Như vậy, qua 15 năm thực hiện chủ trương thu hút các nguồn lực bên ngoài mà chủ yếu là thu hút vốn và công nghệ, đã góp phần rất quan trọng vào tăng trưởng nền kinh tế đất nước. Nhằm thực hiện CNH-HĐH đất nước, đưa nước ta từng bước hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới, thu hút nguồn vốn và công nghệ cho sự phát triển không chỉ là chính sách mang tính chất cấp bách mà còn là một chiến lược lâu dài đã được Đảng và Nhà nước xác định. Vai trò của nguồn vốn FDI cho đầu tư phát triển kinh tế nước ta hiện nay không còn phải bàn luận. Song điều quan trọng là làm thế nào để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào hoạt động tại Việt nam đang là điều quan tâm hàng đầu của Đảng, Nhà nước và các doanh nghiệp. Mặc dù ĐTTTNN có xu hướng giảm trong những năm gần đây do chịu ảnh hưởng của nhiều lý do, song triển vọng thu hút nguồn vốn FDI vào Việt nam đã được các nhà nghiên cứu đánh giá là rất khả quan. Vì vậy để có thể khai thác được cơ hội này, Chính phủ và các cấp liên quan cũng như các doanh nghiệp phải có những biện pháp và chính sách cụ thể khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài chọn Việt nam là điểm đến trong tương lai.
36 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1596 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Những giải pháp chủ yếu tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam thời kỳ 2001-2005, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ỉ một năm sau ngày đất nước được thống nhất, các nhà lãnh đạo cao nhất của VIệT NAM đã có một quyết định làm xôn xao dư luận trong và ngoài nước. Đó là việc ban hành điều lệ đầu tư nước ngoài ở CHXHCN VN, kèm theo Nghị định số 115/CQ ngày 19 tháng 4 năm 1977 của CP, gọi tắt là “ Điều lệ đầu tư 77”. Tuy nhiên, Điều lệ 77, do ra đời trong điều kiện thiếu một hệ thống quan điểm rõ ràng về đường lối tổng thể phát triển kinh tế, nên không tránh khỏi những hạn chế kém hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Nhưng cho dù đó là một văn bản pháp lý hoàn chỉnh hơn thì cũng khó có thể đi vào cuộc sống bởi vì đối với bất kỳ một quốc gia nào, yếu tố quan trọng hàng đầu quyết định khả năng thu hút vốn đầu tư nước ngoài là tình hình chính trị đối ngoại và sự ổn định an ninh chính trị trong nước.
Sau chiến tranh, nguồn viện trợ từ các nước XHCN như Liên xô, Trung Quốc bị sử dụng lãng phí, đầu tư kém hiệu quả và tới đầu thập kỷ 90, khi Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ thì nguồn viện trợ trị giá mỗi năm hàng tỷ rúp không còn nữa. Trong khi đó nguồn tích luỹ nội bộ dường như bằng không, cơ chế quản lý sai lệch, hoạt động đầu tư chỉ có tác động rất yếu ớt tới tăng trưởng và biến đổi cơ cấu kinh tế.
Trong bối cảnh nói trên, để chống đỡ với những khó khăn kinh tế, nhiều địa phương, nhiều ngành đã đưa ra những sáng kiến khác nhau về cải tiến cơ chế quản lý. Mặc dù những sáng kiến tự phát này đã gây nên tình trạng hỗn loạn trong quản lý nền kinh tế quốc dân, nhưng chính chúng là mầm mống cho một ý đồ đổi mới toàn diện đời sống kinh tế-xã hội được hình thành từ năm 1985 và được chính thức thông qua tại Đại hội Đảng lần thứ VI vào năm 1986.
Nội dung cốt lõi của công cuộc đổi mới là dân chủ hoá đời sống xã hội, đổi mới cơ chế quản lý kinh tế theo hướng chuyển sang nền KTTT và khuyến khích mọi thành phần kinh tế phát triển trên cơ sở xoá bỏ tư tưởng kỳ thị đối với kinh tế tư nhân, đồng thời mở rộng hợp tác với tất cả các nước không phân biệt chế độ chính trị. Luật đầu tư nước ngoài tại VN đã được soạn thảo và ban hành trên cơ sở những quan điểm đổi mới đó.
Các dự án được khuyến khích đầu tư.
Sản xuất, chế biến xuất khẩu từ 50% sản phẩm trở lên.
Sản xuất, chế biến xuất khẩu từ 30% sản phẩm trở lên và sử dụng nhiều nguyên liệu, vật tư trong nước có giá trị từ 30% chi phí sản xuất trở lên.
Sử dụng nhiều lao động và sử dụng có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên vẫn có ở Việt Nam.
Chế biến nông, lâm sản (trừ gỗ), thuỷ sản.
Bảo quản thực phẩm, bảo quản nông sản sau thu hoạch.
Thăm dò, khai thác và chế biến sau khoáng sản.
Phát triển công nghiệp hoá dầu; xây dựng, vận hành đường ống dẫn dầu, dẫn khí, kho, cảng dầu.
Sản xuất thiết bị, cụm chi tiết trong khai thác dầu khí, mỏ, năng lượng, sản xuất thiết bị nâng hạ cỡ lớn.
Sản xuất thép cao cấp, hợp kim, kim loại màu, kim loại đặc biệt, phôi thép, sắt xốp dùng trong công nghiệp.
Sản xuất các máy công cụ gia công kim loại, thiết bị luyện kim.
Chế tạo thiết bị cơ khí chính xá, thiết bị kiểm tra, kiểm soát an toàn, sản xuất khuôn mẫu cho các sản phẩm kim loại và phi kim loại.
Sản xuất khí cụ điện trùng, cao thế.
Sản xuất các loại động cơ diezen có công nghệ, kỹ thuật tiên tiến, sản xuất máy, phụ tùng ngành động lực, thuỷ lực, máy áp lực.
Sản xuất phụ tùng ô tô, phụ tùng xe máy, sản xuất, lắp ráp thiết bị xe máy, thi công xây dựng, sản xuất thiết bị kỹ thuật cho ngành vận tải.
Đóng tàu thuỷ, sản xuất thiết bị phụ tùng cho các tàu vận tải, tàu đánh cá.
Sản suất thiết bị viễn thông.
Sản xuất thiết bị, linh kiện điện tử, công nghệ tin học.
Sản xuất thiết bị, phụ tùng, máy nông nghiệp, thiết bị tưới tiêu.
Sản xuất các loại hoá chất cơ bản, hoá chất tinh khiết, thuốc nhuộm, các loại hoá chất chuyên dùng.
Sản xuất nguyên liệu chất tẩy rửa, phụ gia cho ngành hoá chất.
Sản xuất xi măng đặc chủng, vật liệu compóit, vật liệu cách âm, cách điện, cách nhiệt cao, vật liệu tổng hợp thay gỗ, vật liệu chịu lửa, chất dẻo xây dựng sợi thuỷ tinh.
Sản xuất các loại vật liệu xây dựng nhẹ.
Sản xuất bột giấy.
Sản xuất tơ, sợi các loại, vải đặc biệt dùng trong ngành công nghiệp.
Sản xuất nguyên liệu cao cấp để sản xuất giày, dép, quần áo xuất khẩu.
Sản xuất bao bì cao cấp phục vụ hàng xuất khẩu
Một số xu hướng vận động chủ yếu của ĐTNN.
Xu hướng tự do hoá đầu tư.
Xu hướng tự do hoá đầu tư được thể hiện trên ba bình diện là: quốc gia, khu vực và quốc tế.
Trên bình diện quốc gia, đó là việc giảm dần những hạn chế về hình thức đầu tư, về vốn góp, thuê mướn nhân công , đòi hỏi về chuyển giao công nghệ, tỷ lệ xuất khẩu ... bên cạnh đó, các quốc gia cũng đang đưa ra các khuyến khích khác như tăng cường đào tạo nguồn nhân lực, các khuyến khích về tài chính... Trên bình diện khu vực, đó là sự thành lập các khu vực đầu tư, việc ký kết các hiệp định đầu tư đa phương và song phương.
Dòng FDI chịu sự chi phối của các tập đoàn xuyên quốc gia.
Các tập đoàn xuyên quốc gia là nguồn cung cấp vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản lý chính trong đầu tư quốc tế.
