Đề tài Những định hướng đổi mới dạy học từ những đặc điểm của thời đại phát triển kinh tế - xã hội hiện nay

Rõ ràng là vị trí của nhà giáo trong thời đại thông tin không hề giảm, và có cơ hội tăng lên. Tuy nhiên việc có giữ vững và nâng cao được vị trí đó hay không còn tuỳ thuộc vào sự phấn đấu của bản thân từng nhà giáo để đáp ứng được yêu cầu của thời đại mới. Chúng ta có thể hy vọng, trước những cơ hội và thách thức của thời đại mới, đa số nhà giáo chúng ta sẽ không bị “ra rìa”.

docx13 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2198 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Những định hướng đổi mới dạy học từ những đặc điểm của thời đại phát triển kinh tế - xã hội hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Câu 2: Từ những đặc điểm của thời đại phát triển kinh tế - xã hội hiện nay, hãy nêu những định hướng đổi mới dạy học hiện nay? Bài làm 1. NHỮNG YÊU CẦU CỦA SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI ĐỐI VỚI GIÁO DỤC Giáo dục được thực hiện trong những hoàn cảnh kinh tế – xã hội cụ thể và phục vụ cho các mục tiêu phát triển kinh tế xã - hội. Vì thế những yêu cầu của nền kinh tế – xã hội đối với giáo dục, đối với đội ngũ lao động là những cơ sở quan trọng cho việc xác định phương hướng phát triển giáo dục. Sự phát triển kinh tế- xã hội đặt ra những yêu cầu đối với giáo dục trên nhiều phương diện. 1.1. Hội nhập quốc tế: Cơ hội hay thách thức đối với giáo dục? Bối cảnh phát triển kinh tế xã hội của đất nước và quốc tế đặt ra những yêu cầu mới cho giáo dục. Việt Nam đang ở trong giai đoạn công nghiệp hoá nền kinh tế và xã hội. Mặt khác Việt Nam đã gia nhập WTO ngày 15.11.2006 (trở thành thành viên chính thức ngày 11.01.2007), tức là đã trực tiếp tham gia tích cực vào quá trình toàn cầu hoá, hội nhập quốc tế. Điều đó có ý nghĩa là vấn đề toàn cầu hoá và những yêu cầu của nền kinh tế tri thức và xã hội tri thức cũng trực tiếp tác động đến kinh tế, xã hội cũng như thị trường lao động của Việt Nam. Tổ chức thương mại thế giới WTO (World Trade Organization) được thành lập ngày 15.04.1994, có hiệu lực từ 01.01.1995 với mục tiêu tháo gỡ những cản trở, nhằm tự do hoá thương mại quốc tế. WTO quy định những quy tắc trong quan hệ kinh tế và thương mại quốc tế. WTO là một tổ chức quốc tế góp phần quyết định trong việc mở rộng quá trình toàn cầu hoá. Như vậy gia nhập WTO là sự tham gia trực tiếp vào quá trình toàn cầu hoá, nhằm tận dụng những cơ hội và lợi ích, mặt khác cũng phải chấp nhận những thách thức của toàn cầu hoá. Khái niệm toàn cầu hoá được sử dụng lần đầu năm 1961 trong một từ điển toàn thư tiếng Anh. Từ sau 1990, với sự kết thúc chiến tranh lạnh thì quá trình toàn cầu hoá nền kinh tế phát triển nhanh chóng, khái niệm toàn cầu hoá trở thành một khái niệm được đề cập đến ngày một nhiều. Khái niệm toàn cầu hoá mô tả quá trình đa diện của sự tăng cường trao đổi, hoà nhập mang tính toàn cầu về kinh tế, văn hoá và xã hội, đặc biệt trong lĩnh vực tự do hoá thương mại quốc tế, vượt ra phạm vi quốc gia và khu vực. Gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO và toàn cầu hoá tạo ra những cơ hội lớn, đồng thời đặt ra những thách thức cho sự phát triển kinh tế, xã hội và giáo dục: • Hỗ trợ sự tăng trưởng kinh tế và sự đa dạng của hang hoá; • Thông qua trao đổi quốc tế, nhiều hàng hoá nhập khẩu trở nên tốt và rẻ hơn sản xuất tại nội địa, có lợi cho người tiêu dùng. Từ đó hình thành sự phân công lao động quốc tế; • Thông qua tăng cường cạnh tranh trong quan hệ thương mại và phân công lao động trong phạm vi quốc tế sẽ làm tăng