Đối với chế độ trợ cấp tuất một lần là quá thấp không tương xứng với chế độ trợ cấp thôi việc hưởng trợ cấp một lần. Theo qui định, mức trợ cấp tuất một lần mỗi năm đóng BHXH được 12 tháng lương, tối đa không quá 12 tháng lương. Trong khi đó chế độ thôi việc hưởng trợ cấp một lần mỗi năm đóng BHXH được trợ cấp 1 tháng tiền lương, không hạn chế mức tối đa. Vì vậy có trường hợp người lao động có khoảng 30 năm đóng BHXH sắp chết vẫn phải làm đơn xin thôi việc để được hưởng chế độ trợ cấp một lần. Do đó chế độ tử tuất một lần nên qui định mỗi năm đóng BHXH được trợ cấp 1 tháng tiền lương bình quân tối đa không quá 30 tháng lương tương ứng với số năm tính hưởng hưu trí.
52 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1539 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Những giải pháp hoàn thiện và thực hiện các chế độ bảo hiểm xã hội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
độ BHXH.
Thi hành luật lao động về BHXH, chính phủ đã ra Nghị định 12/CP ngày 26/1/1995 ban hành điều lệ BHXH và Nghị định 19/CP ngày 16/2/1995 về việc thành lập BHXH Việt Nam.
3. Thời kỳ từ năm 1995 đến nay.
Với việc Chính phủ ban hành các nghị địh 12/CP ngày 26/2/1995, ban hành điều lệ BHXH và Nghị định 19/CP ngày 16/2/1995 về việc thành lập BHXH Việt Nam đã đánh dấu một bước ngoặt lớn trong sự nghiệp BHXH Việt Nam. Nội dung của việc đổi mpí chính sách BHXH góp phần thực hiện các mục tiêu của Đảng và Nhà nước đề ra, góp phần thực hiện công bằng và sự tiến bộ xã hội, góp phần làm lành mạnh hoá thị trường lao động và góp phần nào đó đáp ứng được sự mong mỏi của đông đảo người lao động trong các thành phần kinh tế của cả nước.
Nội dung cơ bản của chế độ chính sách BHXH mới:
3.1. Đối tượng tham gia BHXH.
Điều lệ BHXH quy định các đối tượng sau phải áp dụng các chế độ BHXH.
- Người lao động làm việc trong các doanh nghiệp Nhà nước.
- Người lao động làm việc trong các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh có sử dụng từ 10 lao động trở lên.
- Người lao động Việt Nam làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, khu chế xuất, khu công nghiệp, trong các cơ quan, tổ chức nước ngoài hoặc tổ chức quốc tế tại Việt Nam, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác.
- Người lao động làm việc trong các tổ chức kinh doanh dịch vụ thuộc cơ quan hành chính sự nghiệp, cơ quan Đảng, đoàn thể.
- Người lao động làm việc trong các doanh nghiệp, các tổ chức dịch vụ thuộc lực lượng vũ trang.
- Người giữ chức vụ dân cử, bẩu cử làm việc trong các cơ quan quản lý Nhà nước, Đảng, đoàn thể từ trung ương đến cấp huyện.
- Công chức, viên chức Nhà nước làm việc trong các cơ quan hành chính sự nghiệp, người làm việc trong các cơ quan Đảng, đoàn thể từ trung ương đến cấp huyện.
- Ngoài ra, Nghị định 09/1998/NĐ-CP ngày 23/1/1999 của Chính phủ quy định việc tham gia BHXH đối với các cán bộ xã, phường, thị trán.
Các đối tượng trên đi học, thực tập, công tác, điều dưỡng ở nước ngoài mà vẫn hưởng tiền lương hoặc tiền công thì cũng thuộc đối tượng thực hiện BHXH bắt buộc.
Với đối tượng đã được quy định như ở trên, tính đến năm 2000 cả nước có khoảng 4,2 triệu lao động tham gia BHXH.
3.2. Các chế độ BHXH.
Theo điều 2 của điều lệ BHXH Việt Nam, BHXH nước ta hiện nay thực hiện 5 chế độ.
- Chế độ trợ cấp ốm đau: chế độ này giúp cho người lao động có được khoản trợ cấp thay thế thu nhập bị mất do không làm việc khi bị ốm đau.
- Chế độ trợ cấp thai sản: chế độ này giúp cho lao động nữ có được khoản trợ cấp thay thế cho phần thu nhập bị mất do không làm việc vì sinh sản, đồng thời quy định thời gian nghỉ có tính đến yếu tố điều kiện, môi trường lao động nhằm đảm bảo sức khoẻ cho sản phụ thuộc các nhóm lao động khác nhau.
- Chế độ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp: góp phần đảm bảo thu nhập, ổn định cuộc sống cho người lao động không may bị tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp, đồng thời quy định rõ trách nhiệm của người sử dụng lao động đối với các trường hợp xảy ra tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp.
- Chế độ hưu trí: đây là chế độ nhằm cung cấp một khoản trợ cấp thay thế cho phần thu nhập khong được nhận nữa từ nghề nghiệp do nghỉ hưu.
- Chế độ tử tuất: chế độ này đã giúp cho thân nhân người chết có được khoản trợ cấp bù đắp một phần thiếu hụt thu nhập của gia đình do người lao động bị chết.
Nội dung cơ bản của 5 chế độ nêu trên được quy định thống nhất trong chương II của Điều lệ BHXH.
3.3. Quỹ bảo hiểm xã hội.
Theo điều lệ BHXH hiện hành, quỹ BHXH được hình thành từ các nguồn sau đây:
- Người sử dụng lao động đóng 15% so với tổng quỹ tiền lương của những người tham gia BHXH trong đơn vị; trong đó 10% để chi các chế độ hưu trí, tử tuất, 5% để chi các chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.
- Người lao động đóng 5% tiền lương tháng để chi cho các chế độ hưu trí và tử tuất.
- Nhà nước đóng và hỗ trợ thêm để đảm bảo thực hiện các chế độ BHXH đối với người lao động.
- Các nguồn khác.
Hàng tháng, người sử dụng lao động có trách nhiệm đóng BHXH theo quy định. Tiền lương tháng làm căn cứ đóng BHXH gồm lương theo ngành bậc, chức vụ, hợp đồng và các khoản phụ cấp khu vực, đắt đỏ, chức vụ, thâm niên, hệ số chênh lệch bảo lưu (nếu có). Hàng tháng, Bộ Tài chính trích từ ngân sách Nhà nước số tiền chuyển vào quỹ BHXH đủ chi các chế độ hưu trí, trợ cấp mất sức lao động, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, tử tuất, bảo hiểm y tế của những người đang hưởng BHXH trước ngày thi hành điều lệ này và hỗ trợ để chi lương hưu cho người lao động thuộc khu vực Nhà nước về hưu kể từ ngày thi hành điều lệ này. Việc tổ chức thu BHXH do tổ chức BHXH Việt Nam thực hiện. Quỹ BHXH được quản lý thống nhất theo chế độ tài chính của Nhà nước, hạch toán độc lập và được Nhà nước bảo hộ. Quỹ BHXH được sử dụng để chi cho 5 chế độ mà điều lệ BHXH đã qui định. Đồng thời được sử dụng để chi phí cho sự cho sự nghiệp BHXH ở các cấp, các ngành. Phần quĩ nhàn rỗi được phép đầu tư để bảo tồn giá trị và tăng trưởng theo qui định của Chính phủ.
3.4. Tổ chức và quản lý bảo hiểm xã hội.
Theo Nghị định 19/CP ngày 16/02/1995 của Chính phủ, hệ thống BHXH Việt Nam được thành lập trên cơ sở thống nhất các tổ chức BHXH ở Trung ương và địa phương thuộc hệ thống lao động - thương binh xã hội và Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam để giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo công tác quản lý quĩ BHXH và thực hiện các chế độ chính sách BHXH theo luật pháp Nhà nước. Theo nghị định này BHXH Việt Nam có các nhiệm vụ và quyền hạn sau:
- Tổ chức việc thu BHXH theo qui định của Chính phủ.
- quản lý quĩ BHXH và tổ chức chi trả cho người lao động tham gia BHXH và các khoản trợ cấp BHXH đầy đủ thuận tiện và đúng thời hạn.