Nếu như năm 1990 có khoảng 37000 tập đoàn loại này với khoảng 170000 chi nhánh và cơ sở nước ngoài thì 1995 đã có khoảng 39000 tập đoàn với khoảng 270000 chi nhánh và cơ sở nước ngoài nắm giữ 2700 tỷ USD FDI tương ứng 10% GDP thế giới, mặt khác đa số các tập đoàn xuyên quốc gia ở các nước LDCs hầu hết tập trung ở Châu á.
Bên cạnh đó, với sự tác động của cách mạng khoa học công nghệ, các tập đoàn xuyên quốc gia giờ đây đang chịu sự cạnh tranh đáng kể của các hãng có quy mô vừa và nhỏ trên toàn cầu, đặc biệt là trong lĩnh vực dịch vụ mà biểu hiện rõ nhất là dịch vụ thông tin.
Dòng vốn FDI trong sự vận động của quá trình toàn cầu hoá.
Một xu hướng lâu dài là vốn đầu tư sẽ được luân chuyển chủ yếu giữa các nước phát triển. Tuy nhiên, cùng với sự lớn mạnh của các tập đoàn xuyên quốc gia ở LDCs và tác động của quá trình toàn cầu hoá, khu vực hoá, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên thế giới đang có những biến đổi theo xu hướng tăng dần quy mô và tốc độ vốn đầu tư vào LDCs, trong đó các LDCs khu vực Châu á - Thái Bình Dương nổi lên là khu vực thu hút nhiều vốn đầu tư vào nhất. (Ví dụ năm 1990 chiếm 46%, năm 1995 chiếm 62% tổng vốn đầu tư nước ngoài vào LDCs ).
Ngoài ra xu hướng vận động của đầu tư trực tiếp nước ngoài còn chịu ảnh hưởng bởi:
Mối quan hệ giữa thu hút đầu tư vào trong nước với đầu tư ra nước ngoài và sự xuất hiện các chủ đầu tư trên thế giới.
Lĩnh vực đầu tư: Xu hướng chung của thế giới là chuyển từ việc khai thác các nguồn tự nhiên sang công nghiệp chế tạo và dịch vụ.
Đầu tư với hiệu quả xã hội: vấn đề đầu tư trực tiếp nước ngoài hiện nay được xem xét dưới góc độ hiệu quả kinh tế xã hội.
Quy mô đầu tư tăng.
Tính cạnh tranh giữa các bên đối tác.
Tính không đồng đều trong phân bổ, lưu chuyển luồng vốn.
Tính quốc tế hoá và tính cục bộ.
Các nước tham gia hai quá trình tiếp nhận đầu tư và đầu tư.
Tính linh hoạt trong dòng vốn FDI ngày càng cao.
Xu hướng chuyển đổi cơ cấu đầu tư.
Thực trạng của hoạt động ĐTTTNN tại việt nam.
Đánh giá chung.
Trong văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã nêu lên thành phần kinh tế mới – kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài . Điều này có ý nghĩa rất to lớn và khẳng định vai trò của thành phần kinh tế này đối với nền kinh tế nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Theo Bộ kế hoạch và Đầu tư tính đến 26/12/2001 trên địa bàn cả nước có 460 dự án đầu tư nước ngoài được cấp giấy phép đầu tư với tổng số vôns đăng ký đạt tới 2436 triệu USD, vốn pháp định 1180 triệu USD, chiếm 48,4% tổng vốn đầu tư nước ngoài. So với năm 2000, đầu tư , vốn đăng ký cấp mới tăng 22,6%, số dự án tăng 26%.
Bảng 1. ĐTTTNN tại Việt Nam từ 1988-2001
Năm
Số
Dự án
Vốn đăng ký
(triệu USD)
Vốn thực tiếp
(triệu USD)
Quy mô dự án
(triệu USD)
1988
37
366
-
9.9
1989
70
539
-
7.7
1990
106
677
-
6.4
1991
149
1294
213
8.7
1992
195
2036
391
10.4
1993
273
2652
1099
9.7
1994
371
4071
1946
11.0
1995
412
6616
2671
16.1
1996
368
8640
2646
23.5
1997
331
4511
3250
13.6
1998
275
3596
1900
13.1
1999
308
1566
1519
5.1
2000
344
1973
2228
5.7
2001
460
2436
Tổng
3699
40976
Từ số liệu ở bảng 1 cho thấy.
Từ năm 1988-1999 ĐTTTNN ở Việt Nam tăng khá, số dự án đăng ký tăng bình quân 31,5% năm, vốn đăng ký tăng 45% / năm. Đặc biệt riêng năm 1995 có tốc độ phát triển rất cao 173.43% hoặc tăng 73.43% so với năm 1994 và năm 1996 có lượng vốn tăng vọt lên 8640 triệu USD vói tốc tộ tăng trưởng so với năm 1995 là 130.11%.
Tuy nhiên , đến năm 1996, do tốc độ phát triển của nền kinh tế quốc nội có phần chậm lại cùng với cuộc khủng hoảng tài chính khu vực, FDI đã bắt đầu chựng lại và suy giảm; nhất là năm 1999 thì xu hướng nđó giảm rõ rệt hơn. Năm 2000 tình hình có phần khả quan hơn, số dự án đăng ký tăng 11% và vốn đăng ký tăng 26%. Sự phục hồi bước đầu của ĐTNN vào Việt Nam là dấu hiệu đáng mừng trong bối cảnh đầu tư vào các nước ASEAN vẫn đang giảm sút. Kết quả này có được một phần là nhờ những tác độngtích cực của giải pháp cải thiện môi trường ĐTNN của Nhà nước Việt Nam trong thời gian gần đây. Đặc biệt là những cải thiện về môi thường pháp lý kinh doanh cho các nhà đầu tư nước ngoài.
Cũng từ bảng trên cho thấy ; việc góp vốn và triển khai dự án là khá tích cực.Tính đến ngày 31/12/1999, tỷ lệ vốn thực hiện so với vốn đăng ký là42%. Nếu so với các nứơc trong khu vực (con số này dao động từ 30-40%) thì tỷ lệ góp vốn của Việt Nam ta thuộc loại cao.
Xét về quy mô dự án thì quy mô dự án ĐTTTNN ở Việt Nam không lớn- trung bình 12,6 triệu USD/dự án. Đặc biệt trong năm 1999 quy mô bình quân một dự án quá nhỏ, 5,1 triệu USD/dự án, thấp nhất trong 12 năm trước đó, năm 2000 có phần khả quan hơn, đạt-5,7 triệu USD/dự án.
Thực trạng theo cơ cấu nguồn vốn FDI.
Cơ cấu đầu tư theo ngành.
Phân tích cơ cấu đầu tư theo ngành cho thấy các dự án ĐTTTNN đã có mặt ở hầu khắp ở mọi ngành kinh tế quốc dân và đang có sự chuyển dịch cho phù hợp với yêu cầu của công cuộc CNH, HĐH đất nước. Nếu giai đoạn đầu các dự án đầu tư chủ yếu tập trung vào xây dựng khách sạn, nhà hàng, văn phòmg cho thuê, thì ngày nay chủ yếu tập trung vào ngành công nghiệp, cụ thể tính chung cho giai đoạn 1988-1999: cộng nghiệp nặng – 16,7%; công nghiệp dầu khí _8,3%; công nghiệp nhẹ –10,56%; công nghiệp thực phẩm –9,14%.... Cơ cấu đầu tư theo ngành có thể coi là thích hợp.
Các dự án đầu tư vào ngành công nghiệp chiếm tỷ trọng lớn nhất cả về số lượng dự án lẫn vốn đầu tư, tiếp đến là các lĩnh vực khách sạn, du lịch và dịch vụ.Các ngành nông lâm nghiệp có số dự án lớn nhưng vốn thấp hơn (chứng tỏ quy mô dự án ở lĩnh vực naỳ tương đối nhỏ).
