Đề tài Những giải pháp chủ yếu huy động và sử dụng vốn tín dụng ngân hàng để phát triển kinh tế hộ sản xuất ở huyện Thanh Trì

y cũng chính là điều kiện cần để đáp ứng điều kiện vay vốn ngân hàng. Đối với ngân hàng, tư khi chuyển sang hệ thống ngân hàng hai cấp, hạch toán kinh tế và kinh doanh độc lập, các ngân hàng phải tự tìm kiếm thị trường với mục tiêu an toàn và lợi nhuận. Thêm vào đó là Nghị định 14/CP ngày 02/03/1993 của Thủ tướng Chính phủ, thông tư 01 - TD - NH ngày 26/03/1993 của Thống đốc ngân hàng Nhà nước hướng dẫn thực hiện nghị định 14/CP về chính sách cho hộ sản xuất vay vốn để phát triển nông - lâm - ngư nghiệp. Và gần đây là quy định số 67/1999/QĐ - TTg của Thủ tướng Chính phủ, văn bản số 320/CV - NHNN 14 của Thống đốc NHNN hướng dẫn thực hiện quy định trên, văn bản số 791/NHNo - 06 của Tổng giám đốc Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam về thực hiện một số chính sách ngân hàng phục vụ phát triển nông nghiệp nông thôn. Với các văn bản trên đã mở ra một thị trường mới cho ngân hàng trong hoạt động tín dụng. Trong khi đó hộ sản xuất đã cho thấy sản xuất có hiệu quả nhưng còn thiếu vốn để mở rộng tiến hành sản xuất kinh doanh. Đứng trước tình hình đó, việc tồn tại một hình thức tín dụng ngân hàng đối với hộ sản xuất là một yếu tố phù hợp với cung cầu trên thị trường được môi trường xã hội, pháp luật cho phép.

doc86 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1134 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Những giải pháp chủ yếu huy động và sử dụng vốn tín dụng ngân hàng để phát triển kinh tế hộ sản xuất ở huyện Thanh Trì, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
các chương trình kinh tế đặc biệt là ngành chăn nuôi hướng đến năng suất và chất lượng sản phẩm. Điều này phù hợp với xu hướng phát triển theo hướng chăn nuôi của hộ sản xuất ở huyện và cung ứng vốn kịp thời, để họ có điều kiện phát triển. Tỷ trọng dư nợ trung – dài hạn liên tục tăng trong tổng dư nợ cho vay hộ sản xuất, đây là một điều kiện thuận lợi đáp ứng nhu cầu vốn của các hộ sản xuất về máy móc, thiết bị công tác phục vụ sản xuất, đầu tư chiều sâu như cải tạo vườn mua giống cây ăn quả có giá trị kinh tế cao... góp phần nâng cao giá trị sản phẩm nông nghiệp của hộ sản xuất. Ngân hàng đã xúc tiến lập thủ tục khoanh, giãn nợ. Năm 1999: Giãn nợ theo Công văn 2181 (ngày 23/9/1999) với tổng số hộ là 188 hộ bằng 1.500 triệu đồng. Xử lý rủi ro theo Công văn 238 đối với hộ sản xuất thực sự khó khăn, không còn nguồn trả nợ với tổng số hộ là 161 hộ số tiền 370 triệu đồng. Và năm 2000 đã xử lý dư nợ vay bị thiệt hại do thiên tai với số tiền hơn 251 triệu đồng. Đây là một sự quan tâm lớn của chính sách Ngân hàng đối vơí hộ sản xuất làm ăn gặp khó khăn bất khả kháng. Đối với phía hộ sản xuất với số vốn huy động được từ Ngân hàng, đã đầu tư vào đúng mục đích, đưa lại kết quả cao trong sản xuất kinh doanh, đem lại cuộc sống của hộ sản xuất ngày càng khá dả hơn, những hộ nghèo thì thoát khỏi đói nghèo, và nhiều hộ đã trở nên giàu có đem lại giá trị sản xuất của huyện ngày một gia tăng (với tốc độ tăng trưởng bình quân mỗi năm đạt 10,4% trong đó ngành Nông nghiệp bình quân mỗi năm đạt 7,4%. Và đặc biệt là tỉ lệ hộ nghèo giảm nhanh từ 1118 hộ năm 1995 chiếm tỉ lệ 2,41% đến năm 2000 chỉ còn 395 hộ chiếm 0,75%). Phát huy tính cộng đồng trách nhiệm bằng hình thức cho vay qua tổ nhóm như Hội phụ nữ, Hội nông dân đã tập trung đầu mối khách hàng, nâng cao hiệu quả quản lý, giảm khối lượng công việc cho cán bộ tín dụng và tỷ lệ an toàn vốn cao. Đến nay Ngân hàng đã xây dựng và cho vay 194 tổ với số thành viên trong tổ 4.231 thành viên trong tất cả 25 xã của huyện. 1.2. Nguyên nhân: Nguyên nhân để đạt được những kết quả trên bên cạnh những chủ trương, chính sách đúng đắn của Chính phủ, Ngân hàng No Việt Nam, còn có sự cố gắng của bản thân Ngân hàng No Thanh Trì với chính sách biện pháp của Ngân hàng. Ngân hàng đã xác định đối tượng khách hàng phục vụ chính là hộ sản xuất, nhờ đó Ngân hàng đã khai thác được tiềm năng to lớn của thị trường này và không ngừng phát triển tạo được cơ sở vững chắc. Mở rộng tín dụng luôn lấy hiệu quả làm thước đo, hiệu quả thể hiện qua việc cho vay có trọng điểm, theo nhu cầu được tính toán chặt chẽ của khách hàng cụ thể là phải kiểm tra chặt chẽ trước khi cho vay, trong quá trình sử dụng vốn vay, khả năng và hình thức hoàn trả, các vấn đề khác liên quan đến người vay.Việc thẩm định và quyết định cho vay được thực hiện bởi hai bộ phận khác nhau, độc lập với nhau từ khi tiếp nhận dự án đến khi phê duyệt cho vay. Củng cố mạng lưới Ngân hàng nhất là Ngân hàng cấp 4 để tiếp cận gần dân. Coi trọng xây dựng mối quan hệ chặt chẽ giữa Ngân hàng với các cấp chính quyền địa phương, nắm vững tình hình phát triển kinh tế địa phương để xác định hướng cho vay, biện pháp tháo gỡ với những món vay gặp khó khăn Ngân hàng đã phối hợp với đoàn thể, quần chúng để xây dựng tổ nhóm, thực hiện cho vay qua tổ nhóm tạo thuận lợi cho hộ sản xuất đặc biệt là hộ nghèo. Bên cạnh đó là sự ý thức được của hộ sản xuất vay vốn , biết vay để làm gì và đầu tư đúng mục đích và có hiệu quả. Một phần huyện Thanh Trì là huyện giáp ranh với Thủ đô nên có điều kiện và trình độ dân trí cao, nên ý thức được mục đích vay vốn của họ. 2. Những mặt còn tồn tại: 2.1. Tồn tại. - Tốc độ tăng trưởng dư nợ hộ sản xuất mấy năm qua đạt ở mức thấp chưa tương ứng với tiềm năng yêu cầu của cộng đồng. - Doanh số cho vay hộ sản xuất mấy năm qua chững lại chưa đáp ứng được nhu cầu vay vốn của hộ sản xuất là bao nhiêu. Ví dụ như năm 1996 mức nhu cầu vay vốn ước là 62.027 triệu đồng nhưng doanh số cho vay chỉ đạt 51.388 triệu đồng với 4.925 lượt hộ, năm 1997 ước nhu cầu vay vốn là 52.950 triệu đồng thực tế cho vay là 30.715 triệu đồng, năm 1998 nhu cầu vay vốn là 50.870 triệu đồng nhưng doanh số vay thực tế chỉ đạt 38.498 triệu đồng nhưng doanh số vốn vay thực tế là 35.984 triệu đồng với 4.500 lượt hộ. Nhìn chung là nguồn vốn cung ứng còn thấp. Các hộ sản xuất có nhu cầu vay lớn hơn 10 triệu đồng gặp khó khăn. - Nguồn vốn trung – dài hạn còn chiếm tỷ lệ quá thấp so với tổng doang số vốn vay đây là điều gây trở ngại cho ngững hộ sản xuất muốn đầu tư vào những dự án lớn sản xuất với chu kỳ dài hạn. - Tỷ lệ dư nợ quá hạn còn chiếm tỉ lệ cao trung bình mỗi năm 11,7% tổng dư nợ quá hạn/ tổng dư nợ cho vay. Trong đó nợ quá hạn trên 12 tháng và nợ khó đòi chiếm tỷ trọng cao, trung bình mỗi năm chiếm gần 50,7% trong tổng số dư nợ quá hạn. - Nợ quá hạn còn gây ách tắc cho đầu tư vốn, xử lý tài sản thế chấp đối