Đề tài Những giải pháp đẩy mạnh thu hút khách du lịch quốc tế đến Việt Nam

Trong thời kỳ hiện đại số lượng khách đi du lịch nước ngoài tăng nhanh, du lịch trở thành nhu cầu thiết yếu trong những ngày nghỉ cuối tuần, ngày lễ, kỳ nghỉ hàng năm để giúp mọi người phục hồi sức khoẻ, lấy lại cân bằng sinh thái của nhịp sống đã bị phá vỡ do ảnh hưởng của quá trình CNH-HĐH. Mặt khác do kinh tế phát triển, thu nhập của người dân tăng lên, điều kiện phương tiện đi lại dễ dàng - nhanh chóng, thời gian rỗi nhiều hơn, nên nhu cầu du lịch cũng có điều kiện thuận lợi để chuyển đổi thành cầu du lịch. Cho nên với xu thế chung của sự phát triển cầu du lịch trên thế giới, vì vậy để nghiên cứu tìm ra giải pháp thu hút khách du lịch quốc tế đóng vai trò quyết định đối với hoạt động du lịch ở nước ta. Trong bài viết này em đã đi sâu vào tìm hiểu thực trạng ngành du lịch Việt Nam và đã đề ra một số phương hướng giải pháp nhằm khắc phục phần nào những khó khăn mà du lịch Việt Nam còn vướng mắc. Và chúng ta có quyền hy vọng rằng với truyền thống 40 năm phát triển của ngành và bằng sự góp sức của cả nước. Du lịch Việt Nam sẽ thu hút ngày càng đông đảo du khách quốc tế, sẽ dần trở thành một địa danh du lịch hấp dẫn đối với toàn thế giới.

doc26 trang | Chia sẻ: haianh_nguyen | Lượt xem: 1259 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Những giải pháp đẩy mạnh thu hút khách du lịch quốc tế đến Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu Ngày nay, trên thế giới du lịch được coi là ngành kinh tế quan trọng đem lại nguồn thu ngoại tệ lớn cho xã hội. Phù hợp với xu thế của thời đại - du lịch đã và đang phát triển mạnh mẽ ở nhiều quốc gia trên toàn cầu. Theo thống kê của tổ chức du lịch thế giới (WTO) du lịch đóng góp tới 10,9% GDP của thế giới thu hút trên 500 triệu khách hàng năm. Dự kiến năm 2000 du lịch thế giới sẽ đạt tới 640 triệu khách với doanh thu khoảng 5,2 nghìn tỷ USD. ở Việt Nam, kể từ ngày thành lập đến nay du lịch Việt Nam cũng vừa tròn 40 năm (9/7/1960 - 9/7/2000), nhưng phải đến những năm đầu chuyển sang thời kỳ đổi mới, cùng với sự quan tâm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước du lịch Việt Nam đã nỗ lực phấn đấu và đạt được những tiến bộ ban đầu đáng khích lệ. Nếu như năm 1990 du lịch Việt Nam mới đón được 250 ngàn lượt khách quốc tế thì đến năm 1999 toàn ngành đã đón được 1,78 triệu lượt khách quốc tế, thu nhập xã hội từ du lịch đạt 15.600 tỷ đồng. Rõ ràng là dù trên phạm vi thế giới hay riêng ở Việt Nam du lịch vẫn là ngành đem lại nguồn thu ngoại tệ lớn và đóng góp đáng kể vào ngân sách của quốc gia, là ngành đang được gửi gắm nhiều hy vọng. Nhất là đối với nước ta, đang trên đường đổi mới, CNH - HĐH đất nước, du lịch là nhân tố tích cực góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, rút ngắn khoảng cách so với trình độ phát triển của các nước trong khu vực và trên thế giới. Như vậy, nhận thấy tầm quan trọng của phát triển du lịch, em đã đi sâu vào tìm hiểu nghiên cứu và chọn đề tài này: “Những giải pháp đẩy mạnh thu hút khách du lịch quốc tế đến Việt Nam”. Nhưng trong khuôn khổ đề án môn học và với vốn kiến thức còn hạn chế, mà nội dung đề tài lại rộng lớn, do vậy bài viết của em sẽ không tránh khỏi thiếu sót. Em mong muốn nhận được sự góp ý của cô giáo để đề án của em được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn. Nội dung Chương I Lý luận chung về du lịch và kinh doanh du lịch I-/ Khách du lịch quốc tế. 1-/ Khái niệm: Khách du lịch quốc tế là những người đến một quốc gia nào đó hoặc từ một quốc gia nào đó đi ra nước ngoài với mọi mục đích khác nhau trừ mục đích lao động kiếm tiền, trong khoảng thời gian lớn hơn một ngày hoặc ngủ ít nhất một tối trọ và nhỏ hơn một năm. 2-/ Động cơ, mục đích và nhu cầu đi du lịch. Ngày nay với sự phát triển không ngừng của nền sản xuất xã hội thì du lịch là một đòi hỏi tất yếu của người lao động. Du lịch trở thành nhu cầu của con người khi trình độ kinh tế, xã hội và dân trí đã phát triển. Du lịch là một hoạt động cốt yếu của con người và của xã hội hiện đại. Bởi một lẽ du lịch đã trở thành một hình thức quan trọng trong việc sử dụng thời gian nhàn rỗi của con người, đồng thời là phương tiện giao lưu trong mối quan hệ giữa con người với con người. Thông thường du khách đi du lịch vì các lý do cơ bản sau: + Có kỳ nghỉ. + Thăm bạn bè, người thân. + Kinh doanh. + Đi học. + Lý do thể thao. Với những lý do trên có thể phân chia thành hai loại du khách. Loại thứ nhất gồm những người mà điểm đến được ấn định sẵn vì mục đích khác như hội họp, tôn giáo, kinh doanh, học tập v.v...thậm chí thời gian (thời điểm, độ dài chuyến đi) là cố định, rất khó thay đổi. Loại thứ hai gồm những người có mục đích thuần tuý là du khó có thể dự kiến chính xác hành vi của họ. Đối với các nhà kinh doanh du lịch, việc nắm được lý do đi du lịch của du khách tiềm năng là vô cùng quan trọng. Có nắm được nhu cầu thì mói có thể đưa ra được những sản phẩm có khả năng tiêu thụ nhanh. Có hai lý thuyết góp nghiên cứu và tìm câu trả lời, làm rõ khả năng đáp ứng nhu cầu du khách . Lý thuyết thứ nhất chia động cơ du lịch thành 4 nhóm: 1, Động cơ đáp ứng nhu cầu tự nhiên như nghỉ ngơi, thể thao, và các nhu cầu có liên quan đến sức khoẻ con người. Động cơ này có tính chất phổ biến. 2, Các động cơ văn hoá được thể hiện qua nguyện vọng của du khách muốn được tìm hiểu, học hỏi về đất nước đến du lịch, về thiên nhiên, nghệ thuật, tôn giáo truyền thống... 