Qua hơn 10 năm đổi mới, kinh tế- xã hội tỉnh Bắc Giang đã có những bước phát triển mới GDP tăng bình quân 7-8%/ năm trong đó Nông nghiệp tăng 7,2; Công nghiệp- xây dựng cơ bản tăng gia đình 3,8%; dịch vụ tăng 6,3% góp phần giải quyết việc làm cho 3-4 vạn lao động, hàng năm nhất là ở khu vực nông thôn, miền núi ngăn chặn giảm bớt các tệ nạn xã hội, đời sống nhân ngày càng được nâng lên, công tác xoá đói giảm nghèo đã thu được kết quả cao.
Để phục vụ công tác xoá đói giảm nghèo, Đảng và Nhà nước, tỉnh Bắc Giang đã có nhiều lỗ lực, ưu tiên những nguồn lực ngay từ những năm đầu của quá trình đổi mới mà tiêu biểu nhất là sự ra đời của Chương trình quốc gia về xoá đói giảm nghèo được coi là chương trình trọng điểm của Chính phủ và đã được tỉnh Bắc Giang thực hiện triệt để. Tuy nhiên, do xuất phát điểm quá thấp nên mặc dù kinh tế Bắc Giang có tăng trưởng khá trong những năm qua, nhưng Bắc Giang vẫn là một tỉnh nghèo với một tỷ lệ đói nghèo khá cao so với các tỉnh và thành phố khác trong cả nước. Do đó để đạt đươc mục tiêu mà Đại hội Đảng bộ tỉnh Bắc Giang lần thứ XIV đề ra là: “Giảm tỷ lệ nghèo đói xuống còn 10% vào năm 2000 và tiến tới xoá hẳn tình trạng đói nghèo vào năm 2010”.
95 trang |
Chia sẻ: Kuang2 | Lượt xem: 1039 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Những giải pháp cơ bản thực hiện xoá đói giảm nghèo tại tỉnh Bắc Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
năng động của các cấp chính quyền địa phương trong tỉnh. Chính quyền địa phương (huyện, xã) có lợi thế hơn so với chính quyền cấp tỉnh và TW trong việc giải quyết đầu tư cơ sở hạ tầng nào cho thích hợp vơí địa phương của mình, vì họ là người năm rã hơn hết nên có vai trò rất lớn trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng cho khu vực nông thôn. Lấy ví dụ như xã Sơn Hải huyện Lục Ngạn, trong qua trình tham gia vào dự án phát triển nông thôn tổng hợp giảm nghèo miền núi phía Bắc, theo quy định của WB thì hợp phần thuỷ lợi (hồ, đập nhỏ chứa nước) chiếm 15-18% tống số vốn đầu tư cho xã. Nhưng không thấy xã yêu cầu mà số vốn này lại được chuyển sang hợp phần giao thông. Qua kiểm tra thực tế thì thấy Sơn Hải là xã địa hình rất phức tạp, là xã vùng cao, đồi núi đan xen, giữa các đồi núi là các thung long nhỏ, rất khó đối với việc xây hồ, đập nhỏ chứa nước vì không có nơi sinh thuỷ, chính vì vậy xã đã đề nghị chuyển từ vốn hợp phần thuỷ lợi sang cho giao thông. Trong qua trình xây dựng các công trình có quy mô nhỏ cần địa phương tài trợ và trông giữ. Các công tình có quy mô lớn vượt ra ngoài ranh giới của tỉnh cần TW tài trợ. Các đường nội tỉnh, huyện, xã cần được tài trợ và bảo dưỡng ở ngay cấp chính quyền được hưởng lợi từ công trình đó.
1.2 Phát triển kinh tế trang trại.
Có thể nói phát triển kinh tế trang trại là chìa khoá cho sự phát triển kinh tế của tỉnh Bắc Giang và là một giải pháp cực kỳ quan trọng đối với việc xoá đói giảm nghèo của tỉnh. Điều đó xuất phát từ các lý do sau:
- Bắc Giang là một tỉnh miền núi với diện tích đất rừng đồi rất lớn, chiếm khoảng 55% diện tích đất tự nhiên toàn tỉnh. Đất đồi rừng ở Bắc Giang rất phù hợp vơi việc tang cây ăn quả như vải, nhãn, na, dứa, xoài, hang... Đây là những loại cây có giá trị kinh tế cao. Việc phát triển kinh tế trang trại, vườn đồi nhằm khai thác tiềm năng về đất đai, lao động, điều kiện tự nhiên ưu đãi của địa phương để phát triển kinh tế và xoá đói giảm nghèo là một chủ chương đúng của tỉnh Bắc Giang.
- Thực tế trong những năm qua cho thấy, nhờ phát triển kinh tế trang trại mà nhiều hộ thoát khỏi cảnh đói nghèo và vươn lên giàu có, thu nhập vài chục triệu đồng một năm. Nhờ có kinh tế trang trại mà đời sống của nhân dân ở một số huyện miền núi như Yên Thế, Lục Ngạn đã cải thiện được đáng kể, đặ biệt là huyện Lục Ngạn, từ một huyện nghèo nhất tỉnh nay đã trở thành một huyện giàu có nhờ cây ăn quả, toàn huyện có khoảng 700 hộ gia đình có thu nhập từ 10 triệu đồng/năm, cá biệt có những hộ có thu nhập trên 100 triệu đồng/ năm, nhờ cây ăn quả. Đặc biệt là cây vải đã thực sự đổi đời cho người dân vùng cao nơi đây, cây vải đã thực sự là biểu tượng xoá đói giảm nghèo ở Bắc Giang.
- Nghị quyết số 03 của Chính phủ về kinh tế trang trại có thể nói là đọng lực thúc đẩy kinh tế trang trại của tỉnh phát triển, nó giúp cho các chủ trang trại thực sự yên tâm đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh.
Từ những yếu tố kể trên có thể khẳng định việc phát triển kinh tế trang trại là mọt giải pháp tất yếu đối với việc phát triển kinh tế xã hội tỉnh Bắc Giang đồng thời góp phần quan trọng vào công tác xoá đói giảm nghèo của tỉnh.
* Tình hình phát triển kinh tế trang trại của Bắc Giang:
Thực hiện các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, trong những năm qua, Đảng bộ tỉnh luôn coi trọng việc sản xuất nông, lâm nghiệp, tập trung sức lực, trí tuệ, vốn để khai thác sử dụng có hiệu quả diện tích đất trống, đồi núi trọc, do đó nông nghiệp, nông thôn Bắc Giang có nhiều đổi mới. Việc phát triển kinh tế trang trại vườn đồi nhằm khai thác những tiềm năng về đất, lao động, điều kiện tự nhiên ưu đãi của địa phương đã có nhiều kết quả cao. Có thể khái quát tình hình kinh tế trang trại của Bắc Giang như sau:
- Số lượng trang trại gia đình tăng nhanh vơi quy mô nhỏ kể từ sau khi giao ruộng đất ổn định cho nông dân. Theo số liệu điều tra thì đến nay toàn tỉnh có hơn 20.808 trang trại, trong đó tập trung chủ yếu ở các huyện Yên Thế, Lục Ngạn, Lục Nam, các trang trại này hình thành sau những năm 1990 trở lại đây.
Trang trại của Bắc Giang chủ yếu có quy mô nhỏ dưới 1 ha chiếm 85,8% (17.664 trang trại), số trang trại từ 1 đến 5 ha chiếm 12,6 % (2.622 trang trại) từ 10 đến 20 ha chiếm 0,34% (71 trang trại), trên 20 ha chiếm 0,2% (35 trang trại).
- Phần lớn các trang trại của Bắc Giang đều sử dụng lao động gia đình là chính, một số thuê lao động thường xuyên và đa số thuê lao động theo thời vụ. Trong tổng số 20.808 trang trại thì có đến gần 19000 trang trại mà chủ hộ là nông dân (chiếm hơn 91%), còn lại gần 9% số chủ trang trại là công nhân viên chức đang công tác hoặc đã về hưu, hoặc là các đối tượng phi nông nghiệp khác. Số chủ trang trại là nông dân thuần tuý đa số thuê lao động theo thời vụ khi chăm sóc và thu hoạch, đối các trang trại còn lại phần lớn là thuê lao động thường xuyên để chưn sóc và bảo vệ.
- Phần lớn là trang trại cây ăn qủa, một số chủ trang trại kinh doanh tổng hợp kết hợp với trồng cây nông nghiệp và chăn nuôi.