với nợ quá hạn còn gặp nhiều khó khăn, thiếu hướng dẫn cụ thể nên chưa thiết thực tháo gỡ cho nông dân. Chưa mạnh dạn đầu tư cho hộ sản xuất có nợ quá hạn sản xuất . - Cho vay qua tổ chức xã hội, đoàn thể còn hạn chế. - Cho vay cầm cố chưa có kho tàng để chứa vật cầm, chưa có cán bộ giám định chuyên trách. - Cán bộ điều tra còn sơ sài, quản lý còn lỏng lẻo để hộ sản xuất sử dụng sai mục đích. - Hiệu quả vốn vay hộ sản xuất đối với phát triển kinh tế của huyện thể hiện qua tốc độ tăng trưởng kinh tế còn thấp. Tốc độ tăng trưởng của ngành Nông nghiệp bình quân mỗi năm chỉ đạt 7,4%, trình độ trang bị cơ sở vật chất kĩ thuật của nền kinh tế địa phương còn thấp kém, lạc hậu, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế diễn ra chậm. Kinh tế hộ sản xuất chưa phát triển như tiềm năng của huyện, thể hiện ở mức sống dân cư còn thấp. Hiện nay vốn đầu tư của Ngân hàng chủ yếu tập trung vào nông nghiệp. Tỷ trọng cho vay ngành này xấp xỉ 59% trong tổng doanh số cho vay hộ sản xuất, trong khi đó vốn đầu tư cho ngành công nghiệp – TTCN vẫn ở mức thấp, trung bình khoảng gần 7% năm. khối lượng tín dụng chưa đáp ứng được yêu cầu của ngành này, ngành đóng vai trò quan trọng trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá Nông nghiệp nông thôn. 2.2. Nguyên nhân. * Nguyên nhân chủ quan. Cho vay hộ sản xuất với số lượng khách hàng đông, hồ sơ cho vay quản lý nhiều, địa bàn nhiều vùng đi lại khó khăn nên một số cán bộ thẩm định cho vay sơ sài, thiếu chặt chẽ, thiếu kiểm tra chặt chẽ, thiếu kiểm tra thực tế, số khác lại quá thận trọng và chặt chẽ làm mất đi nhiều cơ hội kinh doanh có lợi cho Ngân hàng, cũng như sản xuất của hộ sản xuất. Mặt khác, cơ chế giải ngân thu nợ trực tiếp cũng là nguyên nhân gây quá tải đối với cán bộ tín dụng. Cán bộ tín dụng chưa được chuyên môn hoá phù hợp với từng loại hình sản xuất cụ thể. Vai trò quan trọng của người cán bộ tín dụng cần phải thực hiện ở chỗ là người trực tiếp với hộ sản xuất. Cán bộ tín dụng chưa giám sát thường xuyên đồng vốn bỏ ra của Ngân hàng từ khi cho vay đến khi thu hồi. Vì vậy ở đây một nguyên nhân gây ra nợ quá hạn là sự hiểu biết của cán bộ tín dụng về kĩ thuật và những vấn đề liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh, về cây trồng vật nuôi còn hạn chế. * Nguyên nhân khách quan. Môi trường kinh doanh chưa ổn định: nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường mới được một thời gian ngắn, nhiều hộ sản xuất không bắt kịp những thay đổi của thị trường nhất là về chất lượng, chủng loại, giá cả sản phẩm hàng hoá. Đa số hộ sản xuất bị hạn chế về năng lực sản xuất kinh doanh, trình độ quản lý và kĩ thuật sản xuất thủ công lạc hậu, việc tích luỹ ban đầu rất nhỏ nên trong điều kiện cạnh tranh gay gắt trên thị trường, giá bán nông sản chững và hạ, cũng có thời điểm hạ hơn cầu nên khó tiêu thụ sản phẩm, bởi khách hàng vẫn còn ý nghĩ ngại sản phẩm Nông nghiệp của huyện ảnh hưởng những độc tố chất thải của những nhà máy công nghiệp từ Hà Nội thải về nên giá cả rất thấp so với những mặt hàng ở nơi khác nhất là như cá, rau xanh, v.v... Trên địa bàn huyện chưa có các cơ sở chế biến nông sản, thực phẩm chưa có đầu ra ổn định nên chưa khuyến khích sản xuất hàng hoá trong Nông nghiệp phát triển sản phẩm thời vụ bị thua thiệt. Một nguyên nhân khách quan khác là do những hạn chế như trình độ dân trí thấp, thiếu những kĩ năng, kĩ thuật và kinh nghiệm sản xuất nên có rất nhiều hộ sản xuất không biết nên sản xuất cái gì, nuôi con nào, trồng cây gì và sản xuất như thế nào vì vậy mà tiền vay không được sử dụng đúng mục đích, khả năng khách hàng không trả được nợ của ngân hàng. Trong những năm gần đây do ảnh hưởng của tài chính tiền tệ khu vực cũng gây nhiều bất lợi cho nền kinh tế nước ta và cũng có tác động trực tiếp trên địa bàn huyện, ngoại tệ mạnh có lúc đột biến bất thường tình hình sản xuất đình đốn khó khăn. Thiên tai, úng ngập, dịch bệnh xảy ra liên tục trong những năm gần đây thiệt hại mùa màng và kết quả sản xuất rất lớn, nhiều hộ sản xuất bị thiệt hại 100% số vốn đầu tư. Đặc biệt trong năm 1997 bị thiệt hại 12.895 triệu đồng và bị ngập úng 339,4 ha. Cá bị tràn bờ, hoa màu, cây cảnh bị thiệt hại gây ra dịch bệnh. Tệ nạn xã hội còn phổ biến như nghiện hút, cờ bạc, số đề, rượu chè nợ dây dưa.. nạn tảo hôn, sinh con nhiều gây không ít khó khăn cho sản xuất, xã hội.. Điều kiện tín dụng chưa đầy đủ, số hộ sản xuất được cấp giấy chứng nhận sử dụng đất ở và đất canh tác còn ít, toàn huyện mới được cấp khoảng 40%. Tài sản thế chấp ở khu vực nông thôn vừa không đủ các điều kiện như không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho nên khó xử lý. Chương III phương hướng và giải pháp chủ yếu huy động và sử dụng vốn tín dụng ngân hàng để phát triển kinh tế hộ sản xuất ở huyện Thanh Trì I. phương hướng chung về huy động và sử dụng vốn tín dụng ngân hàng để phát triển kinh tế hộ sản xuất ở huyện Thanh Trì. 1. Phương hướng phát triển kinh tế huyện Thanh Trì. Cơ cấu kinh tế của huyện Thanh Trì trong giai đoạn từ năm 2001 - 2005, chuyển dịch theo hướng giảm dần tỷ trọng nông nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp - thương mại - dịch vụ. Trong nông nghiệp tăng tỷ trọng chăn nuôi. Phương án đề ra là tốc độ tăng trưởng kinh tế huyện bình quân mỗi năm là 11%. Trong đó: - Nông nghiệp tăng 5,5%. - Công nghiệp tăng 15,5%. - Thương mại - dịch vụ tăng 17,5%. Cơ cấu nông nghiệp là 41%, công nghiệp 40%, thương mại - dịch vụ là 19%. Trong đó đề ra một số chỉ tiêu chủ yếu sau (phấn đấu năm 2005). + Sản lượng lương thực quy thóc: 27.000 tấn. + Tổng đàn lợn trên 2 tháng tuổi: 42.000 con. + Tổng đàn trâu bò: 2.000 con + Đàn gia cầm: 250.000 con + Sản lượng cá: 4.000 tấn + Sản lượng rau: 40.000 tấn Mở rộng diện tích trồng rau sạch lên: 50 ha. Tăng diện tích cây ăn quả: 50 ha. - Tiếp tục chuyển 250 ha chân ruộng trũng sang 1 vụ lúa 1 vụ cá. Xây dựng mô hình vườn cây ăn quả. Định hướng cụ thể là: + Phát triển nông nghiệp nông thôn theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá, đồng thời tiến hành đồng bộ các yếu tố cơ bản sau: Vật liệu sản xuất nông nghiệp: Thông qua thành tựu và tác động của công nghệ sinh học, hoá học tạo ra giống mới có năng suất, sản lượng cao. Đổi mới động lực, công cụ sản xuất nông nghiệp: tập trung chủ yếu vào những ngành và công đoạn có nhu cầu cấp thiết mà lao động thủ công làm không có hiệu quả như bơm nước bảo vệ thực vật, làm đất, chế biến, bảo quản, vận chuyển. Trước hết vào những vùng nông nghiệp tập trung, thâm canh sản xuất nhiều nông sản cho nhu cầu xuất khẩu. Phát triển