- Có quyền từ chối việc chi trả các chế độ BHXH cho các đối tượng được hưởng BHXH khi có kết luận của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về hành vi man trá làm giả hồ sơ tài liệu, đồng thời ra văn bản thông báo việc từ chối chi trả đó cho đương sự, cơ quan sử dụng lao động và cơ quan pháp luật.
- Bồi thường mọi khoản thu, chi sai các qui định của Nhà nước về BHXH cho các đối tượng tham gia và chịu trách nhiệm trước pháp luật.
- Xây dựng và tổ chức thực hiện các dự án, biện pháp để bảo tồn giá trị và tăng trưởng quĩ theo qui định của Chính phủ.
- Trình Thủ tướng Chính phủ quyết định về mức chi phí quản lý, định mức lệ phí thu - chi quĩ BHXH và các qui định khác có liên quan đến hoạt động BHXH và tổ chức thực hiện.
- Kiến nghị với Chính phủ và cơ quan Nhà nước có liên quan việc sửa đổi, bổ sung các chế độ chính sách BHXH phù hợp với tình hình của đất nước trong từng giai đoạn.
- Tổ chức thực hiện công tác thống kê, hạch toán, kế toán, hướng dẫn nghiệp vụ thu, chi BHXH và kiểm tra thực hiện và tổ chức công tác thông tin, tuyên truyền giải thích các chế độ chính sách về BHXH.
- Kiểm tra việc thực hiện các chế độ thu - chi BHXH.
- Giải quyết kịp thời các khiếu nại của người tham gia BHXH về việc thực hiện các chế độ chính sách BHXH.
- Thực hiện việc hợp tác quốc tế về sự nghiệp BHXH theo qui didnhj của Chính phủ.
- Quản lý tổ chức, viên chức và cơ sở vật chất của BHXH Việt Nam theo qui định của Nhà nước.
BHXH Việt Nam đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Thủ tướng Chính phủ, sự quản lý Nhà nước của Bộ Lao động - thương binh xã hội, các cơ quan quản lý Nhà nước có liên quan, sự giám sát của tổ chức công đoàn.
Hội đồng quản lý là cơ quan quản lý cao nhất của BHXH Việt Nam, Hội đồng quản lý và giám sát kiểm tra việc thu - chi, quản lý quĩ, quyết định các biện pháp để bảo tồn giá trị và tăng trưởng quĩ BHXH, thẩm tra quyết toán và thông qua dự toán hàng năm; kiến nghị với Chính phủ và các cơ quan Nhà nước có liên quan bổ sung sửa đổi các chế độ chính sách BHXH; giải quyết các khiếu nại của người tham gia BHXH; đề xuất việc bổ nhiệm miễn nhiệm Tổng Giám đốc, các phó Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam.
Thành viên của hội đồng quản lý bao gồm: đại diện có thẩm quyền của Bộ Lao động - Thương bình xã hội, Bộ Tài chính, Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam và Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam. Hội đồng quản lý có 1 chủ tịch, 1 phó chủ tịch và các thành viên do thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm và miễn nhiệm.
Bảo hiểm xã hội Việt Nam được tổ chức thành hệ thống dọc từ Trung ương đến địa phương có cơ cấu như sau:
- ở Trung ương: BHXH Việt Nam
- BHXH tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
- BHXH huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh.
BHXH Việt Nam do Tổng Giám đốc trực tiếp quản lý và điều hành theo chế độ thủ trưởng, giúp việc Tổng Giám đốc có các phó Tổng Giám đốc. Tổng Giám đốc và các phó Tổng Giám đốc và các phó Tổng Giám đốc do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm và miễn nhiệm theo đề nghị của Hội đồng quản lý BHXH Việt Nam.
Sơ đồ hệ thống tổ chức BHXH Việt Nam
Thủ tướng Chính phủ
Hội đồng quản lý
Tổng giám đốc
Phó tổng giám đốc
Phó tổng giám đốc
Các phòng ban nghiệp vụ BHXH
BHXH tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
BHXH quận, huyện, thành phố trực thuộc tỉnh
Sơ đồ quản lý BHXH
Người sử dụng lao động góp 15%
Người lao động góp 5%
Nhà nước đóng và hỗ trợ thêm
Thu khác
Thu khác từ các dự án phát triển
Cơ quan BHXH
Tài sản đầu tư các dự án
Chi trả trợ cấp
Chi phí quản lý
Chi đầu tư các dự án
Trợ cấp ngắn hạn
- ốm đau
- Thai sản
- Tai nạn lao động trợ cấ 1 lần
Trợ cấp dài hạn
- Hưu trí
- Tử tuất
- Trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp hàng tháng
Với việc hình thành hệ thống BHXH Việt Nam thống nhất từ Trung ương đến quận, huyện, việc thực hiện các nhiệm vụ thu BHXH, chi trả cho đối tượng quản lý đối tượng tham gia hưởng chế độ và xét duyệt hồ sơ hưởng BHXH đã được tập trung vào một đầu mối bảo đảm thực hiện các chế độ BHXH và quản lý quĩ BHXH thống nhất trong cả nước, bảo đảm cho việc quản lý BHXH đến từng đơn vị tham gia BHXH, đến từng người tham gia và hưởng chế độ BHXH; quản lý và theo dõi mức đóng, mức hưởng thường kỳ hàng tháng với từng người. Thực hiện cấp sổ BHXH cho từng người tham gia BHXH để theo dõi mức đóng, thời gian đóng làm căn cứ hưởng các chế độ BHXH.
II- Tình hình thực hiện các chế độ BHXH.
1. Những kết quả chung.
Trong những năm qua, mặc dù ngành BHXH còn rất nhiều khó khăn như điều kiện vật chất, điều kiện làm việc vẫn còn thiếu thốn, công việc rất mới mẻ… song ý thức được việc thực hiện tốt của chế độ, chính sách BHXH đối với người lao động là đảm bảo quyền lợi chính đáng của người lao động theo qui định của pháp luật, mặt khác là nhiệm vụ hàng ngày, là trách nhiệm của cơ quan BHXH. Vì vậy kết quả thực hiện các chế độ BHXH đạt được là rất đáng khích lệ nó đã chứng minh được việc thực hiện chế độ, chính sách BHXH theo sự đổi mới về kinh tế, xã hội của Đảng và Nhà nước là hoàn toàn đúng và thực sự phát huy tác dụng góp phần ổn định cuộc sống cho hàng triệu người lao động đồng thời góp phần to lớn vào công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới.
Kết quả thực hiện của chế độ BHXH trong những năm qua như sau:
- Trong 5 năm 1995 - 1999, BHXH các tỉnh, thành phố đã chi trả đầy đủ, kịp thời và an toàn 24.076.089 triệu đồng. Trong đó chi từ ngân sách Nhà nước cho các đối tượng hưởng trợ cấp và hưu trí hàng tháng trước ngày 1/1/1995 là: 20.838.016 triệu đồng, chi từ quĩ BHXH là 3.238.073 triệu đồng. Ngoài ra, mỗi năm còn chi trả khoảng 200 tỷ đồng cho hàng triệu lượt người hưởng các chế độ ốm đau, thai sản. BHXH Việt Nam cũng đã tiếp nhận và giải quyết cho 161.888 người hưởng chế độ dài hạn và 247.943 người hưởng trợ cấp một lần. Nhìn chung công tác xét duyệt các chế độ BHXH được bảo đảm kịp thời, chặt chẽ, đúng chế độ qui định, luôn tạo thuận lợi cho người lao động và các đơn vị sử dụng lao động.
- NĂm 2000, BHXH Việt Nam chi trả các chế độ BHXH cho các đối tượng 7.566.427 triệu đồng an toàn và kịp thời đúng chế độ trong đó có khoảng trên 1 triệu lượt người hưởng chế độ ốm đau với số tiền trên 76 tỷ đồng và 118.914 người được hưởng chế độ thai sản với số tiền trên 200 tỷ, đồng thời giải quyết chế độ cho 54.335 người hưởng BHXH thường xuyên tăng 17% so với năm 1999.
- 6 tháng đầu năm 2001, BHXH Việt Nam đã chi trả an toàn, chu đáo 4.708 tỷ đồng cho 1,8 triệu đối tượng hưởng BHXH hàng tháng và trên 30 vạn lượt người hưởng các chế độ BHXH ngắn hạn trong đó kinh phí do ngân sách Nhà nước đảm bảo là trên 3.707 tỷ đồng và kinh phí do quĩ BHXH đảm bảo là 1.001 tỷ đồng.