Theo số liệu báo cáo thống kê, hơn 80% số lượng trang trại hiện có là trồng và kinh doanh cây ăn quả, với một số loại cây trồng chính khác là: vải, nhãn, hồng, na, xoài, dứa (huyện Lục Ngạn có đến 11.000 ha cây ăn quả, trong đó có hơn 8.000 ha vải thiều, còn lại là hồng, nhãn, na, dứa), gần 20% số trang trại theo mô hình vườn rừng, RVAC (lâm, nông kết hợp, nuôi trồng thuỷ sản và chăn nuôi).
- Các trang trại đã đầu tư vốn lớn vào sản xuất kinh doanh chủ yếu bằng vốn tự có. Theo số liệu tính toán để đầu tư cho 1 ha trồng cây ăn quả trong thời kỳ kiến thiết cơ bản cần khoảng 20 triệu đồng ( không tính đến tiền mua bán chuyển nhượng đất) thì ở huyện Lục Ngạn tổng số vốn đầu tư cho cây ăn quả là 220 tỷ đồng (khoảng 11.000 ha) trong khi số dư từ các nguồn vốn vay từ các chương trình xoá đói giảm nghèo trình đầu tư khác cho tại địa phương là 50 tỷ đồng (chiếm hơn 20% tổng số vốn đầu tư).
- Đất hình thành lên các trang trại có nguồn gốc như sau:
+ Nhận đất trống, đồi núi trọc, rừng và đất rừng của Nhà nước để lập trang trại cây căn quả, hoặc trang trại chăm sóc và bảo vệ rừng.
+ Nhận khoán nông, lâm trường để lập trang trại.
+ Nhận đấu thầu đất hoang hoá, hoặc mặt nước của tập thể để phát triển trang trại.
+ Chuyển nhượng, chuyển đổi giữa các hộ đã được giao quyền sử dụng đất để tập trung ruộng đất phát triển trang trại.
Qua phân tích tình hình kinh tế trang trại của Bắc Giang có thể thấy kinh tế trang trại đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ như sau:
Kinh tế trang trại là một bước phát triển mới của kinh tế hộ gia đình, gắn với mục tiêu sản xuất hàng hóa quy mô lớn, góp phần thúc đẩy quả trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn theo hướng tăng nhanh tỷ trọng sản xuất hàng hoá, tạo ra các vùng sản xuất tập trung, làm tiền đề cho công nghiệp chế biến nông sản, lâm sản, đưa công nghiệp và các ngành nghề dịch vụ vào nông thôn, tăng tốc độ phủ xanh đất trống đồi núi trọc, cải thiện môi trường sinh thái.
Do phát triển kinh tế trang trại, nên hiện nay tỉnh Bắc Giang đã hình thành vùng sản phẩm hành hoá tập trung, như vùng vải thiều ở Lục Ngạn, Lục Nam, Yên Thế.
- Kinh tế trang trại phát triển đã góp phần khai thác diện tích đất trống, đồi núi trọc, diện tích đất còn hoang hoá đưa vào sản xuất nông, lâm nghiệp, nuoi trồng thuỷ sản, nâng cao hiệu quả sử dụng đất của tỉnh.
- Kinh tế trang trại phát triển đã góp phần huy động lượng vốn khá lớn trong dân để đầu tư phát triển sản xuất. Phần lớn vốn đầu tư phát triển trang trại là vốn tự có chiếm tỷ lệ 80% tổng số vốn đầu tư, còn lại là vốn vay và vốn đầu tư từ các dự án đầu tư (dự án 327, xoá đói giảm nghèo ...).
- Kinh tế trang trại phát triển đã góp phần đáng kể làm tăng giá trị tổng sản lượng, nâng cao tỷ trọng sản phẩm hàng hoá, giải quyết việc làm cho người lao động nông thôn.
Hiện nay, số lượng các trang trại đã qua thời kỳ kiến thiết cơ bản ngày càng nhiều, nên sản lượng cây ăn quả tăng dần qua các năm. Hàng năm, giá trị sản lượng đóng góp từ vườn đồi, trang trại là hàng trăm tỷ đồng, góp phần không nhỏ vào thay đổi bộ măt nông thôn. Đồng thời nhu cầu về lao động dịch vụ vận chuyển cung ứng vật tư cho sản xuất, tiêu thụ sản phẩm và chế biến tăng nhanh, đã giải quyết thêm việc làm cho hàng vạn người lao động không thường xuyên , hàng chục nghìn lao động thường xuyên.
- Kinh tế trang trại phát triển tạo cho người nông dân quen với kinh tế thị trường, đưa nhanh tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, nhu cầu phát triển các hình thức hợp tác, liên doanh, liên kết tăng nhanh.
Bên cạnh những mặt được thì kinh tế trang trại ở Bắc Giang vẫn còn chưa nhiều tồn tại cần giải quyết, tháo gỡ để tiếp tục phát triển.
- Chủ chương của Đảng, Nghị quyết của Chính phủ chưa được thể chế hoá thành những chính sách cụ thể, việc giao đất và cho thuê vẫn chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ổn định lâu dài. Các thủ tục để tiến hành chuyển nhượng, chuyển đổi ruộng đất còn phức tạp và chưa được hướng dẫn cụ thể, rộng rãi đến nhân dân, do đó chính quyền địa phương chưa quản lý được.
- Các huyện chưa chủ động triển khai quy hoạch của từng trang trại hoàn toàn chủ quan của nguời quản lý. Mặt khác, các trang trại trong tỉnh chủ yếu là cây ăn quả phát triển nhanh, trong khi đó việc phát triển, cơ sở hạ tầng chưa tương xứng. Nên hiện nay các trang trại gặp khó khăn về nước tưới tiêu, về vận chuyển vật tư, sản phẩm hàng hoá và thị trường tiêu thụ.
- Phần lớn các trang trại mới tâp trung chủ yếu mở rộng diện tích, áp dụng các kinh nghiệm truyền thống mà chưa quan tâm tới áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật như: giống, kỹ thuật chăm sóc và phòng trừ sâu bệnh, bảo quản chế biến sau thu hoạch... nên năng suất, chất lượng sản phẩm làm ra còn chưa cao.
- Về giống chủ yếu do dân tự lo, nên khâu giống không được tuyển chọn dẫn đến chất lượng chưa đồng đều, không đảm bảo chất lượng sản phẩm cho chế biến.
* Các giải pháp để phát triển kinh tế trang trại:
à Chủ trương phát triển trang trại:
Để khắc phục những vấn đề bức xúc đặt ra đối với kinh tế trang trại, động viên các chủ trang trại thục sự yên tâm đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, ngày 2/2/2000 Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 03/2000/NQ-CP về kinh tế trang trại, quan điểm chính của Nghị quyết này là:
+ Kinh tế trang trại là hình thức tổ chức hàng hoá trong nông nghiệp, nông thôn, được Nhà nước khuyến khích phát triển và bảo hộ. Phát triển kinh tế trang trại nhằm khai thác, sử dụng có hiệu quả đất đai, vốn, kỹ thuật, kinh nghiệm để mở rộng sản xuất, quy mô và nâng cao hiệu quả sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, góp phần tạo việc làm, tăng thu nhập, xoá đói giảm nghèo, phân bổ lại dân cư, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn, xây dưụng nông thôn mới.
- Các hộ gia đình, cá nhân đầu tư phát triển trang trại được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ổn điịnh lâu dài. Việc đất đai cho thuê được thực hiện theo hướng ưu tiên cho các hộ có vốn, có kinh nghiệm, có yêu cầu mở rộng quy mô sản xuất và hộ không có đất sản xuất nông nghiệp nhưng có nguyện vọng tạo dựng cơ nghiệp lâu dài trong nông nghiệp.
- Phát triển trang trại được Nhà nước hỗ trợ về vốn, khoa học công nghệ, chế biến tiêu thụ sản phẩm, xây dựng kết cấu hạ tầng và tăng cường công tác quản lý Nhà nước trên cơ sở Nghị quyết của Chính phủ và điều kiện thực tế địa phương. Để thực hiện phát triển kinh tế trang trại, tỉnh Bắc Giang cần thực hiện các giải pháp sau:
à Quy hoạch vùng phát triển trang trại:
Để trang trại tạo ra khối lượng hàng hóa lớn, hình thành các vùng sản xuất lớn tập trung, tạo ra thế mạnh cạnh tranh, khắc phục tình trạng phát triển tự phát cần phải tiến hành :
+ Rà soát lại qui hoạch phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp, thuỷ sản của tỉnh. Xác định vùng phát triển trang trại, công bố quỹ đất có thể giao, cho thuê để phát triển trang trại, chủ yếu là diện tích đất chưa sử dụng trong quỹ đất của tỉnh.