mạnh mẽ các ngành nghề nông nghiệp nông thôn - công nghiệp nông thôn được xác định bắt đầu bằng các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp được hình thành và tồn tại trong làng xã chuyên làm nông nghiệp với vị trí là nghề phụ trong các làng nghề truyền thống. Khuyến khích các thành phần mở ra nhiều loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh đa dạng. Cải tạo, xây dựng phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội ở nông thôn, xây dựng các công trình thuỷ lợi phục vụ tưới tiêu. 2. Phương hướng hoạt động cho vay hộ sản xuất ở NHNo & PTNT huyện Thanh Trì. Để thực hiện hướng đầu tư và chính sách tín dụng ngân hàng để phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thông do Chính phủ đề ra, đồng thời căn cứ định hướng của Thống đốc Ngân hàng nông nghiệp, NHNo & PTNT Việt Nam đưa ra định hướng: Tăng cường năng lực tài chính, nâng cao năng lực quản lý điều hành, tăng cường quyền tự chủ kinh doanh và tự chịu trách nhiệm để thực hiện tốt vai trò chủ lực và chủ đạo trong hệ thống tín dụng nông nghiệp, nông thôn và nâng cao chất lượng kinh doanh, giảm tối thiểu rủi ro tín dụng, đa dạng hoá và hiện đại hoá các hoạt động dịch vụ ngân hàng. Đồng thời NHNo & PTNT Việt Nam cho vay các đối tượng chủ yếu sau: - Ưu tiên cho cây trồng, vật nuôi theo hướng sản phẩm hàng hoá, vùng chuyên canh tập trung. Đối với ngành tiểu thủ công nghiệp truyền thống cho vay theo hướng tập trung có thị trường ổn định trong và ngoài nước. - Ưu tiên những vùng sản xuất hàng hoá tập trung, vùng sinh thái môi trường đặc sản trong đó đồng bằng sông Hồng là lương thực, rau quả, chăn nuôi lợn, gà, trâu bò... Hộ sản xuất là khách lâu đời, lâu dài của ngân hàng. Cho vay hộ sản xuất lực thực hiện chiến lược phát triển kinh tế về nông nghiệp và cũng là phát triển hệ thống ngân hàng nông nghiệp nói chung NHNo & PTNT Thanh Trì nói riêng. * Thứ nhất: Bám sát mục tiêu phát triển kinh tế của địa phương, ngân hàng chủ động kịp thời nắm bắt nhu cầu đầu tư, dự án đầu tư, đối tượng đầu tư ở từng vùng, từng xã để thực hiện đầu tư có trọng điểm góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Mục tiêu phấn đấu đến năm 2001 huy động vốn 250 tỷ . Dư nợ 150 tỷ trong đó hộ sản xuất 65 tỷ Tỷ lệ cho vay trung - dài hạn: 18 - 20%/tổng DN * Thứ hai: Gắn tín dụng với đầu tư phát triển nông thôn thông qua quốc tế liên kết các thành phần kinh tế. áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, khép kín đầu tư từ sản xuất để chế biến, tiêu thụ sản phẩm và xuất khẩu. Cụ thể là: + Tập trung vốn tín dụng cho sản xuất, mua giống lúa mới có năng suất và chất lượng cao; xây dựng các công trình thuỷ lợi nội đồng; mua phân bón, hoá chất, thiết bị công tác. + Tiếp tục đầu tư vốn vay phát triển chăn nuôi theo chương trình dự án nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm. + Đầu tư khôi phục hiệu quả các ngành nghề truyền thống, mạnh dạn phát triển những ngành nghề mới nhằm tạo thêm việc làm, tăng thu nhập cho người nông dân. + Nghiên cứu đầu tư phát triển mô hình kinh tế trang trại, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, lao động, đất đai. * Thứ ba: Giảm thấp nợ quá hạn. Mục tiêu là tỷ lệ nợ quá hạn hàng là dưới 3%. II. Giải pháp huy động và sử dụng vốn tín dụng ngân hàng để phát triển kinh tế hộ sản xuất ở huyện Thanh Trì. 1. Giải pháp huy động vốn tín dụng ngân hàng. Huy động vốn để tăng trưởng đáp ứng cao nhất nhu cầu vốn cho các hộ sản xuất phát triển sản xuất nâng cao thu nhập, góp phần đổi mới thị trường nông thôn. Để thực hiện cho vay mở rộng có hiệu quả cần có giải pháp huy động vốn và phương châm của ngân hàng là “đi vay để cho vay”. Đặc biệt để thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của huyện trong những năm tới, đòi hỏi nguồn vốn rất lớn. Chính vì vậy Ngân hàng Nông nghiệp Thanh Trì luôn cần phải nhận thức đúng đắn về việc tạo lập thị trường đầu vào của mình bằng chiến lược khách hàng đúng đắn. Và điều kiện thực tế của huyện để tăng thêm nguồn vốn tín dụng cần phải tập trung vào một số vấn đều sau: 1.1. Mở rộng mạng lưới tín dụng. Khai thác mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế và của dân cư trên địa bàn huyện, phấn đấu huy động vốn để có một nền vốn ổn định vững chắc, cải tiến cơ cấu vốn hợp lý và có lãi suất đầu vào thấp. Bằng cách tăng cường tuyên truyền vận động khách hàng bổ sung cơ sở vật chất cho các bàn tiết kiệm, ngân hàng cấp 4 chấn chỉnh tác phong cán bộ, phục vụ khách hàng nhanh chóng dễ hiểu nhưng an toàn, giữ tín nhiệm. Đặc biệt là xác định vị trí vai trò của kinh tế tư nhân hộ gia đình trong huyện thông qua tỷ trọng tiền gửi của dân cư trong những năm gần đây trong tỷ trọng nguồn vốn huy động. Khuyến khích mọi thành phần kinh tế phát triển sản xuất kinh doanh vì đó chính là động lực phát triển kinh tế xã hội vì khi sản xuất kinh doanh phát triển thì nhu cầu về vốn vay sẽ tăng lên đảm bảo tương quan giữa đầu vào và đầu ra làm cho công tác tín dụng đạt hiệu quả cao. 1.2. Chính sách khách hàng. Giữ khách truyền thống lâu năm là một chiến lợc kinh doanh của ngân hàng có hiệu quả. Marketing thực thi chính sách khách hàng hấp dẫn (lãi suất, dịch vụ, phong cách, thái độ phục vụ...) để tăng thêm số lượng khách hàng số vốn kỳ hạn, gửi vốn của khách hàng đảm bảo cơ cấu hợp lý. Nắm sát diễn biến cung cầu vốn trên địa bàn áp dụng linh hoạt rộng rãi mọi hình thức, biện pháp để thích hợp để huy động vốn trong các tầng lớp dân cư. Thực hiện triệt để các giải pháp thông tin, quảng cáo lãi suất hợp lý, kỳ hạn huy động, thái độ phục vụ tận tình, công nghệ nhanh chóng để dân yên tâm gửi vốn tại ngân hàng mình. Tiềm năng nguồn vốn trong dân cư của huyện rất dồi dào, do vậy đã thu hút rất nhiều nhà chính sách cũng như cơ quan tài chính ngân hàng. Do vậy Ngân hàng nông nghiệp Thanh Trì luôn cần phải xác định đúng đắn được nguồn vốn từ tay dân cư bằng các biện pháp cụ thể với các hình thức đa dạng hoá vốn khác nhau. Các đoàn thể tổ chức trong huyện đều có vốn như Hội phụ nữ, Hội nông dân đang nằm trong tay của người phụ trách, do đó vừa gây lãnh phí vừa không an toàn, ngân hàng phải sớm khai thác nguồn vốn này. Ngân hàng Nông nghiệp huyện Thanh Trì luôn là đơn vị thừa vốn nhưng nguôn vốn để cho vay dài hạn trong nông nghiệp thì còn thiếu, do đó việc mở rộng diện tích canh tác, xây dựng chuồng trại chăn nuôi đổi mới khoa học công nghệ sản xuất sửa chữa máy móc thiết bị các phương tiện rất khó thực hiện. 1.3. Đa dạng hoá các hình thức huy động vốn. Bên cạnh việc huy động vốn ngắn hạn thì phải chú trọng đến hình thức huy động