cường sức sản xuất trên phạm vi toàn thế giới, tăng mức tăng trưởng của các bên tham gia sản xuất; • Toàn cầu hoá làm tăng tốc độ của phát triển kỹ thuật và công nghệ; • Vấn đề đói nghèo trên thế giới đã được cải thiện đáng kể trong vài chục năm gần đây; • Thông qua trao đổi văn hoá và kinh tế, con người học tập lẫn nhau và tăng cường xu hướng chung sống và cộng tác; • Thách thức cơ bản của việc gia nhập toàn cầu hoá là sự cạnh tranh quốc tế gay gắt mà chỉ có những thị trường có sức cạnh tranh cao mới có khả năng phát triển, và ngược lại sẽ bị đào thải Đối với giáo dục, toàn cầu hoá cũng đặt ra những cơ hội và thách thức lớn: + Tạo khả năng mở rộng các dịch vụ và đầu tư quốc tế trong giáo dục; + Tạo khả năng tăng cường trao đổi kinh nghiệm và khoa học giáo dục, tăng cường cộng tác quốc tế trong giáo dục và đào tạo; + Bản thân giáo dục cũng mang tính toàn cầu hoá. Dịch vụ giáo dục, mặc dù còn nhiều tranh cãi, nhưng đã trở thành dịch vụ mang tính hàng hoá trong trao đổi quốc tế nên đặt ra những thách thức đối với giáo dục và đào tạo, đặc biệt là những vấn đề về quản lý giáo dục như chủ quyền giáo dục, quản lý mục tiêu, chất lượng giáo dục, kinh tế giáo dục...; + Toàn cầu hoá giáo dục tạo ra sự cạnh tranh về chất lượng giáo dục và đào tạo; + Toàn cầu hoá đặt ra những yêu cầu mới đối với người lao động. Giáo dục cần đào tạo con người đáp ứng những đòi hỏi mới này của xã hội. Đây chính là thách thức cơ bản nhất của việc gia nhập WTO và toàn cầu hoá đối với giáo dục. Những yêu cầu mới của xã hội đối với người lao động trong điều kiện toàn cầu hoá và xã hội tri thức sẽ được trình bày rõ hơn trong phần tiếp theo. 1.2. Xã hội tri thức và giáo dục Toàn cầu hoá là kết quả của những tiến bộ của loài người về đổi mới công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin. Vì vậy khái niệm toàn cầu hoá cũng gắn liền với khái niệm nền kinh tế tri thức hay xã hội tri thức. Dưới góc độ kinh tế - xã hội, loài người hiện nay đang ở giai đoạn quá độ từ xã hội công nghiệp sang xã hội tri thức. Xã hội tri thức là một hình thái xã hội-kinh tế, trong đó tri thức trở thành yếu tố quyết định đối với nền kinh tế hiện đại bao gồm các quá trình sản xuất và quan hệ sản xuất của nó, cũng như đối với sự phát triển và các nguyên tắc tổ chức của xã hội. Khái niệm xã hội tri thức và khái niệm nền kinh tế tri thức là hai khái niệm có mối quan hệ chặt chẽ. Nền kinh tế tri thức là nền kinh tê trong đó tri thức trở thành yếu tố quyết định của lực lượng sản xuất. Khái niệm xã hội tri thức ở đây không phải chỉ một hình thái phát triển cao hơn nền kinh tế tri thức mà là một khái niệm rộng, chỉ một hình thái xã hội, trong đó nền kinh tế của nó là nền kinh tế tri thức. Khái niệm xã hội tri thức có ý nghĩa quan trọng trong giáo dục, vì khi đề cập đến xã hội tri thức thì không chỉ nhấn mạnh đến nền kinh tế mà còn đề cập đến các lĩnh vực xã hội khác, trong đó có giáo dục. Xã hội tri thức có những đặc điểm cơ bản sau: • Tri thức là yếu tố then chốt của lực lượng kiến tạo xã hội hiện đại, của lực lượng sản xuất và tăng trưởng kinh tế • Thông tin và tri thức tăng lên một cách nhanh chóng về số lượng và tốc độ, kéo theo sự lạc hậu nhanh của tri thức, công nghệ cũ; • Thay đổi tổ chức và tính chất lao động nghề nghiệp. Người lao động luôn phải thích nghi với những tri thức và công nghệ mới. Những nghề nghiệp yêu cầu đào tạo với trình độ cao ngày càng tăng; • XH tri thức là xã hội toàn cầu hoá. Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam và những tác động của xã hội tri thức và toàn cầu hoá sẽ dẫn đến sự thay đổi trong cơ cấu thị trường lao động nghề nghiệp. Xu hướng cơ bản là lao động trong lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ, đặc biệt lao động có trình độ cao sẽ tăng nhanh trong tương quan với lao động nông nghiệp. Mặt khác, thị trường lao động và nghề nghiệp cũng như cuộc sống trong điều kiện của xã hội tri thức và toàn cầu hoá cũng đặt ra những yêu cầu mới cho người lao động. Bên cạnh những năng lực chuyên môn, người lao động cần có những năng lực chung, đặc biệt là: • Năng lực hành động; • Tính tự lực và trách nhiệm; • Tính năng động và sáng tạo; • Năng lực cộng tác làm việc; • Năng lực giải quyết các vấn đề phức hợp; • Khả năng học tập suốt đời; • Khả năng sử dụng phương tiện mới, đặc biệt là công nghệ tin học; • Khả năng sử dụng ngoại ngữ trong giao tiếp và làm việc. Tóm lại: Sự phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế với những ảnh hưởng của xã hội tri thức và toàn cầu hoá tạo ra những cơ hội nhưng đồng thời đặt ra những yêu cầu mới đối với giáo dục trong việc đào tạo đội ngũ lao động. Giáo dục đứng trước một thử thách là tri thức của loài người tăng ngày càng nhanh nhưng cũng lạc hậu ngày càng nhanh. Mặt khác thị trường lao động luôn đòi hỏi ngày càng cao ở đội ngũ lao động về năng lực hành động, khả năng sáng tạo, linh hoạt, tính trách nhiệm, năng lực cộng tác làm việc, khả năng giải quyết các vấn đề phức hợp trong những tình huống thay đổi. Trong xã hội tri thức, việc phát triển kinh tế - xã hội dựa vào tri thức. Vì vậy giáo dục đóng vai trò then chốt trong việc phát triển kinh tế xã hội thông qua việc đào tạo con người, chủ thể sáng tạo và sử dụng tri thức. Việc gia nhập WTO của Việt Nam trước hết sẽ làm tăng nhu cầu của thị trường lao động đối với đội ngũ nhân lực có trình độ cao. Từ những đòi hỏi trên đây của sự phát triển kinh tế xã hội trong điều kiện toàn cầu hoá và xã hội tri thức có thể khẳng định rằng mô hình giáo dục „hàn lâm kinh viện“ đào tạo ra những con người thụ động, chạy theo bằng cấp, chú trọng việc truyền thụ những kiến thức lý thuyết xa rời thực tiễn, còn gọi là „kiến thức chết“ không còn thích hợp với những yêu cầu mới của xã hội và thị trường lao động. Giáo dục cần đổi mới để đáp ứng được những yêu cầu của sự phát triển kinh tế, xã hội và thị trường lao động. 2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ THỰC TRẠNG DẠY HỌC Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG 2.1. Những vấn đề chung về văn hoá học tập Khái niệm văn hoá học tập chỉ hệ thống toàn thể các thể chế, hoạt động, đặc điểm tâm lý và truyền thống ở một cộng đồng trong lĩnh vực giáo dục, chúng có chức năng định hướng cho những hành động của người học trong cộng đồng, truyền thụ những thái độ và nhận thức về việc học tập, được hình thành và được chia sẻ trong tập thể cộng đồng với những hệ thống và quy chế. Khái niệm văn hoá học tập bao gồm nhiều yếu tố như quan niệm về việc học, chương trình, mục tiêu, nội dung, phương pháp dạy học, động cơ học tập, đặc điểm tâm lý, truyền thống, quan hệ GV-HS trong dạy học… Đánh giá thực trạng giáo dục Việt Nam, tài liệu chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010 (2002, tr.14) đã khẳng định: “Chương trình, giáo trình, phương pháp giáo dục chậm đổi mới. Chương trình giáo dục còn nặng tính hàn lâm, kinh viện, nặng về thi cử, chưa chú trọng đến tính sáng tạo, năng lực thực hành và hướng nghiệp; chưa gắn bó chặt chẽ với thực tiễn phát triển kinh tế-xã hội cũng như nhu cầu của người học; chưa gắn bó chặt chẽ với nghiên cứu khoa học-công nghệ và triển khai ứng dụng.” Từ đó có thể nêu ra