Bảng 2:Cơ cấu dự án đầu tư nước ngoài theo ngành:
Ngành
Số dự án
Vốn đăng ký(%)
1- Nông nghiệp
10.6
3.59
2- Thuỷ sản
3.6
0.96
3- Công nghiệp
48.6
37.78
4- Xây dựng
10.3
12.37
5- Khách sạn, du lịch
7.8
13.13
6- Giao thông vận tải, bưu điện
5.3
9.23
7- Tài chính, ngân hàng
1.1
0.54
8- Văn hoá, y tế giáo dục
3.3
1.27
9- Các ngành dịch vụ khác
9.4
21.13
Tổng
100
100
Vốn đầu tư vào các ngành như trên đã biểu hiện phù hợp các chỉ số của cơ cấu kinh tế hiện đại. CNH: Công nghiệp- dịch vụ- nông nghiệp. Tuy vậy, trong điều kiện ở giai đoạn đầu tiến hành CNH- HĐH và với đặc trưng của nền kinh tế trong đó nông nghiệp nhiệt đới đang là một trong những thế mạnh của Việt Nam thì tình hình thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực này như hiện nay là còn khoảng cách tương đối xa so với yêu cầu mong muốn mà chúng ta đặt ra. Sở dĩ như vậy là đối với Việt Nam, nông nghiệp đang là một trong những lĩnh vực tiềm năng mà chúng ta chưa có điều kiện khai thác. Và, từ đặc điểm phân bố dân cư, lao động, việc làm như hiện nay thì sự thành công trong phát triển nông thôn, nông nghiệp cũng tức là tạo ra được việc làm và thu nhập cho số lao động cũng như tác động làm chuyển biến đáng kể đến sản xuất và đời sống của đa số nhân dân Việt Nam.
Cơ cấu đầu tư theo vùng.
Với mong muốn hoạt động ĐTTTNN góp phần làm chuyển dịch cơ cấu giữa các vùng kinh tế, nên Chính phủ ta đã có những chính sách khuyến khích, ưu đãi đối với các dự án đầu tư vào “ những vùng có điều kiện kinh tế- xã hội khó khăn, miền níu, vùng sâu, vùng xa”. Tuy nhiên, cho đến nay vốn nước ngoài vẫn được đầu tư tập trung chủ yếu vào một số địa bàn có điều kiện thuận lợi về kết cấu hạ tầng và môi trường kinh tế- xã hội. Vốn đầu tư vào các vùng (1988-1999) được xếp theo thứ tự như sau.
Bảng 3: Cơ cấu đầu tư theo vùng (%)
1- Đông Nam Bộ
53.13
5- Đồng bằng sông Cửu Long
2.46
2- Đồng bằng sông Hồng
29.6
6- Bắc Trung Bộ
2.38
3- Duyên hải Nam Trung Bộ
7.64
7- Tây Nguyên
0.16
4- Đông Bắc
4.46
8- Tây Bắc
0.15
Cùng trong thời kỳ này nếu như hai thành phố lớn là Hà Nội và TPHCM đã chiếm tới hơn nửa (50,3%) tổng số vốn đầu tư nước ngoài của cả nước thì 10 địa phương có điều kiện thuận lợi cũng chiếm tới 87,8%.
Số liệu trên cũng phần nào nói nên rằng vấn đề thu hút ĐTNN theo vùng lãnh thổ để kết hợp hoạt động này với việc khai thác các tiềm năng trong nước đạt kết quả chưa cao. Như vậy, đây cũng là một trong những vấn đề rất cần được chú ý điều chỉnh hoạt động của chúng ta trong thơì gian tới đối với lĩnh vực này.
Cơ cấu theo hình thức đầu tư:
Liên doanh hiện nay là hình thức phổ biến nhất của ĐTTTNN tại Việt Nam. Hình thức này đang chiếm tới khoảng 61% số dự án và 70% vốn đăng ký. Sở dĩ như vậy là do thời kỳ đầu, các thủ tục để triển khai thực hiện dự án còn đòi hỏi nhiều giấy tờ, lại phải thông qua nhiều khâu, nhiều nấc, và rất phức tạp. Trong hoàn cảnh như vậy, đa số các nhà đầu tư thích lựa chọn hình thức liên doanh để bên Việt Nam đứng ra lo các thủ tục pháp lý cho sự hoạt động của doanh nghiệp hiệu quả hơn.
Sau một thời gian hoạt động trong môi trường đầu tư ở Việt Nam, các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là các nhà đầu tư Châu á có điều kiện hiểu biết hơn về pháp luật, chính sách, phong tục tập quán và cách thức hd kd ở Việt Nam. Sự am hiểu của các nhà đầu tư được tăng lên trong điều kiện các thủ tục cấp giấy phép của Việt Nam đang từng bước được cải tiến theo hướng ngày càng đơn giản hơn trước... Do đó, số dự án ĐTTTNN vào Việt Nam theo hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài đang ngày càng có xu hướng tăng lên cả tuyệt đối lẫn tương đối. Nếu thời kỳ đầu chỉ có 10% số dự án và vốn đăng ký hd theo hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài thì đến nay con số đó đã lên tới 30% số dự án và 20% vốn đăng ký.
Hình thức hợp đồng hợp tác kd đến nay chỉ chiếm 7,1% số dự án và 10% số vốn đầu tư, chủ yếu trong các lĩnh vực thăm dò và khai thác dầu khí và dịch vụ viễn thông.
Từ năm 1993, Việt Nam bắt đầu áp dụng hình thức “ hợp đồng xây dựng- kd- chuyển giao” (BOT), và cho đến nay đã có 4 dự án ĐTNN được thực hiện theo hình thức này với số vốn dăng ký gần 900 triệu USD.
Những kết quả đạt được và hạn chế trong quá trình thực hiện ĐTTTNN tại Việt Nam thời gian qua.
Những thành tựu đạt được.
ĐTNN đã trở thành một bộ phận hữu cơ của nền kinh tế và đã có những đóng góp rất tích cực cho quá trình phát triển kinh tế –xã hội của nước ta .
Cụ thể.
ĐTTTNN đã góp nguồn vốn quan trọng cho công nghiệp phát triển kinh tế đất nước.
Bảng 4: Tổng vốn đầu tư xã hội(tỷ đồng)
1995
1996
1997
1998
1999
ước 2000
Tổng
68017.8
79367.4
96870.4
96100
103900
121000
1, Vốn Nhà nước
26074.8
35894.4
16570.4
51600
61000
71200
2, vốn ngoài QD
20000.0
20773.0
20000.0
20500
21000
29000
3, Vốn FDI
22000.0
22700.0
30300.0
24300
18900
20800
(Nguồn thời báo kinh tế1999-2000).
Bảng 4 cho thấy : Vốn ĐTNN là một trong ba nguồn vốn đầu tư xã hội và chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng vốn đầu tư, năm 1995 chiếm 32%; 1996-28%; 1997-31%; 1998- 25%;1999-18%;năm 2000 ước đạt 16,8% tổng vốn đầu tư xã hội.
Tỷ lệ đóng góp của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài trong GDP tăng dần qua các năm.
Khu vực có vốn ĐTnnđã có những đóng góp đáng kể cho ngân sách Nhà nước. Từ nă3m 1988 đến hết năm 2000, kinh tế có vốn ĐTNN đã đóng góp cho ngân sách Nhà nước khoảng 1,8 tỷ USD.
ĐTTTNN chuyển giao các công nghệ hiện đại, tạo môi trường cạnh tranh, góp phần phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất:
Cùng với hoạt động đầu tư trực tiếp, các nhà đầu tư nước ngoài đã tiến hành chuyển giao công nghệ. Nhiều công nghệ mới đã nhập vào nứoc ta. Để đạt năng suất , chất lượng và hiệu quả cao thì máy móc, thiết bị công nghệ hiện đại không thôi chưa đủ ,mà phải có những con người sử dụng những thiết bị đó. Vì thế các nhà đtnn, trong quá trình đầu tư rất quan tâm đến việc tham gia đào tạo, nâng cao tay nghề, trình độ chuyên môn cho người Việt Nam, kể cả lao động trực tiếp lẫn đội ngũ quản lý.
ĐTTTNN góp phần giải quyết việc làm cho người lao động; tăng thu nhập cho dân. Tính đến hết năm 2000, khu vực ĐTTTNN đã thu hút khoảng 350 lao động Việt Nam, nếu tính cả lao động gián tiếp có thể lên đến 400000 người. Đồng thời, ĐTTTNN cũng góp phần chuyển dịch cơ cấu ngành nghề, cơ cấu lao động, đào tạo đội ngũ công nhân lành nghề có khả năng tiếp thu và sử dụng công nghệ tiên tiến, với mức lương trung bình 70 USD/tháng, thu nhập của người lao độmg trong khu vực này lên tới 300 triệu USD/năm.
ĐTTTNN góp phần quan trọng trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá hiện dại hoá.
Trong năm 2000, 21% vốn đăng ký tập trung lĩnh vực công nghiệp và xây dựng. ĐTNN đã có những đóng góp đáng kể vào công cuộc chuyển dịch cơ cấu kinh tế của nước ta.
ĐTTTNN góp phần mở rộng quan hệ kinh tế quúc tế thông qua đóng góp phần mở rộng thị trường của Việt Nam.
