Nhà nước xã hội chủ nghĩa bảo đảm, thực hiện nguyên tắc tự do và tiến bộ trong hôn nhân, song tự do hôn nhân không có nghĩa là bừa bãi, tuỳ tiện, tự do ngoài vòng pháp luật. Tự do kết hôn nhưng phải tuân thủ nghiêm chỉnh các Điều kiện kết hôn do Nhà nước qui định: “Không ai bị buộc phải kết hôn nhưng ai cũng buộc phải tuân theo luật hôn nhân một khi người đó kết hôn. hôn nhân không phục tùng sự tuỳ tiện của người kết hôn mà trái lại sự tuỳ tiện của người kết hôn phải phục tùng bản chất của hôn nhân.” C.Mac “Bản dự luật về ly hôn” C.Mac-Angghen. Toàn tập. Tập 1 NXB Sự thật.H. Tr 978.
Theo từ điển giải thích thuật ngữ Luật học của Trường Đại học Luật Hà Nội xuất bản năm 1999 thì “Điều kiện kết hôn là điều kiện để Nhà nước công nhận việc kết hôn của các bên nam nữ”.
Việc qui định các điều kiện kết hôn luôn có một ý nghĩa hết sức quan trọng, nó là cơ sở để xây dựng hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, bình đẳng, xây dựng gia đình dân chủ, hoà thuận. Mặt khác, khi qui định các điều kiện kết hôn là sự thể hiện ý chí của Nhà nước trong lĩnh vực kết hôn. Nhà nước chỉ thừa nhận những cuộc kết hôn hợp pháp khi cuộc kết hôn đó tuân thủ đầy đủ các điều kiện kết hôn và được Nhà nước bảo hộ. Nếu như vi phạm một trong các điều kiện kết hôn thì đó là việc kết hôn trái pháp luật và về nguyên tắc những cuộc kết hôn đó đều bị xử huỷ.
66 trang |
Chia sẻ: DUng Lona | Lượt xem: 1317 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Những điểm mới về điều kiện kết hôn và cấm kết hôn trong Luật HN - GĐ năm 2000, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Những phong tục tập quán đó đã ăn sâu vào tiềm thức của mỗi người dân Việt Nam và dẫn đến tình trạng coi trọng "lễ" xem nhẹ "Luật" do vậy nhiều việc "kết hôn" chỉ cưới theo tập quán mà không đăng ký kết hôn.
Thứ hai: Do ý thức pháp luật của quần chúng nhân dân còn hạn chế. Bên cạnh đó vấn đề kiện toàn cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đăng ký kết hôn chưa được tiến hành chặt chẽ cả về cơ cấu tổ chức và thái độ làm việc (đặc biệt ở vùng đồng bào dân tộc miền núi, vùng hải đảo xa xôi, đồng bào theo đạo...). Do vậy, chưa thấy hết giá trị pháp lý của giấy chứng nhận kết hôn và ý nghĩa của thủ tục đăng ký kết hôn dẫn đến tình trạng có ý thức coi thường hoặc ngại khi đăng ký kết hôn và đây cũng là một trong những nguyên nhân của kết hôn không đăng ký.
Thứ ba: Do điều kiện lịch sử chiến tranh lâu dài, trong thời gian chiến tranh đôi nam nữ thuận tình chỉ được hai bên gia đình tổ chức cưới vội vã theo tục lệ mà không đăng ký kết hôn. Thậm chí hai bên nam nữ chỉ được sự chứng nhận của thủ trưởng đơn vị là coi như họ đã thành vợ chồng. Có trường hợp bộ đội miền nam tập kết ra bắc để chiến đấu họ đã có vợ, có chồng nhưng lại kết hôn với người khác. Do vậy, quyền lợi của các bên cần được bảo vệ.
Thứ tư: Các quan hệ hôn nhân luôn có yếu tố tình cảm gắn bó giữa các chủ thể, đời sống tình cảm trong quan hệ kết hôn gia đình đa dạng, phức tạp và rất tế nhị. Do tác động về mặt tình cảm, tâm lý hoàn cảnh éo le của đương sự mà dẫn đến trường hợp kết hôn không đăng ký. Có trường hợp chỉ vì tự ái, sĩ diện nhưng vì thương con và còn thương nhau nên họ tái hợp nhưng ngại không đăng ký kết hôn, hoặc họ nghĩ do đã từng là vợ chồng cuả nhau thì khi quay lại không cần đăng kí nữa
Sắc lệnh số 97/SL, Luật HN - GĐ năm 1959, Luật HN - GĐ năm 1986 thừa nhận hôn nhân thực tế song chưa có quy định cụ thể, nhưng Toà án nhân dân tối cao đã có nhiều văn bản hướng dẫn về cách giải quyết vấn đề "hôn nhân thực tế". Tuy nhiên tính nhất quán chưa cao gây khó khăn cho việc giải quyết áp dụng các vụ kiện về hôn nhân gia đình và không bảo đảm quyền lợi của các đương sự.
Theo Thông tư số 112/NCPL ngày 19/8 1972 hướng dẫn việc xử lý về dân sự những hôn nhân vi phạm điều kiện kết hôn do luật định có hướng dẫn như sau:”Việc đăng ký kết hôn là một điều kiện cần thiết nhằm đảm bảo cho Nhà nước kiểm tra xem xét những điều kiện kết hôn quy định trong luật có được tôn trọng hay không. Vì vậy, các Toà án nhân dân cần phải phối hợp với các Uỷ ban hành chính và các đoàn thể nhân dân tuyên truyền giáo dục để nhân dân nghiêm chỉnh thực hiện việc đăng ký kết hôn. ở những nơi việc đăng ký kết hôn còn lỏng lẻo, tổ chức phụ trách việc đó chưa được kiện toàn, Toà án nhân dân cần đề nghị với các Uỷ ban hành chính sửa chữa tình trạng đó, đồng thời vận động nhân dân đăng ký những trường hợp chưa được đăng ký kết hôn”.
Đồng thời tại Thông tư này, Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn cách xử lý những việc kết hôn không có đăng ký như sau: nếu không có đăng ký mà các điều kiện kết hôn khác không vi phạm thì Toà án nhân dân coi đó là hôn nhân thực tế và “chỉ nên coi là hôn nhân thực tế những cuộc hôn nhân không đăng ký, thoả mãn đầy đủ các điều kiện kết hôn khác, trong đó hai bên có ý định thực sự lấy nhau và khi kết hôn đã thực tế coi nhau như vợ chồng, họ chung sống công khai và gánh vác chung công việc gia đình, được họ hàng, xã hội chung quanh coi nhau như vợ chồng”.
Theo hướng dẫn trên về hôn nhân thực tế là hợp lý, phù hợp với thực tế đời sống hôn nhân gia đình, phù hợp với tập quán trong xã hội.
Luật HN - GĐ năm 1986 và Nghị quyết số 01/HĐTP ngày 20/1/1988 của Hội đồng thẩm phán TANDTC có hướng dẫn: Việc kết hôn không đăng ký có vi phạm về thủ tục kết hôn nhưng không coi là việc kết hôn trái pháp luật, nếu có một trong hai bên xin ly hôn thì Toà án xử ly hôn theo Điều 40. Như vậy là thừa nhận hôn nhân không đăng ký kết hôn là hôn nhân thực tế.
Trong kết luận của Chánh án TANDTC tại Hội nghị tổng kết công tác Toà án năm 1995 có hướng dẫn: Sau nhiều năm thực hiện Luật HN - GĐ, ý thức pháp luật của nhân dân đã được nâng cao, tiến tới xoá bỏ tình trạng hôn nhân thực tế. Giai đoạn hiện nay chỉ công nhận có hôn nhân thực tế đối với trường hợp hai bên nam nữ đã chung sống với nhau được hàng chục năm hoặc có con chung hoặc tài sản chung. Như vậy là đã bó hẹp điều kiện công nhận hôn nhân thực tế.