vốn trung - dài hạn nhằm đáp ứng cho nhu cầu cấp thiết của khách hàng. - Đối với huy động nguồn vốn ngắn hạn. Ngoài các hình thức huy động vốn truyền thống của NH như trên gửi tiết kiệm có kỳ hạn, không kỳ hạn, kỳ phiếu ngắn hạn các loại, tiền gửi khác... cần chú trọng việc khuyến khích mở ra và sử dụng tài khoản cá nhân, dịch vụ thanh toán chuyển tiền nhanh chóng và thuận lợi để thu hút sự đầu tư nguồn vốn nhàn rỗi vào Ngân hàng. Đặc biệt phải mở ra các hoạt động dịch vụ như: dịch vụ thu, chi tiền mặt, dịch vụ cho vay uỷ thác... nhằm tăng thu chi ngân hàng, vừa tạo nguồn nhàn rỗi kết chi thờng xuyên cho Ngân hàng. - Đối với huy động nguồn vốn trung - dài hạn. Việc huy động nguồn vốn trung - dài hạn có thể thực hiện dưới các hình thức sau: + Phát hành kỳ phiếu các loại. + Trước mắt thực hiện loại trên 1 năm, loại 2 năm khi nền kinh tế đã đi vào ổn định sẽ phát hành kỳ phiếu thời hạn dài hơn có thể là từ 3 - 5 năm. Để tạo điều kiện thuận lợi và khuyến khích mua nên phát hành phong phú các loại: kỳ phiếu ký danh có thể chuyển nhượng và không chuyển nhượng, kỳ phiếu trả lãi trước, kỳ phiếu trả lãi hàng kỳ hoặc trả lãi một lần khi đến hạn... nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của thị trường để khuyến khích người mua đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho lưu chuyển kỳ phiếu trên thị trường. + Mở ra các loại tiết kiệm có kỳ hạn trên một năm. Trước mắt nên áp dụng loại kỳ hạn 13 tháng, loại 2 năm để phù hợp với trình độ tính toán của người dân. 1.4. Mở rộng và nâng cao hiệu quả thanh toán không dùng tiền mặt để huy động vốn với lãi suất thấp. Trong công tác thanh toán không dùng tiền mặt ở các năm sau có doanh số thanh toán cao hơn năm trước, nhưng ở nghiệp vụ này đòi hỏi mở rộng hơn và nâng cao hiệu quả thanh toán không dùng tiền mặt trong thời gian tới. Làm tốt công tác này ngân hàng tiết kiệm được rất nhiều chi phí hoạt động, bảo quản tiền mặt mà còn tạo điều kiện cho việc huy động vốn của ngân hàng được nhanh chóng qua công tác thanh toán không dùng tiền mặt. Ngân hàng sẽ tạo điều kiện thật thuận lợi cho các hộ sản xuất, các đơn vị, các doanh nghiệp mở tài khoản tiền gửi tại ngân hàng. Ngân hàng sẽ sử dụng số dư tiền gửi của khách hàng để làm nguồn vốn cho vay và đảm bảo khi khách hàng có tài khoản, có yêu cầu rút tiền gửi hoặc thanh toán ngân hàng phải thực hiện kịp thời. Đây là điều kiện giúp cho ngân hàng huy động vốn với giá rẻ nhất do chênh lệch giữa lãi suất huy động và lãi suất cho vay có điều kiện cạnh tranh trên thị trường. 2. Giải pháp sử dụng vốn tín dụng ngân hàng để phát triển kinh tế hộ sản xuất. 2.1. Đối với ngân hàng cho vay hộ sản xuất. Hoàn thiện quy trình nghiệp vụ đầu tư tín dụng để phát triển kinh tế hộ sản xuất, để có chính sách cho vay vốn phù hợp với điều kiện sản xuất của từng hộ là rất quan trọng. Để làm công tác cho vay cho những năm tới thì ngân hàng phải kết hợp đồng bộ các giải pháp sau: 2.1.1. Cải tiến thủ tục vay và thời gian cho vay để hộ sản xuất tiếp cận khi thiếu vốn. Đơn giản hoá thủ tục cho vay trên cơ sở đảm bảo yêu cầu về mặt pháp lý. Hiện nay trong vấn đề về thủ tục vay vốn đối với hộ sản xuất nghiệp đang nổi lên mâu thuẫn lớn, là một chính sách mới nên việc xét duyệt làm thủ tục cho vay phải hết sức chặt chẽ thận trọng, tránh những rủi ro pháp lý xảy ra. Nhưng do trình độ dân trí nói chung của nhân dân còn thấp nên đối với họ thủ tục như hiện nay là quá nhiều giấy tờ thủ tục phức tạp và tốn nhiều thời gian trong việc đi lại làm thủ tục xin vay và giải quyết cho vay, có nhiều trường hợp làm đơn xin vay vốn nhưng do quá trình xét duyệt quá lâu và kéo dài cho đến khi vay được vốn thì dự án đầu tư vào đã trái mùa. Do vậy, nên chăng các khoản vay dưới 5 triệu đồng không cần phải lập dự án sản xuất kinh doanh để trình ngân hàng, cho nên đơn giản hoá thủ tục cho vay vốn đồng thời vẫn đảm bảo tính pháp luật chặt chẽ và đảm bảo nguyên tắc tín dụng của ngân hàng. Có đơn xin vay và khế ước vay tiền nên kết hợp vào một bản và thời gian từ khi làm thủ tục vay đến khi người vay nhận được tiền cần rút ngắn chỉ nên từ 3 đến 10 ngày để không lỡ mất cơ hội làm ăn của người dân. 2.1.2. Thực hiện cho vay không phải thế chấp. Theo quy định hiện nay (QĐ 67/QĐ - TTg tháng 3 năm 1999), những hộ vay vốn sản xuất kinh doanh dưới 10 triệu đồng thì không phải thế chấp hoặc cầm cố tài sản. Quy định này tạo điều kiện cho hộ sản xuất nhỏ, thu nhập thấp tiếp cận đến vốn tín dụng ngân hàng nhưng mặt khác cũng làm phát sinh nguy cơ có hàng ngàn món vay nhỏ bị mất an toàn. Do đó ngân hàng vẫn yêu cầu khách hàng phải khai tài sản thế chấp. Phần lớn các đơn vị các hộ sản xuất vay ngân hàng đều thế chấp tiền vay bằng bất động sản chủ yếu là nhà đất. Nhưng ở nông thôn do cơ chế bao cấp từ nhiều năm để lại, người dân chuyển nhượng nhà cửa cho nhau thậm chí không cần giấy tờ nếu có cũng là đôi bên thoả thuận, hợp tác xã chứng nhận cao hơn nữa là UBND xã xác nhận khi đối chiếu với nguyên tắc cho vay của ngân hàng đều không hợp lệ. Bởi vì tài sản thế chấp phải hợp đủ 3 yếu tố: - Có giá trị và giá trị sử dụng. - Phụ thuộc quyền sở hữu của ngời vay. - Có khả năng bán, chuyển nhượng dễ dàng. Việc thế chấp tài sản ở các hộ vay vốn còn mang tính hình thức. Bởi vì đa số các tài sản mà hộ có thể đưa ra làm vật thế chấp là nhà cửa, vườn tược khi họ không trả được nợ nếu như ngân hàng thực hiện phát mại tài sản sẽ gặp phải những khó khăn về mặt tâm lý. Đó là, do nhà cửa, ruộng vườn của các hộ sản xuất gắn liền với gia tộc, anh em họ hàng , nên khó có thể mua bán trao đổi dễ dàng được. Người dân chỉ có ngôi nhà và mảnh vườn là chỗ nương thân duy nhất, khi phát mại tài sản thế chấp của người dân về mặt lý ngân hàng đúng nhưng về tình thì đẩy người dân đến chỗ cùng đường là không có chỗ nương thân. Do đó để đảm bảo độ an toàn vốn cho ngân hàng, hạn chế rủi ro và ràng buộc trách nhiệm của người vay vốn thì việc: Đề nghị UBND Huyện Thanh Trì cũng như UBND xã nhanh chóng hoàn chỉnh nốt giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên địa bàn. Đề nghị các cấp chính quyền và các cơ quan pháp luật ủng hộ và trợ giúp ngân hàng khâu phát mại tài sản thế chấp của hộ vay vốn khi ngân hàng đề xuất phát maị. Để giải quyết vấn đề này, về phía ngân hàng cần thực hiện một số giải pháp nữa là: - Ngân hàng nên bỏ thông lệ yêu cầu người vay kê khai tài sản và coi tài sản kê khai là tài sản thế chấp. Danh sách tài sản nên được sử dụng là thông tin cần thiết cho cán bộ tín dụng và chỉ được sử dụng trong quá trình thẩm định món vay, đồng thời khẳng định tính nghiêm túc của mục đích vay vốn. - Để giải quyết vấn đề tài sản thế chấp của người xin vay và không bỏ lỡ cơ hội thiết lập quan hệ tín dụng với các hộ có tiềm năng, cán bộ tín dụng có thể tham khảo phương pháp cho điểm tín dụng: Phương pháp này nhằm xác định rủi ro tín dụng theo những khía cạnh đánh giá khác nhau. Phương pháp này sử dụng ba tiêu thức cơ bản về người vay để đánh giá là: Tư cách, năng lực, vốn (hay khả năng tài chính). 