ĐTTTNN góp phần đẩy mạnh xuất khẩu, tăng thu ngoại tệ, lành mạnh cán cân thương mại.
ĐTNN góp phần thay đổi bộ mặt đất nước, đặc biệt là các thành phố: Hà Nội, TPHCM và nâng cấp cơ sở hạ tầng.
ĐTTTNN cung cấp kinh nghiệm, tạo nên động lực giúp các doanh nghiệp Việt Nam mạnh dạn đầu tư ra nước ngoài. Cho đến năm 2001 dã có 41 dự án Việt Nam đầu tư ra nước ngoài tại 12 nước và vùng lãnh thổ với vốn đăng ký 40 triệu USD.
Chính nhờ việc phải không ngừng hoàn thiện môi trường đầu tư để tăng cường thu hút ĐTNN, nên luật pháp Việt Nam được hoàn thiện dần từng bước phù hợp với thông lệ quốc tế tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình hội nhập.
Những mặt hạn chế.
Bên cạnh những thành tựu những đóng góp to lớn của ĐTTTNN như đã trình bày ở trên, hoạt động ĐTNN cũng còn bộc lộ nhiều hạn chế, yếu kém.Cụ thể:
Nguồn vốn FDI của nước ngoài vào Việt Nam trong 3 năm gần đây liên tục giảm sút cả về số vốn lẫn tỷ trọng trong tổng vốn đầu tư xã hội.
Cơ cấu đầu tư tuy có nhiều cải thiện tích cực nhưng vẫn còn nhiều điều bất hợp lý. Như vốn đầu tư vẫn chủ yếu tập trung vào những vùng kinh tế trọng điểm; về đối tác nước ngoài gần 70% vốn ĐTTTTNN là từ các nước châu á, vốn từ các nước có tiềm lực như Mỹ, Tây âu vẫn còn rất hạn chế, về hình thức đầu tư đang có sự chuyển mạnh qua hình thức 100% vốn nước ngoài.
Hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp có vốn FDI thấp, số doanh nghiệp khai lỗ ngày càng tăng. Nhà nước chưa quản lý được các doanh nghiệp có vốn ĐTNN.
Còn có nhiều hạn chế trong lĩnh vực chuyển giao công nghệ: có những công nghệ chuyển giao đã cũ kỹ, lạc hậu, hoạt động kém hiệu quả; công nghệ được chuyển giao không đồng bộ và đánh giá không đúng... từ đó dẫn đến sản phẩm làm ra có tính cạnh tranh chưa cao và còn gây ô nhiễm môi trường.
Những hạn chế về chính trị-xã hội-văn hoá do ĐTTTNN gây ra.
Những thuận lợi và khó khăn trong hoạt động thu hút và sử dụng vốn FDI.
Những thuận lợi:
- Thuận lợi về kinh tế chính trị tài nguyên thiên nhiên.
Việt Nam là một nước đông dân (Thứ 2 ở Đông Nam á), có trình độ giáo dục cao và điều kiện về phúc lợi xã hội, chăm sóc y tế là tốt nhất trong các các nước có cùng trình độ phát triển, trong những năm gần đây Việt Nam có tiến độ tăng trưởng khá cao, nếu cứ giữ được tiến độ này thi Việt Nam có thể đẩy nhanh tốc độ tăng thu nhập của nhân dân, tăng sức mua khi đó Việt Nam coi như là một thị trường có sức tiêu thụ hàng hoá lớn Việt Nam có nhiều tiềm năng về lao động, đất đai và tài nguyên khoáng sản cùng với sự ổn định về chính trị, ổn định về kinh tế vĩ mô và việc thực thi chính sách mở của Việt Nam đã trở thành một địa chỉ hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài.
Về vị trí địa lý.
Việt Nam nằm ở trung tâm khu vực Đông Nam á có các điều kiện thuận lợi về giao thông và là vị trí quan trọng tầm chiến lược về phát triển kinh tế cũng như an ninh của khu vực.
- Sự phát triển nhanh chóng của tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ trên thế giới đã tạo điều kiện thuận lợi và lôi kéo các nước tham gia ngày càng mmm vào quỹ đạo của sự phát triển đặc biệt là khu vực Châu á đang nổi lên làn sóng phát triển công nghệ kỹ thuật và Việt Nam đang được cuốn theo làn sóng ấy.
Tiềm năng sản xuất nông nghiệp của Việt Nam là rất lớn (sản xuất nông nghiệp chiếm 1/3 GDP).
Những khó khăn trong hoạt động thu hút FDI ở Việt Nam.
- Mức độ rủi ro tương đối cao so với các nước khác trong khu vực do tình trạng kém hoàn thiện của môi trường pháp lý sự yếu kém về hệ thống ngân hàng - tài chính, sự eo hep về huy động vốn trong nước, trình độ kinh doanh thấp của các nhà doanh nghiệp Việt Nam, và tình trạng lạc hậu về cơ sở hạ tầng.
- Mức độ cạnh tranh cao hơn trên thị trường tài chính quốc tế đặc biệt là sự cạnh tranh gay gắt giữa các nước trong khu vực trong đó có nhiều nước có lợi thế hơn hẳn Việt Nam (Trung Quốc).
- Lực lượng lao động chủ yếu chưa qua đào tạo không đáp ứng yêu cầu của các nhà đầu tư nước ngoài.
- Thách thức nữa với nền kinh tế Việt Nam nói chung và đầu tư trực tiếp nước ngoài nói riêng đó là vấn đề nợ nước ngoài. Tính đến 1992 chỉ số nợ GDP Việt Nam là 120%.
- Việc tham gia vào AFTA góp phần làm tăng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam, nhưng lại có thể là một trở ngại cho hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài của các công ty xuyên quốc gia. Do một động cơ thúc đẩy các công ty xuyên quốc gia đầu tư vào LDCs là do độc quyền chiếm lĩnh thị trường để có thể thu lợi nhuận độc quyền cao. Nhờ có hàng rào thuế quan mà các công ty xuyên quốc gia không vấp phải đối thủ cạnh tranh khi tham gia AFTA. Việt Nam sẽ thực hiện cắt giảm thuế quan như vậy nền kinh tế sẽ không còn hàng rào bảo hộ mậu dịch che chắn điêù đó sẽ làm giảm thậm chí loại bỏ quyền lực độc quyền của các công ty xuyên quốc gia đang đầu tư và sẽ đầu tư ở Việt Nam chắc chắn sẽ làm giảm động cơ đầu tư của các công ty xuyên quốc gia triển vọng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam trong những năm tới là rất sáng sủa, nhưng bên cạnh những thuận lợi to lớn cũng có không ít thách thức mà Việt Nam phải đối mặt. Mức độ thành công trong việc thực hiện chiến lược thu hút vốn đầu tư nước ngoài sẽ tuỳ thuộc vào năng lực chủ quan của chúng ta để hiện thực hoá những lợi thế tiềm năng và vượt qua thách thức. Trong cuộc cạnh tranh để thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài nhằm mục tiêu phát triển kinh tế xã hội chúng ta hành động theo phương châm “ai nhanh thì sẽ thắng, còn chậm thì chẳng bao giờ”
Những rủi ro thường gặp trong quá trình triển khai các dự án FDI tại Việt Nam.
Các rủi ro ở mức độ thấp làm cho các dự án FDI phải tạm ngừng triển khai.
Các rủi ro ở mức độ trung bình làm cho các dự án phải chuyển đổi hình thức đầu tư so với cam kết ban đầu.
Các rủi ro ở mức độ cao làm cho các dự án bị giải thể trước thời hạn.
Những vấn đề bức xúc đặt ra trên đây buộc chúng ta phải có những giải pháp đồng bộ và hữu hiệu thì mới đạt được những mục tiêu thu hút đầu tư nước ngoài phục vụ cho chiến lược phát triển kinh tế xã hội trong chặng tiếp theo của tiến trình phát triển kinh tế.
Bài học về vận động và thu hút vốn FDI trong thời gian qua.
