Nhờ vậy từ năm 1991 đến nay tốc độ tăng thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đã đạt mức khá cao, bình quân hàng năm là trên 52%. Đến hết năm1994 tổng số vốn đầu tư là trực tiếp được ký kết với công ty nước ngoài đã đạt tới hơn 10 tỷ USD. Theo SCCI, đến tháng 8/1995 số vốn này sẽ tăng lên 16,4 tỷ USD, trong đó đã có hơn 30% số vốn được thực hiện. Các lĩnh vực được các công ty ở nước ngoài chú ý đầu tư là : công nghiệp chiếm 41%, du kịch và dịch vụ chiếm 26,6%, dầu khí 12%. Các hình thức đầu tư chủ yếu là: xí nghiệp liên doanh chiếm 70,6%, vốn đầu tư, xí nghiệp đầu tư 100%, vốn nước ngoài chiếm 12%, hình thức đồng hợp hợp tác kinh doanh chiếm hơn 15% các doanh nghiệp nhà nước hiện là những cơ sở chính thực hiện các dự án đầu tư với nước ngoài, 98% số dự án thuộc xí nghiệp này. Hồng Kông, Đài Loan, Nhật Bản và australia đã chiếm tới 50% tổng vốn đầu tư, Đài Loan đứng vị trí số một. Trong năm 1995. Nhật Bản đang vươn lên vị trí số 1. Trong điều kiện Việt Nam đang ở trong thời kỳ chuyển đổi sang kinh tế thị trường, khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài đã được hình thành và mở rộng như trên có thể xem là một cố gắng rất lớn của chính phủ Việt Nam. Nhưng so với nhu cầu của công cuộc công nghiệp hoá và hiện đại hoá, thì quy mô, mức độ tăng trưởng và những đóng góp hiện nay của khu vực này vẫn còn là nhỏ và có nhiều vấn đề cần được nghiên cứu xem xét. Các vấn đề này có liên quan đến cả chính phủ Việt Nam cũng như các công ty nước ngoài, các nhà đầu tư nước ngoài thường hay phàn nàn về cơ sở hạ tầng kinh tế – xã hội lạc hậu của Việt Nam, về hệ thống luật pháp của Việt Nam chưa đủ, về các thủ tục hành chính khá rườm rà phức tạp, về lao động Việt Nam ít được đào tạo nghề nghiệp vv nhưng những vấn đề trên nếu chỉ trông đợi sự cố gắng của phía Việt Nam chắc là sẽ không đủ và sẽ chậm trễ.
Chính phủ Việt Nam không thể có đủ tiền để ngay lập tức hiện đại hoá các cơ sở hạ tầng kinh tế – xã hội, ở đây cần có sự hỗ trợ của các chính phủ vác các tổ chức tài chính quốc tế. Sự hỗ trợ này cho đến nay nói là đã bắt đầu có hiệu lực, với số vốn vay ưu đãi vào khoảng 3,8 tỷ USD. Số bốn này tuy chưa nhiều nhưng có thêt giúp Việt Nam bước đầu nâng cấp một số cơ sở hạ tầng cần thiết, nhưng vấn đề đặt ra là làm thế nào sử dụng có hiệu quả số vốn đó, nghĩa là sử dụng vào những công trình, những dự án nào có thể tạo ra các điều kiện tăng nguồn thu cho chính phủ để trả nợ. Trong năm 1994 chính phủ Việt Nam mới sử dụng được 400 triệu USD trong số 3,8 tỷ USD vay ưu đãi. Để sử dụng hiệu quả hết số vốn vay đó, đương nhiên, chính phủ Việt Nam phải cố gắng nhiều hơn trong việc nghiên cứu xây dựng các dự án để sử dụng hết số vốn đó. Nhưng đồng thời các nhà tổ chức quốc tế và các chính phủ tài trợ cũng nên giúp Việt Nam bằng cách đào tạo các chuyên gia có trình độ đến giúp Việt Nam làm các dự án đó. Chỉ trong điều kiện đó, thì Việt Nam mới có thể tiếp nhận có hiệu quả ngày càng nhiều vốn vay ưu đãi để hiện hoá các cơ sở hạ tầng kinh tế – xã hội, tạo ra các điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài.
25 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1597 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Những định hướng của chính sách công nghiệp hoá, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Những định hướng của chính sách công nghiệp hoá
Về các chỉ tiêu kinh tế, Việt Nam hiện vẫn là một trong các quốc gia kém phát triển nhất khu vực. Để có thể vươn lên đạt trình độ phát triển ngang hàng với các quốc gia khác, Việt Nam cần phải đạt được một tốc độ tăng trưởng kinh tế và bền vững trong thời gian tương đối dài: nếu tốc độ tăng trưởng trong những năm sắp tới của các nước ASEAN và Níe châu á sẽ vào khoảng 75 năm, thì Việt Nam sẽ phải đạt tới tốc độ cao hơn trên 10%. Tốc độ này đã là thực tế ở một số nước châu á, đặc biệt là Trung Quốc. Thậm chí các tỉnh ven biển phía Nam Trung Quốc đã đạt tới tốc độ tăng trưởng trên 20% năm. Vấn đề đặt ra cho Việt Nam hiện nay là phải tìm ra các giải pháp thích hợp để đạt tới tốc độ tăng trưởng cao, ền vững. Từ năm 1991 đến 1995, Việt Nam đã đạt tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm là 8,3%. Động lực chính của tăng trưởng kinh tế đó là sự khởi động của các cơ chế thị trường, sự giải phóng cho các thành phần kinh tế và mở cửa cho các hoạt động kinh tế đối ngoại... Những nhân tố này trong những năm tới vẫn tiếp tục có tác động tốt. Song phải thừa nhận là chỉ với những tác động đó khó có thể đạt tới mức tăng trưởng mạnh mẽ như ta có. Để có tốc độ tăng trưởng cao hơn, nền kinh tế Việt Nam cần có một lực đẩy mạnh mẽ - lực đẩy đó chỉ có thể có nhờ đẩy mạnh công cuộc hiện đại hoá đất nước, tạo ra một sự chuyển đổi căn bản trong cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại. Vậy Việt Nam sẽ lựa chọn mô hình công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo hướng nào, những ngành công nghiệp nào sẽ có vị trí quan trọng, các thành phần kinh tế quốc doanh, ngoài quốc doanh và tư bản nước ngoài sẽ có vai trò gì trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ? .... Đó là những vấn đề sẽ được bàn tới trong phần này.
1. Những điều kiện đã thay đổi và việc lựa chọn mô hình.
Nước Anh đã tiến hành công nghiệp hoá trong những điều kiện hoàn toàn khác với hiện nay. Đó là nước dường như tiến hành công nghiệp hoá đầu tiên. Nước Anh chỉ có thể bắt đầu công nghiệp hoá từ nông nghiệp; tích luỹ vốn, mở rộng thị trường, tìm kiếm nguồn lao động ... đều từ nông nghiệp và phải bằng những biện pháp tăng cưỡng chế tàn bạo. Hơn nữa nước Anh vì là nước đầu tiên tiến hành công nghiệp hoá, nên phải bắt đầu từ nghiên cứu phát minh ra máy hơi nước, máy dệt.v.v... Con đường tự nghiên cứu, tự sáng tạo, tự áp dụng vào sản xuất để công nghiệp hóa là một con đường vừa dài vừa gian nan. Nước Anh đã mất tới hơn 120 năm, với sự bóc lột, tước đoạt tàn bạo hàng triệu người lao động mới đạt được một nền công nghiệp dẫn đầu thế giới vào thế kỷ XVIII.
Nước Mỹ đi sau đã học tập được những kinh nghiệm công nghiệp hoá, đã nhập khẩu được kỹ thuật và đã thu hút được một dòng vốn từ Châu Âu chuyển sang, đã có thị trường Châu Âu hỗ trợ.v.v.. Đó là những lý do chính làm cho con đường công nghiệp hoá của Mỹ đã được rút ngắn hơn, còn khoảng 90 năm.
Con đường công nghiệp hoá của Nhật Bản rút ngắn hơn nữa, chỉ còn khoảng 50 năm với những đặc điểm nổi bật là: sử dụng công nghệ, kỹ thuật, vốn là thị trường của cả Châu Âu và Mỹ; đồng thời người Nhật đã sử dụng những ưu thế vốn có của nền văn hoá và xã hội Nhật vào quá trình công nghiệp hoá.
