao dịch của các NHTM và các giao dịch quốc tế (Hiện nay biên độ này là +/- 0.25%).  Ngân hàng Nhà nước chỉ điều chỉnh tỷ giá trên các phiên giao dịch ngoại tệ liên ngân hàng và theo hướng có tăng có giảm để kích thích thị trường luôn sôi động và tránh hiện tượng găm giữ đô la. Hai là:  Thực hiện chính sách đa ngoại tệ. Hiện nay trên thị trường ngoại tệ, mặc dù USD có vị thế mạnh hơn hẳn các ngoại tệ khác, song nếu trong quan hệ tỷ giá chỉ áp dụng một loại ngoại tệ trong nước sẽ làm cho tỷ giá ràng buộc vào ngoại tệ đó, cụ thể là USD. Khi có sự biến động về giá cả USD trên thế giới, lập tức sẽ ảnh hưởng đến quan hệ tỷ giá của USD đến VND mà thông thường là những ảnh hưởng rất bất lợi. Chúng ta nên lựa chọn những ngoại tệ mạnh để thanh toán và dự trữ, bao gồm một số đồng tiền của những nước mà chúng ta có quan hệ thanh toán, thương mại và có quan hệ đối ngoại chặt chẽ nhất để làm cơ sở cho việc điều chỉnh tỷ giá của VND ví dụ như đồng EURO, yên Nhật  vì hiện nay EU, Nhật  là những thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam. Chế độ tỷ giá gắn với một rổ ngoại tệ như vậy sẽ làm tăng tính ổn định của TGHĐ danh nghĩa. Ba là:  Nâng cao vị thế đồng tiền Việt Nam.   Nâng cao sức mạnh cho đồng tiền Việt Nam bằng các giải pháp kích thích nền kinh tế như: hiện đại hoá nền sản xuất trong nước, đẩy mạnh tốc độ cổ phần hóa doanh nghiệp quốc doanh làm ăn thua lỗ, tăng cường thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước, xây dựng chính sách thích hợp để phát triển nông nghiệp, khuyến khích xuất khẩu, bài trừ tham nhũng Tạo khả năng chuyển đổi từng phần cho đồng tiền Việt Nam: đồng tiền chuyển đổi được  sẽ tác động tích cực đến hoạt động thu hút vốn đầu tư , hạn chế tình trạng lưu thông nhiều đồng tiền trong một quốc gia. Hiện tượng đô la hóa nền kinh tế được hạn chế. Việc huy động các nguồn lực trong nền kinh tế trở nên thuận lợi hơn, hoạt động xuất nhập khẩu của quốc gia đó năng động hơn. Đồng tiền tự do chuyển đổi làm giảm sự can thiệp trực tiếp của Chính phủ vào chính sách quản lý ngoại hối và cơ chế điều hành tỷ giá, giúp cho tốc độ chu chuyển vốn được đẩy mạnh, góp phần đẩy nhanh tiến độ hội nhập kinh tế thế giới. Tuy nhiên, muốn tạo khả năng chuyển đổi cho VND phải có đủ lượng ngoại tệ dự trữ và nền kinh tế vững mạnh. Khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam phải được nhanh chóng cải thiện. Bốn là:  Sử dụng có hiệu quả công cụ lãi suất để tác động đến tỷ giá, chính phủ phải tiến hành từng bước tự do hóa lãi suất, làm cho lãi suất thực sự là một loại giá cả được quyết định bởi chính sự cân bằng giữa cung và cầu của chính đồng tiền đó trong thị trường chứ không phải bởi những quyết định can thiệp hành chính của Chính phủ. Năm là:  Phối hợp các chính sách kinh tế vĩ mô để hoạt động can thiệp vào tỷ giá đạt hiệu quả cao. Chú trọng hoàn thiện công cụ nghiệp vụ thị trường mở nội tệ. Chính sách tiền tệ được thực hiện qua 3 công cụ: lãi suất tái chiết khấu, dự trữ bắt buộc và nghiệp vụ thị trường mở nội tệ. Tuy nhiên, NVTTM nội tệ là công cụ quan trọng nhất vì nó tác động trực tiếp đến lượng tiền cung ứng, vì vậy nó quyết định đến sự thành bại của chính sách tiền tệ quốc gia, bên cạnh đó nó còn tham gia tích cực vào việc hỗ trợ chính sách tỷ giá khi cần thiết. Chẳng hạn khi phá giá sẽ tăng cung nội tệ, dẫn đến nguy cơ tạo ra lạm phát. Để giảm lạm phát người ta tiến hành bán hàng hóa giao dịch trong thị trường mở nội tệ, từ đó làm giảm cung nội tệ và lạm phát do đó cũng giảm theo. Đối với chính sách tài chính tiền tệ, tăng cường sử dụng nguồn vốn trong nước để bù đắp thiếu hụt ngân sách, phương án tốt nhất để thực hiện bù đắp thâm hụt ngân sách nhà nước là bằng vốn vay trong nước, hạn chế tối đa việc vay nợ nước ngoài. Sáu là: Xem phá giá nhỏ như là một biện pháp kích thích xuất khẩu, giảm thâm hụt cán cân thương mại. Trong điều kiện hiện nay, một chính sách giảm giá nhẹ đồng Việt Nam sẽ có thể tác động tích cực trong việc cải thiện đồng thời cả cân bằng bên trong và cân bằng bên ngoài: khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu, sử dụng đầy đủ hơn các nguồn lực hiện có, làm tăng việc làm, sản lượng và thu nhập của nền kinh tế, trong khi vẫn kềm chế được lạm phát ở mức thấp. Bảy là:  Nhanh chóng thực hiện các công cụ phòng ngừa rủi ro. Trong điều kiện tỷ giá hiện nay tiềm tàng nhiều nhân tố bất ổn chúng ta cần  phải gấp rút triển khai các công cụ phòng ngừa rủi ro. Chính phủ đã cho phép các NHTM thực hiện các công cụ phòng ngừa rủi ro tỷ giá như hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng tương lai, quyền chọn tiền tệ. Vấn đề là các NHTM và doanh nghiệp nhất là các doanh nghiệp xuất nhập khẩu và những doanh nghiệp có thu, chi bằng ngoại tệ phải nhanh chóng sử dụng các công cụ này để phòng ngừa rủi ro tỷ giá. Chúng tôi cho rằng chính sách TGHĐ Việt Nam trong thời gian tới phải được phối hợp đồng bộ với các chính sách quản lý vĩ mô khác mới đem lại hiệu quả cao cho nền kinh tế. Để đạt được mục tiêu của chính sách đó Đảng, Chính phủ Việt Nam cần phải có những bước đi phù hợp. Chúng tôi hy vọng rằng trong thời gian tới việc quản lý ngoại hối ở Việt Nam sẽ có những bước cải tiến đáng kể đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế thế giới.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc6057.doc
Tài liệu liên quan