Để thu hút được vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, trước hết phải có phương pháp tiếp cận, phân loại đối tác để lựa chọn đối tác có tiềm năng, có uy tín. Thời gian qua đã có những cư hội tốt để thực hiện điều đó, vì đã có nhiều tập đoàn và công ty có tên tuổi trên thế giới vào VIệT NAM tìm hiểu khả năng đầu tư. Đáng tiếc rằng, cơ chế nhiều đầu mối trong giao dịch tiếp xúc với bên ngoài và sự yếu kém của hệ thống quản lý và truyền đạt thông tin, đã làm hạn chế kết quả thăm dò để hiểu rõ được các đối tác, và kịp thời thiết lập các mối quan hệ thường xuyên với họ. VN cũng chưa xây dựng được một hệ thống thông tin ở bên ngoài để nghiên cứu các đối tác.
còn ở trong nước, thiếu sự chuẩn bị một cách kỹ lưỡng danh mục các dự án ưu tiên gọi vốn đầu tư nước ngoài. Như phần trên dẫ trình bày, do các địa phương và các ngành chưa có quy hoạch về các dự án hợp tác đầu tư trực tiếp với nước ngoài, nên danh mục các dự án đưa ra gọi vốn trực tiếp của nước ngoài nhiều khi chưa được sự nhất trí cao trong nội bộ VN. Có thể do chưa thấy hết tầm quan trọng của công tác này, có địa phương, có ngành còn đưa ra các dự án chưa được tính toán và chuẩn bị kỹ, số liệu không đầy đủ. Điều này đã gây khó khăn cho quá trình vận động đầu tư, giới thiệu dự án và đàm phán cụ thể, làm giảm sức hấp dẫn của các danh mục dự án đã ban hành. Trong những năm gần đây, công tác chuẩn bị xây dựng danh mục dự án chuẩn bị gọi vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã có tiêns bộ, phần nào khắc phục được các tồn tại trên. Tuy nhiên, việc xây dựng danh mục các dự án ưu tiên phải phù hợp với quy hoạch của địa phương và ngành, phù hợp với các tiêu chuẩn và thông lệ quốc tế vẫn cần được quan tâm thích đáng hơn trong thời gian tới.
Xu thế vận động của dòng FDI tại Việt Nam.
Khu vực FDI những năm vừa qua đã góp phần đáng kể vào tăng trưởng kinh tế của Việt Nam.
Trong bối cảnh biến độngcủa nền kinh tế khu vực và thế giới thời gian qua, Việt Nam cũng tích cực cải thiện môi trường đầu tư nhằm thu hút nhiều hơn nữa vốn FDI. Tuy nhiên, trong tổng thể cân đối trung của nền kinh tế Việt Nam vẫn xác định rõ vai trò của vốn trong nước là chủ đạo, đồng thời nhấn mạnh của vốn FDI. Luồng vốn FDI vào Việt Nam nhằm tăng sức cạnh tranh của nền kinh tế, nhưng không vì thế mà bóp nghẹt sản xuất trong nước, hướng các doanh nghiệp có vốn FDI vào sx hàng xuất khẩu và hàng thay thế hàng nhập khẩu, các công trình đòi hỏi vốn lớn và công nghệ cao, cũng như những lĩnh vực mà nền kinh tế còn yếu kém. Đó là mong muốn từ phía Việt Nam khi thu hút vốn FDI, nhưng việc đồng vốn này vào Việt Nam theo chiều hướng nào lại phụ thuộc rất nhiều vào nhà đầu tư và xu thế vận động chung của nền kinh tế thế giới, vào sự vận động của FDI toàn cầu cũng như trong khu vực.
Sự vận động của dòng vốn FDI tại Việt Nam chủ yếu mang tính tự phát, bởi vì chúng ta chưa có quy hoạch đầy đủ và tổng thể về việc xúc tiến và gọi vốn FDI vào Việt Nam ( trù dự án xuất khẩu 100 hoặc chủ yếu xuất khẩu). Khi đầu tư vào Việt Nam, các chủ đầu tư của các dự án FDI vẫn phải xin tỷ lệ nội tiêu và ngoại tiêu trong khi các doanh nghiệp trong nước không bị điều chỉnh bởi quy chế này. Đây cũng là một vấn đề nhạy cảm vì chúng ta cần bảo hộ sx trong nước, cho nên không nên vội vàng giả thể ngay các doanh nghiệp trong nước mà sản phẩm vẫn có thị trường tiêu thụ, làm ăn không thua lỗ.
Một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút vốn FDI giai đoạn 2001-2005.
Mục tiêu tổng quát của kế hoạch 2001-2005.
Tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững; ổn định và cải thiện đời sống nhân dân. Chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng đẩy mạnh CNH-HĐH. Nâng cao rõ rệt hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Mở rộng kinh tế đối ngoại. Tạo chuyển biến mạnh về giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, phát huy nhân tố con người. Tạo nhiều việc làm; cơ bản xoá đói giảm nghèo, đẩy lùi các tệ nạn xã hội. Tiếp tục tăng cường kết cấu hạ tầng kinh tế; xã hội; hình thành một bước quan trọng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia.
Các chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch 2001-2005
Nhịp độ tăng trưởng GDP hàng năm là 7,5%.
Cơ cấu ngành kinh tế trong GDP đến năm 2005 dự kiến: Tỷ trọng nông, lâm, ngư nghiệp 20-21%; tỷ trọng công nghiệp và xây dựng 38-39%, tỷ trọng các ngành dịch vụ 40-42%; giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp tăng 4,8%/năm; giá trị sản xuất ngành công nghiệp tăng 13,1%/năm; giá trị sản xuất các ngành dịch vụ tăng 7,5%/năm.
Tổng kim ngạch xuất khẩu tăng 14-16%/năm.
Giảm tỷ lệ sinh bình quân hàng năm 0,05%; tốc đọ tăng dân số vào năm 2005 khoảng 1,2%.
Giải quyết thêm việc làm cho khoảng 7,5 triệu lao động, bình quân 1,5 triệu lao động/năm; nâng cao tỷ lệ lao động qua đào tạo lên 30% vào năm 2005.
Tỷ lệ trẻ em trong đọ tuổi đi học cơ sở đi học đạt 80%; trong độ tuổi trung học phổ thông đi học đạt 45% vào năm 2005.
Cơ bản xoá đói, giảm nghèo xuống còn 10% vào năm 2005.
Giảm tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng xuống còn 22-25%; đáp ứng 40% nhu cầu thuốc chữa bệnh được sản xuất trong nước; nâng tuổi thọ bình quân vào năm 2005 lên 70 tuổi.
Cung cấp nước sạch cho 60% dân số nông thôn.
Định hướng thu hút đầu tư
Đẩy mạnh thu hút FDI khuyến khích đầu tư nước ngoài vào các ngành công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, công nghiệp chế biến, các ngành công nghệ cao, vật liệu mới, điện tử, phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội và các ngành Việt Nam có lợi thế, gắn với công nghiệp hiện đại và tạo việc làm. Tập trung thu hút FDI vào các đề án xây dựng khu kinh tế mở để đưa vào kế hoạch 5 năm - Dự kiến thu hút FDI trong 5 năm tới (2001 - 2005) là 9 - 10 tỷ USD.
Những giải pháp chủ yếu nhằm thu hút nguồn vốn FDI trong giai đoạn 2001-2005
Các giải pháp về phía Chính phủ.
Cần phải xây dựng môi trường đầu tư hấp dẫn.
Trên cơ sở luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài và các biện pháp khuyến khích đầu tư nước ngoài ở các Bộ, ngành ban hành những quy định hướng dẫn về đầu tư nước ngoài trong những lĩnh vực thuộc chức năng và thẩm quyền quản lý của mình, cần đề phòng những trường hợp ban hành những thông tư hướng dẫn với những nội dung không nhất trí với các văn bản trên.
Những trở ngại về thủ tục hành chính đang là một vấn đề cản trở quá trình thu hút FDI. Môi trường đầu tư có được cải thiện hay không, theo ý kiến của đại bộ phận các nhà đầu tư nước ngoài và các doanh nghiệp trong nước, chính là có cải cách được bộ máy, giảm thiểu được thủ tụchành chính không cần thiết, giảm thiểu chi phí, tiết kiệm thời gian hình thành và triển khai dự án đầu tư...Do vậy Chính phủ cần dành nhiều thời gian để chỉ đạo có hiệu lực hơn công việc cải cách hành chính, cần phải có các hình thức khen thưởng và kỷ luật nghiêm minh đối với những cá nhân và tổ chức trong việc thực hiện chủ trương quan trọng và có ý nghĩa thời sự trọng đại này.