+ Xác định hướng phát triển các loại cây trồng, vật nuôi phù hợp với lợi thế đất đai, khi hậu của từng vùng, chú ý đến khả năng tiêu thụ và chế biến sản phẩm. Hiện nay, một số cây trồng chính để phát triển trang trại đã được khẳng định là vải, na, hồng, nhãn, xoài. Cần chú ý quy hoạch phát triển vùng dứa nguyên liệu chọn nhà máy, phấn đấu đến năm 2005 ổn định diện tích trồng 5000 ha dứa.
+ Đối với vật nuôi, phát triển bò, dê ở 4 huyện Lục Ngạn, Sơn Động, Lục Nam, Yên Thế. Phát triển ong, gà , lợn, cá kết hợp với các mô hình kinh tế trang trại cây ăn quả để bổ sung và hỗ trợ lẫn nhau.
+ Quy hoạch kết cấu hạ tầng nhất là hệ thống thuỷ lợi, giao thông, hệ thống cung cấp điện, cơ sở sản xuất và cung ứng giống, bảo đảm đáp ứng tốt các yêu cầu phát triển sản xuất trang trại. Các huyện, thị có kế hoạch hàng năm cho việc đầu tư, xây dựng cũng như nâng cấp sửa chữa thường xuyên cơ sở hạ tầng của địa phương. Sớm có kế hoạch hoàn thành đưa vào hoạt động trung tâm giống cây ăn quả của tỉnh, các trạm khảo nghiệm, nghiên cứu giống của các nông lâm, trường.
à Tiến hành giao đất và cho thuê và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho diện tích chưa được cấp:
- Các huyện, thị cần sớm hoàn thành việc cung cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các chủ trang trại chưa được cấp giấy chứng nhận theo chính sách đất đai nêu trong Nghị quyết của Chính phủ.
- Hộ gia đình, cá nhân đã được nhà nước giao đất, hoặc đã nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất vượt hạn trước ngày 1/1/1999 để phát triển trang trại thì được tiếp tục sử dụng, chuyển sang thuê phần đất vượt mức theo quy định của Luật đất đai và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
- Hộ gia đình, cá nhân đã sử dụng đất để phát triển trang trại nhưng chưa được giao, chưa được thuê, hoặc đã nhận chuyển quyền sử dụng đất nhưng chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trong chính sách ngày ban hành nghị quyết 03/2000/NQ-CP của Chính phủ, sử dụng đất đúng mục đích và không có tranh chấp được xét theo để giao đất giao rừng, cho thuê đất, được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho chủ trang trại.
à Nâng cao tình độ ứng dụng khoa học công nghệ ở các trang trại:
Trang trại là nơi sản xuất nông sản, hàng hoá nên phải có khả năng cạnh tranh cao. Muốn thực hiện được mục tiêu đó, phải nâng cao trình độ ứng dụng khoa học công nghệ trong các trang trại, trong thời gian tới và trong lâu dài sau này cần tập trung:
+ Đầu tư xây dựng các công trình thuỷ lợi, kênh trục chính, đồng thời huy động vốn của trang trại đào ao, đắp đập xây dựng các công trình thuỷ lợi nhỏ, xây dựng hệ thống tưới tiêu phù hợp với điều kiện cụ thể của từng vùng, ứng dụng biện pháp tưới, tiêu khoa học, tiết kiệm nước.
+ Có kế hoạch điều chỉnh vốn hàng năm cho các trung tâm giống của tỉnh, các cơ sở khảo sát nghiệm, sản xuất giống của các nông, lâm trường hiện đang được giao nhiệm vụ để đảm bảo tuyển chọn bộ giống tốt cung cấp đủ cho các trang trại.
+ Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỏ chức tốt công tác khuyến nông, lâm, khuyến ngư để hỗ trợ các trang trại áp dụng nhanh kỹ thuật khoa học, công nghệ tiến bộ vào sản xuất, hướng dẫn các trang trại thực hiện các quy trình ký thuật canh tác tiến bộ để đạt năng suất cao và chất lượng sản phẩm tốt. Đồng thời, lấy mô hình trang trại để chuyển giao tiến bộ kỹ thuật tới hộ nông dân trong vùng xứ lý kịp thời những trường hợp buôn bán hàng giả, vật nuôi, vật tư, nông nghiệp nông dân và các chủ trang trại phát triển sản xuất có hiệu quả, hạn chế rủi ro.
+ Tranh thủ các chương trình đầu tư, ứng dụng kỹ thuật của các trường, các viện, các trung tâm nghiên cứu để tạo điều kiện chuyển giao tiến bộ kỹ thuật vào địa phương.
à Hỗ trợ trang trại tiếp cận thị trường, tiêu thụ nông sản hàng hóa:
+ Cần phải duy trì hội gnhị khách hàng tiêu thụ nông sản hàng năm để giới thiệu và tăng cường các đầu mối lưu thông, tiêu thụ sản phẩm. Khuyến khích, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp kinh doanh nông sản ký kết các hợp đồng cung ứng vật tư và tiêu thụ sản phẩm với các chủ trang trại và các hộ nông dân.
+ quy hoạch và đầu tư phát triển hệ thống chợ nông thôn, các trung tâm giao dịch mua bán nông sản và vật tư nông nghiệp, nhất là các địa bàn tập trung phát triển kinh tế trang trại.
+ Tổ chức tốt việc cung cấp thông tin thị trường, hướng dẫn các trang trại sản xuất kinh doanh phù hợp với nhu cầu thị trường trong và ngoài nước. Tạo điều kiện cho các chủ trang trại được tham gia hội chợ triển lãm giới thiệu sản phẩm trong và ngoài nước.
à Nâng cao năng lực quản lý của chủ trang trại và sử dụng lao động:
ở Bắc Giang, số chủ hộ trang trại là nông dân chiếm hơn 90, do đó việc bồi dưỡng, nâng cao năng lựuc quản lý cho các chủ trang trại là rất cần thiết, trước mắt thông qua tang kết, tổ chức tham quan các trang trại quản lý kinh doanh giỏi để học học tập, trao đổi kinh nghiệm và những kiến thức về khoa học quản lý.
Về lâu dài cần phải xây dựng chương trình đào tạo xuất phát từ nhu cầu thực tiễn sản xuất và tổng kết từ các mô hình trang trại sản xuất giỏi ở địa phương.
Các chủ trang trại được thuê lao động không hạn chế về số lượng, nhưng phải thực hiện tốt việc trang bị dụng cụ theo từng loại nghề cho người lao động, có trách nhiệm với người lao động khi gặp phải rủi ro, tai nạn, ốm đau trong thời gian làm việc theo hợp đồng.
à Thực hiện chính sách hỗ trợ của Nhà nước đối với trang trại:
Các huyện, thị cần có kế hoạch bố trí kinh phí để hỗ trợ đầu tư phát triển của Nhà nước từ quỹ hỗ trợ đầu tư để trồng rừng, trồng cây lâu năm, nuôi trồng thuỷ sản, chăn nuôi đàn gia súc.
Tỉnh nên có chính sách miễn giảm tiền thuê cho trang trại khi thuê đất trống, đồi núi trọc, đất hoang hóa để trồng rừng sản xuất, trồng cây lâu năm. Thực hiện miễn thuế thu nhập với thời gian tối đa cho chủ trang trại đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh ở nơi đất trống, đồi núi trọc.
à Tăng cường quản lý Nhà nước với kinh tế trang trại:
UBND tỉnh là cơ quan quản lý Nhà nước ở tỉnh, có nhiệm vụ chỉ đạo xây dựng quy hoạch, phối hợp các biện pháp hỗ trợ phát triển kinh tế trang trại.
Cơ quan quản lý Nhà nước các cấp tăng cường công tác chỉ đạo đối với kinh tế trang trại, hướng dẫn các chủ trang trại đảm bảo thực hiện đầy đủ quá trình kỹ thuật canh tác, bảo vệ, làm giàu đất, bảo vệ mộ trường. Thực hiện các nghĩa vụ đối với Nhà nước theo pháp luật. Đồng thời, bảo vệ quyền lợi chính đáng của chủ trang trại về tài sản và lợi ích khác.
Tổ chức tổng kết đúc rút kinh nghiệm các mô hình trang trại tiên tiến để tuyên truyền phổ biến, tham quan học tập lẫn nhau. Khen thưởng kịp thời những trang trại sản xuất kinh doanh giỏi, tạo được nhiều việc làm, tham gia xoá đói giảm nghèo có hiệu quả ở địa phương.