2.1.3. Tăng cường tiếp cận đến từng hộ sản xuất. Việc xây dựng và củng cố mạng lới ngân hàng cơ sở rộng khắp với nhiều điểm giao dịch, (ngân hàng cấp 4) là điều kiện thuận lợi giúp ngân hàng tiếp xúc gần hơn đến hộ sản xuất nhưng chưa đủ để khách hàng nhỏ đến với ngân hàng. Trước hết là ngân hàng và nông dân chưa hiểu đầy đủ về nhau để có niềm tin một cách trách nhiệm, thiếu thông tin cả lý luận và thực tiễn. Ngân hàng thì lo ngại cho nông dân vay vốn, mất vốn dẫn đến phải phá sản. Còn nông dân thì hiểu ngân hàng không đầy đủ, không thấy được trách nhiệm nặng nề của ngân hàng vừa phải tìm cách huy động vốn để đủ nguồn cho vay, vừa phải cho vay số vốn đã huy động không để tồn động và phải đòi được nợ từ người vay, làm nghĩa vụ với nhà nước và giải quyết đời sống, việc làm cho bộ máy cán bộ công nhân viên. Vì không hiểu được đầy đủ ngân hàng nên một bộ phận người dân đòi hỏi ngân hàng phải đáp ứng những nhu cầu nhiều khi hoàn toàn cá nhân chỉ có lợi cho mình. Ví dụ: “lãi suất càng thấp càng tốt, trong khi ngân hàng chỉ có ít cán bộ tín dụng, nông dân vay những món quá nhỏ, địa bàn quản lý rộng phải mất nhiều người tham gia... chi phí quản lý lớn”. Hoặc mong “vay dài hạn, món vay lớn, thủ tục gọn...” trong khi cơ chế, chính sách của Nhà nước chưa đủ, chưa đồng bộ. Người dân còn nhiều mặc cảm vì chưa hiểu đầy đủ ngân hàng, nhiều biểu hiện kỳ thị ngân hàng do còn ảnh hưởng tư tưởng của thời bao cấp. Để tháo gỡ những vướng mắc này, thì ngân hàng thực sự coi trọng công tác tuyên truyền, giáo dục, thông tin sâu sát thực tế phục vụ nông dân, coi nông dân là thị trường lớn, nông dân là “thượng đế”, cần chuyển tải thông tin về ngân hàng đến người dân sâu, rộng, nhanh, đầy đủ và thống nhất hơn để dân dễ hiểu và tin ngân hàng, ngân hàng hấp dẫn và thu hút được hộ sản xuất. Huy động tổng lực các tổ chức và cá nhân tham gia làm công tác giáo dục tuyên truyền vận động. Tổ chức ngân hàng gắn bó với cấp uỷ, chính quyền địa phương xin chủ trương chỉ đạo quản lý, đặc biệt coi trọng việc phối hợp với các đoàn thể quần chúng ở nông thôn có kế hoạch và thực hiện công tác tuyên truyền vận động. Một mặt khác nữa là đại bộ phận người dân “có vay có trả” rất lo lắng việc trả nợ khi đã đi vay, cho nên khi cầm đồng vốn vay của ngân hàng đều lo ngại nhất là làm sao để sản xuất kinh doanh có hiệu quả: Làm gì? Làm như thế nào? Bán cho ai, ở đâu?... Nhưng nhiều việc tự họ không thể làm gì được như không có kiến thức khoa học kỹ thuật mới; không tự tạo được thị trường tiêu thụ lớn... Vì vậy, sau khi đã cho vay vốn, trên cơ sở các dự án sản xuất kinh doanh khả thi ngân hàng cần phối hợp với các ngành kinh tế, với các doanh nghiệp tạo nguồn vốn để dạy nghề cho nông dân, chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ. 2.1.4. Mở rộng diện bảo hiểm trong nông nghiệp phòng ngừa rủi ro trong hoạt động cho vay hộ sản xuất. Để góp phần ổn định đời sống nhân dân phát triển sản xuất và hạn chế rủi ro vốn tín dụng cho vay sản xuất nông nghiệp cần mở rộng mà nông nghiệp là một ngành gặp nhiều rủi ro do thiên thai hàng năm đem lại, ngược lại nguồn lợi nhuận ở ngành nông nghiệp lại không cao. Đồng thời tạo điều kiện ổn định ngân sách tránh các trường hợp bị động trong việc cứu tế trợ giúp. Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam cần triển khai bảo hiểm trong nông nghiệp, vì vậy để tạo điều kiện cho Ngân hàng Nông nghiệp mở rộng thị trường tín dụng nông nghiệp thì các vùng các hộ sản xuất nhất là hộ nông dân nghèo cần có những giải pháp này. Nhà nước cần ban hành quỹ bảo hiểm trong rủi ro tiền vay tới sản xuất nông nghiệp. Quỹ này lấy từ ngân sách do Bộ tài chính quản lý hoặc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quản lý lấy nguồn từ các khoản thuế thu từ các hoạt động kinh doanh tiền tệ của Ngân hàng Nông nghiệp hoặc các nguồn thu khác như thuế tài trợ của nước ngoài. Miễn giảm lãi suất vốn cho hộ sản xuất ở những vùng thiên tai khi mà sản xuất nông nghiệp bị thiệt hại từ 40% sản lượng trở nên. Quỹ này nhằm bù đắp lãi suất giảm đó cho Nhà nước. Bù đắp của hộ không còn khả năng trả nợ khi thiên tai quá lớn (nhà để tài sản thiệt hại nặng, mất mùa...). 2.1.5. Tăng lượng vốn cho vay đối với hộ sản xuất. Vốn tín dụng ngân hàng là một nguồn vốn vô cùng quan trọng và cấp thiết để cung cấp cho hộ sản xuất nhằm phát triển kinh tế - xã hội. Để thực hiện định hướng phát triển kinh tế của huyện thì phải có nguồn vốn đầu tư lớn. Việc tăng khối lượng vốn tín dụng ngân hàng là một trong những giải pháp tích cực nhằm góp phần phát triển kinh tế hộ sản xuất nói riêng và kinh tế nông thôn của huyện Thanh Trì nói riêng. Việc tăng khối lượng vốn tín dụng cần thực hiện theo phương pháp tăng dần hàng năm trên cơ sở nâng cao chất lượng đầu tư vốn, cách thức đầu tư... để vốn tín dụng cung cấp được sử dụng một cách hiệu quả nhất nhằm đảm bảo nhu cầu vốn cho phát triển kinh tế hộ sản xuất. * Với mức cho vay: Đối với những hộ nghèo mà nhu cầu vay vốn dưới 1 triệu đồng nên quy định cho phép ngân hàng đầu tư 100% nhu cầu vốn tự có về chi phí sản xuất, những hộ nghèo vốn của họ chủ yếu là quyền sử dụng đất, sức lao động của bản thân và kinh nghiệm trong cuộc sống của họ, đa số họ thường xuyên thiếu vốn, thiếu ăn nên không có vốn đầu tư cho sản xuất họ rất cần đến đầu tư tín dụng để có vốn phục vụ sản xuất cho nên đối với các hộ nghèo cụ thể là các hộ vay không quá 1 triệu đồng thì nên qui định cho phép ngân hàng cho vay 100% nhu cầu vốn. * Tăng mức đầu tư cho một hộ. Khi các hộ vay vốn đã qua một vụ sản xuất đã quen dần với cách tính toán làm ăn, vay trả thì nhu cầu vốn để sản xuất kinh doanh phải tăng lên. Thực trạng ở Ngân hàng Nông nghiệp Thanh Trì các hộ sản xuất vay lẻ tẻ 1 - 2 triệu đồng rất nhiều. Nếu bất cứ cho vay với mức thấp thì sẽ không đảm bảo cho phát triển sản xuất lớn, chỉ để sản xuất tự cung cấp tự cấp, không vươn lên sản xuất hàng hoá được. Vì vậy nên tuỳ nơi, tuỳ khả năng nguồn vốn, tuỳ nhu cầu và hiệu quả của đối tượng vay vốn mà quy định cho mức vay hợp lý. 2.1.6. Cho vay tập trung có trọng tâm, trọng điểm đầu tư theo dự án. Không phải tất cả các hộ ở vùng nông