Theo Công văn số 16/KHXX ngày 02/01/1999 của TANDTC đã nêu rõ:” Đối với những cặp nam nữ chung sống với nhau sau ngày Luật HN - GĐ có hiệu lực mà không có đăng ký kết hôn mà có đơn xin ly hôn thì Toà án không thụ lý để giải quyết theo Điều 40 - Luật HN - GĐ; Toà án chỉ thụ lý để giải quyết việc nuôi con và chia tài sản chung (nếu có yêu cầu) theo quy định tại Điều 9 - Luật HN - GĐ và các quy định tương ứng của Bộ luật dân sự”. Như vậy theo tinh thần của Công văn số 19/KHXX thì Toà án chỉ công nhận hôn nhân thực tế khi nam nữ chung sống với nhau không có đăng ký kết hôn trước ngày Luật HN - GĐ năm 1986 có hiệu lực.
Nhưng sau nhiều năm thực hiện Luật HN- GĐ, ý thức pháp luật của nhân dân đã được nâng cao. Mặt khác để tránh tình trạng khó khăn trong việc giải thích thuật ngữ, tránh tình trạng phức tạp trong việc giải quyết vấn đề "hôn nhân thực tế". Và coi đây là một thái độ nghiêm khắc của Nhà nước trong vấn đề kết hôn. Do đó Luật HN - GĐ năm 2000 không công nhận "hôn nhân thực tế". Tại Điều11- Luật HN- GĐ năm 2000 quy định"Nam nữ không đăng ký kết hôn mà chung sống như vợ chồng thì không được pháp luật công nhận là vợ chồng. Vợ chồng đã ly hôn muốn kết hôn lại với nhau cũng phải đăng ký kết hôn".
Để giải quyết vấn đề "hôn nhân thực tế" còn tồn tại trong thực tế Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành Nghị quyết số 35/2000 QH10 ngày 09/06/2000 về việc thi hành Luật hôn nhân và gia đình có quy định về giải quyết hậu quả vấn đề hôn nhân thực tế như sau:
1. Trong trườg hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 03/01/1987 - ngày Luật HN - GĐ năm 1986 có hiệu lực thì được Toà án thụ lý giải quyết theo quy định về ly hôn của Luật HN - GĐ năm 2000.
2. Nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 03/01/1987 đến ngày 01/01/2001 mà có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật HN - GĐ thì có nghĩa vụ đăng ký kết hôn trong thời hạn hai năm kể từ ngày Luật HN - GĐ năm 2000 có hiệu lực cho đến ngày 01/01/2003, trong thời hạn này mà họ không đăng ký kết hôn nhưng có yêu cầu ly hôn thì Toà án áp dụng quy định về ly hôn của Luật HN - GĐ năm 2000 để giải quyết.
Từ sau ngày 01/01/2003 mà họ không đăng ký kết hôn thì pháp luật không công nhận họ là vợ chồng.
3. Kể từ ngày 01/01/2001 trở đi trừ trường hợp quy định tại trường hợp 1 và 2, nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn đều không được pháp luật công nhận là vợ chồng, nếu có yêu cầu ly hôn thì Toà án thụ lý và tuyên bố không công nhận họ là vợ chồng, nếu có yêu cầu về tài sản, con cái thì Tòa án áp dụng khoản 2, 3 Điều 17 của Luật HN - GĐ năm 2000 để giải quyết.
Để hướng dẫn cụ thể Nghị quyết số 35/2000/QH10 thì Toà án nhân dân tối cao, viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ tư pháp phối hợp ban hành Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 3/1/2001 có hướng dẫn như sau:
- Đối với trường hợp 1 thì quan hệ vợ chồng được công nhận từ ngày xác lập (ngày bắt đầu chung sống với nhau như vợ chồng);
- Đối với trường hợp 2 thì kể từ ngày 01/01/2001 cho đến ngày 01/01/2003 nếu họ chưa đăng ký kết hôn hoặc đã đăng ký kết hôn mà họ có yêu cầu ly hôn thì Toà án thụ lý vụ án và áp dụng quy định về ly hôn của Luật HN - GĐ năm 2000 để giải quyết theo thủ tục chung và quan hệ vợ chồng của họ cần được công nhận là từ ngày họ bắt đầu chung sống với nhau như vợ chồng;
Kể từ sau 01/01/2003 họ mới đăng ký kết hôn thì quan hệ vợ chồng của họ công nhận là đã xác lập kể từ ngày họ đăng ký kết hôn.
Trong Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 3/1/2001 còn quy định rõ trường hợp nào được coi là nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng:
" Được coi nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng nếu họ có đủ điều kiện để kết hôn theo Luật HN- GĐ năm 2000 và thuộc một trong các trường hợp sau đây:
- Có tổ chức lễ cưới khi về chung sống với nhau;
- Việc về chung sống với nhau được gia đình (một hoặc cả hai bên) chấp thuận;
- Việc họ về chung sống với nhau được người khác hay tổ chức chứng kiến;
- Họ thực sự có chung sống với nhau, chăm sóc giúp đỡ lẫn nhau cùng nhau xây dựng gia đình.
Thời điểm nam và nữ bắt đầu chung sống với nhau như vợ chồng là ngày họ tổ chức lễ cưới hoặc ngày họ về chung sống với nhau được gia đình (một hoặc cả hai bên) chấp thuận hoặc ngày họ về chung sống với nhau được người khác hay tổ chức chứng kiến hoặc ngày họ thực sự bắt đầu chung sống với nhau, chăm sóc giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng gia đình".
Việc ban hành hai văn bản hướng dẫn về xử lý vấn đề " hôn nhân thực tế" là rất kịp thời, phù hợp với thực tế hiện nay đồng thời thể hiện rõ thái độ của Nhà nước đối với vấn đề này: đó là không thừa nhận "hôn nhân thực tế" (hôn nhân không có đăng ký kết hôn) đồng thời cũng tạo điều kiện thuận lợi để cho các bên nam, nữ chung sống với nhau mà chưa đăng ký kết hôn có khoảng thời gian để đi đăng ký kết hôn.
VIii. Điểm mới về điều kiện kết hôn đối với việc kết hôn có yếu tố nước ngoài
Cùng với sự tăng cường và mở rộng các quan hệ hợp tác giữa Việt Nam với các nước. Số lượng các cuộc kết hôn có yếu tố nước ngoài ngày càng tăng, để kịp thời vấn đề này ngoài việc kí kết các hiệp định tương trợ tư pháp với các nước để điều chỉnh các quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài. Đây là văn bản được ưu tiên áp dụng Điều 7- Luật HN-GĐ năm 2000 qui định: “Các qui định của pháp luật về hôn nhân và gia đình của Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được áp dụng đối với quan hệ hôn nhân gia đình có yếu tố nước ngoài, trừ trường hợp pháp luật có qui định khác.
Trong trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam kí kết hoặc tham gia có qui định khác với qui định của luật này, thì áp dụng qui ước của điều ước quốc tế”.
Nhà nước ta đã ban hành các văn bản pháp luật có các quy phạm xác định điều kiện kết hôn, cũng như nghi thức kết hôn như Luật HN - GĐ năm 1986, Pháp lệnh HN - GĐ giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài (2/12/1993), Nghị định số 184/CP ngày 30/11/1994 của Chính phủ về thủ tục kết hôn, nhận con ngoài giá thú, nuôi con nuôi, nhận đỡ đầu giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài, Nghị định số 83/1998/NĐ-CP ngày 10/10/1998 về đăng kí hộ tịch. Và gần đây là Luật HN - GĐ năm 2000. Tuy nhiên, giữa Luật HN - GĐ năm 2000 so với các văn bản trước bên cạnh những điểm kế thừa có tính nguyên tắc thì còn có những qui định mới.