Việc phát triển kinh tế trang trại ở Bắc Giang là một giải pháp hữu hiệu nhằm tận dụng tiềm năng sẵn có của tỉnh về đất đai, lao động để phát triển kinh tế. Kinh tế trang trại phát triển sẽ góp phần giải quyết việc làm cho người lao động ở các huyện miền nui, nơi có tỷ lệ người nghèo cao, từ đó tăng thu nhập cho người nghèo giúp cho qua trình xoá đói giảm nghèo đạt kết qủ cao. Kinh tế trang trại phát triển còn thấp góp phần vào sự phát triển bền vững của kinh tế Bắc Giang bởi vì nó không chỉ tạo ra thu nhập mà còn góp phần boả vệ môi trường sinh thái. Có thể nói phát triển kinh tế trang trại là chìa khóa cho sự phát triển của tỉnh Bắc Giang đồng thời góp phần quan trọng xoá đói giảm nghèo ở Bắc Giang.
à Phát triển công nghiệp chế biến hoa quả:
Kinh tế trang trại gắn liền với sản xuất hàng hoá trên quy mô lớn, chính vì vậy một vấn đề hết sức quan trọng đặt ra là giải quyết khâu bảo quản và tiêu thụ sản phẩm hoa quả sản xuất được, bởi vì chỉ có chế biến, bảo quản tốt thì mới giải quyết hết khối lượng hàng hoá lớn và thu hoạch trong thời gian ngắn như vậy, qua đó nâng cao giá trị của nông sản hàng hoá và góp phần nâng cao thu nhập cho địa phương mà trực tiếp là các chủ trang trại.
Thực tế ở Bắc Giang trong những năm gần đây nhờ các chủ trương giao đất, giao rừng đến hộ nông dân đã tạo ra các trang trại trồng cây ăn quả tạo ra vùng cây ăn qua lớn. Tuy nhiên, vấn đề tiêu thụ sản phẩm làm ra còn chưa được quan tâm đúng mức dẫn đến làm giảm giá trị nông sản phẩm, gây thất thu lớn cho địa phương và cho các hộ trồng cây ăn quả.
Hình thức tiêu thụ nông sản phẩm chủ yếu của tỉnh hiện nay là tiêu thụ hoa quả tươi, chế biến quả tươi và sấy khô. Tiêu thụ hoa quả tưới đòi hỏi hoa quả sau khi thu hoạch phải được vận chuyển, tiêu thụ nhanh trong tỉnh và các thị trường khu trung tâm lớn trong toàn quốc, tuy nhiên do khối lượng hoa quả vào thu hoạch rất lớn trong toàn quốc, tuy nhiên do khối lượng hoa quả vào thu hoạch rất lớn nên hình thức tiêu thụ này này chỉ chiếm khoảng 40% sản lượng hoa quả trong các năm tới khi sản lượng hoa quả tăng lên nhiều thì hình thức này kém phát huy tác dụng. Đối với chế biến quả tươi thì hiện nay tỉnh có 2 xí nghiệp quốc doanh chế biến hoa quả và một số cơ sở nhỏ như HTX Kim Biên, Công ty bia chế biến nước hoa quả. Tuy nhiên, các cơ sở này quy mô nhỏ, công nghệ chế biến cũ kỹ nên chất lượng sản phẩm này không tiêu thụ được trên thị trường quốc tế được dẫn đến giá trị sản phẩm thấp. Với việc sấy khô như vải thiều, thì đến nay đây là vẫn là hình thức chế biến, bảo quản khối lượng sản phẩm lớn, tuy nhiên công nghệ sấy chủ yếu là thủ công, chất lượng sản phẩm kém còn nhiều khí CO và CO2 rất khó tiêu thụ ở thị trường quốc tế nên giá trị thấp, dẫn đến làm thất thu lớn cho các hộ nông dân và cho tỉnh.
Từ những vấn đề thực tế đặc ra về vấn đề bảo quản, tiêu thụ sản phẩm hao quả nông sản, đặt cho tỉnh Bắc Giang cần có giải pháp để chế biến, bảo quản nông sản hàng hoá nhằm tăng gia trị nông sản phẩm hàng hoá. Để làm được điều đó Bắc Giang cần tập trung vào các giải pháp chủ yếu sau:
- Tỉnh mạnh dạn đầu tư vốn xây dựng nhà máy chế biến hao quả công suất lớn, công nghệ hiện đại để có thể tạo ra sản phẩm đủ tiêu chuẩn cươn ra thị trường quốc tế. Nếu thiếu vốn tỉnh có thể mạnh dạn vay vốn chứ không nên trông chờ vào sựu hỗ trợ từ TW. Nhà máy này cần đặt ở giưã các trung tâm hoa quả lớn, đồng thời phải thuận tiện chi đi lại để cung cấp đầu vào và tiêu thụ đầu ra, có thể đặt tại thị xã Bắc Giang.
- Tỉnh nên nghiên cứu, giúp đỡ các chủ trang trại thiết bị đề sấy khô, bảo quản hoa quả đặc biệt là vải thiều, trang thiết bị này phải đảm bảo đủ điều kiện, tiêu chuẩn chất lượng để sản phẩm làm ra nó có đủ tiêu chuẩn chất lượng xuất ra thị trường quốc tế.
- Tỉnh nên khuyến khích tạo điều kiện cho các chủ trang trại có quy mô lớn, có vốn để họ hợp tác, liên doanh cùng nhau xây dựng các xưởng chế biến hoa quả tại chỗ, giảm chi phí vận chuyển hao quả tươi, các xưởng này có thể chế biến bảo quản hoa quả của các hộ lân cận. Tuy nhiên, cần lưu ý chọn công nghệ tiến tiến để cho ra dời những sản phẩm chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.
2. Hoàn thiện hơn nữa hệ thống phúc lợi xã hội và hệ thống bảo trợ xã hội cho người nghèo.
2.1 Chính sách giải quyết việc làm:
Đội ngũ lực lượng lao động ở nông nghiệp, nông thôn qua lớn, tốc độ tăng nhanh, khả năng thu hút lại bị hạn chế nên lực lưọng lao động bị dư thừa là rất lớn.
Theo kết quả điều tra của tỉnh thì trong năm 2000, trong tổng số 73,9 vạn lao động toàn tỉnh, lao động nông nghiệp chiếm 77,2%, lao động chưa có việc làm trong nông nghiệp còn nhiều, dự tính trong những năm tới, bình quân số lao động trong ngành nông nghiệp nông thôn tăng thêm 1,5 vạn người và tốc độ tăng hàng năm khoảng 2,5%. Đây là vấn đề lớn cần được tiếp tục quan tâm giải quyết.
Trong điều kiện đất đai bình quân trên một người lao động là rất thấp chỉ đạt 0,05 ha/1lao động, trong khi đó chủ yếu là thuần nông cho nên dư thừa lao động là rất lớn. Do lượng lao động bị dư thừa là qua lớn nên hệ số sử dụng thời gian cuãng trở nên rất thấp, năm 2000 là khoảng 70%. Đặc biệt đối với ngưòi nghèo thì vì nhiều lý do này khác mà hệ số sử dụng thời gian của anh ta càng thấp hơn so với mức bình quân. Trong những năm qua do tác động tích cực của dịch cơ cấu, cải cách kinh tế, cũng như các biện pháp tích cực trong việc giải quyết việc làm nên hệ số sử dụng thời gian lao động có tăng lên, nhưng hiện đại con số này vẫn cần tăng lên nhiều.
Hệ số sử dụng thời gian thấp dẫn đến năng suất lao động bình quân thấp cũng là do chất lượng lao động thấp (sức khẻo và trình độ), đất đai ít, không có vốn ... Với năng suất như vậy thu nhập của người dân cũng trở lên rất thấp phần lớn trong số họ là không có khả năng tích luỹ. Đó là một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng đói nghèo trở nên rất phổ biến của khu vực nông thôn.
* Biện pháp giải quyết việc làm:
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động ở nông thôn theo hướng giảm dần lao động thuần nông nghiệp, tăng tỷ trọng lao động phi nông nghiệp trong các đơn vị sản xuất quy mô nhỏ.
Thứ nhất, tiến hành đa dạng hoá ngành nghề, thực hiện nguyên tắc khuyến khích ai giỏi việc gì thì làm việc ấy, trên cơ sở giao đất ổn điịnh cho các hộ gia đình đồng thời thông qua các cơ chế chính sách và các biện pháp cụ thể để từng bước tập trung ruộng đất vào các hộ gia điình có khả năng sản xuất kinh doanh nông sản với điều kiện họ phải thu hút thêm người nghèo vào làm việc. Tiến hành khai hoang, cải tạo đất xấu, cố gắng khắc phục tình trạng diện tích đất nông nghiệp thấp như hiện nay. Đa dạng hoá việc làm và thu nhập càng trở thành một hình thức phổ biến ở nông thôn.