thôn đều có khả năng tính toán phương án cho sản xuất kinh doanh, nếu có thì mỗi hộ cũng ở phạm vi và trình độ khác nhau cho nên việc cho vay dàn đều sẽ tạo ra hiệu qủa thấp vì hộ cần vốn đầu tư vốn thực sự cho sản xuất kinh doanh thì thiếu vốn trong khi những hộ không có phương án sản xuất, không biết tính toán, sử dụng vốn bừa bãi gây lãng phí và không đảm bảo khả năng trả nợ. Hơn nữa tập trung vốn vào các vùng có trọng điểm đầu tư theo dự án sẽ thúc đẩy sử dụng được nhanh, chuyển đổi cơ cấu kinh tế hộ sản xuất mà còn phát huy được hiệu qủa của vốn . Tập trung vốn cho các đối tượng đầu tư có hiệu quả các nghành nghề truyền thống, mũi nhọn của huyện như phát triển rau thực phẩm có giá trị cao, phát triển chăn nuôi lợn, thả cá... Cùng với việc chọn các đối tượng đầu tư có hiệu quả, tập trung vào các vùng kinh tế phát triển hoặc các vùng kinh tế có khả năng phát triển kinh tế hơn. Cụ thể đối với huyện Thanh trì có các vùng trọng điểm như: Vùng chuyên canh lúa gồm 6 xã đó là: xã Hữu Hoà, Tả thanh Oai, Đại áng, Vĩnh Quỳnh, Ngọc Hồi, Liên Ninh. Để hỗ trợ đủ vốn mua vật tư để phục vụ sản xuất ngân hàng đã tiến hành cho vay hỗ trợ đầu tư cho vùng này một số vốn đáp ứng phần nào chi phí. Trong những năm tới ngân hàng cần đầu tư hơn nữa vào vùng này để phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu lương thực và tăng thu nhập cho bà con nông dân. Đầu tư cho vùng chăn nuôi: chăn nuôi ở gia đình là một thế mạnh của huyện. Trong đầu tư chăn nuôi ngân hàng đầu tư thêm một số xã như: Vĩnh Quỳnh, Tứ hiệp, Ngọc Hồi, Tả Thanh Oai Ngoài chăn nuôi lợn ở các xã như Liên Ninh, Tả Thanh Oai. Ngọc Hồi còn nuôi vịt đẻ, thịt gà công nghiệp nuôi bò sữa ở xã Thanh trì, Yên Sở, Trần Phú. Từ chăn nuôi đã mang lại thu nhập cao cho người lao động đồng thời tạo công ăn việc làm. Do đó ngân hàng cần chú trọng cho vay vốn nhiều hơn đối với vùng chăn nuôi của huyện. Đầu tư nuôi thả cá : Cá là nguồn lợi, là thế mạnh phát huy ở huỵện ở huyện Thanh Trì với tổng diện tích mặt nước nuôi thả là hơn 955 ha đạt sản lượng 3.700 tấn (năm 2000) tập trung chủ yếu ở các xã như Tứ Hiệp ,Yên Sở, Trần Phú, Định Công, Tam Hiệp, Hoàng Liệt... Tuy nhiên, khả năng về nuôi cá của huyện chưa được phát huy mạnh so với điều kiện thuận lợi của huyện. Một trong những nguyên nhân tồn tại hiện nay là do nhu cầu về vốn để đầu tư chiều sâu chưa được đáp ứng, đồng thời một số chương trình nuôi thuỷ sản so thiếu vốn nên triển khai chậm. Vì vậy ngân hàng nên đầu tư vốn với thời gian cho vay trung và dài hạn nhiều hơn nữa để nông dân có điều kiện mở rộng và phát triển nuôi cá. Ngoài đầu tư cho cá vùng chuyên canh chăn nuôi lợn, nuôi cá Ngân hàng Nông nghiệp Thanh Trì còn cho vay để chuyển đổi cơ cấu cây trồng sang trồng hoa ở các xã như: Tam Hiệp, Vĩnh Tuy, Đình Công, Trần Phú phát triển hàng vận cây hoa. Việc tăng cường đầu tư để phát triển một số vùng chuyên canh đòi hỏi ngân hàng phải xác định rõ mục tiêu, đối tượng vay vốn phải xác định rõ ràng, phù hợp với đối tượng sản xuất kinh doanh và dự án đầu tư của huyện. Đầu tư vốn theo dự án góp phần hình thành dần các vùng sản xuất chuyên canh, cung cấp nông sản cho xã hội và cho xuất khẩu. Từ đó mới đảm bảo các điều kiện thu hồi vốn cho vay, vừa thúc đầy chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn. 2.1.7. Tăng cường cho vay trung - dài hạn đối với hộ sản xuất. Để tiến hành sản xuất phải kết hợp giữa lao động công cụ lao động và đối tượng lao động cho vay ngắn hạn thường xuyên giải quyết một phần nhu cầu đầu tư đối tượng lao động cho một chu kỳ sản xuất ngắn (chi phí để mua sắm cây, con giống, phân bón, điện, thuỷ lợi...) cho vay trung - dài hạn để mua sắm công cụ lao động và trang thiết bị máy móc, trồng cây lưu gốc, cây ăn quả, chăn nuôi gia súc, cơ bản đổi mới công nghệ dây chuyền sản xuất đặc biệt cho những vùng chuyên canh. Nhu cầu vốn trung - dài hạn rất cần để có thể phát triển sản xuất, khai thác được mọi tiềm năng các vùng của huyện Thanh Trì. Hơn nữa các hộ sản xuất có xu hướng phát triển sản xuất, sản phẩm sản xuất ra ngày càng nhiều. Mục tiêu sản xuất sẽ được đặt ra, giá trị của sản phẩm ngày càng được tăng nếu được qua chế biến. Chính nguồn vốn trung - dài hạn sẽ được dùng để đầu tư mua sắm thiết bị cho quá trình chế biến sản phẩm, quá trình cho vay trực tiếp các hộ đã tiếp cận được những đặc điểm của kinh tế hộ cho thấy đầu tư trung dài hạn có tính chất đầu tư sản xuất lâu năm, và mở rộng quy mô sản xuất. 2.1.8. Đẩy mạnh cho vay hộ sản xuất qua tổ nhóm tương trợ (tổ tín chấp). Tổ tương trợ là mô hình do cộng đồng dân cư tự nguyện thành lập, dưới sự chỉ đạo của chính quyền xã hay các tổ chức, đoàn thể chính trị xã hội được UBND xã công nhận và cho phép hoạt động. Hoạt động của tổ tương trợ là nhằm giúp đỡ nhau để giữa các thành viên giải quyết tốt các vấn đề sau: - Thứ nhất: Tổ là nơi xác định và đánh giá nhu cầu vay vốn của hộ sản xuất đảm bảo công khai, chuẩn xác, kịp thời. Nhờ đó ngân hàng giải ngân nhanh và vẫn đảm bảo chất lượng tín dụng. - Thứ hai: Việc hình thành tổ tín chấp vay vốn có quy ước riêng là điều kiện cần thiết, thực hiện vai trò kiểm tra, đôn đốc, giám sát sử dụng vốn vay, trả nợ đúng hạn của hộ vay vốn. - Thứ ba: Tổ cũng là nơi để các hộ sản xuất tương trợ nhau, không những về nhu cầu tín dụng mà còn về kiến thức kỹ thuật sản xuất, về nguyên vật liệu đầu vào, tiêu thụ sản phẩm đầu ra. - Thứ tư: Cho vay qua tổ nhóm sẽ khắc phục được khó khăn về tài sản thế chấp của hộ xin vay mà vẫn đảm bảo chất lượng tín dụng. Bởi lý do là tài sản thế chấp gần như không có khả năng phát mại do tập quán của người Việt Nam không muốn mua lại các tài sản này. Hình thức chuyển tải vốn tính dụng tới hộ sản xuất thông qua tổ nhóm đem lại lợi ích của cả hai phía: Hộ vay vốn và ngân hàng + Đối với hộ gia đình, họ có khả năng tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng mà không mất nhiều chi phí giao dịch, đi lại. Điều này có ý nghĩa quan trọng vì hiện nay số tiền vay của đa phần các hộ gia đình còn nhỏ nên người dân dễ nẩy sinh tâm lý ngại đi vay ngân hàng mà vay mượn những người xung quanh, gây tình trạng cho vay nặng lãi không có hiệu quả kinh tế -xã hội. + Đối với ngân hàng thông qua hình thức tổ nhóm, việc cung cấp tín dụng được thực hiện tốt hơn, hiệu quả hơn đồng thời đảm bảo an toàn vốn vay. Kết quả thực hiện cho vay qua "tổ nhóm" của Ngân hàng Nông nghiệp Thanh Trì từ năm 2000 đã cho thấy tỷ lệ nợ quá hạn đã giảm đi rất nhiều. Mặt khác, cho vay qua tổ nhóm giảm đi một phần công đoạn cho cán bộ tín dụng. Để việc cho vay qua tổ nhóm ngày