hai vấn đề lớn thuộc về văn hoá học tập trong giáo dục ở Việt Nam nói chung và giáo dục trung học nói riêng là: • Nền giáo dục mang tính “hàn lâm, kinh viện”: khái niệm tính “hàn lâm, kinh viện” chỉ một nền giáo dục định hướng vào việc truyền thụ một hệ thống tri thức được quy định sẵn dựa trên cơ sở các môn khoa học chuyên ngành, nhưng ít chú ý đến việc rèn luyện tính tích cực nhận thức, tính độc lập, sáng tạo cũng như khả năng vận dụng những tri thức đó trong thực tiễn. Trong nền giáo dục mang tính ”hàn lâm, kinh viện” thì phương pháp dạy học chủ yếu dựa trên quan điểm GV là trung tâm, trong đó người thầy đóng vai trò chính trong việc truyền thụ tri thức cho HS. PPDH chủ yếu là các phương pháp thông báo tri thức, HS tiếp thu tri thức một cách thụ động. Các PPDH phát huy tính tích cực nhận thức của HS cũng như việc rèn luyện phương pháp tự học ít được chú trọng. • Nền giáo dục “ứng thí”: việc học tập của HS mang nặng tính chất đối phó với các kỳ thi, chạy theo bằng cấp mà ít chú ý đến việc phát triển nhân cách toàn diện cũng như năng lực vận dụng kiến thức đã học trong thực tiễn. Đối với cấp THPT, vấn đề này càng nặng nề, vì tâm lý chung của HS là muốn học lên đại học, trong khi đó chỉ tiêu vào học hàng năm chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ so với tổng số HS tốt nghiệp THPT. Từ đó dẫn tới xu hướng học lệch, học tủ nhằm mục đích đối phó với các kỳ thi. Trong khi đó các kỳ thi tuyển sinh hiện nay chỉ giới hạn ở một số môn học, cũng như không thể kiểm tra toàn diện tri thức và có nhiều hạn chế trong việc kiểm tra năng lực vận dụng tri thức một cách sáng tạo trong các tình huống gắn với thực tiễn. 2.2. Các vấn đề về phương pháp dạy học Các nghiên cứu thực tiễn dạy học ở trường THPT cũng chỉ ra một số vấn đề cụ thể sau đây về mặt PPDH: • Phương pháp thuyết trình, thông báo tri thức của GV vẫn là phương pháp dạy học được sử dụng quá nhiều, dẫn đến tình trạng hạn chế hoạt động tích cực của HS; • Việc sử dụng phối hợp các PPDH cũng như sử dụng các PPDH phát huy tính tích cực, tự lực và sáng tạo còn ở mức độ hạn chế; • Việc gắn nội dung dạy học với các tình huống thực tiễn chưa được chú trọng; • Dạy học thí nghiệm, thực hành, dạy học thông qua các hoạt động thực tiễn ít được thực hiện; • Việc sử dụng phương tiện dạy học mới, công nghệ thông tin chỉ bước đầu thực hiện ở một số trường; • Việc rèn luyện khả năng vận dụng tri thức liên môn để giải quyết các chủ đề phức hợp gắn với thực tiễn chưa được chú ý đúng mức; Thực trạng trên đây dẫn đến hệ quả là thế hệ trẻ được đào tạo trong trường phổ thông mang tính thụ động cao, hạn chế khả năng sáng tạo và năng lực vận dụng tri thức đã học để giải quyết các tình huống thực tiễn cuộc sống. Điều đó có nghĩa là giáo dục chưa đáp ứng đầy đủ mục tiêu đặt ra là “giúp HS phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo…”. (Luật giáo dục, điều 27). Xuất phát từ những vấn đề thực tiễn trên đây, việc cải cách toàn diện giáo dục THPT và đổi mới PPDH là một yêu cầu cấp thiết nhằm đạt mục tiêu giáo dục phổ thông. Tóm lại: Thực trạng dạy học ở THPT có những vấn đề thuộc văn hoá học tập nói chung, và những vấn đề về PPDH: Nền giáo dục mang tính hàn lâm, kinh viện, chú trọng việc truyền thụ những tri thức khoa học chuyên môn, ít gắn với những ứng dụng thực tiễn, tâm lý học tập đối phó với thi cử còn nặng nề. Phương pháp dạy học chiếm ưu thế là các PP thông báo-tiếp nhận, GV là trung tâm của quá trình dạy học, là người truyền thụ tri thức mang tính áp đặt, hoạt động học tập của HS mang tính thụ động. Việc dạy học ít gắn với