Thứ hai, cần phát triển mạnh mẽ các ngành nghề phi nông nghiệp. Đây là xu hướng cơ bản để phát triển nông nghiệp nông thôn trong tưong lai, trong đó chú trọng đến các ngành nghề sử dụng nhiều lao động nhưng cần lượng vốn ít, hướng đến làm hàng xuất khẩu. Phát triển mạng lưới dịch vụ kèm theo để hỗ trợ các cơ sở sản xuất đó, hệ thống dịch vụ này ở nông thôn hiện nay đang ở trong tình trạng rất yếu kém, nếu phát triển được nó tiềm năng thu hút lao động khá lớn. Khôi phục các nghề truyền thống có giá trị cao, các làng nghề và các xí nghiệp hương thôn sẽ gắn bó với quá trình đô thị hoá ở nông thôn.
Để thực hiện mục tiêu phát triển các ngành nghề phi nông nghiệp thì Nhà nước và tỉnh cần có những chính sách và chế khuyến khích các hoạt động này như về ưu đãi tín dụng, giảm các loại thuế, giải quyết những vướng mắc về thị trường.
Khuyến khích phát triển các hình thức hợp tác xã kiểu mới trên nguyên tắc hoàn toàn tự nguyện và cùng có lợi ở quy mô thích hợp như hợp tác xã liên gia đình, hợp tác xã nhóm hệ ... những mô hình hợp tác xã này sẽ tạo điều kiện cho những người nông thôn tập hợp sức mạnh lại và tận dụng hiệu quả hơn những thế mạnh của mỗi gia đình như nhiều vốn vay hay nhiều lao động... Đồng thời có chính sách và cơ chế khuyên khích những người có vốn và kỹ thuật mở mang các hình thức sản xuất kinh doanh theo kiểu trang trại như ở một số huyện Yên Thế, Lục Ngạn.
Đây là hình thức tổ chức lao động, giải quyết việc làm có hiệu quả trong cơ chế thị trường vì nó có nhiều ưu điểm như lợi thế nhờ quy mô sản xuất lớn dễ áp dụng các biện pháp khoa học kỹ thuật, người chủ có khả năng làm ăn gắn bó với kết quả sản xuất kinh doanh.
Hướng sự quan tâm vào các vùng có khả năng thu hút nhiều lao động trong thời gian tới như các huyện Yên Thế, Lục Ngạn, Sơn Động đây là các vùng cồn nhiều diện tích đất trống, đồi núi trọc và có khả năng phát triển cây ăn quả như vải, na, dứa, hồng...
Việc thực hiện phương án này cần kết hợp với các dự án di dân đến những vùng mà mật độ dân cư còn thưa thưa thớt để tận dụng, khai hoá đất hoang hoá, bên cạnh đó cần kết hợp định canh, định cư cho đồng bào dân tộc thiểu số.
2.2 Phát triển cơ cấu và cung cấp tín dụng cho người nghèo:
Vốn là một trong những là một trong những điều kiện sản xuất cơ bản, theo số liệu thống kê điều tra năm 1999 có tới 75% số hộ nghèo thiếu vốn hoặc không có vốn để sản xuất. Đây là một lý do quan trọng làm cho các hộ nghèo không vượt lên khỏi cảnh đói nghèo được. Trong những năm qua, Nhà nước đã cố gắng cải thiện sự phục vụ tín dụng này lên Ngân hàng người nghèo, các quỹ tín dụng nhân dân, tận dụng vốn vay cho người nghèo từ các dự án nước ngoài, tỉnh cũng đã thực hiện lồng ghép các chương trình để tạo thêm nguồn vốn cho xoá đói giảm nghèo, sử dụng với mức lãi suất ưu đãi cũng như các điều kiện thuận lợi cho người nghèo vay vốn. Nhưng thực tế cho thấy, nông dân nghèo vẫn kém tiếp cận với tín dụng chính quy và chỉ có được phần lớn các tín dụng phi chính quy với lãi suất cao hơn nhiều với lãi suất của khu vực chính quy mà họ không tiếp cận được. Sự tiếp cận yếu kém này rõ ràng là một trở ngại lớn cho công tác xoá đói giảm nghèo ở nông thôn. Vì vậy, để tưng khả năng tiếp cận của các hộ gia đình nghèo với tín dụng cũng như tăng hiệu quả của các khoản vay, cần có những đổi mới thiết thực trong các lĩnh vực như huy động vốn, phương thức vay vốn, cơ cấu lãi suất...
Tín dụng cho người nghèo phải thể hiện rõ nét tính ưu đãi của nó dành cho người nghèo như vay không cần thế chấp, vay với lãi suất thấp nhưng đồng thời cũng phải nhận thức đây hoàn toàn không phải là tiền cứu trợ nhân đạo. Trong cơ chế thị trường hiện nay, cần phải xây dựng một cơ chế tín dụng thế nào để vừa đảm bảo hỗ trợ của xã hội vừa kích thích ngươì nghèo tổ chức sản xuất làm ăn phù hợp với những yêu cầu của thị trường.
- Lãi suất khác nhau đối với những vùng khác nhau:
Hiện nay lãi suất của Ngân hàng người nghèo đang được áp dụng một mức thấp nhất trên phạm vi cả nước. Nhưng đây là một điều bất hợp lý:
Chi phí phòng ngừa rủi ro của hoạt động tín dụng.
Chi phí quản lý giao dịch
Lãi suất huy động vốn (tiền gửi)
Mức lãi suất tiền vay
+
+
=
Qua cách lãi suất tiền vay trên, có thể nhận thấy nó đã xa rời với thực tế làm ăn sản xuất kinh doanh của ngưòi dân vì mức độ sinh lợi nhuận trên một đồng tiền vốn ở đó ắt sẽ có cơ hội để thoát khỏi cảnh nghèo đói do điều kiện ưu đãi về kinh tế- xã hội hơn so với ngưòi dân ở các vùng nghèo ta cần nghiên cứu đặt ra các mức lãi suất hay xấp xỉ mức lãi suất thị trường còn các khu vực khó khăn có thể vẫn giữ mức ưu đãi.
- Miễn giảm lãi suất cho các hộ :
Những gia đình thuộc diện đói có nghĩa thuộc diện khó khăn nhất trong xã hội, khả năng sản xuất kinh doanh rất thấp, rất dễ bị tổn thương trước những rủi ro bất ngờ trong cuộc sống. Đói với những hộ nghèo như thế thì cần có sự quan tâm giáup đỡ nhiều hơn nữa. Trong vấn đề cung cấp tín dụng, sự hỗ trợ đặc biệt này có thể được áp dụng nhiều miễn toàn bộ lãi suất các khoản tiền vay của họ. Việc xoá bỏ lãi suất tiền vay cho các gia đình thuộc diện đói nghèo là hết sức có ý nghĩa, nó sẽ khuyến khích các hộ này mạnh dạn vay vốn hơn, khoản tiền lãi không phải trả tuy không lớn nhưng cũng rất cần thiết để họ có thể mở rộng sản xuất kinh doanh hay đối phó với những rủi ro bất ngờ.
- Cho vay bằng hiện vật đối với các người nghèo ở vùng sâu, vùng xa.
Một khó khăn lớn trong việc phát hy hiệu quả của các khoản tiền vay là do các đói tưọng vay đã không biết cách làm ăn mà nói cụ thể hơn là họ không biết dùng khoản tiền vay vào việc gì. Tình trạng này diễn ra khá nhiều ở các vùng núi, vùng cao của tỉnh... nơi có tỷ lệ nghèo đói hết sức cao. Để tiếp một số công cụ, tư liệu sản xuất cần thiết tương ứng với số tiền mà họ đã cho vay cho họ, ví dụ như cây giống, con giống, đạm, lân... Điều kiện giao lưu mua bán ở các vùng này rất khó khăn, nguồn thông tin mà người dân tiếp cận được rất hạn hẹp mà ở đây chủ yếu là đồng bào các dân tộc không quen với việc mua bán, vì vậy nên để ngân hàng đứng ra kết hợp với các đoàn thể chính quyền địa phương giải quyết là hợp lý.
* Huy động vốn:
Theo kế hoạch, trong 4 năm (1998-2001) cần có 122 tỷ đồng để cho ngưòi nghèo vay vốn. Những nguồn đóng góp hiện nay cho yêu cầu tín dụng này là ngân sách Nhà nước, ngân sách của tỉnh, huyện, các ngân hàng thương mại (huy động từ cộng đồng) và nguồn hợp tác quốc tế.