Các NIEs đi sau rút ngắn quá trình công nghiệp hoá hơn nửa chỉ còn 30 năm, do họ đã tiếp thu được kinh nghiệm của cả Châu Âu, Mỹ và Nhật Bản. Ngày nay các nước ASEAN còn có thể rút ngắn quá trình công nghiệp hoá này xuống còn khoảng 20 năm. Nếu so với nước Anh, con đường công nghiệp hoá của các nước đi sau rút ngắn đi hẳn một thế kỷ. Nhưng cũng phải thừa nhận là số nươcó đã tiến hành công nghiệp hoá thành công cho đến nay vẫn là một nước nhỏ, ngoài 25 nước thuộc tổ chức OECD ra (không kể các nước Đông Âu và Liên Xô cũ) chỉ có khoảng 10 nước công nghiệp hoá trong đó chỉ có Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Singapore là thành công nhất. Số đông các quốc gia còn lại, tới hơn 100 nước vẫn đang ì ạch bước vào con đường công nghiệp hoá.
Tại sao vào thé kỷ XVII, XVIII chỉ có các quốc gia Châu Âu mới thành công trong công cuộc công nghiệp hoá? Tại sao đến thế kỷ XX này, cũng cùng một điều kiện quốc tế như nhau, mà chỉ có một nhóm nhỏ nước tiến hành công nghiệp hoá thành công? Để trả lời các câu hỏi này cần phải phân tích chính những điều kiện cơ bản nhất của quá trình công nghiệp hoá.
Có thể nói rằng mọi quá trình công nghiệp hoá thành công nghiệp cho đến nay đều đòi hỏi phải có nhưng điều kiện sau đây:
Trước hết, đó là thị trường,đầu tiên là thị trường trong nước, sau đó là thị trường thế giới. Lịch sử nhân loại chưa có một quốc gia nào tiến hành công nghiệp hoá thành công mà lại không cần đến thị trường. Vốn, công nghệ, lao động, tài nguyên... Nếu người ta kết hợp chúng lại, tiến hành sản xuất làm ra hàng hoá mà lại không có chỗ bán cũng vô nghĩa. Nhưng nếu có thị trường đòi hỏi, người ta sẽ tự tìm kiếm vốn, công nghệ, tài nguyên...., tiến hành sản xuất đáp ứng các nhu cầu đó. Điều đó giải thích tại sao nhân loại đã phát minh ra máy hơi nước, máy dệt.. từ rất sớm, ấy thế mfa phải đến cả thế kỷ sau chúng mới được áp dụng. Việc mở rộng thị trường trong nước đã được tiến hành bằng nhiều biện pháp cả kinh tế và cưỡng chế. Những biện pháp cưỡng chế đã được áp dụg rất nổi bật ở Châu Âu, đặc biệt là ở Anh trong thời kỳ tích luỹ nguyên thuỷ đẻ tạo dựng ra thị trường cho công nghiệp hoá. Các chính sách tự do hoá thương mại, giá cả, tín dụng, kinh doanh.v.v... là cực kỳ quan trọng cho việc mở rộng thị trường trong nước. Một quốc gia hàng trăm triệu dân, nhưng thị trường có thể rất nhỏ hẹp, nếu mọi người dân đều tự làm ra những thứ đáp ứng cho nhu cầu của mình,. Nhưng một quốc gia chỉ có vài chục triệu dân lạicó thị trường lớn, nếu mọi người đều làm ra hàng hoá để trao đổi. Sự phát triển của thị trường trong nước là điều kiện quyết định sự khai thông, mở rộng thị trường ra ngoài biên giới. Trong những thập kỷ trước đây, các quốc gia đã phải dùng đến chiến tranh để phân tích thị trường thế giới. Các cuộc đại chiến thế giới I và II là nhằm mục đích đó. Ngày nay người ta mở rộng thị trường củ mình trên phạm vi thế giới thông quaviệc thoả thuận ký kết các hiêp nghị thương mại giữa các quốc gia trên cơ sở cùng có lợi. Đó là một trong những thay đổi quan tọng nhất trong quan hệ thương mại quốc tế giúp cho các quốc gia có thể tìm kiếm đượctt để tiến hành công nghiệp hoá.
Thứ hai là, nguồn nhân lực. Vai trò quan trọng có tính quyết định của nguồn nhân lực đối với sự phát triển nói chung cũng như đối với quá trình công nghiệp hoá của mọi quốc gia là vấn đề đã rõ ràng. Một sản lượng của nguồn nhân lực có tầm quan trọng, vì nó quy định quy mô của thị trường và đặc biệt quan trọng đối với những nền kinh tế nhà nước chưa công nghiệp hoá. Nhưng khi tiến hành công nghiệp hoá thì có thể mặt chất lượng, cơ cấu và cơ chế sử dụng nguồn nhân lực lại có tầm quan trọng hơn. Cơ cấu lao động cần cho quá trình công nghiệp hoá phải bao gồm: các chính khách, các nhà hoạch định chính sách, các học giả; các nhà kinh doanh; các nhà kỹ thuật và công nghệ; các công nhân lành nghề.. Không có các chính sách, các nhà hoạch chính sách, các học giả tai ba thì khó có thể có được những chiến lược, chính sách phát triển đúng đắn; không có các nhà kinh doanh lỗi lạc, thì cũng sẽ không có những người sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn, nhân lực, công nghệ; không có các nhà kỹ thuật, công nhân lành nghề, thì không thể tiếp thu và ứng dụng công nghệ một cách có kết quả. Sự thiếu vắng hay kém cỏi của một trong các bộ phận cấu thành nguồn nhân lực trên đây sẽ có hại cho quá trình công nghiệp hoá. chất lượng của nguồn nhân lực thực sự có ý nghĩa quy định mức độ thành công của quá trình công nghiệp hoá. Nếu một quốc gia không có đội ngũ các nhà kỹ thuật, công nhân lành nghề, thì khong thể tiếp thu được các kỹ thuật mới hiện đại, nguy cơ quốc gia đó trở thành bãi thải công nghệlà có thể hiểu được. Chất lượng của nguồn nhân lực do chính hệ thống giáo dục và chăm sóc sức khoẻ quy định. Và để có chất lượng cao phải có nguồn tài chính thích đáng. sự đầu tư tài chính không đủ chắc chắn sẽ làm giảm chất lượng của nguồn nhân lực. Cơ chế sử dụng các nguồn nhân lực có hiệu quả nói chung là cơ chế thị trường. Tuy nhiên, mọi quốc gia đều phải có chính sách ưu tiên chọn lựa, đào tạo và sử dụng các nhân tài - những tinh hoa của dân tộc trên mọi lĩnh vực, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế và công nghệ. Thực tế các quốc gai đã tiến hành thành công quá trình công nghiệp hoá cho thấy là: việc xác lập một cơ cấu nguồn nhân lực thích ứng, đầu ta tài chính đủ cho công tác giáo dục và y tế. Thực hiện cơ chế thị trường trong việc sử dụng nhân lực kết hợp với chính sách ưu đãi nhân tài thoả đáng - là nguồn gốc cơ bản của những thành công.
Thứ ba là công nghệ và vón. Để tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, không thể không có công nghệ tiên tiến và đi liền với nó là nguồn vốn to lớn. Có thể nói hai con đường để có công nghệ tiên tiến và vốn. Thứ nhất, huy động các nguồn lực trong nước để tạo ra công nghệ mới và vốn; con đường này đã diễn ra ở Châu Âu với thời hạn công nghiệp hoá tới hơn 120 năm. Con đường thứ hai thu hút các dòng công nghệ tiên tiến và vốn từ bên ngoài vào cùng với các nguồn lực bên trong để tạo ra nguồn lực công nghệ và vốn cần cho quá trình công nghiệp hoá. Đây là con đường rút ngắn của các quốc gia đi sau. Dòng chảy của công nghệ tiên tiến và vốn bên ngoài vào một quốc gia càng lớn, càng mạnh, càng hiệu quả, thì quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá càng được rút ngắn. Đương nhiên, các chính phủ phải có các chính sách rất thông minh mới có thể tiếp thu được công nghệ mới và vốn nước ngoài một cách có hiệu qủa.