Trước hết, chúng ta phải hiểu quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài là như thế nào? Lần đầu tiên Luật HN - GĐ năm 2000 tại Khoản 12-Điều 8 định nghĩa quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài là quan hệ hôn nhân và gia đình:
a)Giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài;
b)Giữa người nước ngoài với nhau thường trú tại Việt Nam;
c)Giữa công dân Việt Nam với nhau mà có căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài.
Như vậy đây là điểm rất mới của Luật HN - GĐ năm 2000, nó đã giúp chúng ta hiểu rõ ràng, đầy đủ về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài, nó phù hợp với Điều 826-Bộ luật dân sự và pháp luật quốc tế. So sánh định nghĩa quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài nói chung và trong lĩnh vực kết hôn nói riêng thì Luật HN - GĐ năm 1986 và Pháp lệnh HN - GĐ giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài (2/12/1993) có phạm vi điều chỉnh chưa hết vấn đề này.
Vấn đề kết hôn thì Luật HN - GĐ năm 1986 và Pháp lệnh 1993 chỉ đề cập đến 2 đối tượng đó là:
Giữa công dân Việt Nam với nhau kết hôn ở nước ngoài;
Giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài.
Mà chưa đề cập đến đối tượng thứ 3 đó là: giữa ngừơi nước ngoài với nhau thường trú tại Việt Nam - đối tượng này chỉ nêu ở Nghị định 184/CP ngày 30//11/1994. Đến Luật HN - GĐ năm 2000 đã khắc phục hoàn toàn hạn chế này.
* Đối với trường hợp công dân Việt Nam kết hôn với nhau ở nước ngoài:
Luật HN - GĐ năm 2000 kế thừa hoàn toàn Luật HN - GĐ năm 1986. Trong trường hợp này, việc kết hôn do cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự Việt Nam ở nước ngoài (nơi họ kết hôn) đăng kí kết hôn cho họ theo nghi thức dân sự thông thường như công dân Việt Nam kết hôn với nhau ở Việt Nam.
* Trường hợp kết hôn giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài:
Theo Điều 52 - Luật HN - GĐ năm 1986, Điều 6 - Pháp lệnh hôn nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài; Điều 103 - khoản 1 Luật HN-GĐ năm 2000 đã qui định: “Trong việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, mỗi bên phải tuân theo pháp luật của nước mình về điều kiện kết hôn”.
Nguyên tắc cơ bản để giải quyết xung đột pháp luật giữa các nước về điều kiện kết hôn đó là nguyên tắc luật quốc tịch (Lex nationalis) hay còn gọi là luật bản quốc (Lex patriae) được hiểu là luật của quốc gia mà đương sự là công dân, nghĩa là, nếu công dân Việt Nam kết hôn với người nước ngoài thì dù tiến hành ở Việt Nam hay ở nước ngoài công dân Việt Nam đều phải tuân theo những qui định của pháp luật Việt Nam về điều kiện: Khi kết hôn với công dân Việt Nam, người nước ngoài phải tuân thủ các qui định về điều kiện kết hôn theo pháp luật của nước mà người đó là công dân. Nếu người đó có nhiều quốc tịch thì sẽ theo pháp luật của nước mà người đó là công dân và thường trú vào thời điểm đăng kết hôn, nếu người đó không thường trú tại 1 trong các nước mà người đó có quốc tịch thì áp dụng pháp luật của người đó có quốc tịch và có mối liên hệ gắn bó nhất (xác định theo nguyên tắc quốc tịch hữu hiệu). Đối với người nứơc ngoài không quốc tịch muốn kết hôn với công dân Việt Nam thì theo Điều 829-Bộ Luật dân sự “Pháp luật áp dụng đối với người không quốc tịch là pháp luật của nước nơi người đó thường trú nếu người đó không có nơi thường trú thì áp dụng pháp luật nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.”. Nghĩa là nếu người không quốc tịch mà không có nơi thường trú khi kết hôn với công dân Việt Nam thì áp dụng Luật HN - GĐ Việt Nam.
Theo pháp lệnh HN - GĐ giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài (2/12/1993) - Điều 6: “Nếu việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài tiến hành trước cơ quan Nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam thì người nước ngoài còn phải tuân theo các qui định tại điều 5, 6 và 7 của Luật HN- GĐ Việt Nam, không bị nhiễm HIV và được cơ quan có thẩm quyền của nước mà người đó là công dân xác nhận và có đủ điều kiện kết hôn và việc kết hôn đó được pháp luật nước họ công nhận”.
Điều 103 - Luật HN - GĐ năm 2000 qui định: “Nếu việc kết hôn được tiến hành tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam thì người nước ngoài còn phải tuân theo các qui định của Luật này và điều kiện kết hôn”. Như vậy, cùng với những điểm mới của Luật HN - GĐ năm 2000 về điều kiện kết hôn và cấm kết hôn so với Luật HN - GĐ năm 1986 thì đó cũng là những điểm mới về điều kiện kết hôn và cấm kết hôn đối với người nước ngoài khi tiến hành tại Việt Nam. Ngoài ra so với pháp lệnh HN - GĐ năm 2000 đã bỏ điều kiện “Không bị nhiễm HIV”, lý giải tại sao lại bỏ điều kiện này chúng ta đã phân tích ở phần IV.
* Vấn đề người nước ngoài kết hôn với nhau tại Việt Nam
Luật HN - GĐ năm 1986 và Pháp lệnh 1993 không qui định. Trong Nghị định số 83/1998/NĐ-CP ngày 10/10/1998 của Chính phủ về đăng kí hộ tịch có quy định: “Người nước ngoài xin đăng kí kết hôn với nhau tại Việt Nam phải tuân theo các qui định của pháp luật nước họ về điều kiện kết hôn cà có giấy xác nhận của cơ quan có thẩm quyền cuả nước mà người nước ngoài là công dân về việc cho phép được đăng kí kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam “.
Đến Luật HN - GĐ năm 2000 qui định: “Việc kết hôn giữa những người nước ngoài với nhau tại Việt Nam trước cơ quan có thẩm quyền của việt Nam phải tuân theo các qui định của Luật này về điều kiện kết hôn”.
Đây là qui định rất mới so với Luật HN-GĐ năm 1986 và Pháp lệnh năm 1993. Ngoài ra qui định của Luật HN - GĐ năm 2000 qui định rất khác so với Nghị định số 83/1998/NĐ-CP. Nếu như theo Nghị định số 83/CP thì tuân theo nguyên tắc luật quốc tịch, còn theo Luật HN - GĐ năm 2000 thì tuân theo luật mới tiến hành kết hôn. Đây là qui định phù hợp với pháp luật của các nước trên thế giới, phù hợp với pháp luật quốc tế.
Tóm lại, Luật HN - GĐ năm 2000 đã có sự kế thừa Luật HN - GĐ năm 1986 những quy định còn phù hợp và tiến bộ. Trong điều kiện kinh tế - xã hội hiện nay vấn đề kế thừa những quy định về điều kiện kết hôn trong Luật HN - GĐ trước đó còn phù hợp là vấn đề tất yếu khách quan. Song, Luật HN - GĐ năm 2000 đã có những bổ sung để hoàn thiện thêm pháp luật về hôn nhân và gia đình để thực hiện mục đích của hôn nhân: Có tình nghĩa vợ chồng; bình đẳng về nghĩa vụ và quyền giữa vợ, chồng; tôn trọng danh dự, nhân phẩm, uy tín của vợ, chồng, tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của vợ chồng; giúp đỡ tạo điều kiện cho nhau phát triển mọi mặt.
Chương III.
Một số biện pháp cần thiết để đưa chế định kết hôn trong Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 vào thực tiễn.