cuộc sống và hoạt động thực tiễn, vì thế hạn chế việc phát triển toàn diện, tích tích cực, sáng tạo và năng động của HS. Các vấn đề nêu trên đây là những vấn đề lớn cần khắc phục của giáo dục trong bối cảnh tăng cường hội nhập quốc tế. Cần xây dựng một văn hoá học tập mới, khắc phục nền văn hoá học tập nặng tính hàn lâm kinh viện, xa rời thực tiễn. 3. NHỮNG ĐỊNH HƯỚNG ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC HIỆN NAY 3.1. Dạy học lấy học sinh làm trung tâm Từ thập kỉ cuối cùng của thế kỷ XX, các tài liệu giáo dục ở nước ngoài và trong nước, một số văn bản của Bộ Giáo dục và Đào tạo thường nói tới việc cần thiết phải chuyển dạy học lấy giáo viên làm trung tâm sang dạy học lấy học sinh làm trung tâm. Dạy học lấy học sinh làm trung tâm còn có một số thuật ngữ tương đương như: dạy học tập trung vào người học, dạy học căn cứ vào người học, dạy học hướng vào người học… Các thuật ngữ này có chung một nội hàm là nhấn mạnh hoạt động học và vai trò của học sinh trong qúa trình dạy học, khác với cách tiếp cận truyền thống lâu nay là nhấn mạnh hoạt động dạy và vai trò của giáo viên. Lịch sử phát triển giáo dục cho thấy, trong nhà trường một thầy dạy cho một lớp đông học trò, cùng lứa tuổi và trình độ tương đối đồng đều thì giáo viên khó có điều kiện chăm lo cho từng học sinh nên đã hình thành kiểu dạy "thông báo - đồng loạt". Giáo viên quan tâm trước hết đến việc hoàn thành trách nhiệm của mình là truyền đạt cho hết nội dung quy định trong chương trình và sách giáo khoa, cố gắng làm cho mọi học sinh hiểu và nhớ những điều giáo viên giảng. Cách dạy này đẻ ra cách học tập thụ động, thiên về ghi nhớ, ít chịu suy nghĩ, cho nên đã hạn chế chất lượng, hiệu quả dạy và học, không đáp ứng yêu cầu phát triển năng động của xã hội hiện đại. Để khắc phục tình trạng này, các nhà sư phạm kêu gọi phải phát huy tính tích cực chủ động của học sinh, thực hiện "dạy học phân hóa"* quan tâm đến nhu cầu, khả năng của mỗi cá nhân học sinh trong tập thể lớp. Phương pháp dạy học tích cực, dạy học lấy học sinh làm trung tâm ra đời từ bối cảnh đó. Trên thực tế, trong qúa trình dạy học người học vừa là đối tượng của hoạt động dạy, lại vừa là chủ thể của hoạt động học. Thông qua hoạt động học, dưới sự chỉ đạo của thầy, người học phải tích cực chủ động cải biến chính mình về kiến thức, kĩ năng, thái độ, hoàn thiện nhân cách, không ai làm thay cho mình được. Vì vậy, nếu người học không tự giác chủ động, không chịu học, không có phương pháp học tốt thì hiệu quả của việc dạy sẽ rất hạn chế. Như vậy, khi đã coi trọng vị trí hoạt động và vai trò của người học thì đương nhiên phải phát huy tính tích cực chủ động của người học. Tuy nhiên, dạy học lấy học sinh làm trung tâm không phải là một phương pháp dạy học cụ thể. Đó là một tư tưởng, quan điểm giáo dục, một cách tiếp cận quá trình dạy học chi phối tất cả qúa trình dạy học về mục tiêu, nội dung, phương pháp, phương tiện, tổ chức, đánh giá… chứ không phải chỉ liên quan đến phương pháp dạy và học. 3.2. Dạy học theo thuyết phát triển năng lực a)Khái niệm Chương trình dạy học định hướng phát triển năng lực có thể coi là một tên gọi khác hay một mô hình cụ thể hoá của chương trình định hướng kết quả đầu ra, một công cụ để thực hiện giáo dục định hướng điều khiển đầu ra. Trong chương trình dạy học định hướng phát triển năng lực, mục tiêu dạy học của môn học được mô tả thông qua các nhóm năng lực. Năng lực là một thuộc tính tâm lý phức hợp, là điểm hội tụ của nhiều yếu tố như tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, kinh nghiệm, sự sẵn sàng hành