Những trở ngại về cơ sở hạ tầng yếu kém, những bất cập của yếu tố quản lý cần sớm được khắc phục. Cơ sở hạ tầng đã được ưu tiên đầu tư và có nhiều thay đổi sâu sắc, góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế, xã hội của Việt Nam trong những năm qua. Tuy nhiên so với các nước trong khu vực và trên thế giới thì cơ sở hạ tầng của Việt Nam còn kém phát triển. Trong thời gian tới, đầu tư vào cơ sở hạ tầng vẫn được khuyến khích đầu tư từ nhiều nguồn như: NSNN, vốn ODA, nguồn vốn tự có của các doanh nghiệp, nhưng cũng cần nghiên cứu thu hút vốn tư nhân trong nước, góp phần xây dựng cơ sở hạ tầng ngày càng hện đại, thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến đầu tư.
Đối với thị trường đầu tư, cần có sự nghiên cứu, phân tích một cách nghiêm túc các đối tác đầu tư lớn trên thế giới như: Mỹ, Nhật Bản, EU. Tại sao Nhật Bản là nhà đầu tư lớn nhất ở ASEAN nhưng chỉ đầu tư vào Việt Nam hết sức khiêm tốn ( vị trí thứ tư trong số các nhà đầu tư lớn nhất vào Việt Nam)? Mỹ là nhà đầu tư lớn nhất thế giới nhưng chỉ đầu tư vào ASEAN 5% trong tổng FDI giai đoạn 1990-1998; trong số đó, vào Việt Nam thì hết sức nhỏ bé.
Trong thời gian gần đây, quan hệ Việt Nam-Hoa Kỳ đã có những diễn biến tích cực: Việc thiết lập quan hệ ngoại giao vào tháng 7/1995 và ký hiệp định thương mại Việt-Mỹ vào tháng 7/2000. Hiện nay, Mỹ là một trong mười nước bạn hàng lớn nhất của Việt Nam và là nước đứng thứ 9 trong đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Khi hiệp định thương mại được ký kết và có hiệu lực, nếu công tác xúc tiến đầu tư được đẩy mạnh ở Mỹ, ở Nhật và châu Âu, Việt Nam sẽ thu hút sức mạnh của các công ty xuyên quốc gia của các trung tâm kinh tế lớn này. Và như vậy triển vọng thị trường đầu tư của Việt Nam sẽ sôi động thời gian tới.
Cần nghiên cứu để hình thành một hệ thống tổ chức hợp lý đối với hoạt động đầu tư nước ngoài.
Nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động FDI, cần tránh tình trạng sáp nhập, tổ chức mới, giải thể tuỳ tiện mà không tính đến hiệu quả của sự thay đổi tâm lý các nhà đầu tư, cũng như khả năng của việc quản lý Nhà nước đối với FDI. Kinh nghiệm của Nhật Bản cho thấy để tiến hành hoạt động kinh tế ra bên ngoài có sự phối hợp chặt chẽ giữa các tổ chức: Bộ Ngoại giao, Bộ Công thương, Bộ tài chính. Bộ ngoại giao đóng vai trò như là người mở đường thiết lập các mối quan hệ với nước ngoài, đặt cơ sở nền tảng cho mối quan hệ kinh tế. Bộ công thương: nghiên cứu chiến lược sau đó triển khai và thực hiện. Bộ tài chính: thẩm định và chuyển tiền. Tuy về hoạt động FDI ra bên ngoài là công việc của các công ty tư nhân, nhưng vai trò của 3 Bộ ngành là rất quan trọng, như là người chỉ đạo, hỗ trợ, tổ chức và kiểm soát. ở Việt Nam, để tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả hoạt động FDI, cần có sự phối hợp chặt chẽ và thống nhất giữa các bộ ngành: Bộ ngoại giao; Bộ kế hoạch và đầu tư; các bộ ngành kinh tế và các bộ khác, đặc biệt là Bộ Kế hoạch và Đầu tư; Bộ thương mại; Bộ công nghiệp và Bộ tài chính.
Tổ chức tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm về hoạt động FDI trên phạm vi cả nước.
Kể từ khi ban hành Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (tháng 12/1987) cho đến nay, hoạt động FDI đã đóng một vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế-xã hội ở Việt Nam; song bên cạnh đó vẫn bộc lộ những vấn đề cần nghiên cứu. Trong thời gian tới, Nhà nước cần chỉ đạo các bộ ngành và các địa phương tổ chức tổng kết, phân tích và đánh giá về tác động của FDI, tìm ra những mô hình tiêu biểu và bước đi thích hợp trong việc thu hút và sử dụng FDI.
Hoạt động FDI ở Việt Nam mới có 15 năm, chắc chắn sẽ còn rất mới mẻ đối với Việt Nam. Nếu được tổng kết, đánh giá nghiêm túc, rút ra những bài học kinh nghiệm, từ đó bổ sung về mặt lý luận và thực tiễn. Điều đó sẽ thúc đẩy hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam trong những năm đầu của thế kỷ XXI.
Một số giải pháp nhằm tăng cường triển khai các dự án FDI tại Việt Nam.
Từ thực trạng triển khai thực hiện các dự án FDI tại Việt Nam thời gian qua với những vấn đề cần tháo gỡ, Chính phủ cần tập trung vào giải quyết một số vấn đề như sau.
Nâng cao chất lượng công tác quản lý Nhà nước đối với hoạt động FDI, đặc biệt là chất lượng công tác quy hoạch, công tác xúc tiến đầu tư, tổ chức lại bộ máy quản lý hoạt động FDI, công tác định hướng cho FDI, hoàn thiện hệ thống pháp luật đối với hoạt động FDI, xây dựng cơ chế kiểm tra giám sát, tập trung cao độ vào công tác quản lý, điều hành nhằm tháo gỡ khó khăn kịp thời cho các dự án FDI, tiếp tục nghiên cứu cơ chế phân cấp quản lý đối với các dự án FDI.
Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư để tạo điều kiện thuận lợi nhất cho hoạt động đầu tư, đặc biệt là cải cách thủ tục hành chính theo hướng đơn giản nhất, tiện lợi nhất cho các nhà đầu tư.
Nâng cao chất lượng các hợp đồng liên doanh, đặc biệt chú ý thoả thuận rõ tiến độ góp vốn của các bên một cách cụ thể để làm cư sử cho việc quản trị triển khai dự án.
Kết hợp với việc huy động nguồn vốn ODA và nguồn vốn trong nước để đầu tư nâng cấp CSHT kỹ thuật và xã hội, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư triển khai thực hiện các dự án FDI tại Việt Nam.
Nâng cao chất lượng tuyển chọn lao động quản lý vào các chức danh của bộ máy quản lý của các doanh nghiệp có vốn FDI. Có chiến lược đào tạo và sử dụng đội ngũ cán bộ này, hạn chế dần việc tuyển ngang các cán bộ quản lý cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Xây dựng một hệ thống các tiêu chuẩn cho các chức danh quản lý trong hội đồng quản trị và ban giám đốc của doanh nghiệp liên doanh để có cơ sở tuyển chọn cán bộ Việt Nam đứng vào hàng ngũ các chưcs danh này.
Giải pháp nhằm tăng cường nguồn vốn FDI vào Việt Nam.
Từ những nguyên nhân làm suy giảm nguồn vốn FDI vào Việt Nam đã trình bày trong phần thực trạng, giải pháp cấp bách mà Việt Nam cần phải thực hiện để khác phục tình trạng này là:
Trước hết cần có những cải tiến trong công tác quản lý, điều hành, tháo gỡ khó khăn và hỗ trợ các dự án đang hoạt động sao cho có hiệu quả cao nhất. Các cơ quan quản lý Nhà nước cũng như các bộ phận chức năng khác phải có sự chia sẻ nhất định đôí với các doanh nghiệp hoạt động bằng vốn FDI trên lãnh thổ Việt Nam. Cần phải chỉ đạo điều hành và xử lý các vấn đề phát sinh một cách nhanh nhất, tạo điều kiện để họ vượt qua khó khăn và an tâm đầu tư sản xuất, kinh doanh.
Tăng cường thu hút vốn đầu tư FDI theo tinh thần nghị quyết Hội nghị Trung Ương Đảng lần 4 về phát huy tối đa nội lực, nâng cao quan hệ quốc tế theo các hướng:
Nâng cao chất lượng các quy hoạch ngành, vùng, lãnh thổ và cả nước, đồng thời dự báo chuẩn xác nhu cầu thị trường làm cơ sở cho việc xây dựng và công bố danh mục cacs dự án có vốn đầu tư nước ngoài.
Tiến hành vận động đầu tư theo hướng gắn liền với các chương trình, dự án cụ thể.
Chuyển mạnh hướng thu hút đầu tư, để tìm kiếm những đối tác đầu tư mới, nhằm tranh thủ kỹ thuật, công nghệ hiện đại để nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế. Nhưng đồng thời vẫn phải chú trọng thu hút vốn từ các đối tác khu vực, đặc biệt là Nhật Bản, Đài Loan, Hồng Kông và Trung Quốc.