Ba yếu tố quan trọng nhất trên đây đối với quá trình công nghiệp hoá đã và đang có những thay đổi sâu sắc. Trước đây thị trường trong nước là yếu tố cơ bản cua quá trình công nghiệp hoá, thì nay thị trường thế giới ngày càng trở thành yếu tố quan trọng để rút ngắn quá trình công nghiệp hoá, thì nay thế giới ngày càng trở thành yếu tố quan trọng để rút ngắn quá trình công nghiệp hoá của một đất nước. ý nghĩa của nó là ở chỗ tất cả những yếu tố quan trọng nhất đối với quá trình công nghiệp hoá rút ngắn đều ở thị trường bên ngoài như công nghệ tiên tiến, nguồn vốn, kinh nghiệm quản lý v.v.. Ngay nguồn nhân lực cũng vậy. Trong một nước kém phát triển chưa có thể có nhiều nhà kinh doanh quản lý tài ba, phải mời họ từ nước ngoài vào; để có các học giả, các nhà kỹ thuật ... trong một thời gian không dài, cũng phải mời các chuyên gia nước ngoài vào, hay cử người đi học nước ngoài... Điều thay đổi quan trọng nhất từ sau chiến tranh lạnh là xu hướng đối thoại, hợp tác vì sự phát triển đã gia tăng và ngày càng chi phối các quan hệ quốc tế. Chính xu hướng này đã tạo ra một cơ hội mới để các nước đi sau có thể vận dụng ở mức độ cao hơn các ưu thế của thị trường thế giới cho quá trình công nghiệp hoá rút ngắn của các nước mình.
Bối cảnh quốc tế đã thay đổi trên đây cho phép Việt Nam có thể lựa chọn cho mình một mô hình công nghiệp hoá, hiện đại hoá rút ngắn thích hợp. Mô hình đó sẽ kế thừa tất cả các ưu điểm của các mô hình đã có, đồng thời phải tính đến những lợi thế và đặc điểm cụ thể của Việt Nam. Có thể có người muốn đặt cho mô hình này một cái tên xác định, chẳng hạn là công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu, hay công nghiệp hoá hướng ngoại.... Tôi nghĩ rằng một thuật ngữ ngắn gọn như vậy có thể là không đủ diễn đạt hết những đặc điểm quan trọng của mô hình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam trong giai đoạn tới đây. Nếu dùng thuật ngữ công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu có thể làm cho người ta hiểu lầm rằng mô hình này đã xem thường thị trường nội địa, xem nhẹ, các lĩnh vực khác như đầu tư, dịch vụ ... Do vậy, có thể phải nêu ra những đặc trưng cơ bản của mô hình thay vì một thuật ngữ ngắn gọn. Tôi cho rằng những đặc trưng cơ bản của mô hình công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Việt Nam trong thời gian tới có thể là:
Thứ nhất, phải coi trọng việc mở mang thị trường trong và ngoài nước, đặc biệt xem trọng thị trường ngoài nước. Đối với một nước còn lạc hậu như Việt Nam, thì thị trường ngoài nước càng có ý nghĩa quan trọng. ý nghĩa quan trọng này thể hiện ở chỗ có việc xuất khẩu vào các thị trường đó mà Việt Nam có ngoại tệ để nhập khẩu công nghệ mới, vật tư... cần thiết cho các hoạt động kinh doanh của Việt Nam. Thị trường ngoài nước của Việt Nam càng rộng, Việt Nam có khả năng mở rộng xuất khẩu, càng có nhiều ngoại tệ, càng có khả năng nhập khẩu nhiều hơn các công nghệ vật tư cần thiết cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoáđất nước. Tầm quan trọng của thị trường ngoài nước lớn đến mức không có nó không thể tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá rút ngắn được. Do đó có tầm quan trọng như vậy, nên người ta đã có lý khi sử dụng thuật ngữ công nghiệp hoá hướng vào xuất khẩu. Đương nhiên, một quốc gia cso thị trường trong nước đáng kể như Việt Nam thì sự liên kết và cộng lực của thị trường ngoài nước và trong nước sẽ làm cho Việt Nam có sức hấp dẫn lớn hơn. Điều quan trọng ở đây là Việt Nam phải khai thông thị trường trong nước với thị trường thế giới, đổi mới các thể chế của thị trường trong nước thích hợp với thị trường thế giới, liên kết thị trường trong nước với thị trường thế giới, làm sao bất kỳ một hàng hoá gì làm ra ở thị trường Việt Nam cũng dễ dàng được tiêu thụ trên thị trường thế giới.
Thứ hai, để nhanh chóng nâng cao chất lượng của nguồn nhân lực Việt Nam, Việt Nam không có con đường nào khác là phải hợp tác với các trung tâm kinh tế có các nguồn nhân lực có chất lượng cao nhất. Tuy dấnố biết chữ của Việt Nam khá cao tới 90%, tuy phần đông người Việt Nam có được giáo dục phổ thong, nhưng trình độ tay nghề, kỹ thuật, ngoại ngữ... của người Việt Nam nói chung là thấp. Trình độ giáo viên ở các bậc học ở Việt Nam có sự chênh lệch khá xa với các nước tiên tiến. Nội dung giáo trình sách giáo khoa cũng vậy. Việc nâng cấp hệ thống giáo dục ở Việt Nam là lmột việc cấp bách . con đường ngắn nhất là Việt Nam phải cử nhiều học sinh sang các nước tiên tiến học tập, thuê các thầy giỏi ở các nước tiên tiến vào dậy, kêu gọi các Việt Kiều có trình độ chuyên môn cao về nước làm việc, thu hút các nhà kinh doanh tài ba của nước ngoài vào làm ăn ở Việt Nam, nâng cấp hệ thống giáo dục tiểuhọc vf dậy nghề..v.v..
Thứ ba, thu hút các công nghệ tiên tiến và các nguồn vốn nước ngoài. Các công nghệ tiên tiến có ý nghĩa quyết định sự thành công của quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá của Việt Nam. Việt Nam chưa có các công nghệ tiên tiến đó, chỉ có một con đường duy nhất rút ngắn để tiến lên hiện đại là Việt Nam phải thu hút từ bên ngoài, chủ yếu là từ các nước phát triển nhất. Có nhiều cách thu hút các công nghệ tiên tiến đó. Cách thứ nhất là Việt Nam có thể đẩy mạnh xuất khẩu thu ngoại tệ, hoặc đi vay dài hạn của các tổ chức tài chính quốc tế để nhập khẩu các công nghệ tiên tiến. Con đường này đòi hỏi Việt Nam phải có nguồn nhân lực đủ hiểu biết về kinh tế kỹ thuật để lựa chọn được công nghệ thích hợp, sử dụng chúng có hiệu quả và làm ra hàng hoá bán được trên thị trường thế giới, thu hồi được vốn và trả được nợ, có lãi, đồng thời phải được các nước tiên tiến, cho vay vốn và nhân nhượng cho thị trường. Đây không phải là con đường dễ dàng, đã có không ít nước thất bại vì đã lựa chọn công nghệ không thích hợp, đầu tư vào các lĩnh vực kém hiệu quả, không tìm ra được thị trường tiêu thụ hàng hoá làm ra, do vậy đã không thu hồi vốn và trả được nợ. Tuy nhiên đã có một số nước thành công, nổi bật là Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc... Con đường thứ hai là thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, cũng có nghĩa là thu hút cả công nghệ tiên tiến. Các công ty xuyên quốc gia nước ngoài đưa vốn vào đầu tư làm ăn ở Việt Nam, họ sẽ phải đưa theo công nghệ tiên tiến. Họ sẽ phải tự tìm lấy thị trường bên ngoài, sẽ phải đào tạo cán bộ công nhân kỹ thuật Việt Nam làm việc cho họ.v.v... Song để thu hút được nhiều vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, Việt Nam phải có các luật lệ thông thoáng, cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại, nguồn nhân lực được đào tạo, có tay nghề tốt.v.v... Nguồn vốn đầu tư nước ngoài được đưa vào Việt Nam càng nhiều sẽ tạo dụng được những cơ sở công nghiệp ngày càng hiện đại, do vậy sẽ thúc đẩy nhanh hơn quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá. Malaysia đã xem việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là yếu tố căn bản của quá trình công nghiệp hoá.