động và trách nhiệm. Khái niệm năng lực gắn liền với khả năng hành động. Năng lực hành động là một loại năng lực, nhưng khi nói phát triển năng lực người ta cũng hiểu đồng thời là phát triển năng lực hành động. Năng lực là khả năng thực hiện có trách nhiệm và hiệu quả các hành động, giải quyết các nhiệm vụ, vấn đề trong những tình huống khác nhau thuộc các lĩnh vực nghề nghiệp, xã hội hay cá nhân trên cơ sở hiểu biết, kỹ năng, kỹ xảo và kinh nghiệm cũng như sự sẵn sàng hành động. Trong chương trình dạy học định hướng phát triển năng lực, khái niệm năng lực được sử dụng như sau: • Năng lực liên quan đến bình diện mục tiêu dạy học: mục tiêu dạy học của môn học được mô tả thông qua các năng lực cần hình thành; • Trong các môn học, những nội dung và hoạt động cơ bản được liên kết với nhau nhằm hình thành các năng lực; • Năng lực là sự kết hợp của tri thức, hiểu biết, khả năng, mong muốn...; • Mục tiêu hình thành năng lực định hướng cho việc lựa chọn, đánh giá mức độ quan trọng và cấu trúc hóa các nội dung và hoạt động và hoạt động dạy học về mặt phương pháp; • Năng lực mô tả việc giải quyết những nhiệm vụ trong các tình huống: ví dụ như đọc một văn bản cụ thể ...Nắm vững và vận dụng được các phép tính cơ bản ...; • Các năng lực chung cùng với các năng lực chuyên môn tạo thành cơ sở chung trong việc giáo dục và dạy học; • Mức độ đối với sự phát triển năng lực có thể được xác định trong các chuẩn: Đến một thời điểm nhất định nào đó, HS có thể, cần phải đạt được những gì? Mô hình cấu trúc năng lực trên đây có thể cụ thể hoá trong từng lĩnh vực chuyên môn, nghề nghiệp khác nhau. Mặt khác, trong mỗi lĩnh vực nghề nghiệp người ta cũng mô tả các loại năng lực khác nhau. Ví dụ năng lực của GV bao gồm những nhóm cơ bản sau: năng lực dạy học; năng lực giáo dục; năng lực đánh giá, chẩn đoán và tư vấn; năng lực phát triển nghề nghiệp và phát triển trưng học. Từ cấu trúc của khái niệm năng lực cho thấy giáo dục định hướng phát triển năng lực không chỉ nhằm mục tiêu phát triển năng lực chuyên môn bao gồm tri thức, kỹ năng chuyên môn mà còn phát triển năng lực phương pháp, năng lực xã hội và năng lực cá thể. Những năng lực này không tách rời nhau mà có mối quan hệ chặt chẽ. Năng lực hành động được hình thành trên cơ sở có sự kết hợp các năng lực này. b) Nội dung và PPDH theo quan điểm phát triển năng lực Nội dung dạy học theo quan điểm phát triển năng lực không chỉ giới hạn trong tri thức và kỹ năng chuyên môn mà gồm những nhóm nội dung nhằm phát triển các lĩnh vực năng lực: Học nội dung chuyên môn Học phương pháp - chiến lược Học giao tiếp – Xã hội Học tự trải nghiệm - đánh giá Phương pháp dạy học theo quan điểm phát triển năng lực không chỉ chú ý tích cực hoá HS về hoạt động trí tuệ mà còn chú ý rèn luyện năng lực giải quyết vấn đề gắn với những tình huống của cuộc sống và nghề nghiệp, đồng thời gắn hoạt động trí tuệ với hoạt động thực hành, thực tiễn. Tăng cường việc học tập trong nhóm, đổi mới quan hệ GV- HS theo hướng cộng táccó ý nghĩa quan trọng nhằm phát triển năng lực xã hội. Bên cạnh việc học tập những tri thức và kỹ năng riêng lẻ của các môn học chuyên môn cần bổ sung các chủ đề học tập phức hợp nhằm phát triển năng lực giải quyết các vấn đề phức hợp. Theo quan điểm phát triển năng lực, việc đánh giá kết quả học tập không lấy việc kiểm tra khả năng tái hiện kiến thức đã học làm trung tâm của việc đánh giá. Đánh giá kết quả học tập cần chú trọng khả năng vận dụng sáng tạo tri thức trong những tình huống ứng dụng khác nhau. 3.3. Dạy học tăng cường hợp tác và tương tác Trong một lớp