3, Động cơ giao tiếp trong đó có cả nhu cầu làm quen, thăm người thân hoặc trốn tránh môi trường thường nhật. 4, Động cơ phô bày vị thế thể hiện thông qua nhu cầu được mọi người xung quanh đề cao, quan tâm đến, thể hiện quyền lực... Lý luận này dựa trên cơ sở lý thuyết về bậc thang nhu cầu của Maslow: Nhu cầu tự thể hiện mình Nhu cầu cái tôi Nhu cầu xã hội (yêu và được người khác yêu) Nhu cầu được an toàn Các nghiên cứu sinh lý: ăn, uống, mặc ... Lý luận thứ hai do Gray nhà tâm lý học Hoa Kỳ đưa ra vào năm 1970. Ông cho rằng con người sẵn có nhu cầu đi đâu đó và trốn tránh nơi ở nhàm chán. Những người theo trường phái cho rằng con người luôn có nhu cầu trao đổi thông tin, muốn giảng giải những điều mình biết cho người chưa biết, muốn gạt sang bên những gì quen thuộc để tìm những gì mới lạ. Do vậy nền văn hoá khác, phong tục truyền thống, con người mới, chỗ mới là mục tiêu thôi thúc họ đi du lịch. Họ đi du lịch vì cảm thấy không hạnh phúc tại nơi ở làm việc. Họ thấy công việc và cuộc sống thường ngày của họ đơn điệu và tẻ nhạt, là nguyên nhân cơ bản gây nên các căn bệnh trầm cảm, thần kinh... Một trong những nhà tâm lý học nổi tiếng Hoa Kỳ Stanley Plog cho rằng động cơ đi du lịch có mối tương quan khá chặt chẽ với đặc điểm, tâm lý của du khách. Ông đã chia nguồn du khách thành 5 nhóm tâm lý là nhóm có tâm lý tự kỷ, khá tự kỷ, hiếu kỳ, khá hiếu kỳ và nhóm trung gian. Theo ông, nhóm tự kỷ, khá tự kỷ bao gồm những người chủ yếu quan tâm đến những vấn đề xảy ra quanh gần họ có quan hệ trực tiếp với họ. Nhóm hiếu kỳ, khá hiếu kỳ là những người rất quan tâm đến tất cả những gì xung quanh, luôn tỏ ra thích sự tân kỳ sẵn sàng mạo hiểm để được khám phá. Cũng theo Plog hầu hết dân chúng có tâm lý trung gian. Về nguyên tắc, người có kiểu tam lý nào sẽ chọn kiểu du lịch phù hợp với kiểu tâm lý ấy. Trên cơ sở đó Plog phân ra thành 5 kiểu tâm lý tương ứng. Điều đó có nghĩa là nhóm tự kỷ và khá tự kỷ sẽ chọn các điểm du lịch quan thuộc, đi cùng những ngời quan. Họ cảm thấy an tâm, vui mừng khi đến một điểm du lịch mà họ đã từng đến trước đó, gặp lại những người phục vụ để lại cho họ nhiều cảm tình. Đó là kiểu du lịch tự kỷ. Đối với một tập du khách, các điểm du lịch cũ được coi là các điểm du lịch tự kỷ. Nhóm du khách có tâm lý hiếu kỳ ở các mức độ khác nhau ưa đến những điểm mới phát hiện, họ sẵn sàng chấp nhận cả những nơi chưa có CSVCKT hoàn thiện. Họ luôn muốn tìm thấy những khung cảnh mới, hoang sơ, khác lạ và những mối quan hệ mới và đại đa số nhóm người này chấp nhận trả cho các chuyến du lịch mới. Nhóm trung gian thể hiện sự pha trộn về đặc điểm tâm lý giữa hai nhóm chính trên. Họ cũng muốn được hưởng những gì mới lạ, song lại muốn có một sự đảm bảo chắc chắn về các điều kiện thuận lợi, an toàn. Họ muốn tìm thấy sự đổi thay nào đó trong hình ảnh du lịch mà họ đã có được trong các chuyến đi trước. Nếu xét về mặt lứa tuổi có thể dễ dàng nhận thấy rằng, đại đa số nhóm người tự kỷ (ở các mức độ khác nhau) là người ở lứa tuổi thứ ba, còn đại đa số người có tâm lý thích tân kỳ là thanh, thiếu niên, còn hầu hết người trong độ tuổi lao động thuộc nhóm trung gian. Phải thấy rằng mô hình này của tiến sỹ Plog là một trong những cố gắng đầu tiên cung cấp cơ sở lý luận về động cơ du lịch. Tên tuổi của ông được nhắc lại nhiều trong các công trình, tài liệu về du lịch học. Tuy mô hình của ông đưa ra chưa phải là hoàn chỉnh song nó vẫn là một trong những luận điểm quan trọng cho nghiên cứu thị trường du lịch trong điều kiện cơ cấu thị trường ở nước ta hiện nay. Các yếu tố khoảng cách, thời gian nhàn rỗi, giá cả, đặc điểm tâm sinh lý ... cũng ảnh hưởng rất lớn đến quyết định lựa chọn nơi đi, loại hình du lịch, thời gian thực hiện chuyến đi của mọi người... Động cơ du lịch là một nhân tố chủ quan và rất cá nhân nên rất khó đo lường được nó. Vì vậy trong nghiên cứ về động cơ du lịch cần gộp các động cơ điều tra được để đán giá trước khi đưa ra những kết luận cụ thể. II-/ kinh doanh du lịch. 1-/ Khái niệm: Kinh doanh du lịch là một ngành kinh doanh tổng hợp có hiệu quả cao về nhiều mặt, nâng cao hiểu biết về thiên nhiên, truyền thống lịch sử và văn hoá dan tộc, từ đó góp phần làm tăng thêm tình yêu đất nước, đối với người nước ngoài là tình hữu nghị với dân tộc mình, về mặt kinh tế du lịch là lĩnh vực kinh doanh mang lại hiệu quả rất lớn, có thể được coi là hình thức xuất nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ tại chỗ. 2-/ Sản phẩm du lịch. a, Khái niệm: Sản phẩm du lịch là tập hợp tất cả những cái gì nhằm thoả mãn các nhu cầu của du khách trong chuyến hành trình du lịch. Sản phẩm du lịch bao gồm hàng hoá và dịch vụ du lịch. b, Tính chất sản phẩm du lịch. + Sản phẩm du lịch chủ yếu mang tính chất vô hình (có đến 90% trong giá trị sản phẩm du lịch là dịch vụ). + Sản phẩm du lịch thường gắn liền với tài nguyên du lịch không có thể dịch chuyển được. Vì vậy để có thể tiêu thụ sản phẩm du lịch thì các khách du lịch phải vận chuyển đến nơi có sản phẩm du lịch. + Sản phẩm du lịch không thể dự trữ tồn kho được, cái sự sản xuất ra và tiêu dùng sản phẩm du lịch là trùng lặp với nhau về mặt không gian và thời gian à gây khó khăn cho nhà sản xuất về tiêu thụ sản phẩm, đánh giá chất lượng sản phẩm. c, Các thể loại sản phẩm du lịch. - Sản phẩm đơn lẻ: sản phẩm là một khách sạn , một khu vui chơi giải trí... - Sản phẩm tổng hợp: chương trình du lịch, bao gồm: + Chương trình du lịch trọn gói: phải bao gồm ít nhất tất cả các dịch vụ cơ bản. + Chương trình du lịch toàn phần: Bao gồm một hoặc hai trong số các dịch vụ cơ bản, tất nhiên có thể có các dịch vụ bổ sung khác. 3-/ Các nhân tố tác động đến khả năng thu hút khách du lịch quốc tế. Ngày nay, du lịch được xem là một ngành kinh tế mũi nhọn, đem lại nguồn thu ngoại tệ lớn cho xã hội. Phù hợp với xu thế chung của thời đại - du lịch đã và đang phát triển mạnh mẽ ở nhiều quốc gia trên toàn cầu. Bên cạnh đó thu hút khác du lịch quốc tế luôn đóng một vai trò rất quan trọng trong kinh doanh du lịch. Tuy nhiên hoạt động này luôn chịu sự tác động của nhiều nhân tố. 3.1 Các nhân tố ảnh hưởng đến việc lựa chọn điểm đến của khách du lịch (nhân tố chủ quan). Sự lựa chọn điểm đến đương nhiên là một quyết định cá nhân đối với khách du lịch. Tuy nhiên thường tì có 8 tiêu chuẩn chính ảnh hưởng đến quyết didnhj của khách du lịch về việc họ sẽ đi đâu. Đó là an toàn, tiện lợi và giá cả. + An toàn có nghĩa là đảm bảo tránh được ốm đau, cũng như không bị xâm phạm thân thể hoặc trộm cắp. Khách du lịch có thể đi tản bộ hay không thức ăn có đươc an toàn hay không hoặc có các bệnh truyền nhiễm ở gần hay không là điều liên quan chính để khách du lịch quyết định điểm đến của mình. + Sự tiện lợi bao hàm nhiều yếu tố khác nhau. Điều này bao gồm sự tiện nghi trong vận chuyển, thủ tục hải quan, và xuất nhập cảnh dễ dàng, đơn giản, tiêu chuẩn về khách sạn, sự chuẩn bị của đội ngũ hướng dẫn viên, hương vị món ăn, cũng như chất lượng và tiện nghi mua bán. Sự tiện lợi trực tiếp liên quan đến sự thoả mãn của chuyến đi. Vì thông tin du lịch