Qua những con số trên cho ta thấy bình quân số tiền chi trả lương hưu và các loại trợ cấp của BHXH Việt Nam cho các đối tượng là khoảng 6.000 tỷ đồng/năm. con số này là rất lớn và vẫn còn tiếp tục tăng lên hàng năm.
2. Tình hình thực hiện các chế độ bảo hiểm xã hội ngắn hạn.
Tổ chức chi trả các chế độ trợ cấp ngắn hạn bao gồm:
- Chế độ trợ cấp tiền lương khi nghỉ ốm đau
- Chế độ trợ cấp tiền lương khi nghỉ sinh con (thai sản)
- Chế độ trợ cấp khi bị suy giảm khả năng lao động do tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp gây ra.
Đây là ba nội dung chi trả cho người lao động đang tham gia đóng BHXH. Việc chi trả trợ cấp cho 3 chế độ trên phải thể hiện sự công bằng, công khai, an toàn, kịp thời, đúng nguyên tắc có đóng BHXH mới được hưởng quyền lợi về BHXH theo qui định của pháp luật nhằm giữ vững mối quan hệ ba bên: người sử dụng lao động, người lao động và cơ quan BHXH, từ đó đẩy mạnh hoạt động thu BHXH không xâm hại đến quyền lợi của người lao động BHXH quận, huyện trực tiếp tổ chức thực hiện chi trả chế độ trợ cấp ốm đau, thai sản theo cơ quan, đơn vị sử dụng lao động trên cơ sở hồ sơ chứng từ nghỉ ốm, nghỉ thai sản của từng người đã được qui định. Cán bộ BHXH quận huyện được phân công theo dõi cơ quan đơn vị sử dụng lao động nào có nhiệm vụ đối chiếu kết quả đóng BHXH, hướng dẫn ghi sổ BHXH và đối chiếu chứng từ nghỉ ốm, nghỉ thai sản để thực hiện chi trả căn cứ vào thời điểm đóng BHXH củ từng đơn vị cơ quan đó để thanh toán trợ cấp trước một tháng thay cho việc tạm ứng tiền trước, giảm phiền hà cho đơn vị sử dụng lao động trong việc quyết toán sau này. Việc chi trả được thực hiện theo 2 phương thức: chi trả trực tiếp bằng tiền mặt cho người lao động có chứng từ nghỉ ốm đau, thai sản hoặc chi trả bằng chuyển khoản thông qua đơn vị sử dụng lao động nếu thực tế đơn vị đã ứng tiền chi trả cho người lao động. Riêng trường hợp nghỉ sinh con, nghỉ ốm dài ngày và hưởng trợ cấp tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp, BHXH quận huyện có trách nhiệm hướng dẫn cơ sở lập hồ sơ chuyển lên BHXH tỉnh, thành phố xem xét giải quyết. Nếu đối tượng hưởng trợ cấp 1 lần (mức suy giảm khả năng lao động dưới 31%), BHXH tỉnh, thành phố trực tiếp chi trả cho người bị tan nạn lao động - bệnh nghề nghiệp.
Từ những qui định củ BHXH Việt Nam, trong những năm qua (1995 - 1999) các cơ quan BHXH trên cả nước đã giải quyết và chi trả cho hơn 3 triệu lượt người nghỉ ốm, 7 vạn người hưởng chế độ tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp, hơn 30 vạn người nghỉ thai sản với số tiền bình quân trên 200 tỷ đồng một năm. Riêng năm 2000 đã giải quyết cho khoảng trên 1 triệu lượt người hưởng các chế độ ốm đau với số tiền trên 76 tỷ đồng và 118.914 người được hưởng chế độ thai sản với số tiền trên 200 tỷ đồng.
3. Tình hình thực hiện các chế độ bảo hiểm xã hội dài hạn.
Về chi trả lương hưu và trợ cấp hàng tháng bao gồm:
- Lương hưu
- Trợ cấp mất sức lao động
- Trợ cấp tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp (mức suy giảm khả năng lao động từ 31% trở lên).
- Trợ cấp tử tuất
- Trợ cấp người nuôi dưỡng.
Việc chi trả lương hưu và trợ cấp hàng tháng do BHXH quận, huyện trực tiếp thực hiện theo địa bàn dân cư phường, xã; cụm, xóm, tổ dân phố… Danh sách đối tượng được hưởng do BHXH tỉnh, thành phố chuyển về cùng với nguồn kinh phí chi trả hàng tháng do điều chỉnh tăng, giảm theo danh sách quận, huyện đã báo lên. Mỗi xã phường lập ra một ban chi trả có nhiệm vụ chi trả lương hưu, trợ cấp BHXH. BHXH quận, huyện cử cán bộ trực tiếp cùng với ban chi trả của xã, phường thực hiện việc chi trả đến từng đối tượng hưởng trên cơ sở đó theo dõi tăng giảm hàng tháng. Ban chi trả xã, phường căn cứ vào danh sách đã được lập theo địa bàn dân cư để thực hiện chi trả trực tiếp cho từng đối tượng được hưởng, trường hợp lĩnh thay phải có giấy uỷ quyền do UBND xã phường xác nhận. Trường hợp thôi việc trợ cấp một lần, trợ cấp hưu trí lần đầu, trợ cấp tuất thì công nhân viên chức BHXH tỉnh, thành phố trực tiếp giải quyết.
Trong 5 năm (1995 - 1999), BHXH Việt Nam đã tiếp nhận và giải quyết cho 161.888 người hưởng chế độ BHXH dài hạn và 347.943 người hưởng trợ cấp một lần. Năm 2000 BHXH Việt Nam giải quyết chế độ cho 58.335 người hưởng BHXH hàng tháng tăng 17% so với năm 1999. Tính đến tháng 6 năm 2001 cả nước có khoảng 1,8 triệu đối tượng hưởng BHXH hàng tháng.
Ta có thể theo dõi số người hưởng các chế độ BHXH dài hạn qua bảng sau:
Đơn vị: Người.
Năm
Chế độ
1994
1995
1996
Hưu CNVC
1.020.384
1.030.057
1.042.765
Hưu quân nhân
163.414
165.000
167.104
Mất sức lao động
404.929
401.081
400.081
Tuất
161.981
171.327
187.843
Tổng
1.750.707
1.767.465
1.797.793
(Nguồn: Bộ Lao động thương binh - xã hội)
Qua số liệu ở bảng trên cho ta thấy tổng số người hàng năm được hưởng chế độ BHXH dài hạn ngày một tăng lên. So với năm 1994 (năm trước khi đổi mới chính sách bảo hiểm xã hội) thì năm 1995 tăng thêm 16.757 người. Năm 1996 so với năm 1995 tăng 30.328 người. Đặc biệt là chế độ hưu (cho công nhân viên chức và quân nhân). Riêng chế độ mất sức lao động giảmôi trườngừ 404.929 người (1994) xuống còn 400.081 người (năm 1996) do điều kiện không còn qui định chế độ nay nữa.
III- Một số tồn tại và bất cập khi thực hiện các chế độ bảo hiểm xã hội.
Những kết quả đạt được của việc thực hiện các chế độ BHXH như đã nêu trên đã có tác dụng thiết thực góp phần ổn định đời sống của những người thụ hưởng chính sách BHXH. Nhưng bên cạnh những thành tựu đáng khích lệ đó vẫn còn một số khó khăn, một số vấn đề còn tồn tại và bất cập khi thực hiện các chế độ BHXH.
1. Vấn đề về chế độ bảo hiểm xã hội.
Các chế độ BHXH đã được qui định thống nhất trong điều lệ BHXH ban hành kèm theo Nghị định 12/CP ngày 26/1/1995. Tuy nhiên, các chế độ xây dựng còn mang tính chắp vá và thiểu luận cứ khoa học chứa đựng nhiều tồn tại cần phải khắc phục:
- Không qui định thời gian dự bị đóng bảo hiểm xã hội trước khi được hưởng các chế độ ốm đau, thai sản dẫn đến tình trạng lạm dụng quĩ BHXH.
- Thời gian nghỉ ốm còn mang tính chất bình quân giữa các ngành nghề do đó ảnh hưởng đến tâm lý người lao động trong các ngành nghề nặng nhọc, độc hại. Trong khi đó số ngày nghỉ của chế độ thai sản lại quá dài so với điều kiện kinh tế xã hội của đất nước, đã vậy lại được hưởng 100% tiền lương. Như vậy là đã vi phạm nguyên tắc "mức độ trợ cấp BHXH phải thấp hơn mức lương lúc đi làm".