Việt Nam có thể sẽ sử dụng cả hai biện pháp: tự tích luỹ và vay vốn nước ngoài để nhập khẩu công nghệ tiên tiến, đồng thời đẩy mạnh việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Trong điều kiện quốc tế mới hiện nay Việt Nam có thể thu hút các nguồn vốn trực tiếp nước ngoài một cách thuận lợi hơn và có thể đó sẽ là một yếu tố rất quan trọng đối với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá rút ngắn của Việt Nam.
Với ba đặc trưng chủ yếu trên đây, mô hình công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Việt Nam tận dụng tối đa các lợi thế của quá trình toàn cầu hoá và khu vực hoá, các ưu thế của các nền kinh tế phát triển cao hơn, đồng thời do vậy mà sử dụng có hiệu quả các nguồn lực trong nước về thị trường, tài nguyên và nguồn nhân lực.
II. Những lựa chọn các ngành kinh tế.
Có thể có nhiều cách phân chia các ngành kinh tế, nhưng ở đây tôi chia các ngành kinh tế ra làm 4 nhóm lớn: a) Các ngành cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội: b) Các ngành công nghiệp khai thác và nông nghiệp; c) Các ngành công nghiệp chế biến; d) Các ngành dịch vụ. Cách phân chia này có thể thuận tiện cho việc xác định các lựa chọn ưu tiên của Nhà nước và khu vực tư nhân.
Nguồn lực tài chính của mọi Nhà nước dù giầu có như Mỹ đều có giới hạn trước các nhu cầu chi tiêu to lớn, nên mọi nhà nước đều phải tính toán, cân nhắc rất kỹ việc lựa chọn các ưu tiên. Nguồn tài chính của Nhà nước Việt Nam trong những thập kỷ tới đây rất hạn chế so với nhu cầu đầu tư phát triển. Do vậy, Nhà nước phải tính toán rất kỹ nên đầu tư vào những ngành nào để có thể tạo ra một sự phát triển nhanh, mạnh, bền vững của nền kinh tế đất nước. Phân tích các ngành kinh tế trên đây ta thấy các ngành cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội bao gồm thông tin liên lạc, giao thông vận tải, sân bay, hải cảng, năng lượng, cấp thoát nước, giáo dục, y tế.... là những ngành có liên quan đến mọi ngành khác, làm tiền đề cho mọi ngành khác phát triển. Hệ thống thông tin liên lạc lạc hậu làm chậm trễ và gián đoạn các thông tin sẽ làm đổ bể các hợp đồng kinh tế gây thiệt hại cho các nhà kinh doanh của mọi ngành. Đường sá, bến cảng, sân bay lạc hậu sẽ làm tăng chi phí vận tải, kéo dài thời gian vận tải.... có hại cho mọi ngành kinh doanh. Thiếu điện, thiếu nước, mọi hoạt động kinh doanh sẽ bế tắc. Hệ thống giáo dục, y tế kém làm sao đảm bảo được nguồn nhân lực tốt cho kinh doanh. Thế nhưng việc xây dựng các cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội này lại rất tốn kém và phức tạp. Thu hồi vốn chậm, mức lợi nhuận thấp, thậm chí là không có lãi mà còn lỗ. Do vậy, không mấy nhà kinh doanh tư nhân muốn đầu tư vào lĩnh vực này. Nhà nước dường như là người duy nhất đại diện cho xã hội, chịu trách nhiệm trước xã hội phải gánh lấy trọng trách xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội phải chịu thua lỗ. ở Việt Nam các cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội nói chung còn rất lạc hậu, có nhiều nơi xem như chưa có hay là có không đáng kể. Nhiều hải cảng của Việt Nam như Cái Lân, Hòn La, Cam Ranh, Thị Vải.v.v... có độ nước sâu rất tốt có tầm cỡ quốc tế, ở vị trí của ngõ của các vùng kinh tế nhưng chưa được đầu tư xây dựng hiện đại. Các sân bay quốc tế quan trọng của Việt Nam như Nội Bài, Tân Sơn Nhất, cưa được hiện đại hoá. Các tuyến đường bộ, xe lửa, đường sống huyết mạch nối các vùng kinh tế với hải cảng còn rất lạc hậu, thô sơ. Hệ thống trường sở, bệnh viện đã xuống cấp đang cần được đầu tư.v.v... Số vốn cần cho việc xây dựng và hiện đại hoá các cơ sở hạ tầng này là rất lớn có thể tới cả trăm tỷ USD, thế nhưng hàng năm Chính phủ Việt Nam chưa thể đầu tư vào lĩnh vực này quá 2 tỷ USD. Do vậy, việc áp tập trung vốn cao hơn nữa cho lĩnh vực xây dựng và hiện đại hoá các cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội là rất cần thiết và có thể phải được xem là ưu tiên đầu tư phát triển trước hết cho các lĩnh vực: năng lượng, hải cảng sân bay, các con đường nối liền các hải cảng và sân bay tới các trung tâm kinh tế, các khu công nghiệp và giáo dục, tiêu học và dạy nghề.
Đương nhiên, Nhà nước không chỉ đầu tư cho việc xây dựng các cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội mà còn phải đầu tư phát triển những ngành kinh tế là cơ sở cho sự ổn định xã hội. Trước hết đó là nông nghiệp, vì nhà nước chiếm khoảng 80% dân số Việt Nam, phải đảm bảo cung cấp đủ cho dự trữ lương thực, thực phẩm cho toàn xã hội, là nơi cung cấp lao động cho quá trình công nghiệp hoá, là thị trường của ngành công nghiệp .... Hiện nay, Việt Nam đã tự túc được lương thực, có một phần dự trữ và xuất khẩu mỗi năm khoảng 1,5 đến 2 triệu tấn. Nếu tiếp tục phát triển nhà nước theo hướng sản xuất lúa gạo là chính, thì sẽ có một số vấn đề đặt ra cần được cân nhắc. Đẩy mạnh việc sản xuất lúa gạo xuất khẩu, hay chuyển hướng phát triển các cây ăn quả, rau, cây công nghiệp xuất khẩu có lợi hơn? Để chuyển hướng như vậy, cần phải tìm kiếm thị trường công nghệ, nguồn vốn? Đó là những vấn đề phải được tính toán, cân nhắc trên cơ sở hiệu quả kinh tế - xã hội. Việt Nam có một số tài nguyên quan trọng như: dầu khí, than, hiện đại hoá, Việt Nam có thể phải dành một số ưu tiên phát triển các ngành này, bán tài nguyên để tích luỹ vốn.
Các ngành công nghiệp chế biến là những ngành quan trọng nhất, quy định trình độ phát triển và mức độ công nghiệp hoá, hiện đại hoá của một quốc gia. Hiện nay những ngành này mới bắt đầu phát triển và còn chiếm một tỷ trọng rất thấp ở Việt Nam. Tôi cho rằng Chính phủ Việt Nam cần khuyến khích các nhà đầu tư trong và ngoài nước lựa chọn và xây dựng những ngành công nghiệp chế biến thích hợp với Việt Nam. Trước mắt có thể là những ngành may mặc, dệt, chế biến, nông lâm hải sản, sản xuất vật liệu xây dựng, luyện kim, điện tử, tin học.v.v... Một số ngành mới quan trọng, chính phủ có thể phải đầu tư vốn xây dựng, hoặc quy hoạch và gọi vốn trong và ngoài nước cùng hợp tác xây dựng, hoặc quy hoạch và gọi vốn trong và ngoài nước cùng hợp tác xây dựng. Việt Nam có một lợi thế là ở trung tâm Đông Nam á với nhiều hải cảng tối, do vậy có thể phát triển mạnh việc lắp ráp các thành phẩn xuất khẩu vào khu vực. Các ngành công nghiệp chế biến xuất khẩu vào khu vực. Các ngnàh công nghiệp chế biến xuất khẩu phải xem trọng nhất, vì những ngành này quy định vị trí của Việt Nam trên thị trường thế giới. Các công ty xuyên quốc gia nước ngoài có vai trò rất quan trọng trong việc phát triển những ngành công nghiệp này, vì họ hiểu rõ thị trường thế giới cần những sản phẩm chế biến gì, với chất lượng và giá cả ra sao. Việt Nam cần có những chính sách khuyến khích các công ty đầu tư thích đáng vào những ngành này.