thường được truyền miệng, nếu một điểm đến được coi là không tiện lợi đối với một người khách du lịch, thì người khác đó sẽ kể lại với những người bạn của họ về kỷ niệm của chuyến đi và càng không muốn đi du lịch trở lại. + Giá cả có nghĩa là làm cho chuyến đi ở điểm này rẻ hơn ở nơi khác. Sự tăng giá cả lữ hành sẽ gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến số lượng khách du lịch. Nếu như chi phí cao thì người dân không đủ điều kiện để đến thăm nơi họ muốn. Tất nhiên, giá cả lữ hành không chỉ liên quan mật thiết đến chất lượng của chuyến đi mà còn bao gồm cả sự thoả mãn và sự tương xứng với kết quả và số tiền đã bỏ ra. Vì vậy, có thể quan tâm đến các điểm du lịch có chi phí không quá đắt, nghĩa là giá cả hợp lý + với sự hài lòng thì đây là một chiến lược tốt. 3.2 Các nhân tố ảnh hưởng từ nước nhận khách. a, Điều kiện an ninh chính trị và an toàn xã hội. Không khí chính trị hoà bình bảo đảm cho việc mở rộng các mối quan hệ kinh tế, khoa học kỹ thuật, văn hoá và chính trị giữa các dân tộc. Trong phạm vi các mối quan hệ kinh tế quốc tế, sự trao đổi du lịch quốc tế ngày càng phát triển và mở rộng. Du lịch nói chung, du lịch quốc tế nói riêng chỉ có thể phát triển được trong bầu không khí hoà bình, ổn định trong tình hữu nghị giữa các dân tộc sự phát triển của du lịch sẽ gặp khó khăn nếu đất nước xảy ra những sự kiện làm xấu đi tình hình chính trị hoà bình và trực tiếp hoặc gián tiếp đe doạ sự an toàn của khách du lịch. Đó là những biến cố như: đảo chính, bất ổn chính trị, nội chiến... Những nhân tố này ảnh hưởng rất xấu đến số lượng do khách đi du lịch. Chiến tranh, nội chiến là những cản trở lớn nhất đến hoạt động du lịch, làm cho việc đi lại của khách bị đình chỉ, giao thông ngừng trệ, CSVCKT của du lịch bị tàn phá và sử dụng và mục đích phục vụ chiến tranh. b, Điều kiện kinh tế. Một trong những yếu tố quan trọng có ảnh hưởng đến sự phát sinh và phát triển du lịch là điều kiện kinh tế chung. Nền kinh tế chung phát triển là tiền đề cho sự ra đời và phát triển của ngành kinh tế du lịch. Khi nói đến nền kinh tế của đát nước, không thể không nói đến giao thông vận tải. Từ xa xưa, giao thông vận tải đã trở thành một trong những nhân tố chính đối với sự phát triển du lịch, đặc biệt là du lịch quốc tế. Như vậy giao thông vận tải có ảnh hưởng trực tiếp đến thu hút khách du lịch, sự phát triển về mặt số lượng và chất lưọng của các phương tiện vận tải sẽ làm cho hoạt động du lịch trở nên tiện lợi và mềm dẻo, có khả năng đáp ứng tốt mọi nhu cầu của du khách. c, Chính sách phát triển du lịch. Chính sách của chính quyền có vai trò như thế nào đến sự phát triển du lịch? Hiện nay trên thế giới hầu như không có một nơi nào không tồn tại một bộ máy quản lý xã hội. Rõ ràng rằng bộ máy quản lý này có vai trò quyết định đến các hoạt động của cộng đồng đó. Hoạt động du lịch không nằm ngoài quy luật ấy. Một đất nước, một khu vực có tài nguyên du lịch phong phú, mức sống cảu người dân không thấp nhưng chính quyền địa phương không yểm trợ cho các hoạt động du lịch thì hoạt động này cũng không thể phát triển được. d, Điều kiện quan trọng nhất ảnh hưởng đến thu hút khách du lịch là điều kiện tự nhiên và tài nguyên du lịch thiên nhiên và tài nguyên du lịch nhân văn. d1, Điều kiện tự nhiên và tài nguyên du lịch thiên nhiên. Trước hết, các hợp phần tự nhiên là điều kiện cần thiết cho hoạt động du lịch. Mặt khác trong những trường hợp cụ thể, một số tính chất của các hợp phần đó có sức hấp dẫn du khách và do vậy chúng được trực tiếp khai thác vào mục đích kinh doanh du lịch nên trở thành tài nguyên du lịch tự nhiên. Các hợp phần tự nhiên (địa lý) đó là địa hình, khí hậu, thuỷ văn, thực động vật... + Ví trí địa lý: Khoảng cách từ nơi du lịch đến các nguồn khách du lịch có ý nghĩa quan trọng đối với nước nhận khách du lịch. Nếu nước nhận khách ở xa điểm gửi khác điều đó có ảnh hưởng đến khách trên ba khía cạnh chính. Thứ nhất, do khách phải chi thêm tiền cho việc đi lại vì khoảng cách xa. Thứhai, do khách phải rút ngắn thời gian lưu lại ở nơi du lịch vì thời gian đi lại mất nhiều. Thứ ba, du khách phải hao tốn quá nhiều sức khoẻ cho đi lại. Trong một số trường hợp, khoảng cách xa từ nơi đón khách đến nơi gửi khách lại có sức hấp dẫn đối với một vài loại khách có khả năng thanh toán cao và có tính hiếu kỳ vì sự tương phản, khác lạ giữa điểm du lịch và điểm nguồn khách. + Địa hình: Địa hình là một trong những yếu tố góp phần tạo nên phong cảnh và sự đa dạng của phong cảnh ở nơi đó. Đối với du lịch địa hình càng đa dạng, tương phản và độc đáo càng có sức hấp dẫn du khách. Khách du lịch thường ưa thích những nơi nhiều đồi núi và đối với nhiều người, địa hình đồng bằng thường không hấp dẫn họ vì tính đơn điệu của nó. Trong các kiểu địa hình, kiểu địa hình núi và hang động địa hình bờ nước là những tài nguyên du lịch rất có giá trị. Ngành du lịch thế giới đã đưa vào khai thác hàng ngàn hang động, thu hút khoảng 3% tổng số du khách toàn cầu. + Khí hậu: Những nơi có khí hậu ôn hoà thường được du khách ưa thích. Mỗi loại hình du lịch đòi hỏi những điều kiện khí hậu khác nhau. Ví dụ du khách đi nghỉ biển mùa hè thường chọn những dịp không mưa, nắng nhiều nhưng không gắt, nước mắt, gió vừa phải. Trong các yếu tố của khí hậu, nhiệt độ và độ ẩm có liên quan chặt chẽ với nhau và có ảnh hưởng chính đến cảm giác của con người. Các nhà khoa học đã xác lập được một số chỉ tiêu gọi là chỉ tiêu sinh khí hậu để đánh giá mức độ thuận lợi về mặt khí hậu đối với hoạt động du lịch ở các nơi. + Thủy văn: Nước là một yếu tố không thể thiếu được để duy trì sự sống của con người. Gương nứoc rộng lớn không những tạo ra một bầu không khí trong lành mà còn có tác động rất tốt đối với sức khoẻ con người. Chính vì vậy không ít nơi trên thế giới mọc lên những khu du lịch nghỉ dưỡng ven hồ, ven biển thu hút một số lớn du khách từ mọi miền đất nước. + Thế giới động thực vật. Ngày nay con người thường phấn đấu để cuộc sống của mình ngày càng đầy đủ về tiện nghi. Để đạt được mục đích áy họ đã làm cho cuộc sống của mình ngày càng xa rời thiên nhiên. Trong khi đó, với tư cách là một thành tạo của thiên nhiên, con người lại muốn quay trở về với thiên nhiên đang trở thành một xu thế và nhu cầu phổ biến. Như vậy thế