I. Sự cần thiết phải đặt ra các biện pháp để đưa chế định kết hôn trong Luật HN - GĐ năm 2000 vào thực tiễn cuộc sống.
Trong xã hội ta hiện nay gia đình có vai trò đặc biệt quan trọng. Gia đình là tế bào của xã hội, là môi trường quan trọng giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách của mỗi cá nhân để chuẩn bị những hành trang hoà nhập vào cộng đồng xã hội, tham gia tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xuất phát từ việc đánh giá vị trí vai trò quan trọng của gia đình, trong quá trình cách mạng Đảng và Nhà nước ta luôn dành sự quan tâm lớn, đã sớm có chủ trương thể chế hoá bằng pháp luật đường lối chính sách của Đảng về gia đình. Luật HN - GĐ là công cụ pháp lý quan trọng để Nhà nước xây dựng và thực hiện hai nhiệm vụ cơ bản: Xoá bỏ chế độ hôn nhân và gia đình phong kiến lạc hậu, xây dựng chế độ hôn nhân và gia đình mới xã hội chủ nghĩa, góp phần xây dựng hoàn thiện và bảo vệ chế hôn nhân và gia đình tiến bộ, xây dựng chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xử của các thành viên trong gia đình, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các thành viên trong gia đình, kế thừa và phát huy truyền thống đạo đức tốt đẹp của gia đình Việt Nam nhằm xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững. Để đạt được vấn đề đó thì bên cạnh việc ban hành luật còn phải có hoạt động tổ chức thi hành luật đưa luật vào trong cuộc sống đến với mọi tầng lớp nhân dân. Để từng người dân hiểu luật, nắm chắc luật, làm theo luật, nhằm xây dựng một Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, trong những năm qua vấn đề tổ chức thi hành luật, đưa Luật HN -GĐ vào trong cuộc sống còn có nhiều hạn chế, chưa đạt được yêu cầu đặt ra. Đó là do một số nguyên nhân sau:
Thứ nhất, qua 13 năm thi hành Luật HN - GĐ năm 1986, những nguyên tắc cùng các qui định về kết hôn nói riêng và các qui định của Luật HN - GĐ nói chung vẫn tiếp tục phát huy hiệu lực trong đời sống xã hội được nhân dân tôn trọng và thi hành. Song bên cạnh những thành tựu trong công tác lập pháp mà chúng ta đạt được, phải nói rằng nhiều văn bản pháp luật về hôn nhân và gia đình còn mang tính chung chung, tính khái quát cao đòi hỏi cần phải có sự cụ thể hoá để hướng dẫn thi hành bằng các văn bản dưới luật. Nhưng trên thực tế, việc ban hành các văn bản hướng dẫn còn chậm, thiếu tính đồng bộ thống nhất như: quy định về điều kiện kết hôn, huỷ việc kết hôn trái pháp luật, vấn đề hôn nhân thực tế ... Các qui định của Luật HN - GĐ còn thiếu cụ thể nên khi áp dụng các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phải vận dụng cả Báo cáo tổng kết, Công văn của Toà án nhân dân tối cao để “Bù lấp chỗ trống”. Điều này không phù hợp với nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa, dẫn đến việc áp dụng không thống nhất, ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật trong thực tế.
Thứ hai, Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật nói chung và Luật HN - GĐ nói riêng chưa được đặt ngang tầm với yêu cầu quản lý xã hội bằng pháp luật, chưa được tiến hành thường xuyên, liên tục, đồng bộ, rộng khắp, chưa có trọng tâm, trọng điểm. Còn thiếu cơ chế, kế hoạch phối hợp chặt chẽ đồng bộ giữa các cơ quan, tổ chức, giữa các cấp các ngành để huy động sức mạnh của cả hệ thống chính trị và sự tham gia của toàn xã hội. Vì những hạn chế của công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật mà nhu cầu thông tin về Luật HN - GĐ nói chung và chế độ kết hôn nói riêng của nhân dân ta trong thời gian qua chưa được đáp ứng đầy đủ.
Thứ ba, ý thức sống, làm việc theo Hiến pháp và pháp luật của nhân dân còn thấp, tình trạng vi phạm pháp luật nói chung và Luật HN - GĐ nói riêng còn rất phổ biến. Đặc biệt là hiện tượng tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ; kết hôn giả tạo, lừa dối để kết hôn, yêu sách của cải trong cưới hỏi; hiện tượng một vợ nhiều chồng, một chồng nhiều vợ; hiện tượng ngoại tình, hiện tượng kết hôn không có đăng kí; hiện tượng cơ quan đăng ký kết hôn lợi dụng làm sai nguyên tắc diễn ra thường xuyên, gây ra những khó khăn phức tạp trong đời sống xã hội.
Thứ tư, hiệu quả hoạt động của cơ quan tư pháp (VKS, TA) còn kém gây tâm lý mất tin tưởng và ngại ngùng của nhân dân vào cơ quan bảo vệ pháp luật trong việc bảo vệ quyền lợi chính đáng của họ trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình.
Luật HN - GĐ năm 2000 được Quốc hội khoá X kì họp thứ 7 thông qua ngày 9/6/2000, có hiệu lực thi hành ngày 01/01/2001. Để kịp thời đưa Luật vào trong cuộc sống cần phải có một số biện pháp. Việc đưa ra các biện pháp để đưa Luật vào thực tiễn cuộc sống là rất cần thiết, nó góp phần nâng cao ý thức pháp luật của mỗi người dân, củng cố ổn định xã hội và đảm bảo hạnh phúc trong mỗi mái ấm gia đình; góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật hôn nhân và gia đình.
II. Một số biện pháp để đưa chế định kết hôn trong Luật HN -GĐ năm 2000 vào thực tiễn cuộc sống.
1. Tổ chức việc rà soát để sửa đổi bổ sung các văn bản pháp luật hiện hành hoặc ban hành các văn bản mới hướng dẫn thi hành Luật HN - GĐ năm 2000.
Đây là một trong những biện pháp pháp lý quan trọng được đặt ra nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về hôn nhân và gia đình nói chung và chế định kết hôn nói riêng.
Như chúng ta đã biết Luật HN -GĐ năm 2000 có hiệu lực ngày 01/01/2001 và đã thay thế Luật HN - GĐ năm 1986 và Pháp lệnh hôn nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài ngày 2/12/1993. Luật HN - GĐ năm 2000 có rất nhiều những điểm sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tình hình hiện nay. Bởi vậy, những văn bản hướng dẫn thi hành Luật cũ sẽ có những qui định không còn phù hợp với Luật HN - GĐ năm 2000. Vấn đề cấp bách đặt ra trong thời gian này là cần phải tổ chức ngay việc rà soát để sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật hiện hành hoặc ban hành các văn bản mới hướng dẫn thi hành Luật HN -GĐ năm 2000. Vấn đề này được Thủ tướng Chính phủ chỉ thị cho Bộ tư pháp đến hết năm 2000 phải hoàn thành việc rà soát các văn bản pháp luật hiện hành về hôn nhân và gia đình để kiến nghị Chính phủ, các cơ quan khác có thẩm quyền sửa đổi bổ sung hoặc bãi bỏ các văn bản có liên quan đến Luật HN - GĐ không còn phù hợp với Luật HN - GĐ mới.