Các ngành dịch vụ trước hết là các ngành phục vụ trực tiếp cho các ngành công nghiệp như: thương mại, tư vấn, bảo hiểm, thông tin quảng cáo, ngân hàng tiếp thị; môi giới.v.v... phải được xem trọng. Vì thiếu những dịch vụ này các ngành công nghiệp khác khó hoạt động có hiệu quả. Sau đó là du lịch, Việt Nam có những điều kiện tự nhiên, văn hoá, lịch sử thuận lợi cho việc phát triển ngành du lịch. Nhưng việc đầu tư phát triển du lịch đòi hỏi phải có một nguồn vốn to lớn, cóo một nguồn khách du lịch phong phú. Việt Nam cũng phải hợp tác với nước ngoài mới đáp ứng được các yêu cầu đó.
Dưới đây là sự phân tích cụ thể hơn về cơ cấu ngành đã được thể hiện qua các dự án phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam đến năm 2000.
Về cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội
Mạng lưới bưu chính viễn thông của Việt Nam đã được hiện đại hoá một bước, nhưng vẫn còn một khoảng cách so với các quốc gia trong khu vực. Trong 10-20 năm tới, việc hiện đại hoá bưu chính viễn thông phải đi trước một bước, đảm bảo sự giao lưu thông suốt giữa các trung tâm kinh tế, các thành phố và các trung tâm kinh tế trong nước với các quốc gia khác, đồng thời hạ giá cước phí bưu chính viễn thông.
Đường hàng không Việt Nam tuy trong mấy năm vừa qua đã có những tiến bộ, nhưng còn lạc hậu rất xa so với các nước trong khu vực. Trong thời gian tới phải tập trung nâng cấp ba sân bay quốc tế: Nội Bài, Tân Sơn Nhất, Đà Nẵng đạt trình độ quốc tế: nâng cấp các sân bay thuộc các thành phố, khu công nghiệp, khu du lịch. Liên doanh, hợp tác với các hàng không quốc tế mở thêm các đường bay, mua sắm thêm các máy bay, thiết bị cần thiết.
Đường biển và đướng sông: Trong thời gian tới cần phải cải tạo mở rộng các cảng: Hải Phòng, thành phố Hồ Chí Minh; xây dựng cảng Cái Lân, Vũng Tàu - Thi vải thành cảng nước sâu, mở rộng các cảng hiện có như Đà Nẵng, Cửa Lò, Quy Nhơn, Nha Trang.v.v... Xây dựng các cảng ở tất cả các tỉnh ven biển. Xây dựng một hệ thống cảng biển và cảng sông liên hoàn. Phát triển vận tải ven biển, pha sông biển. Đóng mới và mua sắm thêm các tàu vận tải viễn dương, ven biển, pha sông biển.
Đường sắt: Cần tập trung cải tạo, nâng cấp đường sắt Bắc Nam, mở các tuyến đường sắt Đông - Tây đặc biệt là các tuyến đường sắt nối với Lào, Thái Lan, Camphuchia, với các vùng kinh tế trọng điểm.
Đường bộ: Xây dựng các đường cao tốc nối liền các vùng kinh tế trọng điểm với các hải cảng biển, trước mặt là các đường cao tốc Hà Nội - Cái Lân - Hải Phòng, Hồ Chí Minh - Biên Hoà - Vũng Tàu, nâng cấp toàn tuyến quốc lộ 1A, phát triển các trục ngang, các đường 12, quốc lộ 8,9, 19, nối các cảng miền trung tới Lào, Thái Lan nâng cấp các quốc lộ trên địa bàn kinh tế trọng điểm ở cả Bắc, Trung, Nam nối liền với các cảng biển, cảng sông, sân bay.
Phát triển ngành công nghiệp
Công nghiệp nhiên liệu và năng lượng cần được tập trung chú ý vào các lĩnh vực sau:
- Tiếp tục mở rộng liên doanh hợp tác với nước ngoài để tìm kiếmm, thăm dò, khai thác và chế biến dầu và khí, than. Dự kiến năm 2000 có thể đạt 20 triệu tấn dầu thôm 5 tỷ m3 khí, 8,6 triệu tấn than.
- Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện các nhà máy thuỷ điện Yaly, hàm Thuận, Đami, Bản Mai, Sông Hinh; Chuẩn bị khởi công xây dựng các nhà máy thuỷ điện ở Kông Tum, Gia Lai, Bình Thuận, Sơn La.. Hoàn thành xây dựng các nhà máy nhiệt điện Phú Mỹ, nhà máy Tua Bin khí hỗn hợp Phú Mỹ II, nhiệt điện Phả Lại II, nhiệt điện Quảng Ninh.
- Xây dựng các công trình dẫn khí vào đất liền để hoá lỏng, và làm nhiên liệu cho các nhà máy nhiệt điện.
- Xây dựng mạng lưới quốc gia, nối với lưới điện tiểu khu vực (Camphuchia, Lào, Thái Lan, Trung Quốc) để trao đổi.
Vấn đề cần thực hiện nghiên cứu giải quyết là hiệu tỷ trọng thuỷ điện tương đối cao trong tổng sản phẩm của cả nước, do vậy cần tính đến việc tăng tỷ trọng của nhiệt điện, đặc biệt là tỷ trọng của những nhà máy nhiệt điện dùng khi làm chất đốt.
Công nghiệp sản xuất vật liệu. Trong quá trình công nghiệp hoá, Việt Nam cần ngày càng nhiều các vật liệu xây dựng như xi măng, gạch,ngói, đá và các vật liệu cao cấp như sứ vệ sinh, gạch men sứ, đá ốp lát, kính..... Để đảm bảo đáp ứng các nhu cầu ngày càng tăng lên, Việt Nam sẽ thực hiện các dự án liên doanh với các công ty nước ngoài để sản xuất xi măng và các vật liệu cao cấp ở nhiều tỉnh có điều kiện sản xuất như Hải Phòng, Quảng Ninh, Hải Hưng, Nam Hà, Ninh Bình, Thanh Hoá, Nghệ An, Thừa Thiên - Huế, Kiên Giang.v.v... Khuyến khích các đơn vị kinh doanh trong nước xây dựng các cơ sở sản xuất vật liệu xây dựng mới . Đẩy mạnh việc khai thác quặng sắt, thu hồi sắt thép vụn, tăng thêm năng lực sản xuất thép xây dựng. Mở rộng liên doanh hợp tác với các công ty nước ngoài nâng cấp các nhà máy luyện thép hiện có và xây dựng thêm các nhà máy luyện thép mới.
Công nghiệp phân bón và hoá chất sẽ được chú ý và phát triển trên cơ sở công nghiệp chế biến dầu khí.
Công nghiệp điện tử và tin học. Từng bước xây dựng công nghiệp điện tử và tin học thành công nghiệp mũi nhọn. Thời kỳ đầu hợp tác với các công ty nước ngoàin nhập khẩu linh kiện, gia công lắp ráp đáp ứng nhu cầu trong nước và cả xuất khẩu. Sau đó có thể sản xuất một phần phụ kiện trong nước, gia công lắp ráp thành phẩm hướng mạnh vào xuất khẩu.
Phát triển dịch vụ tin học đáp ứng các nhu cầu trong nước và tham gia vào các dịch vụ thông tin quốc tế.
Công nghiệp hàng tiêu dùng và thực phẩm. Phát triển mạnh các ngành dệt, may mặc, da giầy, các hàng thủ công mỹ nghệ, sành sứ, thuỷ tinh.v.v... phục vụ nhu cầu xuất khẩu trong nước. Phát triển các ngành công cụ chế biến nông, lâm, hải sản, trước hết là xay xát gạo xuất khẩu, chế biến rau quả xuất khẩu, chế biến hải sản, chế biến gỗ.v.v... Nguồn lực để phát triển những ngành này là rất lớn, do có nguồn nguyên liệu trong nước, có nhân lực dồi dào, có thị trường. Vấn đề là cần tìm kiếm nhập khẩu công nghệ thích hợp và thu hút các nguồn vốn trong nước và ngoài nước.