giới động thực vật hoang dã đang ngày càng hấp dẫn và thu hút nhiều du khách. Những động thực vật không có ở nước họ thường có sức hấp dẫn mạnh nhiều loại động vật có thể là đối tượng cho săn bắt du lịch. d2, Tài nguyên du lịch nhân văn: Giá trị văn hoá lịch sử, các thành tựu chính trị và kinh tế có ý nghĩa đặc trưng cho sự phát triển của du lịch ở một địa điểm, một vùng hoặc một đất nước. Chúng có sức hấp dẫn đặc biệt với số đông khách du lịch với nhiều nhu cầu và mục đích khác của chuyến du lịch. Các tài nguyên có giá trị lịch sử có sức thu hút đặc biệt đối với du khách có trình độ cao, ham hiểu biết. Tương tự như các tài nguyên có giá trị lịch sử, các tài nguyên có giá trị văn hoá cũng thu hút khách du lịch với mục đích tham quan, nghiên cứu. Trong số các tài nguyên này phải kể đến các viện khoa học, các trường Đại học, các thư viện lớn và nổi tiếng... Các tài nguyên có giá trị văn hoá thu hút không chỉ khách du lịch với mục đích tham quan, nghiên cứ mà còn thu hút đa số khách đi du lịch với các mục đích khác nhau, ở các lĩnh vực khác nhau và từ nơi khác nhau đến. Hầu hết tất cả khách du lịch ở trình độ văn hoá trung bình đều có thể thưởng thức các giá trị văn hoá của đất nước đến thăm. Chương II Thực trạng thu hút khách du lịch quốc tế đến Việt Nam I-/ Khái quát về hoạt động du lịch ở Việt Nam. Tài nguyên du lịch của Việt Nam khá phong phú và đa dạng. Ba phần tư lãnh thổ đất nước là núi đồi với nhiều cảnh quan ngoạn mục, những cánh rừng nhiệt đới với nhiều loài cây cỏ, chim muông, những hệ thống sông hồ tạo nên các bức tranh thủy mặc sinh động... Năm mươi tư dân tộc anh em sinh sống trên cả nước có những phong tục, tập quán khác lạ... Tất cả có sức hấp dẫn mạnh mẽ với những ai ưa khám phá đất nước Việt Nam. Mặt khác do nằm ở vĩ độ thấp nên hầu như quanh năm ở nước ta đều có điều kiện khí hậu thuận lợi cho hoạt động ngoài trời. Dựa trên những điều kiện kể trên có thể khẳng định rằng hoạt động du lịch ở nước ta đã có từ lâu đời. Tuy nhiên việc khai thác tài nguyên phục vụ mục đích du lịch và nghỉ dưỡng trở nên rõ nét hơn trong thời kỳ đô hộ của Pháp. Hàng loạt biệt thự, nhà nghỉ được xây dựng ven các bãi biển, vòng hồ hay vùng núi, nơi có khí hậu dễ chịu như: Đồ Sơn, Vũng Tàu, Đà Lạt... Nhưng, ngành du lịch, chủ thể của doanh nghiệp Việt Nam mới ra đời cách 40 năm (1960 - 2000). Với 40 năm hình thành và phát triển, tuy đã có nhiều cố gắng để vượt qua những khó khăn, trở ngoại như tình trạng đất nước bị chia cắt, chiến tranh, cấm vận... nhưng ngành du lịch Việt Nam vẫn chưa thực sự chiếm được vị trí xứng đáng trong nền kinh tế đất nước. Từ sau Đại hội VI đến nay, ngành du lịch Việt Nam đã không ngừng lớn mạnh và trở thành một lĩnh vực kinh doanh đầy hấp dẫn, mang lại hiệu quả kinh tế cao và là đòn bẩy để thúc đẩy sự phát triển của tất cả các ngành kinh tế trong nền kinh tế quốc dân, tạo ra tích luỹ ban đầu cho nền kinh tế và là chiếc cầu nối giữa thế giới bên ngoài và trong nước. Bằng việc xem xét lại quá trình hình thành và phát triển của du lịch Việt Nam chúng ta sẽ có được một cái nhìn tổng quan về những bước tiến mà đã đạt được cũng như hiện trạng của ngành. 1-/ Giai đoạn từ 1960 đến 30/4/1975. Với nghị định 26/CP ngày 9/7/1960 của Hội đồng Chính phủ, công ty du lịch Việt Nam đầu tiên của nước ta được thành lập. Là một công ty trực thuộc Bộ Ngoại thương nhưng nhiệm vụ cơ bản là phục vụ các đoàn khác của Đảng và Chính phủ. Nhưng về mặt ý nghĩa, tổ chức này đã đặt nền móng cho sự hình thành một ngành kinh tế mới mẻ của đất nước. Chính vì vậy ngày 9/7 được xem là ngày thành lập ngành du lịch Việt Nam. Do lượng khách ngày một tăng và nhu cầu tham quan, du lịch đã xuất hiện nhằm giảm bớt những khó khăn về tài chính, ngày 16/3/1963 Bộ trưởng Bộ Ngoại thương đã ra quyết định giao cho công ty du lịch Việt Nam làm nhiệm vụ kinh doanh nhằm thu thêm ngoại tệ cho đất nước. Số lượng du khách quốc tế vào Việt Nam giai đoạn 1960 - 1975 Năm Số khách quốc tế Năm Số khách quốc tế 1960 6.130 1970 18.160 1961 7.630 1971 12.080 1962 8.070 1972 15.860 1963 8.790 1973 19.320 1964 10.780 1974 26.820 1965 11.850 1975 36.910 Nguồn: Bộ Nội vụ - 1979 Ngày 18/8/1969 ngành du lịch được chuyển sang chịu sự quản lý trực tiếp của phủ Thủ tướng. Để đảm bảo an ninh quốc gia và an toàn cho du khách, ngày 12/9/1969 Thủ tướng Chính phủ ra quyết định số 95 TTg giao cho Bộ Công An nhiệm vụ thời gian quản lý ngành du lịch. Để đáp ứng nhiệm vụ phát triển của ngành trong tình hình mới của đất nước, ngành du lịch Việt Nam đã đầu tư xây dựng một số tuyến điểm du lịch quan trọng, thành lập xí nghiệp xe, công ty vật tư dịch vụ du lịch và một số bộ phận chuyên môn... chuyên phục vụ các chuyên gia và khách du lịch nước ngoài. 2-/ Giai đoạn từ 1976 đến trước năm 1990, những năm đầu của thời kỳ đổi mới. Căn cứ Nghị quyết 262 NQQHK6 ngày 27/6/1978 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội phê chuẩn việc thành lập Tổng cục du lịch. Thủ tướng chính phủ đã ban hành Nghị định 32/CP ngày 23/1/1979 quyết định chính thức thành lập Tổng cục du lịch Việt Nam. Sự ra đời của Tổng cục du lịch Việt Nam đã tạo ra bước ngoặt lớn trong sự chỉ đạo của Nhà nước đối với hoạt động du lịch Việt Nam. Tình hình hoạt động kinh doanh du lịch ngày một phong phú và là một lĩnh vực không thể thiếu được trong ngành du lịch. Trước thực tế đó, Hội đồng Bộ Trưởng đã ra quyết định 01/HĐBT ngày 3/1/1983 giao cho Tổng cục Du lịch Việt Nam trực thuộc kinh doanh du lịch trong cả nước. Tuy nhiên ngành du lịch Việt Nam lúc này chưa phát huy hết tiềm năng của mình và của đất nước, hiệu quả sử dụng CSVCKT còn thấp. Hoạt động du lịch quốc tế giai đoạn 1980 đến trước 1990 Chỉ tiêu 1980 1985 1986 1987 1988 1989 Du lịch quốc tế Số khách 41.110 50.830 54.353 73.283 110.390 187.573 Doanh thu ngàn rúp/đô la Mỹ - - 170 280 340 420 Nguồn: Bộ Nội Vụ Bộ Thương Mại và du lịch 1990 3-/ Giai đoạn từ 1990 đến nay. Trong quá trình tinh giảm biên chế, rút gọn bộ máy tổ chức, ngày 31/3/1990, căn cứ quyết định số 224 của Hội đồng Nhà nước, Tổng cục du lịch Việt Nam được sát nhập với một số cơ quan khác thành Bộ Văn hoá - Thông tin - Thể thao và du lịch. Thêm vào đó năm 1990 được chọn là năm du lịch Việt Nam đã góp phần thúc đẩy một cách đáng kể hoạt