- Các chế độ BHXH còn lẫn lộn hoặc đan xen với chế độ ưu đãi xã hội và các chính sách xã hội khác như an dưỡng, chính sách dân số - kế hoạch hoá gia định. Chính sự lẫn lộ hoặc đan xen này đã tạo ra sự bình quân cao, số người hưởng tràn lan, tiền quỹ BHXH chi ra nhiều nhưng trợ cấp lại thấp.
- Tuổi nghỉ hưu để hưởng trợ cấp BHXH đang là vấn đề được xã hội quan tâm. Đặc biệt là tuổi nghỉ hưu của lao động nữ và lao động làm trong các đơn vị hành chính sự nghiệp, làm công tác quản lý, và trong các ngành khoa học.
- Những người hưởng trợ cấp một lần được đưa vào chế độ hưu trí là chưa hợp lý, vì những người này vừa chưa đủ tuổi, vừa không đủ tích luỹ cần thiết để hưởng trợ cấp. Đây chỉ là sự trả lại một phần số tiền cho người lao động khi họ không còn quan hệ lao động nữa. Cùng với chế độ mất sức lao động (nay đã được huỷ bỏ và được đưa vào chế độ hưu trí hàng tháng với mức lương hưu thấp hơn qui định của những người về hưu đủ tuổi, đủ thời gian đóng BHXH, trong thực tế đã bị lợi dụng là chỗ để tinh giảm biên chế, cho công nhân, viên chức nghỉ ồ ạt hưởng BHXH làm tăng gánh nặng cho hệ thống BHXH.
- Về mức trợ cấp BHXH.
+ Cách tính tỷ lệ trợ cấp dựa trên lương chính và các loại phụ cấp thâm niên nghề nghiệp, khu vực, chức vụ… là chưa hợp lý. Vì các loại phụ cấp này về cơ bản không phải là tiền lương.
+ Dùng mức lương bình quân 5 năm làm cơ sở tính trợ cấp BHXH là không hợp lý, bởi lẽ, trợ cấp BHXH phải thể hiện được quá trình cống hiến, đóng góp BHXH của người lao động chứ không đại diện cho một thời điểm hoặc thời gian công tác cuối cùng.
+ Một điều cơ bản trong hệ thống thang bảng trợ cấp BHXH là nó được thiết kế một cách cứng nhắc, trong khi cơ cấu pn thu nhập và mức sống xã hội đã thay đổi rất nhiều. Do mức đóng góp theo tiền lương căn bản, vì vậy, khi về hưu cũng được hưởng với tỷ lệ nhất định so với tiền lương này dẫn đến đời sống của những người về hưu gặp rất nhiều khó khăn do lương hưu tối đa cũng chỉ bằng 75% tiền lương cơ bản.
2. Thực hiện các chế độ BHXH chưa nghiêm túc.
Bên cạnh những tồn tại và bất cập trong qui định về chính sách chế độ như đã nêu ở phần trên, còn có những tồn tại và bất cập trong việc tổ chức và thực hiện các chế độ BHXH trong thực tiễn:
- Hàng tháng, quí theo qui định của điều lệ, doanh nghiệp cơ quan sử dụng lao động phải nộp toàn bộ BHXH cho cơ quan BHXH địa phương. Trong khi đó toàn bộ chi hpí cho ba chế độ: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp. Doanh nghiệp phải đi vay ngân hàng để chi trả cho người lao động. Nhanh nhất là sau một tháng, có nơi một quí mới được thanh toán lại. Nhiều doanh nghiệp đông lao động đã phải ứng ra từ 300 đến 400 triệu đồng một quí (chịu lãi ngân hàng). Như vậy, theo qui định này mặc nhiên cơ quan BHXH đã chiếm dụng vốn của doanh nghiệp. Từ địa vị người đóng góp để dự phòng khi ốm đau, tuổi già. Doanh nghiệp và người lao động trở thành người đi xin lại một phần khoản tiền đóng góp của chính mình.
Để được cấp trở lại BHXH, doanh nghiệp phải cử người tập hợp xét duyệt giấy tờ phô tô chứng từ… Toàn bộ chi phí kể cả trả lương cho người theo dõi BHXH ở doanh nghiệp đều do doanh nghiệp trả. Cơ quan BHXH không thanh toán hoặc có tỷ lệ chi phí cho công việc này. Ngoài ra, hiện nay, cán bộ làm công tác BHXH ở các đơn vị sử dụng lao động đều kiêm nhiệm nên việc tập hợp chứng từ không đầy đủ kịp thời và không đúng với yêu cầu phải xuất trình khi thanh toán.
- Việc giải quyết chế độ BHXH cho người lao động cũng như việc hướng dẫn, giải đáp những thắc mắc của người lao động ở doanh nghiệp ngoài quốc doanh, nhất là việc tính thời gian người lao động có tham gia BHXH chậm, không cụ thể. Thủ tục làm hồ sơ có quá nhiều phiền phức, rườm rà, mang nặng tính hành chính quan liêu. Tuy có qui định chung, một số nơi vẫn đề ra qui định riêng như: Chủ tịch công đoàn cơ sở phải ký vào chứng từ mới được thanh toán. Việc thanh toán hàng tháng, quí phải qua quá nhiều khâu có nơi tính ra đến 10 chữ ký của cơ quan BHXH tỉnh từ chuyên viên đến toàn ban giám đốc mới được thanh toán. Một số nơi không cho y tế cơ sở được cấp giấy ốm từ 1 đến 5 ngày như qui định dẫn đến người lao động ốm một ngày cũng phải lên y tế tuyến treen. Có khi xa hàng chục cây số. Do đó, người lao động hoãn nghỉ về chế độ chính sách BHXH, thậm chí có tư tưởng cho rằng "nộp BHXH thì dễ, hưởng chế độ BHXH củ Nhà nước thì rất khó".
- Việc xét duyệt hồ sơ chi trả hết sức khó khăn, phức tạp đòi hỏi tỉ mỉ, kỹ lương, nếu không rất dễ xảy ra tình trạng gian lận từ phía người lao động và cơ quan sử dụng lao động. Cái khó khăn lớn nhất ở đây chính là vấn đề quản lý chặt chẽ đối tượng tham gia BHXH. Trong thời gian qua, BHXH một số địa phương chưa nắm chắc tình hình tăng giảm đối tượng, nhất là khi đối tượng hết hạn hưởng chế độ hoặc đã chết. Các trường hợp hưởng sai, hưởng không đúng chế độ nhiều nơi cũng không bị phát hiện, điều chỉnh kịp thời. Hồ sơ của đối tượng hưởng BHXH không lập được danh sách tăng, giảm sát theo từng thời điểm, mà lại phụ thuộc vào sự "tự giác" của đối tượng hoặc đại lý chi trả. Đây cũng là nguyên nhân dẫn đến tiêu cực làm thiệt hại quĩ.
- Trong thời gian qua, nhiều hiện tượng tiêu cực, vi phạm lợi dụng kẽ hở của chính sách BHXH đã xảy ra như: chủ sử dụng lao động thoả hiệp với cơ sở y tế cấp giấy chứng nhận nghỉ ốm đau, thai sản…, cá nhân người lao động thông đồng với chủ sử dụng lao động làm giả mạo hồ sơ hoặc khai không đúng tuổi đời, năm công tác, mức lương để hưởng chế độ BHXH (chủ yếu là các đối tượng xét duyệt trước năm 1995). Một số đơn vị sử dụng lao động do sản xuất khó khăn đã lợi dụng kẽ hở trong qui định hưởng chế độ ốm đau, thai sản, hợp thức hồ sơ chứng từ thanh toán để rút tiền BHXH một cách bất hợp pháp. 6 tháng đầu năm 2001 có đơn vị sử dụng lao động chi hai chế độ ốm đau, thai sản lên tới 8,7% so với tổng quỹ lương tham gia BHXH. Có đối tượng vừa hưởng trợ cấp từ quĩ BHXH vừa hưởng lương từ ngân sách Nhà nước.
Khi cơ quan BHXH phát hiện ra những vi phạm nhưng không có quyền đình chỉ mà chỉ có quyền tạm đình chỉ khi có kết luận của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Do đó, trong quá trình thực hiện các chế độ, cơ quan BHXH rất vướng mắc.