Công nghiệp cơ khí của Việt Nam nói chung còn rất lạc hậu. Việc xây dựng và hiện đại hoá ngành công nghiệp cơ khí của Việt Nam sẽ tuỳ thuộc vào những lợi thế của Việt Nam và khả năng của Việt Nam tận dụng được các ưu thế của thị trường khu vực và thế giới. Giai đoạn đầu sẽ là giai đoạn Việt Nam phải liên doanh với các Công ty nước ngoài gia công lắp ráp các loại thiết bị, phục vụ cho các ngành kinh tế từ các máy công cụ đến ô tô, xe máy, máy khâu, tàu.v.v... và có thể xuất khẩu một phần sản phẩm đó giai đoạn hai sẽ là giai đoạn hợp tác với các công ty nước ngoãi một phần linh kiện phụ kiện ở Việt Nam và đẩy mạnh gia công lắp ráp xuất khẩu vào khu vực và thế giới. Ngành công nghiệp cơ khí nào sẽ được lựa chọn là mũi nhọn của Việt Nam? Để trả lời câu hỏi này có thể cần có thêm thời gian để các nhà kinh doanh cân nhắc tính toán hiệu quả. Nhưng tôi cho rằng ngành chế tạo lắp ráp các phương tiện vận tải bao gồm tàu thuyền, ô tô các loại xe gắn máy, ngành sản xuất lắp ráp các máy móc nông cụ, các máy dệt, máy may.v.v... sẽ có thể là những ngành này có triển vọng ở Việt Nam, vì những ngành này có thể sử dụng được lợi thế so sánh của Việt Nam về vị trí địa lý, về nguồn nhân lực.
III. Vai trò của nhà nước.
Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Nhà nước ta có một vai trò cực kỳ quan trọng. Vai trò này thế hiện trước hết ở việc hoạch định các chính sách kinh tế tôi cho rằng những chính sách kinh tế của nhà nước sau đây là quan trọng nhất: chính sách cơ cấu kinh tế bao gồm cơ cấu ngành, cơ cấu thành phần kinh tế, cơ cấu lãnh thổ, cơ cấu quy mô các xí nghiệp, cơ cấu công nghệ đảm bảo định hương kinh tế mở và hướng về xuất khẩu... chính sách thị trường đảm bảo cho các quan hệ thị trường phát huy tác dụng trong các lĩnh vực: hàng tiêu dùng, sản xuất và dịch vụ, tiền tệ và vốn, bất động sản, lao động, công nghệ... chính sách tài chính và tiền tệ đảm bảo ổn định giá trị đồng tiền, huy động phân bổ và sử dụng các nguồn vốn ngày càng có hiệu quả. Chính sách nguồn nhân lực đảm bảo giáo dục, đào tạo, sử dụng các nguồn nhân lực một cáh có hiệu quả nhất. Chính sách xã hội và môi trường đảm bảo sự công bằng, tiến bộ an toàn, ổn định xã hội và hạn chế tình trạng ô nhiễm môi trường chính sách kinh tế đối ngoại đảm bảo sự thông thương quan hệ thương mại với bên ngoài và có sức hấp dẫn các nguồn vốn bên ngoài.
Các chính sách trên của chính phủ phải nhằm vào các mục tiêu chủ yếu sau đây:
Thứ nhất là định hướng quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Quá tình công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Việt Nam đã được định hướng theo CNXH, nội dung chủ yếu của định hướng XHCN đã được xác định là xây dựng một xã hội dân giầu, nước mạnh, công bằng, văn minh. Định hướng quan trọng thứ hai đã được Việt Nam xác định là hướng vào xuất khẩu có tính đến những nhu cầu của thị trường trong nước. Định hướng thứ ba là kinh tế nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo, đồng thời khuyến khích các thành phần kinh tế tư nhân, hợp tác ... tự do phát triển trong các lĩnh vực được phép. Định hướng thứ tư là tập trung các nguồn vốn đầu tư của Nhà nước vào việc xây dựng các cơ sở hạ tầng kinh tế -xã hội, các vùng kinh tế trọng điểm .... Những định hướng chủ yếu trên đây có thể xem là rất mới mẻ so với các định hướng công nghiệp hoá trước đây: ưu tiên phát triển công nghiệp nặng, kinh tế quốc doanh thống trị trên mọi lĩnh vực, xem trọng thay thế nhập khẩu và hướng nội.v.v...
Thứ hai, trên cơ sở các định hướng trên đây, các chính sách kinh tế của Nhà nước phải lựa chọn các ưu tiên cho quá trình công nghiệp hoá. Những ưu tiên đó là các ngành và lĩnh vực xuất khẩu và khu vực mở của các thành phố và tỉnh ven biển, các cơ sở hạ tầng kinh tế- xã hội phục vụ cho xuất khẩu và hợp tác với nước ngoài, các công nghệ sử dụng nhiều lao động sản xuất ra các hàng hoá và dịch vụ đáp ứng được nhu cầu xuất khẩu và thị trường trong nước.v.v...
Thứ ba, đảm bảo tăng trưởng, hiệu quả cao và bền vững. Tăng trưởng cao và có hiệu quả là yêu cầu cấp bách của Việt Nam, vì chỉ có như vậy, Việt Nam mới có thể rút ngắn chặn đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá đuổi kịp các quốc gia khác Nhưng tăng trưởng cao phải chú trọng phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thoon một cách thoả đáng; phải đảm bảo sự công bằng trong phát triển, xoá đói,giảm nghèo; phải hạn chế tới mức tối đa tình trạng ô nhiễm môi trường; phải đảm bảo ổn định an ninh và an toàn xã hội...
Thứ tư, đảm bảo cho cơ ché thị trường tác động lành mạnh trong nền kinh tế. Cơ chế thị trường đã tác động trên nhiều lĩnh vực hoạt động kinh tế của Việt Nam. Nhưng muốn đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá, chính phủ Việt Nam cần phải có các chính sách tài chính, tiền tệ, giá cả, thương mại.v.v... thích hợp để tạo dựng một môi trường lành mạnh trên tất cả các mặt: hàng hoá dịch vụ, tiền tệ, vốn, bất động sản, lao động.v.v... Cơ chế thị trường tác động yếu kém ở bất cứ một lĩnh vực nào đều có thể làm cho thị trường kém hiệu quả. ở Việt Nam hiệu quả cơ chế thị trường tác động rất yếu kém trong các lĩnh vực tiền tệ, vốn, lao động, bất động sản.... đó chính là một trong những lý do quan trọng làm giảm tính hiệu quả của thị trường, và do vậy đã ảnh hưởng không tốt tới các hoạt động kinh doanh công nghiệp.
Nhà nước không chỉ có vai trò hoạch định ra các chính sách đúng, mà còn phải thể chế hoá nó thành pháp luật và tổ chức thực hiện nghiêm túc những pháp luật đó. Để làm được điều đó, Nhà nước phải có hệ thống giáo dục tốt không chỉ trong nhà trường, mà còn có hệ thống giáo dục tốt không chỉ trong nhà trường, mà trên tất cả các phương tiện thông tin đại chúng; phải có bộ máy tổ chức tốt không quan liêu, tham nhũng, gây phiền hà cho dân; phải có kỷ luật tốt, mọi người dân đều tuân thủ theo luật pháp. Chính phủ Việt Nam đã ban hành nhiều luật lệ thích hợp với cơ chế thị trường, tuy nhiên vẫn chưa đủ, đã có chương trình cải cách giáo dục và đổi mới hệ thống thông tin đại chúng; đã bắt đầu tiến hành cuộc cải cách hành chính và đã áp dụng những biện pháp kiên quyết chống lại những hành vi vi phạm pháp luật(như những biện pháp bảo vệ đê Yên Phụ Hà Nội bị lấn chiếm, những biện pháp về trật tự giao thông tháng 8-1995...)