học, trình độ kiến thức, khả năng tư duy của học sinh không đồng đều vì vậy không thể áp dụng cách dạy đồng loạt. Cách dạy này hạn chế khả năng nhận thức của học sinh. HS khá giỏi không có điều kiện để phát triển. HS yếu kém cũng không có cơ hội để vươn lên. Để phát huy tính tích cực của người học đòi hỏi phải có sự phân hóa về trình độ, cường độ, tiến độ hòan thành nhiệm vụ học tập. Cần tăng cường cá thể hoá hoạt động học tập theo nhu cầu và khả năng của mỗi học sinh. Các bài học được thiết kế thành một chuỗi nhiệm vụ phù hợp với khả năng nhận thức của từng đối tượng người học. Như vậy học tập cá thể đáp ứng được trình độ của người học, phù hợp với phong cách học của mỗi cá nhân. Qua đó người học rèn luyện ý thức tự lực, ý thức trách nhiệm với kết quả học tập của mình. Tuy vậy, lớp học là môi trường giao tiếp thầy - trò, trò - trò, tạo nên mối quan hệ hợp tác và tương tác giữa các cá nhân trong quá trình chiếm lĩnh kiến thức.Thông qua thảo luận, tranh luận trong nhóm, ý kiến mỗi cá nhân được bộc lộ và được chia sẻ. HS không chỉ có điều kiện học tập với nhau mà còn học tập lẫn nhau.Kiến thức mà người học thu được là sự đóng góp của nhiều người. Đồng thời qua học tập hợp tác, các kĩ năng giao tiếp, kĩ năng thuyết phục, kĩ năng lắng nghe tích cực, ý thức tổ chức, tinh thần tương trợ được rèn luyện và phát triển. Dạy học thông qua hợp tác nhóm tạo nên mối quan hệ hợp tác tương tác giữa trò với trò, giữa thày với trò, tạo nên sự bình đẳng trong quan hệ giữa các thành viên và tạo nên môi trường học tập an toàn. Trong môi trường đó mỗi cá nhân được phép thể hiện tối đa khả năng nhận thức và kinh nghiệm của mình một cách tự tin và thoải mái bởi cảm giác an toàn. Học tập hợp tác theo nhóm còn phát triển ở HS kỹ năng tổ chức, kỹ năng điều khiển và lãnh đạo. Thông qua đó hình thành ở HS những phẩm chất của người lao động mới. 3.4. Dạy học cá biệt hóa người học Bản thân thuật ngữ giáo dục học (pedagogico) có nguồn gốc từ tiếng Hi Lạp: paidos có nghĩa là trẻ em. Từ đầu, giáo dục học đã được hiểu là nghệ thuật dạy học, hoặc là nghệ thuật giáo dục trẻ em. Giáo dục xã hội chủ nghĩa khi nhấn mạnh mục tiêu phát triển toàn diện nhân cách của mọi học sinh theo yêu cầu của xã hội đã không quên chú ý tới tính đa dạng của nhân cách trẻ em. N.A.Menchinskaia đã viết: “Nhiệm vụ phát triển toàn diện học sinh và nâng cao hiệu quả giảng dạy chỉ có thể được giải quyết tốt đẹp với điều kiện phát hiện cả những qui luật chung của việc học tập cũng như những khác biệt cá thể.” Công tác cải tiến phương pháp giảng dạy phải được phối hợp một cách hữu cơ với việc tìm ra những phương pháp đối xử cá biệt có hiệu quả nhất. Việc phát huy tiềm năng của mỗi cá nhân học sinh không chỉ có ý nghĩa ngay trong quá trình dạy học, mà còn chuẩn bị cho các em đóng góp vào sự nghiệp xây dựng đất nước sau này. Tóm lại, trong quá trình chuyển từ kiểu dạy học truyền thống sang kiểu dạy học mới có sự thay đổi về tỉ trọng và nội dung vai trò của người dạy và người học. Dạy học lấy học sinh làm trung tâm phát huy được vai trò chủ động, tích cực và sáng tạo của học sinh, đồng thời đề cao hơn vai trò của người thầy. Ở đây, giáo viên phải có trình độ chuyên môn sâu, có trình độ sư phạm lành nghề, có đầu óc sáng tạo và nhạy cảm mới có thể đóng vai trò là người gợi mở, xúc tác, trợ giúp, hướng dẫn, động viên, cố vấn, trọng tài trong các hoạt động độc lập của học sinh, đánh thức năng lực tiềm tàng trong mỗi em, chuẩn bị cho học sinh tham gia tích cực vào phát triển cộng đồng. Đặt người học vào vị trí trung tâm của quá trình dạy học, xem