động nước nhà. Nhờ vậy hoạt động kinh doanh du lịch đã được mở ở nhiều ngành, nhiều cơ quan, không chỉ trong phạm vi các thành phần kinh tế Nhà nước mà còn ở cả những thành phần kinh tế khác. Trước xu thế đó, du lịch không chỉ còn được coi là một hoạt động văn hoá xã hội thuần tuý mà còn là một ngành kinh tế quan trọng của đất nước. Trên cơ sở coi du lịch là một ngành kinh tế dịch vụ, ngày 12/8/1991 ngành du lịch được tách khỏi Bộ Văn hoá - Thông tin - Thể thao và du lịch để sát nhập vào Bộ Thương mại - du lịch. Tuy nhiên bản chất của du lịch không chỉ là một ngành kinh tế cho nên công tác tổ chức, quản lý vẫn còn một số vướng mắc nhất định. Hiệu quả hoạt động du lịch vẫn chưa đồng bộ. Thấy được những nguyên nhân đó, ngày 26/10/1992 Chính phủ đã ra Nghị định số 05/CP về việc thành lập Tổng cục du lịch như một cơ quan độc lập ngang Bộ. Tiếp theo đó, ngày 27/12/1992, Chính phủ ra tiếp Nghị định 20/CP quy định chức năng, nhiệm vụ quyền hạn và tổ chức bộ máy của Tổng cục du lịch Việt Nam. Mười bốn Sở du lịch được thành lập ở các tỉnh có tài nguyên du lịch phong phú nhất và hoạt động du lịch sôi nổi nhất. Sau thời điểm này ngành du lịch Việt Nam đã thực sự có những chuyển biến đáng kể. Số lượng khách, kể cả khách quốc tế và nội địa tăng lên nhanh chóng. Chúng ta thật đáng tự hào cho con số 1.018 nghìn du khách quốc tế 1994. Thu nhập du lịch tăng bình quân tròn 60%/năm. Không những thế, hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học cũng được đẩy mạnh. Nhiều hội thảo quốc gia, quốc tế về du lịch được tổ chức đã thực sự tích cực góp phần thúc đẩy sự phát triển du lịch Việt Nam trong giai đoạn này. Cùng với sự quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà nước đối với du lịch là một tiền đề hết sức quan trọng cho những đổi mới của ngành. Như vậy, có thể tin tưởng rằng, trong tương lai không xa, du lịch Việt Nam chắc chắn sẽ có một vị trí xúng đáng trong xã hội và nền kinh tế nước nhà. hoạt động của du lịch Việt Nam giai đoạn 1990 - 1998 Năm Khách quốc tế Khách nội địa Thu nhập từ du lịch Số lượng (nghìn lượt) Tốc độ tăng trưởng % Số lượng (nghìn lượt) Tốc độ tăng trưởng % Số lượng (nghìn lượt) Tốc độ tăng trưởng % 1990 250 22,0 1000 50,0 650 24,6 1991 330 33,3 1500 33,3 810 66,7 1992 440 52,3 2000 35,0 1350 85,2 1993 670 51,9 2700 11,1 2500 60,0 1994 1018 33,2 3500 83,3 4000 75,0 1995 1356 18,5 5500 18,2 7000 35,7 1996 1607 6,8 6500 30,8 9500 12,3 1997 1716 8500 47,4 10670 31,1 1998 1520 9500 14000 1999 1780 10000 15600 Nguồn: Viện nghiên cứu phát triển du lịch, 1998 II-/ Nghiên cứu thị trường khách du lịch quốc tế đến Việt Nam Ngày nay du lịch là một trong những nhu cầu của thế giới hiện đại, nhưng không phải ai có nhu cầu cũng có khả năng đi du lịch. Vì vậy một trong những nhiệm vụ chính của ngành du lịch về nghiên cứu thị trường là xác định thị trường và định hướng thị trường mục tiêu để tiến hành chiến dịch xúc tiến, quảng bá nhằm thu hút khách có hiệu quả. ở Việt Nam chúng ta trong thời gian qua thị trường khách du lịch quốc tế chiếm chủ yếu là các nước. Đơn vị tính: lượt khách Năm Quốc tịch 1992 1993 1994 1995 1996 1997 Đài Loan 69.960 109.880 185.276 225.428 174.400 154.440 Nhật Bản 19.360 34.170 67.188 120.862 118.400 121.836 Pháp 18.920 54.940 111.980 118.146 73.600 66.924 Mỹ 14.520 26.800 151.682 58.394 43.200 41.184 Anh 6.600 20.100 39.72 52.962 40.000 44.616 Hồng Kông 14.080 17.420 24.432 21.728 14.400 10.296 Thái Lan 10.560 16.080 23.414 23.086 19.200 18.876 Trung Quốc 2.640 9.380 14.252 62.468 376.000 404.976 Việt Kiều 80.960 152.760 194.438 262.094 196.800 272.844 Khác 202.400 228.470 205.636 412.832 544.000 580.008 Nguồn: Tổng cục du lịch, Vụ xuất nhập cảnh, Bộ Công an. Qua bảng số liệu trên nhận thấy lượng khách du lịch từ các quốc tịch khách nhau đến Việt Nam không ổn định. Một số nước trong khu vực như Đài Loan, Nhật Bản, Hồng Kông, Thái Lan lượng khách đang có xu hướng giảm dần. Đâu là nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên ? chúng ta biết rằng kể từ sau những năm 1990 các nước nói trên đã dần trở thành một trong những cường quốc kinh tế mạnh nhất trong khu vực, trong đó Nhật Bản là nước có tiềm lực kinh tế mạnh đứng thứ 2 trên thế giới với mức thu nhập bình quân đầu người tương đối cao, thì nhu cầu đi du lịch của các nước này cũng tăng lên. Ta có số lượng khách đi du lịch nước ngoài của các nước (cần nghiên cứu) trong năm 1996. Quốc gia Chi phí (triệu USD) Lượng khách (triệu lượt khách) Mỹ 48,739 40 Nhật Bản 37,040 30,38 Anh 22,445 20,8 Pháp 17,746 14,57 Đài Loan 6,493 5,27 Trung Quốc 4,919 3,72 Thái Lan 4,474 3,4 Nguồn: WTO Như vậy, lượng cầu về du lịch của các nước này tăng nhưng do khách các nước này đến Việt Nam lại giảm là do: - Có sự thay đổi và phát triển của cầu du lịch: khách du lịch ngày càng có nhu cầu lớn hơn, đa dạng và chuyên sâu hơn. Cho nên sản phẩm du lịch phải đa dạng, liên tục phát triển và ngày càng tinh tế hơn. Sản phẩm du lịch phải được quảng bá thông qua một hình ảnh hoặc một thông điệp cụ thể được thực hiện bằng một nỗ lực xúc tiến mạnh mẽ để dẫn tới nhu cầu về sản phẩm đó. Sự tiến bộ vượt bậc của viễn thông và công nghệ thông tin trong thời gian qua đã có tác dụng tích cực đến nhiều mặt của nền kinh tế - xã hội, đặc biệt làm cho nhu cầu du lịch có điều kiện phát triển nhanh chóng. - Xu thế phát triển của cung du lịch trên thị trường thế giới: + Giữa các nước và các khu vực trên thế giới đều có sự cạnh tranh gay gắt để thu hút khác. + Cung du lịch ngày càng mở rộng về mặt địa lý, đa dạng về chủng loại và đạt mức độ dư thừa: CSVC, trang thiết bị du lịch ngày càng hiện đại hoá, quy trình công nghệ được quốc tế hoá dần. + Các nhà cung cấp sản phẩm du lịch thay đổi cách tiếp thị: Do du khách đòi hỏi thông tin ngày càng phải được chi tiết cụ thể hơn nên quảng cáo đơn thuần không còn đủ sức thuyết phục khách hàng nữa. Vai trò của các văn phòng đại diện du lịch nước ngoài vì thế ngày càng trở nên rất quan trọng. Mà du lịch Việt Nam lại chưa bắt nhịp với xu thế phát triển du lịch chung của thời đại. Chưa có đại diện du lịch Việt Nam ở nước ngoài, chưa có chiến lược và kế hoạch cụ thể về Marketing du lịch Việt Nam như một điểm đến du lịch quốc tế. Tuy nhiên, trong những năm tới thị trường khách