Để tăng hiệu quả của việc huy động vốn đầu tư cho các hoạt động tín dụng xoá đói giảm nghèo có thể áp dụng các biện pháp sau:
- Nhà nước cần có cơ chế buộc các tỉnh giàu, các công ty giàu dành ra một khoản thu của mình để hỗ trợ các tỉnh nghèo như Bắc Giang, và khoản vay này được đưa vào các tổ chức tín dụng cho người ở địa phương đó. Các Ngân hàng thưong mại cũng có thể giảm một phần lãi suất của mình xuống để cho vay mức lãi suất ưu đãi cho người nghèo.
- Hiện nay, các tổ chức quốc tế đang quan tâm nhiều đến các nước đang phát triển, chúng có thể có vai trò to lớn về cung cấp tín dụng trong tương lai. Vì họ muốn tự do hoá lãi suất mới cho vay nên ta có thể cố gắng đạt một thoả thuận về một mức lãi suất tự do hóa ở thành thị, ưu đãi ở nông thôn. Thực tế ở tỉnh Bắc Giang trong những năm qua cũng đã tận dụng được một nguồn vốn khá lớn từ nước ngoài thông qua hợp tác quốc tế như các dự án trồng rừng bằng nguồn vốn của Đức, Thái Lan... đạt gần 20 tỷ đồng. Mới đây nhất là Bắc Giang được Chính phủ cho tham gia vào dự án phát triển nông thôn tổng hợp giảm nghèo miền núi phía Bắc với thời gian thực hiện là trong 5 năm (2001-2005) và tổng vốn ước tính 15 triệu USD (tương đương 210 tỷ VNĐ). Đây có thể nói là một thuận lợi rất lớn đối với công tác xoá đói giảm nghèo ở tỉnh Bắc Giang trong những năm tới đây.
* Quản lý hoạt động vốn tín dụng:
- Tăng mức độ phục vụ.
Hiện nay cơ sở nhỏ nhất của các Ngân hàng người nghèo là cấp huyện và nó tiếp xúc với dân chủ yếu qua chính quyền cơ sở như UBND xã, phường, thị trấn các hợp tác xã... Trong khi đó ở Bắc Giang hầu hết là các huyện miền núi, vùng cao, điều kiện đi lại rất khó khăn, nên sự tiếp xúc với người nghèo lại bị hạn chế. Để tăng cường mức đọ phục vụ ta có thể tổ chức dạng nhóm công tác ngân hàng lưu động đến tận thôn bản.
- Thống nhất các nguồn tín dụng.
Hiện nay, có rất nhiều nguồn cung cấp tín dụng cho người nghèo đang hoạt động theo các chương trình, dự án khác nhau, và có nhiều cơ quan cùng làm chức năng cung cấp tín dụng cho người nghèo như Ngân hàng người nghèo, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, các quỹ tín dụng nhân dân... Để tăng cường hiệu qủa hoạt động tín dụng này cần sắp xếp tổ chức các nguồn vốn này về dưới quyên quản lý và phân phối của một cơ quan chuyên trách như Ngân hàng người nghèo. Các nguồn lực tài chính thống nhất trong tay, ta có thể tự biết chính xác nguồn lực có trong tay là bao nhiêu, phân phói chúng theo thứ tựu ưu tiên, tránh tình trạng chồng chéo, không thiết thực của việc vay vốn.
- Tích cực phát huy tiết kiệm tại chỗ.
Phát huy tiết kiệm của người đi vay (người nghèo) là hết sức quan trọng, một mặt nó nâng cao khả năng tài chính, trình độ làm ăn của người nghèo lên. Mắt khác, nó cũng đảm bảo hoàn trả vốn cho ngân hàng. Về lâu dài, tiết kiệm tại chỗ sẽ giúp cho người nghèo vượt qua cái vòng luẩn quẩn của sự đói nghèo.
Muốn thực hiện tiết kiệm tại chỗ được thì người dân phải làm ăn có hiệu quả. Để giúp cho họ có thể làm ăn tốt về phần mình ngân hàng có thể có những hướng dẫn cần thiết về cách hạch toán làm ăn. Tuy nhiên, để thực hiện được điều này ngân hàng còn phải kết hợp với nhiều tổ chức khác như hợp tác xã khuyến nông, Hội phụ nữ...
3. Phát huy tinh thần tương thân tương ái của cộng đồng xã hội, trong công cuộc xoá đói giảm nghèo.
Công cuộc xoá đói giảm nghèo ở nước ta nói chung và Bắc Giang nói riêng đòi hỏ không hcỉ là trách nhiệm, sự quan tâm và giúp đỡ của Đảng, Nhà nước, sự cố gắng của bản thân người nghèo hộ nghèo mà còn đòi hỏi sự giúp đỡ của cả cộng đồng xã hội về vật chất và tinh thần. Chúng ta cần phải thực hiện tốt tinh thần “tương thân, tương ái”, “lá lành đùm lá rách” trong công cuộc xoá đói giảm nghèo.
Bên cạnh những đóng góp về tiền của, vật chất trong những trường hợp xảy ra sự cố như thiên tai, những trường hợp cá nhân bị rơi vào hoàn cảnh đặc biệt (bệnh trọng, rủi ro...), chúng ta cần phát huy hơn nữa sự quan tâm giúp đỡ của các tổ chức đoàn thể, ban, ngành, nhóm, cá nhân một cách trực tiếp, có kế hoạch cụ thể vào đối tượng nhận giúp đỡ với phương châm giúp cho đối tượng có ý thức và có khả năng vươn lên vượt qua đói nghèo. Nếu làm được như vậy, hiệu qủa của sự giúp đỡ để giảm nghèo đói sẽ cao và bên vững hơn.
Một số đợn vvị đã thành lập Ban chỉ đạo xoá đói giảm nghèo như Hội phụ nữ tỉnh, Sở công nghiệp, Sở tư pháp, Sở lao động - thương binh xã hội, Hội nông dân, Đoàn thanh niên...
Các đơn vị nhận giúp đỡ đã thống nhất với chính quyền địa phương về một số hình thức, nội dung hỗ trợ, giúp đỡ phù hợp như: Giúp quy hoạch sản xuất, phát triển vùng nguyên liệu, cử cán bộ kỹ thuật hướng dẫn cách thức sản xuất, bảo quản, chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Đây là hình thức hỗ trợ thiết thực giúp đỡ hộ nghèo đói có kiên thức sản xuất, có việc làm và thu nhập, tự mình vươn lên xoá đói giảm nghèo và đã đạt được một số kết quả và giải pháp cần được duy trì như sau:
- Chỉ tính riêng trong 2 năm 1999-2000, Sở Lao động- TBXH đã mua 4800 người đói nghèo theo quy định tại thông tư 05/TT-LB với số kinh phí 102 triệu đồng và cấp giấy chứng nhận khám, chữa bệnh miễn phí cho 90.908 lượt người với số tiền miễn giảm là 1.619,5 triệu đồng. Khám và chữa bệnh miễn phí cho 9.310 lượt người mắc bệnh sốt rét, 9084 lượt người bị bướu cổ, thực hiện tốt các chương trình tiêm chủng mở rộng, tiêm AT cho phụ nữ có thai, uống Vitamin A cho trẻ em từ 6-36 tháng tuổi. Ngành giáo dục -đào tạo đã miễn giảm học phí cho 71.702 học sinh là con em hộ đói nghèo và dân tộc vùng cao với số tiền trên 1 tỷ đồng; hỗ trợ sách giáo khoa, đồ dùng giảng dạy cho các xã đặc biệt khó khăn; đầu tư xây dựng 30 phòng học cho các xã khó khăn với tổng kinh phí là 1.400 triệu đồng.
- Hội Phụ nữ đã vận động các chị em có kinh tế khá đóng góp tiền vào quỹ hội để giúp chị em hoàn cảnh khó khăn vay vốn. Năm 1999 các cấp hội đã vận động hơn 2 vạn chị em có kinh tế khá giúp hơn 25.000 chị em kinh tế khó khăn với số tiền vàng, thóc, cây, con giống giá trị gần 10 tỷ đồng. Đã giúp đỡ không hoàn lại cho hơn 1 vạn chị em có hoàn cảnh khó khăn số tiền gần 500 triệu đồng và hàng vạn ngày công lao động.
Ngoài ra hội còn vận động được 267 tổ phụ nữ tiết kiệm, duy trì quỹ “Ngày tiết kiệm vì phụ nữ nghèo” đến nay đã có vốn hàng tỷ đồng và giúp cho khoảng 4000 chị em nghèo vay vốn. Bên cạnh đó còn giúp tín chấp cho hội viên vay vốn ngân hàng.