cá nhân người học – với những phẩm chất và năng lực riêng của mỗi người – vừa là chủ thể, vừa là mục đích của quá trình đó, phấn đấu tiến tới cá thể hóa quá trình học tập với sự trợ giúp của các phương tiện, thiết bị hiện đại để cho tiềm năng của mỗi học sinh được phát triển tối ưu, góp phần có hiệu quả vào xây dựng cuộc sống có chất lượng cho cá nhân, gia đình và xã hội. Đó chính là cốt lõi tinh thần nhân văn trong dạy học lấy học sinh làm trung tâm. Đây là một công việc khó khăn và lâu dài, đòi hỏi sự hoạt động mạnh mẽ, có sự phối hợp đồng bộ của tất cả các cấp, ban, ngành và đội ngũ giáo viên. Giải quyết tốt vấn đề dạy học lấy học sinh làm trung tâm sẽ nâng cao được chất lượng và hiệu quả giáo dục, thúc đẩy quá trình học tập của học sinh dẫn tới giải quyết tốt vấn đề đầu ra, đáp ứng được nhu cầu cần thiết của xã hội. 3.5. Công nghệ hóa dạy học Sự bùng nổ của Công nghệ thông tin (CNTT) nói riêng và Khoa học công nghệ nói chung đang tác động mạnh mẽ vào sự phát triển của tất cả các ngành trong đời sống xã hội. Trong bối cảnh đó, nếu muốn nền giáo dục phổ thông đáp ứng được đòi hỏi cấp thiết của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nếu muốn việc dạy học theo kịp cuộc sống, chúng ta nhất thiết phải cải cách phương pháp dạy học theo hướng vận dụng CNTT và các thiết bị dạy học hiện đại phát huy mạnh mẽ tư duy sáng tạo, kỹ năng thực hành và hứng thú học tập của học sinh để nâng cao chất lượng đào tạo. Nhân loại đã từng sử dụng công nghệ và phương tiện vào việc dạy và học từ xa xưa, nhưng chưa bao giờ khoa học và công nghệ có những bước tiến phi thường như ngày nay. Ở đây chúng ta sẽ chỉ giới hạn nói về lĩnh vực CNTTTT, đặc biệt là CNTTTT mới (gọi CNTTTTM khi có tính đến mạng Internet), công nghệ phát triển nhanh nhất, tạo nên những thành tựu bất ngờ nhất, và trực tiếp khai sinh nền kinh tế tri thức. Với CNTTTTM, một cuộc cách mạng giáo dục thật sự đang và sẽ xảy ra đối với nhân loại (11). Trước hết phải nói là máy tính điện tử biến đổi và hiện đại rất nhanh: công suất và tốc độ tăng, kích thước thu nhỏ; đồng thời càng hiện đại càng dễ sử dụng, và giá thành cũng giảm xuống rất nhanh. Chính do đặc điểm của CNTTTTM và tốc độ tăng trưởng của nó mà công nghệ đó tác động to lớn và toàn diện đến xã hội loài người, và hiển nhiên cũng tác động mạnh mẽ trực tiếp đến giáo dục. Với sự tiến bộ phi thường của khoa học và công nghệ và đặc biệt của CNTTTTM, người ta đã đánh giá rằng khối lượng thông tin và tri thức đã và đang tăng theo hàm mũ (đối với các loại khoa học cơ bản tri thức tăng gấp đôi sau 5-7 năm, còn đối với các loại khoa học và công nghệ mới thì tri thức tăng gấp đôi sau 5-7 tháng!!). Với cơ hội mà CNTTTTM đưa lại, những kinh nghiệm và ý tưởng sáng tạo thật sự có giá trị của bất kỳ một cá nhân nhà giáo nào cũng dễ dàng được truyền bá rộng rãi đến số lượng người học đông hơn nhiều so với trước đây, không chỉ giới hạn trong bốn bức tường lớp học mà có thể lan rộng ra cả nước và thậm chí vượt qua mọi biên giới quốc gia, điều đó làm cho vị trí của nhà giáo thật sự được nâng lên cao hơn nhiều so với trước đây. Rõ ràng là vị trí của nhà giáo trong thời đại thông tin không hề giảm, và có cơ hội tăng lên. Tuy nhiên việc có giữ vững và nâng cao được vị trí đó hay không còn tuỳ thuộc vào sự phấn đấu của bản thân từng nhà giáo để đáp ứng được yêu cầu của thời đại mới. Chúng ta có thể hy vọng, trước những cơ hội và thách thức của thời đại mới, đa số nhà giáo chúng ta sẽ không bị “ra rìa”. Contents

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxbai tap dieu kien.docx