Tạo điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế có thể trực tiếp tham gia hợp tác đầu tư với các đối tác nước ngaòi dưới những hình thức phù hợp.
Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện cơ chế chính sách theo hướng tạo điều kiện thuận lợi hơn cho việc triển khai các dự án. Cùng với nó là đa dạng hoá hơn nữa các hình thức thu hút FDI, hướng dẫn triển khai và xử lý kịp thời những vấn đề phát sinh liên quan đến việc áp dụng chính sách, quy chế mới.
Sử dụng mọi nguồn vốn với hiệu quả tối đa. Mọi nguồn vốn và tài sản sẵn có cần phải được sử dụng hiệu quả hơn với mục đích cuối cùng là làm sao mỗi đồng vốn bỏ vào đầu tư mới phải tạo ra những sản lượng cao hơn và nhiều việc làm hơn.
Một số giải pháp chủ yếu nhằm ngăn ngừa và hạn chế rủi ro trong triển khai các dự án FDI tại Việt Nam.
Đồng bộ hoá hệ thống luật pháp liên quan đến quản lý Nhà nước về hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Namnhằm ngăn ngừa và hạn chế rủi ro trong triển khai thực hiện các dự án FDI.
Tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh nhằm hạn chế tối đa rủi ro trong hoạt động triển khai dự án FDI.
Nâng cao chất lượng công tác thẩm định các dự án FDI nhằm lựa chọn các dự án có tính khả thi cao, giảm thiểu những rủi ro tiềm năng trong triển khai dự án FDI.
Tăng cường công tác quản lý, điều hành để tháo gỡ kịp thời những khó khăn khi vướng mắc, hỗ trợ các doanh nghiệp FDI hoạt động có hiệu quả nhằm hạn chế rủi ro từ khi mới phát sinh.
Đa dạng hoá hơn nữa các hình thức đầu tư để mở rộng cơ hội lựa chọn, chuyển đổi hình thức đầu tư cho các doanh nghệp FDI nhằm hạn chế rủi ro có thể làm cho doanh nghiệp bị giải thể trước thời hạn.
Đào tạo và đào tạo lại nguồn nhân lực, nâng cao trình độ chuyên môn về quản trị dự án FDI nhằm loại trừ những rủi ro trong triển khai dự án FDI.
Những giải pháp chủ yếu tiếp tục khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam.
Chính phủ Việt Nam bảo đảm thực hiện ổn định, lâu dài chính sách đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam bằng việc sửa đổi, bổ sung chính sách theo nguyên tắc tạo điều kiện thuận lợi hơn cho nhà đầu tư.
Các dự án được khuyến khích và dành ưu đãi đặc biệt: dự án sản xuất hàng xuất khẩu; sử dụng công nghệ cao; dự án đặc biệt khuyến khích đầu tư và dự án ở các địa bàn có danh mục kmf theo phụ lục I của nghị định.
Trong trường hợp các quy định mới của pháp luật bất lợi thì không áp dụng đối với các dự án đã được cấp Giấy phép. Các quy định có lợi hơn sẽ được điều chỉnh cho các dự án đã được cấp Giấy phép.
Bảo đảm các thủ tục đầu tư đơn giản, nhanh chóng theo nguyên tắc “một cửa”, “một đầu mối”. Các cấp hành chính khi ra văn bản hướng dẫn cần thống nhất với Bộ kế hoạch và đầu tư.
Nhà đầu tư được chọn dự án, hình thức đầu tư, địa bàn tỷ lệ góp vốn, thị trường sản phẩm tiêu thụ, đối tác thuộc các thành phần kinh tế.
Các dự án có 80% sản phẩm xuất khẩu, nhà đầu tư đăng ký hồ sơ theo mẫu và được cấp Giấy phép trong thời hạn 15 ngày.
Các dự án đã được cấp Giấy phép mà muốn tăng thêm ngành nghề, nhà đầu tư chỉ cần đăng ký với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền mà không phải xin thêm Giấy phép.
Khuyến khích và bảo đảm đầu tư.
Ngoài những trường hợp được miễn thuế lợi tức 8 năm theo quy định tại khoản 4 Điều 56 Nghị định 12/CP, các dự án trong danh mục của Nghị định này được miễn thuế lợi tức 4 năm kể từ khi kinh doanh có lãi và giảm 50% trong 4 năm tiếp.
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được tạm chưa nộp thuế nhập khẩu đối với nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu.
Máy móc, phương tiện, vật tư nhập khẩu để hình thành tài sản cố định được miễn thuế nhập khẩu (có danh mục kèm theo).
Các doanh nghiệp hạot động dịch vụ được miễn thuế một lần đối với trang thiết bị (có phụ lục kèm theo).
Các dự án thuộc danh mục đặc biệt khuyến khích đầu tư được miễn thuế nhập khẩu đối với nguyên liêụ sản xuất trong 5 năm kể từ khi bắt đầu sản xuất.
Doanh nghiệp được chuyển khoản lỗ vào năm tính thuế tiếp theo và được bù lỗ bằng lợi nhuận của nhưngx năm tiếp theo nhưng không quá 5 năm.
Doanh nghiệp hoặc các bên nước ngoài hợp doanh được khấu trừ khi xác định thu nhập chịu thuế các khoản tài trợ cho các hoạt động từ thiện, nhân đạo cho Việt Nam.
Lãi tiền vay của doanh nghiệp được tính vào chi phí xây dựng cơ bản, chi phí sản xuất, lãi xuất theo mức đăng ký với NHNN Việt Nam.
Các dự án có sản phẩm quy định trong giấi phép, doanh nghiệp phải báo cáo Bộ thương mại để điều chỉnh kế hoạch tiêu thụ hàng năm, trong 3 năm liên tục không thực hiện được tỷ lệ xuất khẩu thì phải điều chỉnh tỷ lệ xuất khẩu, các ưu đãi hoặc thu hồi Giấy phép.
Doanh nghiệp bán sản phẩm do doanh nghiệp sản xuất cho các doanh nghiệp sản xuất khác để trực tiêps sản xuất ra các sản phẩm xuất khẩu được miễn thuế nhập khẩu nguyên liệu và thuế doanh thu tương ứng với số sản phẩm đó.
NHNN Việt Nam bảo đảm cân dối ngoại tệ cho doanh nghiệp trong lĩnh vực: kết cấu hạ tầng, sản xuất hàng thay thế nhập khẩu thiết yếu và các công trình đầu tư quan trọng được Bộ kế hoạch và đầu tư công bố.
Các doanh nghiệp khác có sản xuất hàng xuất khẩu, được cân đối một phần nhu cầu ngoại tệ khi cần thiết trong 3 năm đầu theo thứ tự ưu tiên: nhập khẩu nguyên vật liệu sản xuất trong năm, nhập khẩu phụ tùng thay thế; trả lãi tiền vay.
Doanh nghiệp được cầm cố, thế chấp tài sản.
Các công trình hạ tầng kỹ thuật được Chính Phủ hỗ trợ xây dựng đến hàng rào các doanh nghiệp; các doanh nhiệp có thể thoả thuận ứng trước vốn hoặc các phương thức xây dựng công trình hạ tầng kỹ thuật.
Các doanh nghiệp được thuê đất xây dựng doanh nghiệp và thuê đất chưa cho thuê ở các khu công nghiệp để cho thuê lại.
Nghị định quy định trách nhiệm quản lý Nhà nước của các cơ quan của Chính phủ.
Việc kiểm tra doanh nghiệp định kỳ, kiểm tra chuyên ngành được thực hiện không quá một lần trong một năm đối với một doanh nghiệp; kiểm tra bất thường chỉ khi doanh nghiệp có dấu hiệu vi phạm pháp luật hoặc khi có sự cố trong thời hạn 30 ngày sau khi kết thúc kiểm tra, cơ quan kiểm tra gửi báo cáo kết quả kiểm tra đến Bộ kế hoạch và đầu tư.
Các giải pháp khác.
Giải pháp về môi trường luật pháp
Đơn giản hoá thủ tục phê duyệt rườm rà cho các dự án FDI, làm giảm số ngày tối đa để cấp giấy phép đầu tư nước ngoài từ 60 ngày xuống còn 30 ngày.
Thực sự nỗ lực ngăn chặn buôn lậu.
Đảm bảo minh bạch và công bằng trong các thủ tục hải quan và luật thuế.