du lịch tiềm năng vẫn phải là các nước trong khu vực Châu á như ông G.Lip Man, chủ tịch hội đồng du lịch thế giới đã khẳng định trong những năm đầu thế kỷ 21 Châu á sẽ có chứng 500 triệu người phụ thuộc giới trung lưu có đủ điều kiện đi du lịch. Nhưng số khách du lịch trung lưu này số tiền dành cho du lịch chưa nhiều, mặt khác còn có động cơ kết hợp tìm hiểu cơ hội kinh nghiệm làm ăn nên phần lớn số du khách đó chỉ mới đủ điều kiện đi du lịch trong phạm vi Châu á mà chưa chọn đi Châu Âu, Bắc Mỹ, hoặc Trung Đông. Cho nên đây là cơ hội hiếm có, Việt Nam cần chớp lấy thời cơ đồng thời cần chuẩn bị mọi lực lượng cần thiết và có những chính sách cụ thể phù hợp với chính sách thị trường du lịch. Đối với khu vực Châu á phải được khẳng định như là một xu hướng ưu tiên hàng đầu. Trong đó chúng ta cần phải chú ý đến hai đối tượng khách chính là Trung Quốc và Nhật Bản. Ngoài ra trong năm qua ngành du lịch Việt Nam đã tích cực tham gia nhiều hội thảo, hội nghị diễn đàn du lịch quốc tế về du lịch ở nước ngoài. Tổng cục du lịch đã làm đầu mối tổ chức cho một số doanh nghiệp liên hiệp quốc tế và khách sạn tham gia các hội chợ du lịch và diễn đàn quốc tế ở những thị trường trọng điểm như hội chợ ITB (Berlin Đức), SALON, TOP, RESA, DOVIN (Pháp), JATA (Nhật Bản) một số hội chợ ở Trung Quốc và các nước ASEAN khác... Ngoài ra các doanh nghiệp còn tham gia các hội chợ như WTM (London, Anh) một số hội chợ tại Pháp, Mỹ, Italia, Hà Lan... việc tổ chức tham gia các hội chợ quốc tế đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp du lịch thâm nhập thị trường du lịch thế giới, tiếp cận trực tiếp với khách hàng, trao đổi ký kết các hội đồng đưa đến khách với các hãng du lịch nước ngoài, thu hút và tổ chức nguồn khách ngày càng lớn tới du lịch Việt Nam. Mục tiêu trong những năm tới du lịch Việt Nam cần xác lập chỗ đứng tại các thị trường trọng điểm: Trung Quốc, Nhật Bản, Pháp, Đức, Mỹ, các nước Đông Bắc á, các nước Tây Âu, Bắc Âu, Bắc Mỹ và một số vùng Trung Đông. Như vậy du lịch Việt Nam mới thu hút được sự chú ý của khách du lịch Châu Âu và Bắc Mỹ. Trong đó Pháp với số lượng khách du lịch đến Việt Nam tương đối ổn định và với những quan hệ hợp tác ngày càng tiến triển tốt đẹp giữa ta và Pháp như: 1/1996 Việt - Pháp đã ký kết hiệp định hợp tác du lịch. Việt Nam đã tổ chức thành công Hội nghị cấp cao 7 các nước nói tiếng Pháp trong năm 1997 và gần đây nhất Pháp đã tài trợ cho Festival du lịch Huế 2000. Do đó phải tăng cường khai thác thị trường du lịch Pháp, coi là một trong những thị trường trọng điểm của du lịch Việt Nam hợp tác chặt chẽ với các hãng lữ hành Pháp để tăng cường thêm khách đến Việt Nam. Ngoài ra cần phải đẩy mạnh thu hút khách từ các thị trường như: Mỹ, Anh, Đức. Tuy số lượng khách Việt Kiều trở về nước hàng năm với một số lượng tương đối lớn. Nhưng chúng ta không đặt mục tiêu đây là thị trường tiềm năng. Bởi vì đối tượng khách này trở về nước đa số chỉ nhằm mục đích thăm thân hoặc thương mại, họ ít khi tiêu dùng sản phẩm du lịch của chúng ta. Từ những nghiên cứu trên chúng ta có thể dự đoán số lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam từ nay đến năm 2010 là: Năm Số lượng khách du lịch Lưu trú bình quân (ngày) Doanh thu (triệu đồng) 2000 3.800.000 5,0 1.330 2005 6.200.000 5,5 4.092 2010 8.700.000 6,0 8.352 Nguồn: Tổng cục du lịch III-/ Thực trạng và điều kiện thu hút khách quốc tế ở Việt Nam so với các nước trong khu vực. Năm 1998, theo tổ chức du lịch thế giới (WTO) cả thế giới có 625,171 triệu lượt khách du lịch quốc tế, tốc độ tăng trưởng trung bình là 2,37% và doanh thu từ khách du lịch quốc tế đạt tới con số 444,943 tỷ USD. Trong đó Châu Âu với mức tăng trưởng bình quân 3,6% về khách thấp hơn so với khu vực Châu á (6%), Châu Mỹ (4%), Trung Đông (10%), nhưng vẫn là khu vực thu hút nhiều khách quốc tế nhất thế giới, chiếm khoảng 57% số khách du lịch quốc tế trên toàn thế giới. Tuy nhiên, theo các nhà phân tích kinh tế và du lịch thế giới thì từ đầu thế kỷ 21, bức tranh du lịch và kinh tế du lịch sẽ có nhiều thay đổi. Căn cứ vào tình hình phát triển du lịch trên thế giới trong thời gian qua và xu hướng di chuyển của du khách, các nhà nghiên cứu du lịch đã cho rằng 100 năm trước là thời kỳ của Địa Trung Hải, thế kỷ 20 là thời kỳ của Đại Tây Dương và thế kỷ 21 là thời kỳ của Châu á - Thái Bình Dương. Như vậy, nguyên nhân nào dẫn đến sự thay đổi ngôi thứ du lịch giữa các khu vực và từ Châu Âu chuyển dần sang Châu á ? đó là: - Từ nhu cầu rời khỏi nhà máy, công xưởng, đi nghỉ cuối tuần nhằm thư giãn phục hồi sức khoẻ thì nay đã chuyển sang các hình thức nhu cầu du lịch mới: nghiên cứu khai phá những gì chưa biết để cùng nhau thưởng ngoạn và thư giãn trong một khung cảnh thiên nhiên đầy ấm áp, vui tươi, trong lành, kỳ thú và mới lạ. Mà Châu á lại đang là nơi thiên đàng của nhu cầu du lịch loại này. - Châu á được coi là khu vực có nền kinh tế năng động, tốc độ tăng trưởng cao và phát triển mạnh nên gây sự chú ý hấp dẫn đối với du khách. - Chính sách mà hầu hết các quốc gia Châu á đang theo đuổi là hoà bình và hợp tác phát triển. Đây là điều kiện đảm bảo cho mọi hoạt động du lịch phát triển. - Tiềm năng du lịch các nước Châu á rất phong phú, hấp dẫn, trong khi hệ thống cơ sở hạ tầng xã hội du lịch ngày càng được cải thiện và phát triển mạnh không còn trở ngại đối với lưu thông liên kết du lịch giữa Châu á và thế giới. Việt Nam là một nước thuộc Châu á. Đây là một cơ hội hiếm có, cần chớp lấy thời cơ, đồng thời chuẩn bị mọi lực lượng cần thiết và có những chính sách cụ thể phù hợp để biến Việt Nam trở thành cái nôi của du lịch Châu á. Ngoài ra, ở Châu á, khu vực các nước Đông Nam á (ASEAN) du lịch đã trở thành một trong những ngành công nghiệp chủ đạo. Trước cuối những năm 1960, du lịch còn chưa có vai trò lớn trong ngành kinh tế quốc dân của các nước Đông Nam á. Bắt đầu từ những năm 1970 - 1980 do giá tour đến các nước ASEAN tương đối ổn định và do mức thu nhập trong các nước gửi khách chính tăng lên đã dẫn đến hiện tượng tăng đáng kể số lượng khách du lịch quốc tế đến khu vực. Đặc biệt 1980 - 1990 tốc độ tăng bình quân về khách du lịch quốc tế của các nước ASEAN đạt 10,6% và thời kỳ 1988 - 1997 tốc độ gia tăng đạt 8,8%/năm. Sự phát triển du lịch của