- Hội Nông dân đã vận động hơn 3200 hội viên giúp nhau khắc phục khó khăn về đời sống được gần 100 tấn lương thực, đứng ra tín chấp cho hội viên vay vốn đạt gần 40 tỷ đồng. Vận động đưa tổng số quỹ hỗ trợ nông dân nghèo hiện nay của toàn tỉnh lên hơn 1 tỷ đồng. Vận động đưa tổng số quỹ hoạt động của Hội Nông dân lên lên 2,5 tỷ đồng. Các nguồn quỹ này đang giải quyết cho hơn 2000 hội viên vay để phát triển kinh tế, xoá đói giảm nghèo.
- Đoàn thanh niên các cấp đã vận động phong trào thanh niên giúp đỡ nhau về giống, vốn kỹ thuật để phát triển sản xuất được 3 vạn cây, con giống, hơn 700 triệu đồng và khoảng 2 vạn ngày công lao động. Đoàn đã đứng ra tín chấp vay hơn 4 tỷ đồng cho thanh niên lập nghiệp. Đoàn đã vận động thanh niên tham gia đóng góp được trên 10 vạn ngày công lao động để cải tạo kênh, mương, làm đường giao thông nông thôn, góp phần vào phát triển kinh tế-xã hội địa phương và xoá đói giảm nghèo.
Có thể nói vay vai trò của các tổ chức đoàn thể với công tác xoá đói giảm nghèo là rất lớn. Các đoàn thể đã giúp các hội viên nghèo không chỉ vay vốn, lao động mà đặc biệt là kinh nghiệm làm ăn, nhờ có phong trào giúp đỡ nhau xoá đói giảm nghèo của các tổ chức đoàn thể đã giúp cho rất nhiều hội viên nghèo thoát cảnh đói nghèo.
Trong thời gian tới cần tiếp tục phát huy vai của các tổ chức đoàn thể trong việc xoá đói giảm nghèo ở địa phương. Các giải pháp cụ thể là:
- Các đoàn thể tiếp tục phát động cuộc vận động giúp đỡ nhau xoá đói giảm nghèo, các hội viên khá có thể đóng góp tiền, ngày công giúp hội viên nghèo phát triển sản xuất.
- Các toàn thể cần tiếp tục tổ chức lớp tập huấn hướng dẫn cách làm ăn cho các hội viên để giúp đỡ hội viên có kinh nghiệm làm ăn.
- Các đoàn thể đứng ra tín chấp cho hội viên vay vốn để giúp các hội viên có vốn làm ăn.
- Cần mở các buổi nói chuyện trong hội để các hội viên nghèo có thể học hỏi kinh nghiệm làm ăn của các hội viên khá có thể truyền đạt kinh nghiệm của mình cho các hội viên nghèo.
- Ngoài ra, ở từng thôn xóm nên thành lập các câu lạc bộ giúp nhau xoá đói giảm nghèo như câu lạc bộ làm vườn, câu lạc bộ chăn nuôi...
4. Một số giải pháp khác.
Nghèo là một vấn đề kinh tế- xã hội. Do đó giải pháp để giảm nghèo không chỉ là những giải pháp kinh tế mà còn là đòi hỏi các giải pháp về xã hội. Nói một cách khác để giảm nghèo đòi hỏi các giải pháp kinh tế-Xã hội mang tính tổng hợp.
Giúp người nghèo tham gia tích cực vào chương trình Dân số và kế hoạch hoá gia đình.
Một quy luật đối với mọi quốc gia, một tỉnh thì hộ nghèo hầu như ở đâu tỷ lệ người nghèo cao thì ở đó tỷ lệ sinh đẻ cao. Và tỷ lệ sinh đẻ cao là một nguyên nhân dẫn đến nghèo đói.
Để nâng cao chất lượng cuộc sống và chất lượng dân số, cần vận động và đầu tư hỗ trợ cho hộ nghèo các biện pháp y tế đảm bảo sức khoẻ sinh sản cho họ, làm cho người nghèo nhận thức được hậu quả cảu việc sinh đẻ nhiều, cam kết chỉ đẻ 2 con.
Tuyên truyền giác ngộ cho người dân nhận thức được vấn đề dân số và kế hoạch hoá gia đình có liên quan trực tiếp cuộc sống của mỗi người nhất là đối với người nghèo, tránh vòng luẩn quẩn bế tắc “càng nghèo, càng đẻ; càng đẻ, càng nghèo”.
Trong công tác xoá đói giảm nghèo phải coi trọng quan tâm thích đáng vấn đề giới, nhất là phát triển nguồn nhân lực, đạo tạo nghề phụ nữ, chăm sóc giáo dục trẻ em gái về sức khẻo sinh sản, ưu tiên tạo việc làm, tăng thu nhập cho phụ nữ, tạo điều kiện cho phụ nữ tiếp cận đầy đủ vai trò và vị thế phụ nữ tham gia quản lý lãnh đạo.
Đấu tranh chống các tệ nạn xã hội.
Chống các tệ nạn xã hội khác như cờ bạc, số đề, nghiện hút, mại dâm. Bởi chính các tệ nạn xã hội này đã làm cho nhiều gia đình rơi vào cảnh bần cùng, nghèo đói và tái nghèo đói. Phải xoá bỏ các loại chủ chứa, cờ bạc, tiêm chích, ma tuý, số đề. Đồng thời phát động phong trào đăng ký xây dựng gia đình văn hoá, xã, phường không có tệ nạn xã hội.
Trợ giúp pháp lý cho người nghèo.
Giúp người nghèo có những hiểu biết phổ thông về luật pháp liên quan đến đời sống hàng ngày (Luật hôn nhân gia đình, Luật chăm sóc và bảo vệ trẻ em, Luật dân sự...). Giải đáp cho người nghèo về những vấn đề chính sách có liên quan đến quyền lợ và trách nhiệm của người nghèo. Hướng dẫn người nghèo các thủ tục pháp lý về quan hệ dân sự. Bồi dưỡng kiến thức về pháp luật cho cán bộ các xã nghèo; đào tạo nghiệp vụ tư vấn pháp lý cho cán bộ pháp lý và cộng tác viên.
Đẩy mạnh hơn nữa việc thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo.
Kết hợp trương trình xoá đói giảm nghèo với các chương trình phát triển- kinh tế xã hội khác trong chiến lược chung về phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn và chương trình việc làm.
Do đó, chính phủ chỉ đạo kiên quyết lồng ghép các chương trình tạo thành tổng hợp lực xoá đói giảm nghèo từ Trung ương xuống cơ sở, tránh sự phân tán manh mún vốn, nhiều bộ máy điều hành một việc, tốn kém kinh phí hành chính, giao cho các cơ quan chức năng hướng dẫn va chỉ đạo. Đây cũng chính là nguyện vọng của nhiều huyện, xã.
Theo thanh tra Nhà nước, tỉnh hầu như không chương trình nào là không bị suy suyển, “hao mòn” vốn. Trong xoá đói giảm nghèo ở một số nơi còn có tình trạng thu lại tiền của người được vay để sử dụng đúng mục đích, đúng đối tượng (nhất là trong cơ chế thị trường) thì thanh tra, kiểm tra phải được tiến hành liên tục, thường xuyên. Qua thanh tra phải xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm. Nếu không, tiền vẫn chi tiết hết mà mục tiêu thì không đạt được.
5. Kiến nghi cá nhân.
Qua nghiên cứu phân tích về nguyên nhân thực trạng nghèo đói của Bắc Giang cũng như 1 số giải pháp xoá đói giảm nghèo mà Bắc Giang đã thực hiện cũng như những giải pháp đã được phân tích trên đây trở thành hiện thực và có tính khả thi cao giúp cho công tác xoá đói giảm nghèo ở Bắc Giang đạt được kết quả cao hơn nữa em có 1 số kiến nghị với Trung ương và tỉnh.
* Kiến nghị cấp Trung ương:
Bắc Giang là tỉnh nghèo, đời sống của nhân dân còn gặp nhiều khó khăn, tỷ lệ hộ nghèo, xã nghèo còn cao. Đề nghị với quốc hội, Chính phủ cần đặc biệt quan tâm đến tỉnh để giúp tỉnh đẩy nhanh công tác xoá đói giảm nghèo, đưa tỉnh tiến kịp với các tỉnh trong khu vực. Để công tác xoá đói giảm nghèo ở Bắc Giang đạt hiệu quả, đề nghị:
Quốc hội cần xác định trọng điểm đầu tư tập trung xoá đói giảm nghèo với các xã ĐBKK, miền núi, vùng cao, cần bổ sung thêm các xã vùng sâu, vùng trũng, vùng ngoài đê, những xã rất nghèo, rất khó khăn them chí nghèo hơn các xã vùng cao.