Thực sự nỗ lực ngăn chặn nạn tham nhũng đang lan tràn.
Thực hiện nghiêm túc các nghị định thông tư đã được ban hành nhằm tạo thông thoáng cho môi trường đầu tư.
Cho mọi khu vực: Nhà nước, tư nhân và nước ngoài được cơ hội bình đẳng như nhau
Chính thức cho phép các liên doanh được chuyển thành hoàn toàn sở hữu nước ngoài hoặc sở hữu Việt Nam nếu họ muốn vậy.
Chính sách thuế
Giảm thuế thu nhập cá nhân có cả người Việt Nam và người nước ngoài. Giải pháp này nhằm khắc phục một tình trạng hiện nay ở Việt Nam có một hệ thống thuế lợi tức cá nhân luỹ tiến. Đối với người nước ngoài làm việc ở Việt Nam mà có thu nhập hàng năm khoảng 360 đến 600 triệu đồng khoảng 25700 - 43000 USD) thuế suất cá nhân là 40%. Đối với những khoản thu nhập hàng năm vượt quá 600 triệu đồng (43000USD) thuế suất áp dụng là 50% - số liệu này theo “Sứ quán Việt Nam”. “Môi trường đầu tư nước ngoài” Washington DC 8/2000 - ngoài ra tổng thu nhập gộp cũng phải chịu thuế, do chưa có chế độ khấu trừ thuế ở Việt Nam. Do đó thuế thu nhập cá nhân là cao so với mức thuế của khu vực và của thế giới.
Ví dụ: ở Thái Lan thuế suất 30% được áp dụng cho mức thu nhập cá nhân từ 1 triệu đến 4 triệu Bạt hay (25000 đến 102000USD) và 37% cho thu nhập trên 4 triệu Bạt (102.000 USD). Hơn nữa, hệ thống thuế ở Thái Lan cho phép khấu trừ thuế theo trợ cấp cá nhân, và một số ưu đãi khác. Thuế suất thu nhập của Trung Quốc còn thấp hơn cả Thái Lan.
(Theo Mas Jun, “nền kinh tế Trung Quốc những năm 90”, St, Martin’s Press, inc, Neu York 11/1999)
Giảm thuế chuyển lợi nhuận về nước. Một thực tế là các nhà đầu tư vào Việt Nam có thể thu được lợi nhuận từ chênh lệch giá các yếu tố đầu vào, nhưng bên cạnh đó để chuyển được lợi nhuận đó về nước mình các nhà đầu tư lại gặp một cản trở lớn về thuế chuyển lợi nhuận về nước.
Do đó không khuyến khích được các nhà đầu tư.
Giảm thuế giá trị gia tăng cho nguyên liệu nhập khẩu không sản xuất được trong nước => nâng cao được tính cạnh tranh hơn nữa với các nước láng giềng.
Cho phép khấu trừ thuế đối với lãi phải trả cho các khoản mà doanh nghiệp vay.
Các giải pháp đối với các lĩnh vực liên quan
Giảm giá các dịch vụ tiện ích đồng thời xoá bỏ cơ chế hai giá.
Việt Nam đã áp dụng chính sách hai giá giống Trung Quốc theo chính sách này Việt Nam đòi người nước ngoài trả giá gấp đôi cho hầu hết mọi thứ kể cả nước và nhà ở, so với dân địa phương. Ví dụ vé tàu hoả từ Hà Nội vào Sài Gòn giá 254 USD cho nước ngoài, nhưng đối với người trong nước chỉ 50USD, giá quảng cáo cao gấp 6 lần các công ty trong nước phải trả. Một vé máy bay đi từ Hà Nội đến Sài Gòn giá là 350 USD cho người nước ngoài, so với 135 USD cho người Việt. Với số tiền đó ở Mỹ người ta có thể bay từ Washington đến Los Angeles với khoảng cách gấp 5 lần Hà Nội - Sài Gòn.
Chính sách hai giá gián tiếp gia tăng chi phí của đầu tư nước ngoài và trên thực tế đã làm giảm số người vào Việt Nam đầu tư.
Xoá bỏ hạn chế đối với những đối tượng được phép làm trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Xoá bỏ
Mức đầu tư nhỏ nhất.
Mức vốn pháp định tối thiểu trong vốn đầu tư.
Lệ phí sử dụng đất quá cao.
Cho phép thuê bất động sản với thời gian dài hơn và cho phép được nhận thế chấp trong nước.
Cho phép định giá hợp lý đối với những đóng góp bằng tên hiệu, nhãn mác, uy tín hệ thống phân phối và những tài sản vô hình khác.
Cho phép định giá hợp lý đối với những đóng góp bằng kỹ năng, công nghệ, máy móc, thiết bị và đất đai.
Trên đây là một số giải pháp chủ yếu nhằm khuyến khích và thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt nam. Để thực hiện tốt chủ trương của Nhà nước về tăng cường các nguồn lực bên ngoài, cần có sự phối hợp thực hiện của Nhà nước và các doanh nghiệp.
Kết luận
Như vậy, qua 15 năm thực hiện chủ trương thu hút các nguồn lực bên ngoài mà chủ yếu là thu hút vốn và công nghệ, đã góp phần rất quan trọng vào tăng trưởng nền kinh tế đất nước. Nhằm thực hiện CNH-HĐH đất nước, đưa nước ta từng bước hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới, thu hút nguồn vốn và công nghệ cho sự phát triển không chỉ là chính sách mang tính chất cấp bách mà còn là một chiến lược lâu dài đã được Đảng và Nhà nước xác định. Vai trò của nguồn vốn FDI cho đầu tư phát triển kinh tế nước ta hiện nay không còn phải bàn luận. Song điều quan trọng là làm thế nào để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào hoạt động tại Việt nam đang là điều quan tâm hàng đầu của Đảng, Nhà nước và các doanh nghiệp. Mặc dù ĐTTTNN có xu hướng giảm trong những năm gần đây do chịu ảnh hưởng của nhiều lý do, song triển vọng thu hút nguồn vốn FDI vào Việt nam đã được các nhà nghiên cứu đánh giá là rất khả quan. Vì vậy để có thể khai thác được cơ hội này, Chính phủ và các cấp liên quan cũng như các doanh nghiệp phải có những biện pháp và chính sách cụ thể khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài chọn Việt nam là điểm đến trong tương lai.
Qua tổng kết, đánh giá những thành quả và hạn chế sau 15 năm thực hiện Luật ĐTNN theo chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước nhằm rút ra những bài học kinh nghiệm và xác định chính sách mới phù hợp hơn với tình hình hiện nay. Với những giải pháp được nêu ở trên cùng với những điều sửa đổi, bổ sung trong luật ĐTNN chắc chắn sẽ góp phần cải thiện môi trường đầu tư ở Việt nam trong thời gian tới. Mặc dù vậy, phải có sự nỗ lực của các cấp, ban ngành chức năng, của các doanh nghiệp và cũng cần phải có thời gian để những thay đổi này được áp dụng và phát huy được tính hiệu quả trong thực tiễn.
Phụ lục.
Trang.
Phần1:Lời nói đầu. 1
Phần2:Nội dung
I. Lý luận chung về đầu tư và nguồn vốn FDI. 2
Vốn đầu tư và cơ cấu vốn đầu tư. 2
Các hình thức đầu tư. 5
Khái quát về nguồn vốn FDI. 5
Cơ sở pháp lý của đầu tư trực tiếp nước ngoài. 9
Các dự án và địa bàn được khuyến khích đầu tư. 10
Một số xu hướng vận động chủ yếu của ĐTNN. 11
II.Thực trạng của hoạt động ĐTTTNN tại. 13
Đánh giá chung. 13
Thực trạng theo cơ cấu nguồn vốn FDI. 14
Những kết quả đạt được và hạn chế trong quá trình thực
hiện ĐTTTNNtại Việt Nam thời gian qua. 17
Những thuận lợi và khó khăn trong thu hút và sử dụng vốn FDI. 20
Bài học về vận động và thu hút vốn FDI trong thời gian qua 22
Xu thế vận động của dòng FDI tại Việt Nam. 23
III.Một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút vốn FDI
giai đoạn 2001-2005. 24
Mục tiêu tổng quát của kế hoạch 2001-2005. 24
Các chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch 2001-2005 25
Định hướng thu hút đầu tư 25
Những giải pháp chủ yếu nhằm thu hút nguồn vốn FDI
trong giai đoạn 2001-2005 25
Phần3: Kết luận 35
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35356.doc