- Mức thu nhập bình quân ở thành thị tương đối cao nhưng mức đóng và hưởng BHXH lại thấp hơn nhiêù so với mức thu nhập thực tế. Vì vậy, tâm lý người lao động không mấy quan tâm đến BHXH, thực chất là mức trợ cấp không đảmbảo bù đắp nhu cầu vật chất tối thiểuhàng ngày. Trợ cấp thai sản chỉ bằng 1/3 và trợ cấp ốm đau cũng chỉ bằng 1/4 so với thu nhập khi đi làm. Đời sống của những người về hưu cũng gặp khó khăn do mức lương hưu thấp. Hiện tượng dùng sổ hưu thế chấp để vay tiền ngân hàng diễn ra nhiều. Tại Yên Bái tính đến tháng 6/2001 đã có hơn 2.500 đối tượng (chiếm 9% tổng số đối tượng hưởng BHXH thường xuyên của tỉnh) đã thế chấp sổ hưu vào các quĩ tín dụng hoặc các cửa hàng vàng để vay tiền.
Phần III- Những giải pháp hoàn thiện và thực hiện các chế độ bảo hiểm xã hội.
Để chế độ chính sách BHXH khắc phục được những tồn tại, đáp ứng ngày càng tốt hơn nguyện vọng của người lao động và phù hợp với sự phát triển nền kinh tế - xã hội của đất nước trong giai đoạn mới, cần hoàn thiện các chế độ BHXH theo các nội dung sau:
I- Hoàn thiện các chế độ bảo hiểm xã hội.
1. Cơ sở lý thuyết để hoàn thiện các chế độ bảo hiểm xã hội
Trong một hệ thống BHXH, các chế độ BHXH như một "bộ khung" phản ánh sự bao quát hay không và sự tiến bộ của hệ thống. Một chế độ BHXH như một chế định pháp lý phải được xây dựng chặt chẽ để tránh những lạm dụng trong quá trình thực hiện, nhưng đồng thời cũng không làm ảnh hưởng đến quyền lợi của các bên tham gia bảo hiểm xã hội. Ngoài ra các trợ cấp trong các chế độ BHXH còn phải được xác lập hợp lý theo mặt bằng của các chính sách xã hội khác và mức sống của dân cư nói chung. Nhìn chung các chế độ BHXH được xác định bởi các nhân tố cấu thành sau: Đối tượng được hưởng BHXH, các trường hợp được hưởng; điều kiện hưởng; mức hưởng và thời hạn hưởng trợ cấp. Do vậy, việc xây dựng các chế độ BHXH cũng chính là việc xác định các nhân tố trên.
1.1. Đối tượng hưởng BHXH.
Tuỳ theo từng nước và tuỳ tường chế độ BHXH mà có qui định về đối tượng khác nhau. Thông thường đối tượng tham gia BHXH bắt buộc thường là những người có quan hệ lao động, làm công ăn lương, nhưng tuỳ điều kiện của mỗi hệ thống BHXH của từng nước mà có qui định riêng. Nói chung, trừ một số trường hợp, các đối tượng hưởng BHXH cũng đồng thời là đối tượng tham gia BHXH. Trong một hệ thống có thể có đối tượng được hưởng nhưng đối tượng khai lại không được hưởng chế độ.
1.2. Các trường hợp được bảo hiểm xã hội.
Các trường hợp được BHXH thường liên quan đến những sự kiện gọi là "rủi ro xã hội". Những "rủi ro xã hội này" có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau nhưng dẫn đến hậu quả làm suy giảm tạm thời hay vĩnh viễn khả năng lao động của người lao động hoặc khả năng lao động của họ không được sử dụng (thất nghiệp) và cuối cùng là thu nhập từ hoạt động nghề nghiệp của người lao động bị suy giảm hoặc mất hẳn. Những rủi ro nêu trên có thể phát sinh trong quá trình lao động hoặc trong cuộc sống của người lao động.
Tuy nhiên, không phải bất cứ "rủi ro xã hội" nào cũng được bảo hiểm. Điều này phụ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội và khả năng tài chính của quĩ BHXH. Các sự kiện xảy ra đối với các cá nhân có thể xảy ra bất kỳ khi nào trong cuộc sống của họ với các mức độ khác nhau. Vì vậy, dưới giác độ cả tập đoàn người tham gia BHXH, các sự kiện BHXH vừa có tính thời điểm, vừa có tính quá trình, vừa có tính thời gian vừa có tính không gian. Điều này cho thấy tính khách quan của các trường hợp BHXH.
1.3. Các điều kiện hưởng.
Để ràng buộc giữa trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi của người tham gia BHXH và để hạn chế sự lạm dụng về BHXH, trong các chế độ BHXH đều qui định các điều kiện hưởng rất chặt chẽ. Tuy nhiên, để đảm bảo quyền lợi cho người tham gia BHXH, các điều kiện cụ thể này lại dựa trên hệ thống các cơ sở như: cơ sở sinh học của người lao động; điều kiện lao động và môi trường lao động; điều kiện kinh tế - xã hội và quan hệ tài chính BHXH.
- Cơ sở sinh học: là một trong những căn cứ quan trọng để xác định lập điều kiện hưởng của một chế độ BHXH. Ví dụ, để xác định điều kiện tuổi đời của chế độ hưu trí thì cơ sở sinh học ở đây là khái niệm "già" của dân cư và của người lao động. Tuổi già để hưởng hưu trí của các nước, các vùng là khác nhau vì tuổi già sinh học khác nhau. Có nước, có vùng 50-60 tuổi đã là già, nhưng có nước, có vùng thì tuổi già sinh học phải 60-70 tuổi. Chính vì vậy không thể áp đặt độ tuổi nghỉ hưu của nước này cho nước khác, vùng khác. Cơ sở sinh học còn liên quan đến yếu tố giới tính của người lao động.
- Điều kiện lao động và môi trường lao động: Song song với cơ sở sinh học, điều kiện lao động và môi trường lao động là một căn cứ rất quan trọng để xác lập điều kiện nghỉ hưởng BHXH. Điểm chung nhất của điều kiện lao động ảnh hưởng đến người lao động là suy giảm khả năng lao động của họ. Điều kiện lao động khác nhau sẽ có ảnh hưởng khác nhau tới khả năng lao động của người lao động tức thời và lâu dài. Cùng một độ tuổi sinh học như nhau, nhưng làm việc ở điều kiện lao động này thì đã đủ già phải nghỉ việc hoặc chuyển việc, nhưng trong điều kiện khác thì vẫn được coi là trẻ, vẫn tiếp tục làm việc được. Khi xây dựng các điều kiện của các chế độ BHXH, nhất là chế độ hưu trí, chế độ tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp cần chú ý điều kiện suy giảm khả năng lao động.
- Cơ sở kinh tế - xã hội: Đây là yếu tố gián tiếp ảnh hưởng đến người lao động nhưng nhiều khi lại quyết định các điều kiện của chế độ BHXH. Ngoài các yếu tố sinh học và điều kiện lao động, phải căn cứ vào điều kiện kinh tế - xã hội của quốc gia trong mỗi thời kỳ phát triển để xây dựng chế độ BHXH cho phù hợp. Các điều kiện kinh tế - xã hội có thể là:
(1) Khả năng hoặc tiềm lực phát triển kinh tế của đất nước
(2) Trình độ quản lý lao động, quản lý xã hội
(3) Các chính sách dân số của quốc gia.
(4) Chính sách lao động - việc làm
(5) Trình độ dân trí và nhận thức xã hội.
Chẳng hạn trong việc xác định độ tuổi nghỉ hưu để tăng cường lực lượng trẻ cho nền kinh tế quốc dân, có thể thay đổi các thế hệ lao động bằng cách giảm tuổi nghỉ hưu. Ngược lại, khi dân số già hoá hoặc cần tăng thu cho quỹ BHXH có thể nâng tuổi nghỉ hưu lên. Tương tự như vậy, tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể có thể tăng hoặc giảm mức đóng BHXH, tăng hoặc giảm mức trợ cấp BHXH.