Quốc hội cùng Chính phủ nghiên cứu điều chỉnh bổ sung hệ thống chính sách với vùng nghèo, xã nghèo, hộ nghèo như:
- Chín h sách miễn giảm cần mở rộng hơn, cả đối tượng và mức độ.
- Về mức độ và tốc độ và tốc độ đầu tư phải phù hợp đặc điểm từng vùng đói nghèo vì giữa các vùng rất khác nhau về trình độ phát triển của nền kinh tế, trình độ dân trí, khả năng tiếp nhận, sử dụng nguồn đầu tư, định hướng phát triển, ưu tiên đầu tư vùng căn cứ kháng chiến, vùng cao, vùng sâu.
Chính phủ cần sắp xếp lại, loại bỏ một số chương trình hiệu quả thấp, quản lý khó khăn, dễ phát sinh tiêu cực như: Chương trình trợ giá một số mặt hàng cho đồng bào dân tộc, miền núi.
Vốn đầu tư nước ngoài, vốn viện trợ phi Chính phủ, Nàh nước cần quan tâm hướng nước ngoài đầu tư, tài trợ vào các vùng nghèo, vùng miền núi.
Nâng mức vốn đầu tư hàng năm cho các chương trình, đề án nằm trong Chương trình xoá đói giảm nghèo.
Có chế độ khuyến khích động viên thoả đáng đội ngũ cán bộ trực tiếp giúp các xã nghèo, các xã đặc biệt khó khăn xoá đói giảm nghèo.
* Kiến nghị cấp tỉnh:
Cấp tỉnh là cấp trực tiếp chỉ đạo xoá đói giảm nghèo trên địa bàn tỉnh vì vậy đề nghị tỉnh cần:
- Thường xuyên kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện các chủ trương, biện pháp xoá đói giảm nghèo của Trung ương và tỉnh. Tổ chức tổng kết, rút kinh nghiệm để tìm ra các điển hình tốt về xoá đói giảm nghèo từ đó nhân rộng ra các địa phương khác.
- Tỉnh cần tập trung các nguồn vốn cho xoá đói giảm nghèo trên địa bàn tỉnh vào một đầu mối theo phương thức lồng ghép các chương trình để nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
- Đối với một số xã đặc biệt khó khăn, hàng năm tỉnh cần trợ cấp một khoản ngân sách cho xã để giúp các hộ thoát khỏi cảnh nghèo.
- Xoá đói giảm nghèo là một quá trình phấn đấu liên tục, bền bỉ không thể nôn nóng, chủ quan. Vì vậy, tỉnh cần tuyên truyền để nhân dân hiểu tầm quan trọng của công tác xoá đói giảm nghèo và đưa nó trở thành phong trào rộng khắp trong toàn tỉnh và cụ thể xuống tưùng xã nghèo, hộ nghèo, người nghèo ...
- Tỉnh cần chủ động hơn nữa trong việc phát huy nhuồn vốn tại chỗ để xoá đói giảm nghèo, không nên quá trông chờ ỷ lại vào Trung ương và các tổ chức khác...
Kết luận
Qua hơn 10 năm đổi mới, kinh tế- xã hội tỉnh Bắc Giang đã có những bước phát triển mới GDP tăng bình quân 7-8%/ năm trong đó Nông nghiệp tăng 7,2; Công nghiệp- xây dựng cơ bản tăng gia đình 3,8%; dịch vụ tăng 6,3% góp phần giải quyết việc làm cho 3-4 vạn lao động, hàng năm nhất là ở khu vực nông thôn, miền núi ngăn chặn giảm bớt các tệ nạn xã hội, đời sống nhân ngày càng được nâng lên, công tác xoá đói giảm nghèo đã thu được kết quả cao.
Để phục vụ công tác xoá đói giảm nghèo, Đảng và Nhà nước, tỉnh Bắc Giang đã có nhiều lỗ lực, ưu tiên những nguồn lực ngay từ những năm đầu của quá trình đổi mới mà tiêu biểu nhất là sự ra đời của Chương trình quốc gia về xoá đói giảm nghèo được coi là chương trình trọng điểm của Chính phủ và đã được tỉnh Bắc Giang thực hiện triệt để. Tuy nhiên, do xuất phát điểm quá thấp nên mặc dù kinh tế Bắc Giang có tăng trưởng khá trong những năm qua, nhưng Bắc Giang vẫn là một tỉnh nghèo với một tỷ lệ đói nghèo khá cao so với các tỉnh và thành phố khác trong cả nước. Do đó để đạt đươc mục tiêu mà Đại hội Đảng bộ tỉnh Bắc Giang lần thứ XIV đề ra là: “Giảm tỷ lệ nghèo đói xuống còn 10% vào năm 2000 và tiến tới xoá hẳn tình trạng đói nghèo vào năm 2010”. Quá trình thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng bộ đã đi được một nửa quá trình đó là vào năm 2000 tình trạng đói nghèo của tỉnh đã còn là 9,1% vượt mức nghị quyết đề ra, nhưng còn nửa chặng đường nữa thì vẫn cần sự cố gắng lỗ lực nhiều hơn nữa của Đảng bộ và nhân dân các dân tộc tỉnh Bắc Giang.
Hiện nay, bức tranh toàn cảnh về sự đói nghèo ở Bắc Giang đã sáng sủa hơn, nhưng các nguyên nhân gây ra tình trạng đói nghèo (như thiếu vốn, kinh nghiệm làm ăn...) vẫn chưa được giải quyết một cách triệt để.
Trong điều kiện hoàn cảnh đó, em đã thực hiện đề tài: “Những giải pháp cơ bản thực hiện xoá đói giảm nghèo tỉnh Bắc Giang”, là nhằm phân tích tình trạng đói nghèo ở Bắc Giang về thực trạng và nguyên nhân, từ đó đưa ra các giải pháp và kiến nghị cần thiết.
Chuyên đề của em đã đạt được kết quả như sau:
- Đưa ra được các khái niệm về đói, nghèo; xoá đói, giảm nghèo .
- Tổng hợp được kinh nghiệm xoá đói giảm nghèo của một số nước trên thế giới và bài học kinh nghiệm được rút ra đối với Việt Nam nói chung và Bắc Giang nói riêng.
- Phân tích thực trạng nghèo đói ở Bắc Giang về mức sống, nguyên nhân, so sánh sự đói nghèo theo vùng, dân tộc của tỉnh với cả nước.
- Phân tích được hệ thống các giải pháp cần thiết cho công tác xoá đói giảm nghèo ở Bắc Giang.
Tài liệu tham khảo.
1. Báo cáo Việt Nam đánh giá sự nghèo đói và chiến lược của Ngân hàng thế giới-1995.
2. Báo cáo chung của nhóm công tác chuyên gia Chính phủ, Nhà tài trợ, Tổ chức phi Chính phủ: Việt Nam tấn công nghèo đói -1999.
3. Vấn đề giảm nghèo trog nền kinh tế thị trường ở Việt Nam của TS. Trần Thị Hằng.
4. Viện chiến lược phát triển -Ban nguồn nhân lực và các vấn đề xã hội- “Phương hướng, biện pháp và chính sách giải quyết việc làm tăng thu nhập giảm bớt tình trạng nghèo khổ tuyệt đối Việt Nam thời kỳ 1991-2000”.
5. Đại học Kinh tế quốc dân, Khoa Kinh tế Phát triển- Giáo trình Kinh tế phát triển tập I, II.
6. Quy hoạch phát triển kinh tế xã hội tỉnh Bắc Giang đến năm 1010.
7. Văn kiện đại hội Đảng bộ tỉnh Bắc Giang lần thứ XI(1997), XV(2000).
8. Báo cáo tổng kết điều tra khảo sát hộ nghèo tỉnh Bắc Giang các năm 1997, 1998, 1999, 2000, 2001.
9. Báo cáo kết quả 6 năm thực hiện công tác xoá đói giảm nghèo tỉnh Bắc Giang (1993-1998), và chương trình mục tiêu xoá đói giảm nghèo (1998-2000).
10. Báo cáo thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo các năm 1999, 2000.
11. Tạp chí Lao động và Xã hội số tháng 4/2001.
12. Dự án phát triển nông thôn tổng hợp giảm nghèo tỉnh Bắc Giang 03/2000.
13. Việt Nam hướng tới năm 2010 của Nhà Xuất kê - 2001.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- V0041.doc