các nước Đông Nam á. Năm Lượng khách quốc tế (ngàn người) Doanh thu (triệu USD) Năm Lượng khách quốc tế (ngàn người) Doanh thu (triệu USD) 1980 8.233 3.161 1993 24.135 19.515 1985 9.924 4.721 1994 27.135 23.821 1990 21.469 14.440 1995 29.173 27.946 1991 20.210 14.164 1996 30.990 29.886 1992 21.812 17.247 1997 31.378 30.276 Nguồn: WTO Nếu năm 1987 tỷ phần du lịch quốc tế các nước Đông Nam á chỉ chiếm 3,54% thì năm 1996 du lịch ASEAN đã chiếm 5,17% trong tổng thị phần du lịch thế giới. Thị phần du lịch ASEAN năm 1997 TT Nước Số khách quốc tế (000) Tỷ phần (%) 1996 1997 1 Thái Lan 7.192 7.263 23,4 2 Malaysia 7.138 7.200 23,0 3 Singapore 6.603 6.542 21,0 4 Indonesia 4.324 596 16,0 5 Philippin 2.049 2.223 7,0 6 Việt Nam 1.618 1.716 5,1 7 Bruney 860 2,7 8 Lào 403 500 1,5 9 Myanma 164 185 0,6 Nguồn: WTO Còn đối với Việt Nam chúng ta, tuy ngành du lịch ra đời từ cuối những năm 1960, nhưng phải đến khi có chính sách mở cửa du lịch Việt Nam mới có điều kiện phát triển. Nếu như năm 1988 du lịch Việt Nam chỉ đón được 92.500 lượt khách quốc tế thì năm 1999 toàn ngành đã đón được 1,78 triệu lượt khách quốc tế đạt 111,25% kế hoạch năm, vượt 17% so với năm 98. Như vậy, trong bối cảnh nền kinh tế chung của cả nước tăng trưởng chậm do hậu quả nặng nề của thiên tai liên tiếp trên diện rộng và tác động bất lợi từ khủng hoảng tài chính trong khu vực, thì những con số trên càng khẳng định giá trị về tốc độ phát triển du lịch. Ngành kinh tế tổng hợp này đã vượt qua những thách thức bằng bí quyết nào ? Trước hết, đó là nhờ một hệ thống chính sách phát triển hợp lý. Ngay từ đầu năm 1999 du lịch Việt Nam đã liên tiếp đón nhận hàng loạt tin vui: pháp lệnh du lịch được ban hành, ban chỉ đạo Nhà nước về du lịch được thành lập, chương trình hành động về quốc gia được ban bố. Dưới sự hướng dẫn của Tổng cục du lịch, 30 tỉnh thành phố đã thành lập ban chỉ đạo du lịch, xây dựng chương trình hành động du lịch của địa phương. Như một “cú huých” dây chuyền, các chính sách này còn thúc đẩy sự quan tâm của các bộ, ngành liên quan đối với du lịch kéo theo những cải tiến trong thủ tục cấp visa, xuất nhập cảnh, vận chuyển khách, thủ tục hải quan... Với sự năng động vốn có, các doanh nghiệp trong ngành du lịch đã đón nhận những chính sách mới, mau chóng mở ra nhiều chương trình du lịch hấp dẫn khách. Các tour du lịch sinh thái dài ngày trên vịnh Hạ Long, sông Đồng Nai, sông Vàm Cỏ Đông... Năm 1999 cũng có thể coi là “năm tuyên truyền quảng bá” của ngành du lịch. Ngoài tham gia các hội chợ du lịch quốc tế tại Đức, Hàn Quốc, Pháp, Nhật, Lào, Singapore lần đầu tiên trong nhiều năm qua du lịch Việt Nam đã hiện diện tại hội chợ du lịch quốc tế do tổ chức du lịch thế giới (WTO) tổ chức tại Anh, hình ảnh du lịch và hàng không cùng gắn kết trong một ngôi nhà chung Việt Nam tại các hội chợ cũng như sự ra đời của các văn phòng đại diện nhiều nước làm cho hình ảnh đất nước, con người Việt Nam và các nội dung của các chương trình hành động quốc gia về du lịch ngày càng rõ nét trên thị trường du lịch của nhiều quốc gia. Chính tạo được sự đồng bộ trong phát triển, nên dễ hiểu được lượng khách mà du lịch Việt Nam đón được trong năm qua đã tăng vọt hơn so với năm trước. Đón nhiều khách, hoạt động kinh doanh khách sạn và các dịch vụ khác cũng khởi sắc theo. Tuy nhiên so với các nước trong khu vực, như Thái Lan, Malaysia, Singapore, Indonesia, kết quả đạt được của ngành du lịch những năm qua còn khiêm tốn và chưa tương xứng tiềm năng to lớn của đất nước. Do nền du lịch nước ta vẫn còn gặp phải nhiều khó khăn và hạn chế: + Lượng khách du lịch quốc tế còn ít, đang có xu hướng chững lại, không ổn định. Khách du lịch thuần tuý chỉ khoảng 41%. Số còn lại phần lớn là khách thương mại, tìm kiếm cơ hội đầu tư kết hợp với du lịch. Sự hấp dẫn của môi trường đầu tư giảm dần dẫn đến số khách này giảm. Cơ cấu du khách quốc tế đến Việt Nam (chia theo mục đích chuyến đi) Năm Mục đích 1993 1994 1995 1996 1997 Du lịch 40,5 46,7 45,2 41,2 40,3 Thương mại 23,5 25,9 22,8 22,7 23,5 Thăm thân 23,5 20,6 15,0 17,0 21,7 Khác 12,5 6,8 17,0 19,1 14,5 Nguồn: Tổng cục du lịch 1998 Nhóm thu hút khách du lịch thuần tuý, cần có sản phẩm du lịch đích thực và hấp dẫn, thông thoáng và dễ dàng về thủ tục. Cả hai mặt này hiện nay đang là những hạn chế, trở ngại, khách từ các thị trường truyền thống đến bằng máy bay giảm. Hiệu quả khai thác kém: thời gian lưu lại du lịch ở Việt Nam ngắn ngày, chỉ tiêu cho mua sắm và vui chơi giải trí thấp và ít khách quay lại du lịch lần thứ hai. Số lượng buồng phòng khách sạn tăng nhanh, nhưng số khách không tăng tương ứng, trở nên thừa, công suất sử dụng buồng phòng giảm. Một số khách sạn lớn xây xong không khai trương được hoặc hoạt động cầm chừng, công suất sử dụng chỉ đạt 30 - 40%. Hiệu quả kinh doanh thấp, gây tâm lý lo ngại trong giới đầu tư kinh doanh du lịch, nhất là các nhà đầu tư nước ngoài. + Sản phẩm du lịch chưa độc đáo, giá cả chưa tương xứng với chất lượng, khả năng cạnh trah yếu. Hầu hết các khu du lịch, điểm du lịch khai thác ở dạng tự nhiên, chưa được đầu tư tôn tạo. Tình trạng mất vệ sinh trật tự, hàng rong, ăn xin, chèo kéo khách ở các điểm du lịch còn khá phổ biến. Chương trình du lịch còn nghèo, trùng lặp. Các khu du lịch cơ sở vui chơi giải trí còn ít. Hàng lưu niệm chưa phong phú và chưa đáp ứng thị hiếu,... Việc mở các loại hình du lịch mới, tuy đã được chú ý, song còn hạn chế và gặp nhiều khó khăn. Giá cả các chương trình du lịch còn cao so với chất lượng dịch vụ và so với một số nước trong vùng. Còn nhiều phụ phí và lệ phí bất hợp lý, tuỳ tiện. + Quảng bá tiếp thị du lịch còn hạn chế: chưa có đại diện du lịch quốc gia ở nước ngoài. ấn phẩm quảng bá về du lịch chung cho cả nước còn hạn chế. Nhiều doanh nghiệp lữ hành quốc tế chưa đủ sức vươn ra nước ngoài khai thác đưa khách. + Đội ngũ những người làm du lịch chưa được đào tạo, bồi dưỡng chu đáo nhất là những người làm công tác tiếp thị, quảng bá, hướng dẫn viên, lễ tân và các dịch vụ khách sạn, nhà hàng. Tổ chức kinh doanh lữ hành khách sạn, vận chuyển còn phân tán, lộn xộn, không phép, trốn thuế, gây tình trạng cạnh tranh không lành mạnh, bình đẳng. + Thủ tục vào ra còn nhiều phiền phức, lệ phí, phụ phí, giá vé còn cao, giảm khả năng cạnh tranh