Có thể đánh giá các chính sách đổi mới kinh tế mà Chính phủ Việt Nam ban hành trong những năm gần đây về căn bản là đúng đắn và phù hợp với những điều kiện cụ thể của Việt Nam, do vậy đã có tác dụng tốt đối với sự phát triển kinh tế, tạo lên những thành tựu kinh tế nổi bật được cộng đồng thế giới xác nhận. Trong những năm tới đây thực hiện công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước đòi hỏi Việt Nam sẽ phải tiếp tục hoàn thiện và đổi mới các chính sách kinh tế theo các mục tiêu trên đây.
V. Khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển.
Kinh tế tư nhân ở Việt Nam bao gồm kinh tế hộ gia đình, kinh tế cá thể, doanh nghiệp tư nhân một chủ, công ty trách nhiệm hữu hạn, các công ty cổ phần do tư nhân góp vốn.... Từ năm 1986 kinh tế tư nhân đã được mở rộng hơn. Đến năm 1991 Chiến lược kinh tế - xã hội do Đại hội
VII Đảng cộng sản việt Nam thông qua đã xác nhận: “kinh tế tư nhân được phát triển thông qua hạn chế về quy mô và địa bàn hoạt động trong các ngành nghề mà pháp luật không cấm.” Điều khẳng định này đã được thể chế hoá trong hiến pháp Việt Nam, trong luật doanh nghiệp tư nhân, Luật công ty và các nghị định chính phủ. Do có được một cơ sở pháp lý vững chắc trên đây, khu vực kinh tế tư nhân đã có được những phát triển nổi bật về số lượng, phạm vi hoạt động đa dạng. Đến năn1994 tỷ trọng của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh (chủ yếu là tư nhân) trong GDP là 98% trong nông, lâm, ngư nghiệp, 76,5% trong thương nghiệp bán lẻ, 91% trong dịch vụ, và 28% trong công nghiệp.
đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước vấn đề đặt ra đối với chính phủ Việt Nam hiện nay là nên tiếp tục đổi mới chính sách kinh tế đối với khu vực tư nhân theo hướng nào, Tôi cho rằng có những vấn đề sau đây cần được nghiên cứu giải quyết.
Trước hết cần khẳng định tính chất lâu dài của khu vực kinh tế tư nhâ và định hướng XHCN của nó, ở Việt Nam trước đây đã có những sự phân định rõ ràng hai loại thành phần kinh tế: các xí nghiệp quốc doanh và hợp tác xã là thành phần XHCN, còn kinh tế tư nhân là phi XHC. Sự phân chia giản đơn này đã dẫn đến sự đối lập giữa hai loại thành phần kinh tế, đã dẫn đến những giải pháp cưỡng chế vào hợp tác xã, soá bỏ kinh tế tư nhân. thực tế đổi mới ở Việt Nam đã cho thấy là sự phân chia giản đơn như vậy là không có lợi cho sự phát triển kinh tế. Nền kinh tế Việt Nam đang đi theo định hướng XHCN (với nghĩa là dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh. ) tất cả các thành phần kinh tế đều phải có tính đinh hướng XHCN, chứ không chỉ có kinh tế quốc doanh và hợp tác xã. Tính định này buộc tất cả các thành phần kinh tế kêt cả quốc doanh, hợp tác xã và tư nhân phải góp phần làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Tính định hướng XHCN này quy đinh mọi thành phần kinh tế phải làm ăn hợp pháp, tăng trưởng cao và hiệu quả, đóng góp xứng đáng cho Nhà nước, đảm bảo lợi ích chính đáng cho những người lao động v.v. Dù là xí nghiệp quốc doanh nhưng hoạt động đúng trái với những nguyên tắc trên đây đều là chệch hướng XHCN. Các xí nghiệp tư nhân đều hoạt động theo đúng các nguyên tắc trên đây, chúng đã được định hướng theo XHCN. Đó là những nguyên tắc sẽ có ý nghĩa lâu dài không phải chỉ trong một vài thập kỷ, mà có thể cả thế kỷ. Do vậy, khu vực kinh tế tư nhân hoạt động theo những nguyên tắc trên cũng sẽ thực sự có vai trò lâu dài, việc khẳng định tính chất lâu dài và định hướng XHCN. Của khu vực kinh tế tư nhân có ý nghĩa rất quan trọng, vì chỉ có như vậy các doanh nghiệp tư nhân mới yên tâm thực sự làm ăn và không bị mặc cảm về chính trị.
Thứ hai, Nhà nước phải hợp tác và hỗ chợ cho khu vực kinh tế tư nhân, chính sách hợp tác và hỗ trợ cho kinh tế tư nhân của Nhà nước phải thêt hiện trên những mặt sau đây:
- Các chính sách kinh tế của Nhà nước trước khi ban hành cần có sự tham khảo ý kiến của các nhà doanh nghiệp tư nhân là những người phaỉ thực hiện các chính sách đó và chịu sự tác động của các chính sách đó. Sự tham khảo ý kiến này sẽ tạo ra sự đồng thuận giữa Nhà nước và các doanh nghiệp, giúp họ chuẩn bị thích ứng thuận lợi với chính sách khi được ban hành và hạn chế được mức thiệt hại cho lợi ích của họ và xã hội.
- Nhà Nước phải hỗ chợ họ về tài chính, đầu tư, đào tạo cán bộ quản lý kỹ thuật, công nhân lành nghề, về thông tin kinh tế, về tạo dựng Môi trường kinh doanh thuận lợi v.v. Sự hỗ trợ ở đây không có nghĩa là bao cấp, mà là tạo điều kiện cho họ đi vay vốn, thu hút vốn đầu tư và kinh doanh v.v..
- Nhà nước phải bảo vệ quyền lợi chính đáng của các nhà kinh doanh tư nhân: bảo vệ tài sản hợp pháp của họ, bảo vệ quyền kinh doanh tự do và hợp pháp của họ v.v..
- Thứ ba, Nhà nước cần đổi mới các thủ tục hành chính gây phiền hà cho các nhà kinh doanh tư nhân, như:
- xoá bỏ các thủ tục rườm rà, phức tạp trong việc cấp giấy phép kinh doanh, giấy phép thành lập công ty, giấy phép sử dụng đất và xây cất cơ sở kinh doanh, giấy phép xuất nhập khẩu, xuất nhập cảnh v.v.. việc xoá bỏ các thủ tục rườm rà này sẽ làm giảm các chi phí cho các nhà kinh doanh mỗi khi phải đi xin phép, và do vậy giúp họ tăng lợi nhuận hợp pháp.
- Tiếp tục ban hành các luật pháp tư như: luật dân sự, luật chống độc quyền, luật thương mại vv.. tạo ra một hành lang pháp lý thuân lợi cho các nhà kinh doanh tư nhân, và do vậy cũng tạo ra một cơ sở pháp lý để xoá bỏ các thủ tục hành chính phi lý.
- Trừng trị thích đáng ngững kẻ vi phạm luật pháp, ăn hối lộ, tham nhũng, xâm phạm lợi ích hợp pháp của các nhà kinh doanh tư nhân.
Người Việt Nam nhiều năm đã quen với cơ chế kinh tế xem thường kinh tế tư nhân, đó kỵ với người giàu có. Do đó, chính sách nhà nước cần tạo ra một tư duy mới cho nhân dân – khuyến khích mọi người làm giàu hợp pháp, coi trọng các nhà kinh doanh tư nhân.
VI. khuyến khích thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chính là vốn của các nhà kinh doanh tư nhân nước ngoài, do vậy nó thuộc kinh tế tư nhân, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có thêt đã chiếm một tỷ trọng không lớn ở nhiều quốc gia kể cả các NIES châu á, tuy nhiên ở một số nước ASEAN tỷ trọng này khá cao như ở Malaysia. FDI ở bất cứ nước nào hiện nay đều đã có một vai trò quan trọng. Vai trò quan trọng này thể hiện ở chỗ nó gắn liền với công nghệ mới, các nhà kinh doanh nước ngoài vào kinh doanh ở Việt Nam phải mang vào Việt Nam những công nghệ này mới đến đâu không chỉ tuỳ thuộc ở họ, mà còn tuỳ thuộc vào những điều kiện cụ thể của Việt Nam như: cán bộ kỹ thuật và công nhân Việt Nam có đủ trí thức để sử dụng có hiệu quả không: mạng lưới dịch vụ của Việt Nam có đảm bảo được việc bảo dưỡng, sửa chữa khi cần thiết không v v.. thứ hai là các công ty nước ngoài có hiểu biết sâu sắc về thị trường thế giới hơn hẳn các công ty ở Việt Nam, do vậy họ có thêt làm tốt công việc tiếp thị tìm kiếm thị trường mới cho Việt Nam. Thứ ba, họ biết quản lý kinh doanh. Tổ chức lao động, sử dụng nguồn vốn hơn các nhà kinh doanh Việt Nam. Với ba ưu thế trên đây nguồn vốn FDI dù tỷ trọng còn chưa lớn vẫn có một tác dụng hết sức quan trọng đối với sự phát triển kinh tế Việt Nam mà nguồn vốn trong nước đã không thể có được.