Đồng thời, Bộ tư pháp chủ trì, phối hợp với các cơ quan, tổ chức hữu quan chuẩn bị văn bản dưới luật trình Chính phủ hoặc Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban hành để hướng dẫn thi hành các qui định của Luật, nhất là các vấn đề về quyền sử dụng đất canh tác, đất ở, nhà ở có liên quan đến quan hệ hôn nhân và gia đình; đăng kí kết hôn, đăng kí nuôi con nuôi ở vùng sâu, vùng xa đăng kí hộ tịch về hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài ở khu vực biên giới với các nước láng giềng; xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình. Để thực hiện nhiệm vụ trên Bộ tư pháp đã có công văn số 1542/TB-BTP ngày 30/8/2000 phân công cho các cơ quan hữu quan thực hiện. Đến nay số lượng các văn bản hướng dẫn thi hành Luật HN - GĐ năm 2000 mới chỉ có: Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 9/6/2000 của Quốc hội về thi hành Luật HN - GĐ năm 2000; Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn một số qui định của Luật HN - GĐ năm 2000 và Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 03/01/2001 hướng dẫn thi hành Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 09/6/2000 của Quốc hội về việc thi hành Luật HN - GĐ .
Như vậy, tốc độ ban hành các văn bản hướng dẫn còn chậm, chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra. Do vậy mà phải đẩy nhanh việc ban hành các văn bản hướng dẫn Luật HN - GĐ năm 2000.
Việc rà soát để sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật hiện hành và ban hành các văn bản mới hướng dẫn thi hành Luật HN - GĐ có một số ý nghĩa hết sức quan trọng, nó kịp thời sửa đổi những qui định không còn phù hợp của các văn bản cũ, cụ thể hoá các qui định của Luật HN - GĐ năm 2000 còn mang tính khái quát và chung chung, nó giúp mọi người hiểu rõ ràng, chính xác và thống nhất, tạo điều kiện thuận lợi khi áp dụng pháp luật, tránh những sai sót không đáng có khi thực hiện luật.
2. Phổ biến, giáo dục Luật HN - GĐ năm 2000.
Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật là khâu đầu tiên của hoạt động thực thi pháp luật, là cầu nối để chuyển tải pháp luật vào cuộc sống. Quá trình đưa luật vào cuộc sống được bắt đầu bằng hoạt động phổ biến giáo dục pháp luật. Bởi vì thực hiện pháp luật dù bằng hình thức nào - tuân theo pháp luật, thi hành (chấp hành) pháp luật, sử dụng (vận dụng) pháp luật hay áp dụng pháp luật trước hết đều phải có hiểu biết pháp luật. Nếu không nhận thức đầy đủ vị trí quan trọng và không thực hiện tốt công tác phổ biến, giáo dục pháp luật thì dù công tác xây dựng pháp luật (công tác lập pháp) có làm tốt đến mấy cũng không đạt được hiệu quả thực thi pháp luật.
Phổ biến, giáo dục pháp luật còn là một trong những mắt xích quan trọng có ý nghĩa đặc biệt của sự tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Bởi vì, giáo dục pháp luật là nhằm hình thành ý thức tôn trọng, tuân thủ pháp luật cho mọi người dân, là nhằm phát huy vai trò và hiệu lực của pháp luật trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Với vị trí, vai trò quan trọng như vậy, công tác phổ biến, giáo dục pháp luật phải được xác định là một trong những công tác trọng tâm của hành pháp và tư pháp. Chúng ta đã coi trọng những việc xây dựng pháp luật, đã đến lúc phải đầu tư tương xứng cho việc tổ chức thực hiện pháp luật mà trước hết là tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật. Đó là trách nhiệm của mọi cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và mọi công dân mà trước hết là cơ quan hành pháp và tư pháp. Trong thư gửi cán bộ, nhân viên ngành Tư pháp (20/12/1995) Tổng bí thư Đỗ Mười đã chỉ rõ: “Có một hệ thống pháp luật đầy đủ, đồng bộ là cần thiết. Song để đảm bảo xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam thực sự của dân do dân và vì dân, vấn đề bức thiết hiện nay là phải tạo ra những điều kiện, xây dựng một cơ chế hữu hiệu đảm bảo cho mọi qui định pháp luật đã ban hành đều được mọi người, mọi cơ quan, tổ chức tôn trọng. Đặc biệt là đẩy mạnh hơn nữa công tác phổ biến, giáo dục pháp luật sâu rộng đến mọi tầng lớp nhân dân, để ai nấy đều hiểu rõ và chấp hành sâu rộng đến mọi tầng lớp nhân dân, để ai nấy đều hiểu rõ và chấp hành nghiêm chỉnh”.
Ngày 9/8/2000, Thủ tướng Chính phủ đã có Chỉ thị số 15/2000/CT-TTg về việc thi hành Luật HN - GĐ năm 2000, Thủ tướng đã chỉ thị cho các cấp các ngành, các đơn vị bên cạnh việc rà soát để sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật hiện hành hoặc ban hành các văn bản mới hướng dẫn thi hành Luật HN - GĐ còn phải tiến hành phổ biến, tuyên truyền, giáo dục Luật HN -GĐ.
Công tác phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật hôn nhân và gia đình nói chung và chế định về kết hôn nói riêng phải được tiến hành thường xuyên, sâu rộng trong cán bộ, công chức, viên chức, chiến sĩ thuộc lực lượng vũ trang nhân dân và trong nhân dân, đặc biệt là ở xã, phường, thị trấn, cụm dân cư, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, nhà trường và gia đình.
Việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục phải đặt mục tiêu làm cho mọi người hiểu rõ những nguyên tắc, nội dung cơ bản của Luật, nhất là những nội dung mới được sửa đổi bổ sung về điều kiện kết hôn và Nghị quyết của Quốc hội về giải quyết tình trạng hôn nhân thực tế để nhân dân tự giác, chủ động chấp hành, nâng cao ý thức, nhận thức và sự quan tâm của mỗi người về trách nhiệm cá nhâm chăm lo xây dựng gia đình, làm cho từng gia đình thật sự trở thành một tổ ấm của từng cá nhân, làm cho xã hội Việt Nam thực sự trở thành một đại gia đình của mọi người dân Việt Nam, cùng nhau chung vai sát cánh xây dựng một đất nước độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc.
Việc phổ biến, tuyên truyền giáo dục Luật HN - GĐ năm 2000 là trách nhiệm của mọi cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và mọi công dân. Theo tinh thần của Chỉ thị số 15/2000, CT-TTg ngày 09/8/2000 của Thủ tướng chính phủ về việc thi hành Luật HN - GĐ năm 2000 thì nhiệm vụ của các cơ quan, tổ chức trong việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục Luật HN - GĐ năm 2000 như sau:
- Bộ tư pháp cần phối hợp với Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Trung ương Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Trung ương Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Nông dân Việt Nam, Bộ văn hoá thông tin, Uỷ ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em Việt Nam, Uỷ ban Dân số và kế hoạch hoá gia đình, Hội luật gia Việt Nam, các cơ quan báo chí, phát thanh, truyền hình ở Trung ương và địa phương tổ chức phổ biến, tuyên truyền sâu rộng Luật HN - GĐ và Nghị quyết của Quốc hội về thi hành Luật HN - GĐ; chỉ đạo hướng dẫn việc tăng cường hoạt động tư vấn pháp lý về hôn nhân và gia đình, khuyến khích thành lập các loại hình câu lạc bộ gia đình nói mọi người có thể tham gia sinh hoạt theo giới, theo lứa tuổi hoặc theo nghề nghiệp, theo sở thích để trao đổi kinh nghiệm học tập lẫn nhau nhưng điều cần thiết trong việc kết hôn, trách nhiệm làm vợ, làm chồng, làm cha, làm mẹ... để ngay từ đầu tránh được những bỡ ngỡ, những điều đáng tiếc không đáng có trong sứ mệnh thực sự quan trọng trong đời sống gia đình. Hội đồng phối hợp công tác phổ biến giáo dục pháp luật của Chính phủ có trách nhiệm xác định nội dung, chương trình phổ biến, tuyên truyền Luật HN - GĐ, Nghị quyết của Quốc hội về thi hành luật này; phối hợp các cơ quan, tổ chức hữu quan để biên soạn đề cương, tài liệu tập huấn tuyên truyền phù hợp với từng loại đối tượng và bồi dưỡng báo cáo viên để phổ biến tuyên truyền Luật HN - GĐ.