- Điều kiện tài chính BHXH: Trong BHXH hiện đại, tài chính BHXH là điều kiện tiên quyết để xác lập các điều kiện của một chế độ BHXH. Một trong những nguyên tắc cơ bản của BHXH trong kinh tế thị trường là phải cân bằng được thu - chi. Vì vậy, khi tính toán giữa các mức đóng góp và mức hưởng; thời gian đóng góp và thời gian hưởng luôn phải thể hiện nguyên tắc cân bằng này. Từ đó, phải qui định thời gian đóng BHXH (nhất là đối với các chế độ BHXH dài hạn) tối thiểu để quỹ BHXH có thể trang trải được. Tuy nhiên, để tính toán được điều này lại phải dựa trên mộ loạt thông số khác nhau và các phương pháp khác nhau của kỹ thuật tài chính BHXH.
Nói tóm lại, khi quy định điều kiện hưởng của một chế độ BHXH, cần thiết phải dựa trên cơ sở tổng hợp các căn cứ sinh học, điều kiện lao động, điều kiện kinh tế - xã hội và điều kiện tài chính BHXH nêu trên.
1.4. Mức hưởng và thời hạn hưởng trợ cấp.
Tương tự như khi xác lập điều kiện hưởng, khi đề ra mức trợ cấp và thời hạn hưởng trợ cấp phải dựa trên cơ sở một loạt các căn cứ nhu cầu về BHXH (nhu cầu cá nhân và nhu cầu chung có tính chất xã hội của cả hệ thống BHXH). Ngoài ra, còn phải căn cứ vào điều kiện kinh tế - xã hội, cụ thể như những chi phí cần thiết, tối thiểu để đáp ứng các nhu cầu BHXH. Mức độ giảm hoặc mất thu nhập do giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc khả năng lao động không được sử dụng… để từ đó các trợ cấp có thể "bù đắp" những thiếu hụt về thu nhập này.
Tuy nhiên, để xác định các mức và thời hạn hưởng trợ cấp BHXH phải tính toán trên cơ sở số đông của tập đoàn người tham gia BHXH với rất nhiều thông số về nhân khẩu học và kinh tế - xã hội khác nhau.
Những căn cứ nêu trên được biểu hiện bằng những quy định cụ thể trong các chế độ BHXH.
2. Giải pháp hoàn thiện các chế độ BHXH.
Từ những vấn đề còn tồn tại của điều lệ BHXH Việt Nam và dựa trên những cơ sở lý thuyết nêu trên, em xin đưa ra một số giải pháp hoàn thiện các chế độ BHXH như sau:
2.1. Đối với chế độ ốm đau.
Việc điều lệ BHXH không quy định thời gian nhất định đóng BHXH trước khi nghỉ ốm hưởng BHXH sẽ dẫn đến sự lạm dụng hoặc vừa làm việc đã nghỉ ốm dài ngày là không công bằng giữa đóng và hưởng BHXH. Do vậy, nên quy định thời gian dự bị đóng BHXH trước khi hưởng chế độ BHXH là bao nhiêu, đồng thời cũng nên quy định chủ sử dụng lao động phải tự mình chi trả trợ cấp ốm đay cho người lao động trong thời gian này.
Đối với các bệnh cần phải nghỉ việc điều trị dài ngày theo danh mục bệnh dài ngày phải quy định lại thời gian tham gia BHXH ít nhất là một năm thì mới được hưởng trợ cấp BHXH và phải khống chế thời gian hưởng trợ cấp ốm đau là bao nhiêu năm so với thời gian tham gia BHXH của từng người, có như vậy mới hợp lý và công bằng. Hoặc có thể chuyển danh mục bệnh dài ngày sang hưởng trợ cấp từ các quỹ xã hội khác, không nên để quỹ BHXH chi trả lâu dài, như vậy quỹ BHXH sẽ không có khả năng thanh toán.
Đối với bệnh thông thường, tuỳ theo tính chất công việc có độc hại nặng nhọc hay không, trong điều lệ có quy định thời gian tối đa trong một năm người lao động nghỉ việc điều trị bệnh và hưởng trợ cấp BHXH. Nên chăng trong thời gian này người sử dụng lao động và người lao động không phải đóng BHXH mà vẫn được tính là thời gian có tham gia BHXH.
Danh mục các bệnh phải điều trị dài ngày được qui định đã lâu có nhiều nội dung không còn phù hợp, nên đưa bổ sung thêm một số bệnh cần điều trị dài ngày như: viêm gan B, bệnh u nang… hoặc các trường hợp tai nạn rủi ro nặng phải điều trị dài ngày.
Chế độ ốm đau hiện còn chưa tách ra khỏi chính sách dân số kế hoạch hoá gia đình và còn nhầm lẫn sang cả chế độ khác. Đó là việc quy định việc nghỉ chăm sóc con thứ nhất, thứ hai dưới 7 tuổi bị ốm; và việc thực hiện các biện pháp tránh thai để thực hiện kế hoạch hoá gia đình. Theo quyết định hiện hành, việc thực hiện nạo hút thai hoặc triệt sản lại đưa vào chế độ ốm đau. Theo em, qui định như vậy là không hợp lý. Nạo hút thai, thai sản là vấn đề thuộc về quá trình sinh đẻ và nó có ảnh hưởng tới sức khoẻ của người phụ nữ (dù chỉ là ảnh hưởng ngắn hạn). Đó không phải là hiện tượng ốm đau tự nhiên mà là suy giảm sức khoẻ có chủ định, có ảnh hưởng tới việc sinh đẻ của người phụ nữ. Vì vậy, theo em nên đưa các nội dung này vào chế độ tháỉan và trong những ngày nghỉ do nạo hút thai hoặc triệt sản người phụ nữ cần được hưởng trợ cấp BHXH như trường hợp sinh đẻ (bằng 100% tiền lương làm căn cứ đóng góp BHXH trước khi nghỉ).
2.2. Chế độ thai sản.
Qua nghiên cứu chế độ thai sản, em thấy có một số vấn đề sau cần được xem xét:
Thứ nhất, nên qui định thời điểm bắt đầu có quyền được hưởng nghỉ thai sản (Ví dụ 2 tháng trước ngày sinh) và trong thời hạn này, người phụ nữ có quyền được nghỉ vào bất kỳ thời điểm nào. Qui định như vậy nhằm bảo vệ người phụ nữ và thai nhi, tránh những hậu quả đáng tiếc vì phải đi làm việc trước ngày sinh.
Thứ hai, trong nền kinh tế thị trường, lao động nữ khi sinh con phải nghỉ việc và để thế chỗ tạm thời, người sử dụng lao động phải tuyển lao động hoặc điều chính lao động vào chỗ trống đó. Để tránh tình trạng sau khi người lao động nữ nghỉ sinh con thì người sử dụng lao động không tiếp nhận lại, nên qui định việc bắt buộc người chủ sử dụng lao động bố trí một công việc khác phù hợp với khả năng của người lao động sau khi sinh.
Thứ ba, việc qui định chỉ cho hưởng chế độ thai sản ở hai lần sinh là không phù hợp với công ước quốc tế về BHXH. Dưới góc độ BHXH thai sản là một "sự kiện" dẫn đến người lao động nữ bị giảm thu nhập do họ phải sinh con và trợ cấp BHXH nhằm bù đắp khoản thiếu hụt này cho họ. Hơn nữa, về sức khoẻ cũng phải bảo vệ họ khi sinh con. ở đây đã có sự đan xen giữa chính sách BHXH với chính sách dân số - kế hoạch hoá gia đình. Do vậy nên qui định cho hưởng chế độ thai sản ở tất cả các lần sinh nhằm đảm bảo sự công bằng chính sách BHXH.
Thứ tư, đối với các trường hợp thai có bệnh lý, thai không bình thường mà trong suốt quá trình mang thai chỉ được nghỉ việc để kham thai ba lần, mỗi lần hai ngày là chưa đảm bảo. Trong thực tế có rất nhiều trường hợp để bảo vệ đưa con, người mẹ phải hạn chế làm một số công việc hoặc phải nghỉ việc một thời gian để dưỡng thai nhi.
Thứ năm, đối với lao động nam cần nghiên cứu bổ sung chế độ thai sản cho phù hợp. Không qui định cho nam giới hưởng chế độ thai sản mà vẫn phải đóng BHXH cho chế độ này là bất hợp lý. Ngoài ra, trong thực tế hiện nay, đa số lao động điều thoát ly để đi làm việc, vì vậy chỉ có hai vợ chồng. Khi vợ sinh con, người chồng phải có trách nhiệm và bổn phận chăm sóc vợ con, lo toan cuộc sống gia đình trong một khoảng thời gian nhất định. Vậy nên qui định trước và sau khi người vợ sinh con, người chồng cũng được nghỉ một số tuần nhất định.