càng có hiệu quả thì ngân hàng cần thực hiện tốt một số vấn đề sau: * Thứ nhất: ngân hàng cần phối hợp tốt với các tổ chức chính trị xã hội đặt biệt là Hội nông dân và Hội phụ nữ, đây là hai tổ chức chính trị thích hợp điều kiện kinh tế - xã hội của địa phương. * Thứ hai: Ngân hàng tổ chức các lớp bồi dưỡng cho trưởng nhóm kiến thức cơ bản về quản lý, về nghiệp vụ tín dụng. * Thứ ba: Về lâu dài, trong quá trình sàng lọc ngân hàng nên chuyển một số tổ tín chấp có đủ điều kiện sang thể tài chính vi mô. 2.1.9. Đào tạo và bồi dưỡng thêm nghiệp vụ cho cán bộ tín dụng ngân hàng. Mặc dù các cán bộ tín dụng ngân hàng đã có kinh nghiệm trong hoạt động kinh doanh. Song trong cơ chế thị trường hiện nay đòi hỏi phải được nâng cao trình độ chuyên môn, trình độ nghiệp vụ pải được đào tạo lại thì mới nắm bắt và theo kịp sự đòi hỏi của thị trường và trình độ phát triển khoa học kỹ thuật và công tác quản lý hiện nay. Vì vậy việc bồi dưỡng trình độ nghiệp vụ cho cán bộ tín dụng là rất cần thiết, cán bộ tín dụng là người trực tiếp giao dịch với khách hàng đòi hỏi cần phải có một trình độ để phân tích thẩm định dự án, thẩm định phương án, cần đào tạo bồi dưỡng để họ nắm vững các quy trình sản xuất của các ngành nghề, có như vậy việc thẩm định mới đạt kết quả cao. Mặt khác khi cho vay vốn để phát triển sản xuất thì cán bộ tín dụng ngân hàng thường xuyên kiểm tra, kiểm soát việc sử dụng vốn của hộ vay có đúng mục đích không. Đồng thời từ việc cho vay kiểm tra việc sử dụng vốn vay của người vay, cán bộ tín dụng có thể tư vấn cho họ biết nên đầu tư như thế nào cho có hiệu quả. Do vậy Ngân hàng Nông nghiệp Thanh Trì cần quan tâm hơn tới việc đào tạo cán bộ tín dụng nói riêng và toàn bộ công nhân viên ngân hàng nói chung. 2.2. Đối với hộ sản xuất sử dụng vốn tín dụng ngân hàng. 2.2.1. Hiểu rõ trách nhiệm và quyền lợi trong việc vay vốn. Nhiều người lầm tưởng lạc quan cho rằng nguồn vốn vay của ngân hàng là nguồn vốn của Nhà nước, cho nên việc trả hay không không quan trọng. Và do Nhà nước còn thất thoát hơn ta. Còn có trường hợp cố tình liều lĩnh thách thức chắc ngân hàng không dám thu hồi vốn bằng cách tịch thu niêm phong nhà cửa của mình nên đã có nhiều trường hợp cố tình không trả nợ vốn vay. Vì vậy phải làm công tác tư tưởng để người dân hiểu rõ trách nhiệm và quyền hạn trong việc vay vốn, để họ có ý thức sử dụng vốn vay có hiệu quả hơn. 2.2.2. Trang bị kiến thức mới để phát triển các ngành sản xuất. Để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của tiến bộ khoa học kỹ thuật trong sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là mục tiêu công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn thì người dân cần có đầy đủ kiến thức mới đáp ứng được nhu cầu này. Công việc trang bị kiến thức mới phải thường xuyên, liên tục và kịp thời để người dân có thể nắm bắt khoa học kỹ thuật ứng dụng vào sản xuất của mình, để đầu tư đồng vốn đúng mục đích có hiệu quả hơn. Để làm được điều này cần phải tiến hành bằng cách mở các lớp đào tạo quản lý sản xuất, truyền bá những kiến thức cơ bản và các kỹ thuật trong chăn nuôi, xử lý khi gặp rủi ro thiên tai bất thường, lớp tập huấn sản xuất cây con... cho một số đại diện từng vùng để từ đó bà con nông dân truyền bá cho nhau những kiến thức đó. Tích cực học hỏi những gương, mô hình sản xuất có hiệu quả, từ đó áp dụng cho mình để tiến hành sản xuất có hiệu quả hơn. 2.2.3. Tăng hoạt động các tổ nhóm. Tổ nhóm vừa tạo cơ sở cho hộ sản xuất vay vốn vừa là một hoạt động tương trợ giúp đỡ nhau trong sản xuất. Trong sản xuất cũng như trong đời sống, có những việc chỉ có một người làm sẽ gặp nhiều khó khăn, nhất là những hộ mới bước đầu sản xuất còn gặp nhiều khó khăn về kinh nghiệm. Vì vậy phải cần tập trung hoạt động những tổ nhóm, như những Hội nông dân, Hội phụ nữ... để thường xuyên gặp gỡ nhau trao đổi kinh nghiệm và học hỏi lẫn nhau, và kịp thời góp ý sửa chữa những sai lầm, khó khăn... có như vậy thì đồng vốn của các hộ sản xuất mới sử dụng có hiệu quả và thay đổi đời sống của từng hộ. Kết luận và Một số kiến nghị 1. Kết luận Nhờ vào việc phát triển kinh tế hộ sản xuất mà sản xuất nông nghiệp của nước ta trong những năm qua đã không ngừng tăng lên cả về số lượng, chất lượng và quy mô. Có được kết quả đó là nhờ có chủ trương đúng đắn trong việc cho phép hộ sản xuất tự mình kinh doanh, sản xuất trong phần nhận khoán của mình, nhưng cũng phải kể đến vai trò không nhỏ của Ngân hàng trong việc cho hộ sản xuất vay vốn. Từ khi thực hiện chủ trương cho vay hộ sản xuất, Ngân hàng đã đáp ứng nhu cầu vốn ngày càng đa dạng cho hộ sản xuất. Nhờ có nguồn vốn kịp thời của Ngân hàng nên hộ sản xuất đã mạnh dạn đầu tư vào những lĩnh vực, những ngành nghề có hiệu quả kinh tế cao, thu hút được nhiều lao động nhàn rỗi nâng cao đời sống của bà con nông dân góp phần vào sự phát triển của đất nước. Qua thời gian thực tập tại NHNo&PTNT huyện Thanh Trì, luận văn đã phân tích và đánh giá việc huy động và sử dụng vốn tín dụng ngân hàng của hộ sản xuất đã từng bước có hiệu quả và phát huy vai trò của mình trong nền kinh tế. Đặc biệt là những hộ có nhu cầu vay vốn chính đáng đã được Ngân hàng giải quyết kịp thời nên sản xuất kinh doanh trên địa bàn huyện đã có nhiều khởi sắc. Bên cạnh những mặt được, luận văn đã chỉ ra những hạn chế và tồn tại như: Doanh số cho vay hộ sản xuất mấy năm qua chưa đáp ứng được nhu cầu vay vốn của hộ sản xuất là bao nhiêu, nguồn vốn trung - dài hạn còn chiếm tỷ lệ quá thấp, tỷ lệ dư nợ quá hạn còn cao, .... Luận văn đã đề xuất một số giải pháp nhằm huy động và sử dụng vốn tín dụng ngân hàng để phát triển kinh tế hộ sản xuất có kết quả cao hơn, đáng chú ý là: Cải tiến thủ tục vay và thời gian cho vay để hộ sản xuất tiếp cận khi thiếu vốn, tăng cường lượng vốn cho vay đối với hộ sản xuất, cho vay tập trung có trọng tâm trọng điểm đầu tư theo dự án, tăng cường cho vay trung - dài hạn..v.v. 2. Một số kiến nghị * Kiến nghị với Nhà nước. - Nhà nước có chính sách đầu tư cho nông nghiệp, Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi thực hiện các chính sách này. Nhà nước cần có một hệ thống chính sách phát triển nông nghiệp ở tầm quốc gia. Hệ thống chính sách bao gồn các chính sách: + Chính sách tài chính - tiền tệ: Chính phủ nên nới lỏng chính sách lãi suất để đảm bảo rằng các định chế tài chính nông thôn có đủ khả năng trang trải tất cả các chi phí bao gồm chi phí vốn theo giá thị trường, chi phí hoạt động, lạm phát, chi phí bù đắp những khoản mất vốn, đồng thời đảm bảo một mức lợi nhuận hợp lý. Chính phủ cần khuyến khích sự cạnh tranh trong