thu hút khách so với các nước trong vùng. Chương III Một số kiến nghị nhằm đẩy mạnh hoạt động thu hút khách du lịch đến Việt Nam Đảng và Nhà nước ta đã xác định du lịch là một ngành kinh tế quan trọng. Phát triển du lịch là một hướng chiến lược trong đường lối phát triển kinh tế xã hội nhằm góp phần thực hiện CNH-HĐH đất nước. Trong thời gian tới, để tháo gỡ những khó khăn trước mắt và phấn đấu đạt mục tiêu đón 2 triệu lượt khách quốc tế, và 11 triệu lượt khách trong nước, ngành du lịch cần vươn lên mạnh mẽ và tập trung giải quyết những vấn đề sau: 1-/ Củng cố bộ máy quản lý Nhà nước về du lịch: Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế cùng tham gia kinh doanh du lịch, vừa hợp tác, vừa cạnh tranh lành mạnh, phát triển đúng hướng, tranh thủ được các khả năng về vốn, trang thiết bị, cơ sở vật chất và kinh nghiệm trong và ngoài nước. Tạo ra nhiều sản phẩm du lịch phong phú và hấp dẫn. 2-/ Đa dạng hoá và nâng cao chất lượng sản phẩm: Một trong những yếu tố mang tính quyết định tới sự hấp dẫn thu hút khách quốc tế đến Việt Nam là sản phẩm du lịch và chất lượng dịch vụ. Giá trị của sản phẩm du lịch vừa là tổng hợp nhiều yếu tố nhưng lại được thể hiện cụ thể ở từng nơi, từng lúc, từng khâu tách biệt nhau, từng yếu tố riêng biệt. Tuỳ từng nước, người ta dựa vào những ưu thế nhất định và dựa vào yếu tố chính sách để tạo ra những sản phẩm mũi nhọn. ở Việt Nam, chúng ta phải dựa vào hai yếu tố trụ cột: tiềm năng thiên nhiên, tiềm năng nhân văn và yếu tố sang tạo của người quản lý và kinh doanh du lịch của các ngành, các địa phương có liên quan. Đó là nền tảng để chúng ta phấn đấu tạo ra những sản phẩm du lịch hấp dẫn. 3-/ Xác định khu vui chơi giải trí thu hút khách đến và ở lại lâu hơn: hoạt động vui chơi giải trí đóng một vai trò quan trọng trong đời sống xã hội, ngoài việc tạo điều kiện nghỉ ngơi thư giãn, tái tạo sức lao động, vui chơi giải trí còn góp phần làm phong phú các sản phẩm du lịch, tăng sức hấp dẫn của hoạt động du lịch kéo dài thời gian lưu trú của khách, tăng cường trí tuệ, kiến thức chung cũng như tạo cơ hội giao tiếp trong cộng đồng. 4-/ Đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ, nhân viên làm công tác du lịch theo một tiêu chuẩn quy định thống nhất. Đây là giải pháp có tính quyết định để nâng cao chất lượng và bảo đảm sự phát triển bền vững của du lịch nước nhà. 5-/ Đẩy mạnh công tác tuyên truyền quảng bá du lịch Việt Nam: Bao gồm: + Công tác tuyên truyền quảng bá du lịch ở trong nước. + Công tác tuyên truyền quảng bá du lịch ở nước ngoài: mục tiêu là thu hút ngày càng nhiều khách quốc tế vào du lịch Việt Nam. Xác lập được hình ảnh, vị thế cạnh tranh của du lịch Việt Nam trên thị trường du lịch thế giới. Do đó cần phải: - Chú trọng công tác nghiên cứu thị trường nhằm định hướng thị trường, xác định thị trường mục tiêu, trọng điểm. Việc đặc trọng tâm quảng bá vào thị trường còn phải dựa trên cơ sở nhu cầu du lịch của khách. - Xây dựng và xúc tiến hình ảnh về du lịch Việt Nam để xác định vị thế du lịch Việt Nam trên thị trường du lịch thế giới. - Tạo ra cơ chế xã hội hoá nguồn tài chính phù hợp để thúc đẩy công tác Marketing, xúc tiến du lịch. Hoạt động Marketing, xúc tiến đòi hỏi phải có một nguồn tài chính lớn. - Tham gia các hội chợ, hội thảo, diễn đàn du lịch quốc tế, các tổ chức quốc tế và khu vực. - Đề nghị Chính phủ cho cơ chế hợp lý để có văn phòng đại diện du lịch quốc gia tại một số thị trường trọng điểm. Một trong những nhiệm vụ chính của văn phòng này là làm công tác nghiên cứu thị trường, Marketing, quảng bá và cung cấp thông tin về du lịch Việt Nam cho du khách nước ngoài. 6-/ Cần phải phát triển du lịch Việt Nam theo hướng bền vững. Điều cốt lõi trong phát triển du lịch bền vững là bảo đảm sự cân bằng giữa cung và cầu, giữa số lượng và chất lượng, giữa phát triển du lịch quốc tế và du lịch nội địa, giữa khai thác và bảo vệ, phát triển nguồn tài nguyên du lịch, cân đối giữa yêu cầu phát triển và khả năng quản lý. Trong quá trình hoạch định chiến lược xây dựng kế hoạch, tổ chức điều hành và quản lý để thực hiện các mục tiêu phát triển du lịch, phải chú ý đến kết hợp chặt chẽ và nghiêm ngặt với việc bảo vệ môi trường, sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên và nhân văn hợp lý cho sự phát triển bền vững. Tự nhiên và văn hoá là nguồn lực cơ bản và môi trường quyết định sự phát triển du lịch, cần bảo vệ môi trường cho phát triển du lịch, và mặt khác bảo vệ văn hoá, môi trường không bị tác động xấu từ những tiêu cực trong hoạt động du lịch. Nhận thức đúng, phải đi liền với cam kết cụ thể và rõ ràng cho việc thực hiện phát triển du lịch bền vững, thốngnhất từ Trung ương đến địa phương, được thể hiện bằng các luật lệ, quy chế quản lý. Đồng thời phải xác định trách nhiệm và sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ thường xuyên giữa các cấp, các ngành. Nhờ vậy đây là sự lựa chọn chiến lược đúng cho phát triển du lịch “cho ngày nay, cho ngày mai, cho muôn đời sau”. Kết luận Trong thời kỳ hiện đại số lượng khách đi du lịch nước ngoài tăng nhanh, du lịch trở thành nhu cầu thiết yếu trong những ngày nghỉ cuối tuần, ngày lễ, kỳ nghỉ hàng năm để giúp mọi người phục hồi sức khoẻ, lấy lại cân bằng sinh thái của nhịp sống đã bị phá vỡ do ảnh hưởng của quá trình CNH-HĐH. Mặt khác do kinh tế phát triển, thu nhập của người dân tăng lên, điều kiện phương tiện đi lại dễ dàng - nhanh chóng, thời gian rỗi nhiều hơn, nên nhu cầu du lịch cũng có điều kiện thuận lợi để chuyển đổi thành cầu du lịch. Cho nên với xu thế chung của sự phát triển cầu du lịch trên thế giới, vì vậy để nghiên cứu tìm ra giải pháp thu hút khách du lịch quốc tế đóng vai trò quyết định đối với hoạt động du lịch ở nước ta. Trong bài viết này em đã đi sâu vào tìm hiểu thực trạng ngành du lịch Việt Nam và đã đề ra một số phương hướng giải pháp nhằm khắc phục phần nào những khó khăn mà du lịch Việt Nam còn vướng mắc. Và chúng ta có quyền hy vọng rằng với truyền thống 40 năm phát triển của ngành và bằng sự góp sức của cả nước. Du lịch Việt Nam sẽ thu hút ngày càng đông đảo du khách quốc tế, sẽ dần trở thành một địa danh du lịch hấp dẫn đối với toàn thế giới. mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docH0111.doc
Tài liệu liên quan