Cuối cùng, để đảm bảo nguyên tắc đóng - hưởng của BHXH cũng nên có qui định thời gian dự bị (thời gian tối thiểu phải đóng BHXH) trước khi được hưởng chế độ thai sản. Qui định này nhằm ràng buộc người lao động nữ phải có trách nhiệm đối với quĩ BHXH (ví dụ có thai rồi mới tham gia để được hưởng trợ cấp).
2.3. Chế độ tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp.
Chế độ tai nạn lao động cho người lao động bị tai nạn xảy ra trên đường đi từ nhà đến nơi làm việc và ngược lại còn chưa được xác định rõ ràng, cụ thể, còn nhiều kẽ hở trong qui định dẫn đến rất khó kiểm tra như: Thời gian, tuyến đường xảy ra tan nạn và người lao động có uống rượu, có được cơ quan quản lý cử đi công tác không? Tất cả các giấy tờ này đều có thể được hợp thức hoá sau khi tai nạn xảy ra.
Cần phải bổ sung điều kiện về thời gian tham gia BHXH ít nhất là 6 tháng trước khi xảy ra tai nạn lao động mới được hưởng trợ cấp tai nạn. Nếu không khống chế thời gian đóng BHXH sẽ dẫn đến việc điều chỉnh dễ dàng theo chủ quan của ngươì sử dụng lao động và người lao động để được hưởng BHXH. Trong thời gian trước khi hưởng trợ cấp tai nạn lao động thì chủ sử dụng lao động phải chịu toàn bộ chi phí ddiều trị và phải trả trợ cấp tai nạn lao động cho người lao động. Có như vậy mới ràng buộc người sử dụng lao động trong việc bố trí sắp xếp công việc cho người lao động mới vào làm việc một cách phù hợp và thực hiện tốt công tác huấn luện an toàn vệ sinh lao động, trang bị bảo hộ lao động cho người lao động.
Việc qui định tỷ lệ mất sức lao động do tai nạn lao động và bệnh nghệ nghiệp theo khung để hưởng một mức trợ cấp là bất hợp lý vì nó tạo ra sự chênh lệch giữa các mức trợ cấp của các khung. Chẳng hạn, giữa một người có tỷ lệ mất sức lao động do tai nạn lao động là 10%, họ chi hơn nhau 10% tỷ lệ thương tật thì mức độ trợ cấp đã gấp đơi (nhận trợ cấp một lần 4 tháng so với 6 tháng) như vậy là không công bằng. Ngoài ra nó còn gây áp lực và tạo các kẽ hở cho việc " đòn khung", "ép khung". Vì vậy không nên phân khung mà có thể xây dựng mức trợ cấp tai nạn lao động -bệnh nghề nghiệp theo hưởng ứng với 1% tỷ lệ mất sức lao động là một mức trợ cấp tương ứng như trợ cấp thương binh hiện nay hoặc có thể tính theo tỷ lệ mất sức lao động nhân với lương tối thiếu. Làm như vậy sẽ công bằng hơn.
2.4. Chế độ hưu trí.
Đây là chế độ BHXH dài hạn và quan trọng nhất, đóng cả đời người mới được hưởng. Chế độ này có liên quan mật thiết với mức đóng, thời gian đóng, tuổi nghỉ hưu và tuổi thọ; trong đó tuổi nghỉ hưu là một trong những vấn đề được quan tâm nhiều hơn cả. ở từng nước, tuỳ điều kiện kinh tế - xã hội và điều kiện sống của dân cư mà tuổi nghỉ hưu được qui định khác nhau. Nhìn chung, các nước đều có xu hướng tăng tuổi về hưu để bảo đảm cân bằng quĩ BHXH vì tuổi thọ và sức khỏe của dân cư ngày càng được tăng lên do mức sống và các dịch vụ xã hội và chăm sóc y tế được cải thiện. Trong điều lệ qui định tuổi nghỉ hưu của nữ thấp hơn nam 5 tuổi. Như vậy, về mặt hình thức, việc nghỉ hưu của nữ có sự ưu đãi hơn nam giới về tuổi đời. Tuy nhiên, xét về một số mặt, qui định này lại tạo ra sự thiệt thòi cho người phụ nữ khi nghỉ hưu:
Thứ nhất, với qui định là 55 tuổi nghỉ hưu và để có mức hưởng tối đa là 75% phải có thời gian đóng BHXH là 30 năm thì không phải ai cũng có điều kiện để đạt được. Hơn nữa, nếu cùng một xuất phát điểm như lao động nam, thông thường lao động nữ không có các điều kiện cần thiết để được đào tạo như lao động nam (phải sinh con, nuôi con...) nên trình độ tay nghề thấp hơn nam vì vậy mức lương sẽ thấp hơn lao động nam. Do đó, đến khi nghỉ hưu họ sẽ có mức lương trước khi nghỉ hưu thấp hơn lao động nam ở cùng độ tuổi. Trong khi đó, lao động nam lại tiếp tục làm thêm 5 năm nữa cho đủ 60 tuổi sẽ được nâng ít nhất một bậc lương nữa trước khi nghỉ hưu. Như vậy, mặc dù cùng hưởng 75% nhưng mức hưởng của hai người sẽ khác nhau.
Thứ hai, qui định hiện nay xét về mặt sử dụng lao động sẽ lãng phí một đội ngũ lao động nữ có chất lượng có kinh nghiệm, nhất là lao động khoa học, lao động quản lý. Trải qua năm tháng học tập và tích luỹ kinh nghiệm đến khi đạt phong độ tri thức tốt nhất thì những lao động này đã phải nghỉ hưu. Do vậy, nên sửa đổi tuổi nghỉ hưu để có thể tận dụng được chất xám của họ.
Thứ ba, về tài chính BHXH: Việc cho nghỉ hưu sớm sẽ làm cho quĩ BHXH bị "thiệt hại kép". Nếu như qui định tuổi nghỉ hưu của lao động nữ là 60 thì sẽ có một lực lượng rất lớn tiếp tục đóng BHXH thêm 5 năm nữa và quĩ BHXH chưa phải chi trả trợ cấp BHXH cho số nghỉ hưu ở tuổi 55. Ngược lại, qui định như hiện nay thì quĩ BHXH vừa không thu được thêm mà lại phải chi sớm hơn với thời gian chi lâu hơn (vì phụ nữ sống lâu hơn nam giới). Theo ILO thì nếu tăng tuổi nghỉ hưu lên 5 năm quĩ BHXH sẽ tăng thu lên từ 25% đến 30%. Ngược lại, nếu giảm tuổi nghỉ hưu xuống 5 năm thì quĩ BHXH sẽ tăng chi khoảng 50%.
Từ những phân tích trên em thấy nên có qui định theo hướng đảm bảo bình đẳng tuổi giữa nam và nữ, cần nghiên cứu qui định trước đối với lao động nữ làm những công việc trí óc trong các cơ quan hành chính sự nghiệp, cơ quan dân cử, cơ quan Đảng, đoàn thể từ Trung ương đến cấp huyện, xã.
Điều 28 trong điều lệ BHXH cho phép những người "hoặc chấm dứt công việc" trước khi học đến tuổi nghỉ hưu đòi hỏi khoản trợ cấp một lần như là một sự thay thế cho việc chờ đợi đến khi họ đủ tuổi. Điều này trái ngược với quan điểm thay thế cho sự mất khả năng thu nhập bằng việc trả trợ cấp dài hạn, cũng như không bảo đảm việc hưởng trợ cấp của những người ăn theo sau khi người hưởng hưu chết. Đó sẽ là kẽ hở nghiêm trọng trong hệ thống BHXH. Vì vậy nên sửa đổi quy định trợ cấp BHXH một lần, không nên để như hiện nay mà nên qui định những ai đã hết tuổi lao động nhưng chưa đủ số năm đóng BHXH hoặc mất sức lao động theo quy định mới được hưởng trợ cấp một lần. Đây là một trong những biện pháp nhằm bảo toàn quỹ BHXH, tránh tình trạng rút quỹ ồ ạt làm nảy sinh nhiều vấn đề khó khăn cho quỹ.