- Bộ Văn hoá Thông tin phối hợp với ban tư tưởng Văn hoá Trung ương, Bộ Tư pháp chỉ đạo các phương tiện thông tin đại chúng có kế hoạch ưu tiên cho việc phổ biến, tuyên truyền Luật HN - GĐ năm 2000; hướng dẫn việc xây dựng, thực hiện các qui tắc sinh hoạt cộng đồng liên quan đến các qui định củ Luật HN - GĐ.
- Báo nhân dân, Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình Việt Nam và các phương tiện thông tin đại chúng khác ở Trung ương và địa phương thường xuyên có chương trình, chuyên mục giới thiệu nội dung và những điểm mới của Luật HN -GĐ.
- Bộ Tư pháp chủ trì phối hợp với Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm soát nhân dân tối cao, tổ chức tập huấn chuyên sâu về Luật HN -GĐ cho thẩm phán kiểm sát viên, thư kí Toà án, hội thẩm phán nhân dân, hộ tịch viên, và nhân viên tư pháp khác để đảm bảo việc áp dụng thống nhất và giám sát việc thi hành Luật HN - GĐ.
- Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì phối hợp với Bộ tư pháp chỉ đạo công tác rà soát hệ thống giáo trình, tài liệu giảng dạy của các trường Đại học, Cao đẳng và các tài liệu về Giáo dục công dân liên quan đến Luật HN - GĐ trong các trường trung học chuyên nghiệp, trung học phổ thông và trung học cơ sở để có kế hoạch bổ sung, sửa đổi kịp thời cho phù hợp với Luật HN - GĐ; tổ chức tập huấn cho đội ngũ giáo viên giảng dạy pháp luật giáo dục công dân về Luật HN - GĐ.
- Uỷ ban dân tộc miền núi chủ trì, phối hợp với Bộ Tư pháp có kế hoạch phổ biến, tuyên truyền Luật HN - GĐ trong đồng bào các dân tộc thiểu số.
- Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chỉ đạo các cơ quan ở địa phương có kế hoạch cụ thể giải quyết tình trạng hôn nhân thực tế ở địa phương theo Nghị quyết của Quốc hội về thi hành Luật HN - GĐ, tạo điều kiện thuận lợi cho việc đăng kí kết hôn, kể cả đăng kí tại chỗ để xử lý dứt điểm tình trạng hôn nhân thực tế.
- Bộ tư pháp phối hợp với Bộ Tài chính lập kế hoạch cân đối ngân sách, đảm bảo nguồn kinh phí cần thiết cho việc triển khai thi hành Luật HN - GĐ, Nghị quyết thi hành luật của Quốc hội từ việc xây dựng các văn bản hướng dẫn thi hành luật, tổ chức đăng kí kết hôn, đăng kí nuôi con nuôi ở vùng sâu, vùng xa tổ chức các lớp tập huấn và các đợt phổ biến, tuyên truyền rộng rãi trong cán bộ chiến sĩ, nhân dân.
Tuỳ điều kiện, đặc điểm của từng Bộ, ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị địa bàn mà có các hình thức tuyên truyền, phổ biến Luật HN - GĐ cho phù hợp đồng thời cần đổi mới các hình thức, biện pháp tuyên truyền, giáo dục pháp luật về hôn nhân và gia đình để đưa các hoạt động đó đi vào chiều sâu, tránh lối tuyên truyền, giáo dục pháp luật có tính phong trào, nặng về bề nổi, hiệu quả không cao.
Có thể kể ra một số hình thức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục Luật HN - GĐ như sau:
- Tổ chức Hội nghị tập huấn cho các đối tượng: Báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật, cán bộ chính quyền, đoàn thể các cấp; cán bộ, công chức, viên chức, cán bộ, chiến sĩ thuộc lực lượng vũ trang nhân dân. Tăng cường hình thức tuyên truyền miệng trong cán bộ và nhân dân.
- Thực hiện tốt tổ chức Lễ đăng kí kết hôn trang trọng tại Uỷ ban nhân dân cấp xã, làm cho lễ kết hôn do cơ quan Nhà nước tổ chức trở thành sự kiện quan trọng, đáng ghi nhớ trong đời sống vợ chồng;
- Sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng từ Trung ương đến cơ sở (đặc biệt là chú trọng hệ thống loa truyền thanh ở cơ sở);
- Biên soạn tài liệu, sách phổ thông (theo từng lĩnh vực, chuyên đề dưới dạng hỏi đáp), tờ gấp, khẩu hiệu, Panô, áp phích ...
- Tổ chức các cuộc thi tìm hiểu Luật HN - GĐ cho các đối tượng bằng các hình thức thi viết, thi vấn đáp, thi trên các phương tiện thông tin đại chúng hoặc lồng ghép nội dung Luật HN - GĐ vào các cuộc thi do ngành, đơn vị, địa phương tổ chức.
- Đưa nội dung Luật HN - GĐ vào các loại hình nghệ thuật sân khấu truyền thống vào các hoạt động lễ hội, các thủ tục cưới hỏi; các hoạt động trợ giúp, tư vấn pháp lý, hoạt động hoà giải ...
- Tăng cường tuyên truyền, phổ biến Luật HN - GĐ qua hệ thống tư vấn về hôn nhân và gia đình.
- Thực hiện việc giáo dục Luật HN - GĐ có nề nếp trong các cấp học, bậc học; biên soạn tài liệu giảng dạy, học tập cho phù hợp với luật mới.
- Xây dựng phong trào toàn dân thực hiện Luật HN - GĐ, kết hợp với việc đẩy mạnh các hoạt động xây dựng con người mới, làng văn hoá, xây dựng cuộc sống mới. Đưa nội dung của Luật HN - GĐ vào sinh hoạt thường kì của các câu lạc bộ.
Tóm lại, biện pháp phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật luôn giữ vị trí quan trọng trong đời sống xã hội. Trong công cuộc đổi mới của đất nước ta hiện nay, công tác này càng có vai trò quan trọng về nhiều mặt. Trong đó có vai trò quan trọng là tổ chức thi hành luật, đưa luật vào trong cuộc sống, góp phần nâng cao ý thức pháp luật và văn hoá pháp lý của nhân dân. Vì vậy, cần phải triển khai mạnh mẽ công tác tuyên truyền và giáo dục pháp luật: huy động lực lượng của các đoàn thể chính trị, xã hội, nghề nghiệp, các phương tiện thông tin đại chúng tham gia các đợt vận động thiết lập trật tự, kỉ cương và các hoạt động thường xuyên xây dựng nếp sống và làm việc theo pháp luật trong cơ quan Nhà nước và trong xã hội.
3. Nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan tư pháp.
Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân và vì dân, lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng do Đảng cộng sản lãnh đạo. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân. Do đó quyền lực là thống nhất nhưng có sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Nguyên tắc tổ chức bộ máy Nhà nước ta là nguyên tắc tập trung dân chủ. Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất có quyền lập hiến, lập pháp, quyền quyết định những chính sách cơ bản của Quốc gia, quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước. Với tư cách là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, Quốc hội lập ra các cơ quạn: Chính phủ, Toà án và viện kiểm sát. Toà án có chức năng xét xử, việc xét xử của các Toà án, cũng như hoạt động điều tra, truy tố, hoà giải là nhằm phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, bảo vệ có hiệu quả chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Đồng thời qua công tác xét xử Toà án còn tuyên truyền giáo dục pháp luật một cách có hiệu quả đối với mọi người dân. Viện kiểm sát có chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật, thực hành quyền công tố nhằm đảm bảo cho pháp luật đựơc chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Tuy nhiên trong những năm qua hoạt động của Toà án, Viện kiểm sát chưa tương xứng với chức năng, nhiệm vụ trên. Nguyên nhân là do cơ cấu tổ chức chưa hợp lý, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của Thẩm phán, Kiểm sát viên, Hội thẩm còn hạn chế chưa đáp ứng được yêu cầu công việc. Ngoài ra còn do một số cán bộ thoái hoá biến chất, tham ô, hách dịch, cửa quyền... Vấn đề cấp bách đặt ra là phải cải cách cơ quan tư pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan tư pháp nhằm hoàn thiện bộ máy Nhà nước. Cải cách cơ quan tư pháp không chỉ về cơ cấu tổ chức mà còn phải đặt ra đối với trình độ chuyên môn, thái độ làm việc và chế tài đối với từng cán bộ, viên chức trong cơ quan tư pháp. Có như vậy thì mọi hành vi vi phạm pháp luật nói chung và Luật HN - GĐ nói riêng, nhất là các vi phạm trong lĩnh vực kết hôn đang xảy ra phổ biến trong thực tế sẽ được phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh, góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam.
4. Mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động của các phòng tư vấn về lĩnh vực hôn nhân và gia đình.
Hoạt động tư vấn và dịch vụ pháp lý về hôn nhân và gia đình cần được tổ chức và sắp xếp lại, đổi mới hình thức hoạt động nhằm đáp ứng và phục vụ có hiệu quả các nhu cầu tư vấn về hôn nhân và gia đình. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng cần có những biện pháp hoạt động kiểm tra giám sát các văn phòng tư vấn, dịch vụ pháp lý trong việc tuân thủ pháp luật, tránh những hiện tượng tiêu cực có thể xảy ra từ phía các hoạt động này. Đặc biệt là ở những thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Thành phố Hồ Chí Minh... Đồng thời, Nhà nước cũng phải có chính sách khuyến khích thành lập các phòng từ vấn về hôn nhân và gia đình ở một số tỉnh, huyện ở nông thôn - nơi có trình độ và hiểu biết pháp luật nói chung và Luật hôn nhân gia đình nói riêng còn hạn chế. Các văn phòng tư vấn trước và sau hôn nhân sẽ trang bị cho các nam nữ thanh niên, cho các cặp vợ chồng những kiến thức cần thiết về giới tính, về cuộc sống gia đình, về các quy định của luật về điều kiện kết hôn... Đó là những cơ sở, tiền đề để mọi người cùng hướng tới xây dựng cuộc sống gia đình hoà thuận, hạnh phúc tránh được những vi phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình nói chung và vi phạm về kết hôn nói riêng dẫn đến những đổ vỡ không đáng có. Hơn nữa, tình cảm giữa vợ chồng hoặc nam nữ là vấn đề tế nhị cho nên họ cần có người tư vấn cho họ để có những quyết định sáng suốt. Việc họ tìm đến các văn phòng tư vấn đề hôn nhân và gia đình là nhu cầu cần thiết - điều này hoàn toàn phù hợp với xu thế chung của toàn thế giới.
Trên đây là một số biện pháp cơ bản mà chúng tôi đưa ra để đưa chế định kết hôn nói riêng và Luật hôn nhân-gia đình năm 2000 nói chung vào thực tiễn cuộc sống. Mỗi biên pháp đều có những ưu, nhược điểm nhất định. Vì vậy để tổ chức thi hành Luật hôn nhân - gia đình năm 2000, điều đó đòi hỏi tất cả mọi người, mọi nghành, mọi cấp, mọi cơ quan đơn vị đều phải phối hợp tiến hành đồng bộ các biện pháp nói trên. Luật hôn nhân gia đình năm 2000 được Quốc hội ban hành và có hiệu lực từ ngày 1/1/2001 đã góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật ở nước ta. Nhưng nếu chỉ có biện pháp của Nhà nước và xã hội đặt ra thì chưa đủ để giữ gìn và tạo lập một gia đình hạnh phúc mà còn phụ thuộc vào chính mỗi thành viên trong gia đình. có như vậy thì mục đích của nhà nước đưa Luật hôn nhân - gia đình vào cuộc sống mới đạt được.
kết luận và kiến nghị
Bằng những kiến thức đã được tích luỹ trong quá trình học tập và tiếp thu được từ thực tế, thông qua việc sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học, sau một thời gian nghiên cứu em đã hoàn thành đề tài “Những điểm mới về điều kiện kết hôn và cấm kết hôn trong Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 ”. Nội dung của Luận văn đề cập đến khái niệm kết hôn và điều kiện kết hôn, từ đó đi phân tích những điểm mới của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 về điều kiện kết hôn và cấm kết hôn so với các văn bản luật trước, cuối cùng đưa ra một số biện pháp để đưa chế định kết hôn vào thực tiễn cuộc sống.
Nhà nước Việt Nam bảo hộ chế độ hôn nhân và gia đình, đảm bảo quyền tự do kết hôn nhưng phải trong khuôn khổ pháp luật. Kết hôn là quyền của mỗi người nhưng phải tuân thủ các điều kiện kết hôn do luật định. Điều kiện kết hôn là một trong những chế định của Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam. Chế định này góp phần xây dựng, hoàn thiện và bảo vệ chế độ hôn nhân và gia đình tiến bộ, xây dựng chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xử của các thành viên trong gia đình, kế thừa và phát huy truyền thống đạo đức tốt đẹp của gia đình Việt Nam nhằm xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững.
Trải qua từng giai đoạn lịch sử, với quy luật phát triển không ngừng, các điều kiện kinh tế - xã hội luôn luôn thay đổi và phát triển, các quan hệ xã hội cũng luôn luôn thay đổi làm cho pháp luật điều chỉnh các quan hệ đó cũng phải thay đổi theo. Và Luật hôn nhân và gia đình cũng không nằm ngoài quy luật đó.
Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 được ban hành vào những năm đầu của thời kỳ đổi mới, việc quy định các điều kiện kết hôn vừa có tính kế thừa những phong tục, tập quán, truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc, vừa thể hiện được nguyên lý của chủ nghĩa Mac- Lênin. Nhưng trải qua 13 năm với sự chuyển đổi nền kinh tế xã hội từ cơ chế tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường. Vì vậy nhiều quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 không còn phù hợp với sự vận động của các quan hệ hôn nhân và gia đình trong cơ chế thị trường, với những giao lưu kinh tế trong sự hội nhập quốc tế. Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 ra đời đã dần khắc phục được những thiếu sót và phù hợp với thực tế khách quan, song vẫn còn nhiều vấn đề quy định chưa rõ ràng, cụ thể. Vì vậy, các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cần sớm ban hành những văn bản hướng dẫn để đảm bảo tính thực thi của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000. Để khép lại đề tài này, chúng tôi xin đưa ra một số kiến nghị sau:
Thứ nhất: Nên hiểu điều kiện kết hôn chỉ qui định ở Điều 9 và Điều10 hay bao gồm cả quy định ở Điều 4- Luật HN - GĐ năm 2000. Theo quan điểm của tôi thì điều kiện kết hôn bao gồm cả các qui định ở Điều 4 của Luật HN - GĐ. Bởi vì, nếu chỉ căn cứ vào Điều 9, Điều 10 - Luật HN - GĐ năm 2000 thì sẽ có một số trường hợp không xử lý được.
Ví dụ: Lã Minh T kết hôn Nguyễn Thanh X (có đăng kí kết hôn). Sau vài năm, T lại chung sống như vợ chồng với người khác. Trường hợp trên nếu căn cứ vào Điều 9, Điều10 thì T không vi phạm vì Điều 10 qui định: “Cấm người đang có vợ hoặc chồng kết hôn”. Nhưng căn cứ vào Điều 4 - Luật HN - GĐ năm 2000 thì T vi phạm vì Điều 4 qui định: “Cấm người đang có vợ hoặc chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có vợ, có chồng”. Hơn nữa, Điều 4 - Luật HN - GĐ còn “Cấm kết hôn giả tạo”. Vì thế nên hiểu theo Điều 4 thì sẽ đầy đủ hơn về điều kiện kết hôn.