Đẩy mạnh công nghiệp hoá và hiện đại hoá, vai trò của các công ty nước ngoài và nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài càng quan trọng hơn, điều đó giải thích tại sao chính phủ Việt Nam đã có những chính sách ưu đãi cho các công ty nước ngoài đầu tư vào Việt Nam tới mức mà các nhà kinh doanh Việt Nam phải gen tỵ.
Luật đầu tư nước ngoài ở Việt Nam được ban hành năm 1984 đã quy định các ưu đãi cụ thể về mức thuế lợi tức, về các hình thức đầu tư, kể cả hình thức cho phép người nước ngoài đầu tư 100% vốn, người nước ngoài được chuyển vốn và lợi nhuận ra nước ngoài v v.. những quy định trong luật đã được dư luânh quốc tế đánh giá là thông thoáng nhất trong khu vực. Từ đó đến nay chính phủ Việt Nam đã ban hành hàng chục nghị định, pháp lệnh, thông tin hướng dẫn… cụ thể hoá việc thực hiện luật đầu tư trên các lĩnh vực hình thành, thẩm định và thực thi dự án, tài chính, ngân hàng và xuất nhập khẩu: cho thuế đất, xây dựng, lao động và bảo hiểm đặt văn phòng đại diện vv..
Nhờ vậy từ năm 1991 đến nay tốc độ tăng thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đã đạt mức khá cao, bình quân hàng năm là trên 52%. Đến hết năm1994 tổng số vốn đầu tư là trực tiếp được ký kết với công ty nước ngoài đã đạt tới hơn 10 tỷ USD. Theo SCCI, đến tháng 8/1995 số vốn này sẽ tăng lên 16,4 tỷ USD, trong đó đã có hơn 30% số vốn được thực hiện. Các lĩnh vực được các công ty ở nước ngoài chú ý đầu tư là : công nghiệp chiếm 41%, du kịch và dịch vụ chiếm 26,6%, dầu khí 12%. Các hình thức đầu tư chủ yếu là: xí nghiệp liên doanh chiếm 70,6%, vốn đầu tư, xí nghiệp đầu tư 100%, vốn nước ngoài chiếm 12%, hình thức đồng hợp hợp tác kinh doanh chiếm hơn 15% các doanh nghiệp nhà nước hiện là những cơ sở chính thực hiện các dự án đầu tư với nước ngoài, 98% số dự án thuộc xí nghiệp này. Hồng Kông, Đài Loan, Nhật Bản và australia đã chiếm tới 50% tổng vốn đầu tư, Đài Loan đứng vị trí số một. Trong năm 1995. Nhật Bản đang vươn lên vị trí số 1. Trong điều kiện Việt Nam đang ở trong thời kỳ chuyển đổi sang kinh tế thị trường, khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài đã được hình thành và mở rộng như trên có thể xem là một cố gắng rất lớn của chính phủ Việt Nam. Nhưng so với nhu cầu của công cuộc công nghiệp hoá và hiện đại hoá, thì quy mô, mức độ tăng trưởng và những đóng góp hiện nay của khu vực này vẫn còn là nhỏ và có nhiều vấn đề cần được nghiên cứu xem xét. Các vấn đề này có liên quan đến cả chính phủ Việt Nam cũng như các công ty nước ngoài, các nhà đầu tư nước ngoài thường hay phàn nàn về cơ sở hạ tầng kinh tế – xã hội lạc hậu của Việt Nam, về hệ thống luật pháp của Việt Nam chưa đủ, về các thủ tục hành chính khá rườm rà phức tạp, về lao động Việt Nam ít được đào tạo nghề nghiệp vv… nhưng những vấn đề trên nếu chỉ trông đợi sự cố gắng của phía Việt Nam chắc là sẽ không đủ và sẽ chậm trễ.
Chính phủ Việt Nam không thể có đủ tiền để ngay lập tức hiện đại hoá các cơ sở hạ tầng kinh tế – xã hội, ở đây cần có sự hỗ trợ của các chính phủ vác các tổ chức tài chính quốc tế. Sự hỗ trợ này cho đến nay nói là đã bắt đầu có hiệu lực, với số vốn vay ưu đãi vào khoảng 3,8 tỷ USD. Số bốn này tuy chưa nhiều nhưng có thêt giúp Việt Nam bước đầu nâng cấp một số cơ sở hạ tầng cần thiết, nhưng vấn đề đặt ra là làm thế nào sử dụng có hiệu quả số vốn đó, nghĩa là sử dụng vào những công trình, những dự án nào có thể tạo ra các điều kiện tăng nguồn thu cho chính phủ để trả nợ. Trong năm 1994 chính phủ Việt Nam mới sử dụng được 400 triệu USD trong số 3,8 tỷ USD vay ưu đãi. Để sử dụng hiệu quả hết số vốn vay đó, đương nhiên, chính phủ Việt Nam phải cố gắng nhiều hơn trong việc nghiên cứu xây dựng các dự án để sử dụng hết số vốn đó. Nhưng đồng thời các nhà tổ chức quốc tế và các chính phủ tài trợ cũng nên giúp Việt Nam bằng cách đào tạo các chuyên gia có trình độ đến giúp Việt Nam làm các dự án đó. Chỉ trong điều kiện đó, thì Việt Nam mới có thể tiếp nhận có hiệu quả ngày càng nhiều vốn vay ưu đãi để hiện hoá các cơ sở hạ tầng kinh tế – xã hội, tạo ra các điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài.
Ngay cả trong lĩnh vực có vẻ như chỉ do phía chính phủ Việt Nam quyết định đó là lĩnh vực luật pháp và thủ tục hành chính, tôi thiết nghĩ cũng cần sự hỗ trợ của các nhà đầu tư nước ngoài. Chính các nhà đầu tư nước ngoài hiểu rõ hơn ai hết những luật lệ còn thiếu, những điều luật chưa hợp lý, các thủ tục gây phiền hà… họ có thể gây kiến nghị với chính phủ Việt Nam đổi mới những luật lệ và thủ tục đó. Mặt khác, các xã hội phương Đông đã không chỉ sinh sống và hoạt động theo luật mà còn theo sự thoả thuận đôi bên, thậm chí là nhiều bên. Nững gì chưa có luật định, các bên tham gia có thể thoả thuận với nhau. Điều đó có thể giải thích Việt Nam chưa đủ các luật pháp thế mà hàng trăm công ty nước ngoài vẫn hoạt động có hiệu quả ở Việt Nam và chưa có những xu hướng đột lớn nào. Các xã hội có quá nhiều luật như Mỹ cũng có mặt tiêu cực của nó, vì phải chi phí lớn chi dịch vụ pháp lý. Và trong không ít những trường hợp những kẻ nhiều tiền dù phạm pháp vẫn không bị trừng trị .
Trong việc đào tạo tay nghề cho các lao động Việt Nam cũng vậy. Chính phủ Việt Nam có thể thực hiện phổ cập giáo dục tiểu học, và sau này có thể cả chung học, nhưng cho phí cho việc dạy nghề có thể cần được huy động từ nhiều nguồn. Những người đi học phải đóng góp, các công ty sử dụng lao động cũng phải đóng góp. Tôi cho rằng trong giai đoạn trước mắt các công ty nước ngoài nên có những đóng góp thích đáng vào việc đào tạo nghề nghiệp cho các lao động Việt Nam làm cho họ. Việc này sẽ mang lại lợi ích không chỉ cho người lao động Việt Nam, mà cả các công ty nước ngoài.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28851.doc