Tiền lương làm cơ sở đóng BHXH phải căn cứ vào cơ chế tiền lương ở từng khu vực sản xuất, hành chính sự nghiệp, doanh nghiệp liên doanh… để xác định cho hợp lý. Nên quy định mức sàn đóng và mức trần đóng BHXH cụ thể đối với từng ngành nghề, khu vực, loại hình, đặc điểm, tính chất công việc để đảm bảo khoảng cách hợp lý giữa những người hưởng lương hưu.
Cách tính lương hưu: Việc lấy mức lương bình quân 5 năm cuối cùng để làm căn cứ lập chế độ hưởng hưu trí như vậy là chưa hợp lý, chưa đảm bảo đúng nguyên tắc đóng hưởng. Cách tính này có lợi cho những người cuối đời công tác có mức lương cao, nhưng rất thiệt thòi cho những người có tiền lương cao thấp khác nhau trong suốt quãng đời làm việc. Đặc biệt là những người cuối đời làm việc có mức lương thấp hơn các mức lương của nhiều năm trước đó. Ngoài ra cũng nên xem xét lại cách tính bình quân từng thời kỳ của lao động liên doanh đã có thời kỳ làm việc trong cơ quan Nhà nước vì thu nhập trong các doanh nghiệp liên doanh chênh lệch rất xa so với khối doanh nghiệp Nhà nước. Nếu để cách tính như hiện nay người có thời gian làm việc trong cơ quan Nhà nước càng nhiều thì lương hưu càng ít. Từ đó dẫn đến tình trạng những người khi nghỉ chế độ BHXH phải làm đơn xin từ bỏ thời gian đã làm trong cơ quan Nhà nước vì cách tính bình quân này.
Cách tính thời gian có tháng lẻ: Theo cách tính hiện hành, khi giải quyết chế độ hưu trí (hoặc tử tuất) nếu có tháng lẻ (1-11 tháng) thì không tính. Điều này không hợp lý cần phải quy định lại cho phù hợp như cách tính trợ cấp thôi việc theo Nghị định 198/CP ngày 31/12/1994 và Nghị định 96/CP ngày 17/11/1998 của Chính phủ (từ 1 đến dưới 7 tháng tính bằng 1/2 năm, đủ 7 tháng đến 12 tháng tính bằng 1 năm). Khi giải quyết chế độ, nếu hưởng hưu trí hàng tháng thì 1/2 năm được cộng thêm 1% hưởng trợ cấp một lần 1/2 năm được nhận 1/2 tháng lương bình quân.
Hiện nay các trường hợp lập hồ sơ gửi đến cơ quan BHXH chậm thì chỉ giải quyết lương hưu, trợ cấp kể từ khi nhận đủ hồ sơ của đối tượng, không thực hiện việc truy lĩnh trong thời gian chưa nhận đủ hồ sơ. Thực hiện qui định này gây thiệt thòi và ảnh hưởng trực tiếp đối với người lao động vì đa số không phải lỗi do người lao động gây ra mà do các đơn vị có đông lao động, địa bàn lại phân tán... nên việc lập hồ sơ thường gặp khó khăn, tốn nhiều thời gian dẫn đến chậm trễ. áp dụng điều này các đối tượng khá bất bình và phản ứng khá gay gắt. Vì vậy nên sửa lại quy định này cho thực hiện hiện việc truy lĩnh.
2.5. Chất độ tử tuất.
Thực tế cho thấy rằng, chi phí mai táng là khá tốn kém, để giảm bớt phần nào khó khăn cho gia đình người chết nhất thiết phải tăng thêm tiền mai táng phí. Vì với mức tiền mai táng là 8 tháng lương tối thiểu như hiện nay chưa chắc đã đủ để mua một cỗ áo quan (hòm) cho ngươì chết; so với qui định hiện nay, mức đề nghị thấp nhất cũng phải bằng 10 tháng lương tối thiểu về tuất hàng tháng: đối với con còn nhỏ đề nghị trả trợ cấp thống nhất đến khi đủ 18 tuổi, không nên qui định còn đi học hay không đi học. Theo cách tính hiện nay, nếu con đủ 15 tuổi đến 18 tuổi, hàng năm phải yêu cầu gia đình bổ sung giấy xác nhận con còn đi học, nếu không sẽ bị cắt trợ cấp, thực hiện điều này có hai vấn đề phát sinh cần xem xét:
Một là, về chuyên môn, việc theo dõi đối tượng gặp không ít khó khăn khi vượt qua 15 tuổi mà chưa bổ sung giấy xác nhận thì cắt trợ cấp. Sau đó khi có giấy xác nhận của nhà trường phải giải quyết và truy lĩnh lại. Ngoài ra, nếu đối tượng xin giấy xác nhận nhà trường bổ sung vào hồ sơ sau đó nghỉ học thì trong năm đó đối tượng vẫn hưởng bình thường do cơ quan BHXH không thể kiểm tra hết đối tượng được.
Hai là, về mặt xã hội, dư luận cho rằng Nhà nước không công bằng còn phân biệt đối xử. Gia đình giàu có tiền cho con ăn học thì được ưu ái cho hưởng đến 18 tuổi, gia đình nghèo phải cho con nghỉ học sớm để kiếm tiền phụ giúp gia đình thì bị cắt trợ cấp khi mới đủ 15 tuổi.
Đối với thân nhân hết tuổi lao động: căn cứ vào thực tế thu nhập của họ nếu dưới mức lương tối thiểu thị mới được hưởng trợ cấp hàng tháng. Điều này thiếu tính khả thi và dẫn đến giải quyết không công bằng giữa các đối tượng. Thực tế khi giải quyết chế độ tử tuất chỉ căn cứ vào bảng đề nghị, hoặc tờ khai hoàn cảnh gia đình để xem xét BHXH không có chức năng và không có thể tổ chức điều tra thu nhập của từng đối tượng được. Vì vậy, cuối cùng chỉ có những người thuộc diện đang hưởng chế độ chính sách như hưu trí, mất sức tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp hàng tháng phải chịu thiệt thòi vì có mức lương trợ cấp cụ thể mà cơ quan BHXH nắm được. Còn lại những đối tượng ngoài xã hội không ít người thu nhập rất cao mà vẫn được trợ cấp hàng tháng.
Đối với chế độ tuất được qui định tại khoản 5 Điều 146 Bộ Luật lao động qui định điều kiện hưởng chế độ tuất cuả thân nhân người chết do tai nạn rủi ro phải có đủ 15 năm đóng BHXH trở lên là không phù hợp với đạo lý và hoàn cảnh đời sống xã hội của nước ta vì: nếu người lao động có thời gian tham gia BHXH từ 1 tháng trở lên nếu do tai nạn lao động thì thân nhân của họ lại đủ điều kiện được hưởng chế độ trợ cấp tuất hàng tháng. Trong khi đó người lao động có thời gian tham gia BHXH chưa đủ 15 năm nếu chết do rủi ro thì thân nhân của họ không được hưởng trợ cấp tuất hàng tháng (nếu đủ điều kiện) mà chỉ hưởng trợ cấp tuất một lần. Em cho rằng người lao động dù chết do tai nạn lao động hay rủi ro thì gánh nặng mà thân nhân của họ phải chiụ là như nhau. Qui định như hiện nay là biểu hiện của sự phân biệt sẽ có tác động xấu đến tâm lý của thân nhân người lao động bị chết do rủi ro mà chưa đủ 15 năm đóng BHXH trở lên. Do vậy việc qui định thời gian dài hay ngắn mà người lao động có tham gia BHXH để xác định trợ cấp tuất trong trường hợp chết do tai nạn rủi ro đối với thân nhân họ là không cần thiết, nên huỷ bỏ.
Đối với chế độ trợ cấp tuất một lần là quá thấp không tương xứng với chế độ trợ cấp thôi việc hưởng trợ cấp một lần. Theo qui định, mức trợ cấp tuất một lần mỗi năm đóng BHXH được 12 tháng lương, tối đa không quá 12 tháng lương. Trong khi đó chế độ thôi việc hưởng trợ cấp một lần mỗi năm đóng BHXH được trợ cấp 1 tháng tiền lương, không hạn chế mức tối đa. Vì vậy có trường hợp người lao động có khoảng 30 năm đóng BHXH sắp chết vẫn phải làm đơn xin thôi việc để được hưởng chế độ trợ cấp một lần. Do đó chế độ tử tuất một lần nên qui định mỗi năm đóng BHXH được trợ cấp 1 tháng tiền lương bình quân tối đa không quá 30 tháng lương tương ứng với số năm tính hưởng hưu trí.
mục lục
Trang
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35194.doc