hoạt động cung cấp dịch vụ tài chính nông thôn, qua đó nâng cao chất lượng dịch vụ này, sẽ có nhiều chương trình tiết kiệm và tín dụng được chuyển đổi thành hợp tác xã tín dụng hơn nếu như các thủ tục đăng ký hoạt động được đơn giản hoá và mức vốn pháp định cần thiết được hạ thấp hơn nữa. + Chính sách trợ giá: . Trợ giá đầu vào: Nhà nước nên có trợ giá để khuyến khích nông dân áp dụng khoa học kỹ thuật mới hoặc tài trợ cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu vật tư, thiết bị, phân bón, thuốc trừ sâu, để bán cho hộ sản xuất với giá thành ổn định. . Trợ giá đầu ra: Sản phẩm nông nghiệp mang tính thời vụ, việc tiêu thụ sản phẩm thường gặp khó khăn. Nhà nước cần gia tăng quỹ ổn giá cả, bù đắp cho nông dân đảm bảo không bị rớt giá, gây thua lỗ. Nhà nước cần đẩy mạnh hoạt động bảo hiểm, nông thôn như: bảo hiểm mùa màng, bảo hiểm vật nuôi... + Chính sách tiêu thụ nông sản nhằm tạo thị trường ổn định cho người nông dân. + Chính sách bảo trợ xuất khẩu. + Chính sách đất đai: Nhà nước đẩy mạnh quá trình cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. - Nhà nước cần xem xét miễn thuế trong vài năm tới cho các ngân hàng hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, cấp đủ kịp thời các khoản nợ khoanh hàng năm đã được xác định. Có như vậy hệ thống Ngân hàng Nông nghiệp mới có đủ vốn cần thiết để tồn tại và tăng quy mô hoạt động. * Kiến nghị với UBND huyện và thành phố. - UBND huyện sớm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho nhân dân theo nghị định 17/CP để ngân hàng có đủ điều kiện mở rộng tín dụng phục vụ nhu cầu phát triển kinh doanh, xây dựng nông thôn mới góp phần thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông thôn. - Các ban ngành, hội nông dân, hội phụ nữ và xã ủng hộ, phối hợp chặt chẽ với ngân hàng để thực hiện tốt cho vay hộ sản xuất qua tổ nhóm theo nghị quyết liên tịch 2038, triển khai Quyết định 67/TTg và Quyết định 148/TTg tới bà con nông dân các thôn xã và xúc tiến việc thành lập các tổ vay vốn qua hội nông dân. - Đôn đốc các ban thu nợ của các xã hoạt động mạnh mẽ, có hiệu quả, kiến quyết yêu cầu các hộ vay vốn trả nợ sòng phẳng, coi việc trả nợ ngân hàng như thực hiện nghĩa vụ nộp thuế, chấp hành chính sách. - Đề nghị UBND huyện đề nghị với UBND thành phố sớm có quy hoạch vùng, tiểu vùng về phát triển kinh tế trên địa bàn Hà Nội và xây dựng cơ sở chế biến sản phẩm nông nghiệp nâng cao giá trị sản phẩm nông nghiệp và ổn định đầu ra để bà con yên tâm sản xuất. + Đối với UBND xã. Tư cách vay vốn cũng đóng vai trò quan trọng quyết định. Cho nên khi xác nhận hộ vay vốn cần quan tâm đến tư cách của người vay, loại trừ ngay những đối tượng nghiện hút, cờ bạc, rượu chè, đề đóm và nợ nần dây dưa. Để tránh tình trạng hộ vay vốn cố tình lừa đảo ngân hàng lấy tài sản của người khác làm tài sản của mình để đem đi thế chấp vay vốn ngân hàng thì khi xác nhận đề nghị cán bộ ghi cụ thể tài sản thế chấp đất, số thửa ruộng không tranh chấp... * Kiến nghị với Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam. - Theo quy định hiện hành, các hộ nông dân được giao đất sử dụng lâu dài khi vay trên 10 triệu đồng phải thế chấp quyền sở hữu đất nông nghiệp. Do vậy nếu bị ngân hàng phát mại thì sẽ kiếm sống như thế nào khi mà sản xuất chủ yếu là nông nghiệp. Vì vậy NHNo & PTNT Việt Nam cần tìm một hình thức bảo đảm mới có khả năng thực thi cao nhằm hỗ trợ công tác cho vay của ngân hàng cũng như việc sản xuất của hộ sản xuất. - Đề nghị Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam nghiên cứu, rút gọn hồ sơ cho vay hộ sản xuất làm sao ngắn gọn, ít loại giấy tờ nhưng đảm bảo tính pháp lý vì trình độ của các hộ vay vốn có hạn. - Cần tập trung phòng ngừa rủi ro đến hộ sản xuất, trung tâm phòng ngừa rủi ro của ngân hàng cấp trên nên thực hiện theo dõi và giám sát tất cả các thành phần kinh tế của hộ sản xuất để ngăn chặn và hạn chế rủi ro. - Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam sớm ban hành cụ thể về cho vay trả góp nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các Ngân hàng Nông nghiệp áp dụng phương thức cho vay này. * Kiến nghị đối với Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Thanh Trì. - Phải biết đối tượng đầu tư là ai, khả năng hoàn trả ở khu vực nào để xem xét đối tượng đầu tư có hiệu quả. - Đánh giá khả năng tình hình trả nợ vay ngân hàng. Xem xét khách hàng có luôn thực hiện đúng mọi quy định trong thể lệ tín dụng thanh toán của ngân hàng hay không, uy tín khách hàng đối với ngân hàng qua việc vay trả thường xuyên ổn định, ít phát sinh nợ quá hạn, đồng thời kiểm tra sự tôn trọng nguyên tắc về vay vốn tín dụng. - Tiến hành kiểm tra, kiểm soát khách hàng trong suốt quá trình đầu tư: Trước khi thực hiện một món vay cán bộ tín dụng phải thực hiện thẩm định khách hàng xem khách hàng có đủ khả năng vay vốn hay không. Điều này chủ yếu phụ thuộc vào trình độ năng lực kinh nghiệm của cán bộ tín dụng ngân hàng trong việc phân tích khả năng có đầy đủ điều kiện được vay vốn ngân hàng và vẫn còn phải tiếp tục kiểm tra trong khi cho vay. Việc kiểm tra, kiểm soát trong quá trình đầu tư tín dụng là rất quan trọng: Một mặt giúp cho cán bộ tín dụng tiếp xúc gần gũi với hộ vay vốn, từ đó hướng dẫn họ sử dụng đồng vốn có hiệu quả. Mặt khác ngân hàng có thể khắc phục trong quá trình thu nợ sau này. Tài liệu tham khảo NHNH và luật CTD Quy định 499A - TDNT 02/09/1993 NHNo Việt Nam hướng dãn nghiệp vụ cho vay hộ sản xuất nông, lâm, ngư, diêm nghiệp. Quyết định số 06/QĐ-HĐQT ngày 18/01/2001 vế việc ban hành cho vay đối với khách hàng. Kinh tế hộ - Lịch sử và triển vọng phát triển - Vũ Tuấn Anh - NXB KHXH 1997. Kinh tế hộ trong nông thôn Việt Nam - Chu Văn Vũ - NXB Khoa học xã hội - 1995. Đầu tư hỗ trợ của nhà nước cho nông dân phát triển kinh tế hộ gia đình - Nguyễn Hữu Đạt - NXB Khoa học xã hội - 1995. Nông nghiệp, nông thôn trong giai đoạn CNH, HĐH - Đặng Thọ Xương - NXB Chính trị quốc gia - 1997. Giới thiệu hệ thống ngân hàng đơn vị BRI - Indonesia. Văn kiện Đại hội Đảng VI, VII, VIII. Tạp chí Ngân hàng. Tạp chí Thông tin ngân hàng NHNo & PTNT. Báo cáo tổng kết hoạt động tín dụng hộ sản xuất của NHNo & PTNT huyện Thanh Trì các năm 1996, 1997, 1998, 1999, 2000. Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh của NHNo & PTNT huyện Thanh Trì các năm 1996, 1997, 1998, 1999, 2000. Đánh giá tình hình thực trạng và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội huyện Thanh Trì của UBND huyện Thanh Trì. Mục lục Trang

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc3839.doc
Tài liệu liên quan