Thứ hai: Cần sớm ban hành văn bản hướng dẫn một số vấn đề của Luật HN -GĐ năm 2000 về: Trường hợp đăng kí kết hôn của người mất năng lực hành vi dân sự để tránh những cách hiểu và áp dụng khác nhau giữa pháp luật dân sự và pháp luật hôn nhân gia đình; qui định về thủ tục đăng kí kết hôn ở vùng biên giới, vùng sâu, vùng xa, hải đảo để áp dụng thống nhất Luật HN - GĐ năm 2000; qui định về việc bảo vệ quyền lợi phụ nữ và con khi giải quyết hậu quả pháp lý của huỷ việc kết hôn trái pháp luật.
Thứ ba: Luật HN - GĐ năm 2000 qui định: “Người nào vi phạm các điều kiện kết hôn; cản trở việc kết hôn đúng pháp luật; giả mạo giấy tờ để đăng kí kết hôn, đăng kí nuôi con nuôi; hành hạ, ngược đãi, xúc phạm danh dự, nhân phẩm ông, bà, cha, mẹ, vợ, chồng, con và các thành viên khác trong gia đình; lợi dụng việc nuôi con nuôi để trục lợi; không thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng, nghĩa vụ giám hộ hoặc có các hành vi khác vi phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường.” (Điều 107). Và “Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn để đăng kí kết hôn, đăng kí nuôi con nuôi; xác định cha mẹ con trái pháp luật, vi phạm thẩm quyền, thủ tục đăng kí kết hôn... thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỉ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường” (Điều 108). Đây mới là qui định rất chung chung mà chưa có chế tài qui định cụ thể để đảm bảo việc thi hành. Do vậy mà cần sớm ban hành Nghị định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình. Điều đó sẽ giúp cho việc thực thi pháp luật hôn nhân và gia đình đạt hiệu quả cao hơn trong thực tế, mỗi người sẽ tự giác chấp hành và có trách nhiệm với hành vi của mình trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình.
Thứ tư: Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp Luật HN - GĐ cần phải được tiến hành thường xuyên, sâu rộng hơn nữa. Việc tuyên truyền phổ biến, giáo dục phải đặt mục tiêu là làm cho mọi người hiểu rõ được những nguyên tắc, nội dung cơ bản của Luật nhất là những nội dung mơi sửa đổi, bổ sung. Khi đó mọi người sẽ tự giác, chủ động chấp hành, nâng cao ý thức pháp luật của từng người dân, giúp họ có ý thức trong việc chăm lo, xây dựng gia đình, làm cho từng gia đình thật sự trở thành một tổ ấm của từng cá nhân, làm cho xã hội Việt Nam thực sự trở thành một đại gia đình của người Việt Nam, cùng chung vai sát cánh xây dựng một đất nước Độc lập - Tự do - Hạnh phúc.
Trên đây là một số vấn đề được đưa ra trong đề tài”Những điểm mới về điều kiện kết hôn và cấm kết hôn trong Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 ”. Những ý kiến đóng góp trong Luận văn này hy vọng sẽ góp một phần nhỏ bé làm sáng tỏ về mặt lý luận các qui định cuả Pháp luật hôn nhân và gia đình, tạo môi trường pháp lý ngày càng hoàn thiện cho các chủ thể hôn nhân.
Một lần nữa em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới tất cả các thầy cô giáo trường Đại học luật Hà Nội - những người đã dạy dỗ dìu dắt em trưởng thành trong những tháng năm qua.
Tài liệu tham khảo
1.Giáo trình Luật hôn nhân gia đình của trường Đại học Luật Hà nội.
2.Hiến pháp năm 1992 của nước CHXHCN Việt Nam.
3. Bộ Luật dân sự ngày 28/10/1995 của nước CHXNCH Việt Nam .
4. Luật hôn nhân và gia đình năm 2000.
5. Luật hôn nhân và gia đình năm 1986.
6. Luật hôn nhân và gia đình năm 1959.
7. Pháp lệnh về hôn nhân và gia đình giữa Công dân Việt Nam với người nước ngoài ngày 2/12/1993.
8.Bộ luật Hồng Đức
9.Bộ dân luật Bắc kỳ 1931
10.Bộ dân luật Trung kỳ 1936
11.Luật gia đình ngày 2/1/1959
12.Sắc luật 15/64 ngày 23/7/1964 về giá thú, tử hệ và tài sản cộng đồng
13.Bộ dân luật ngày 20/12/1972
14.Sắc lệnh số 97/SLngày 22/5/1995 của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà về sửa đổi một số quy lệ và chế định trong dân luật
15.Pháp lệnh về phòng chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/ AIDS) ngày 30/5/1995.
16.Nghị định số 184/CP ngày 30/11/1994 của Chính phủ qui định về thủ tục kết hôn, nhận con ngoài giá thú, nuôi con nuôi nhận đỡ đầu, giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài.
17.Nghị định số 83/1998/NĐ - CP ngày 10/10/1998 của Chính phủ về đăng ký hộ tịch
18.Nghị quyết số 35/2000/QH10 của Quốc hội về thi hành Luật hôn nhân và gia đình ban hành ngày 09/06/ 2000.
19.Thông tư số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC - BTP ngày 3/1/2001 hướng dẫn thi hành Nghị quyết số 35/2000/QH10
20.Nghị quyết số 02/2000/NQ - HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000.
21.Nghị quyết số 01/NQ-HĐTP ngày 20/01/1988 của Hội đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật HN - GĐ.
22.Thông tư 112/NCPL ngày 19/08/1972 hướng dẫn xử lý về dân sự những hôn nhân vi phạm điều kiện kết hôn do Luật định.
23.Tạp chí Luật học.
24.Tạp chí Toà án nhân dân.
Mục lục
Trang
Lời nói đầu
1
Chương I. Những điểm mới của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 về Điều kiện kết hôn
4
I.
Khái niệm kết hôn
4
II
Khái niệm điều kiện kết hôn
7
Chương II : Những điểm mới của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 về Điều kiện kết hôn
10
I.
Điều kiện về tuổi kết hôn
10
II
Điều kiện hôn nhân một vợ - một chồng
12
III.
Điều kiện về sự tự nguyện của hai bên nam nữ trong kết hôn
15
IV.
Điều kiện về sức khoẻ của người kết hôn
21
V.
Việc cấm kết hôn giữa những người có quan hệ họ hàng thân thuộc
27
VI.
Cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính
29
VII.
Đăng ký kết hôn
30
VIII.
Điểm mới về điều kiện kết hôn đối với việc kết hôn có yếu tố nước ngoài
37
Chương III. Một số biện pháp cần thiết để đưa chế định kết hôn trong luật hôn nhân và gia đình năm 2000 vào thực tiễn.
42
I.
Sự cần thiết phải đặt ra các biện pháp để đưa chế định kết hôn trong Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 vào thực tiễn cuộc sống.
42
II.
Một số biện pháp để đưa chế định kết hôn trong Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 vào thực tiễn cuộc sống
44
1
Tổ chức việc rà soát để sửa đổi bổ sung các văn bản pháp luật hiện hành hoặc ban hành các văn bản mới, hướng dẫn thi hành Luật hôn nhân và gia đình năm 2000.
44
2
Phổ biến, giáo dục Luật hôn nhân và gia đình năm 2000
45
3
Nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan tư pháp
50
4
Mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động của các phòng tư vấn về lĩnh vực hôn nhân và gia đình
51
Kết luận và kiến nghị
Tài liệu tham khảo
53
56
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 2375.doc