A – MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Xây dựng và phát triển sự nghiệp giáo dục- đào tạo ở cơ sở là một vấn đề có ý nghĩa lớn lao trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Chiến lược phát triển đất nước khi bước vào thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá không thể hiện được nếu không chú ý đúng mức đến xậy dựng và phát triển sự nghiệp giáo dục ở cơ sở. Muốn phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo thì một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu là nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục. Nghị quyết đại hội Đảng X Đảng Cộng sản Việt Nam nhấn mạnh nhiệm vụ của giáo dục đào tạo trong thời kì đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá : “ưu tiên hàng đầu cho việc nâng cao chất lượng dạy và học. Đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và tăng cường cơ sở vật chất của nhà trường,phát huy khả năng sáng tạo và độc lập suy nghĩ của học sinh, .”; thực hiện “chuẩn hoá”, “hiện đại hoá”, “xã hội hoá”.Để thực hiện nhiệm vụ này, kết luận của Hội nghị VI Ban chấp hành trung ương khoá IX “về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương II khoá VIII , phương hướng phát triển giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ từ nay đến 2005 và 2010” đã nhấn mạnh: “Tạo chuyển biến cơ bản về chất lượng giáo dục, trước hết là nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo, thực hiện giáo dục toàn diện, đặc biệt là giáo dục tư tưởng, chính trị, nhân cách, đạo đức, lối sống cho người học”. Chăm lo xây dựng đội ngũ giáo viên và các nhà quản lí giáo dục, tạo động lực cho người dạy và người học. Bởi vì đội ngũ nhà giáo là nhân tố hàng đầu quyết định chất lượng giáo dục. Cần nâng cao chất lượng toàn diện của đội ngũ nhà giáo, nâng cao địa vị kinh tế - xã hội của giáo viên, thực hiện tiêu chuẩn hoá giáo viên và cán bộ quản lí giáo dục, loại bỏ những yếu kém về phẩm chất đạo đức và chuyên môn nghiệp vụ ra khỏi hệ thống giáo dục là yêu cầu khách quan để giáo dục phát triển.
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm đầu tư rất nhiều cho giáo dục và đào tạo, do vậy chất lượng và hiệu quả giáo dục hiện nay đã có bước phát triển đáng kể. Có được điều này là nhờ vào chất lượng giảng dạy ở các loại hình trường lớp đã có bước phát triển rõ rệt. Tuy nhiên,bên cạnh những thành tựu đã đạt được thì giáo dục cũng vẫn còn nhiều tồn tại , yếu kém về chất lượng làm cho cả xã hội phải quan tâm.
Lịch sử của ngành giáo dục đã cho thấy: nơi nào có đội ngũ thầy cô giáo tốt thì nơi đó có chất lượng giáo dục tốt và ngược lại. Xác định tầm quan trọng của nguồn lực con người đối với việc xây dựng đất nước, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã đặt Giáo dục và Đào tạo ở vị trí là “Quốc sách hàng đầu” để đào tạo, bồi dưỡng thế hệ trẻ trở thành nguồn nhân lực thực sự có chất lượng, đáp ứng yêu cầu xây dựng đất nước trong giai đoạn hiện nay.
Thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, trong những năm qua, toàn ngành giáo dục đã nỗ lực phấn đấu vừa khắc phục tồn tại yếu kém vừa đổi mới công tác giảng dạy. Vì vậy chất lượng giáo dục ngày càng được nâng cao. Bên cạnh những thành tích to lớn mà toàn ngành đã làm được thì cũng còn nhiều tồn tại yếu kém đã và đang nảy sinh như: Chất lượng đạo đức học sinh, thầy cô giáo giảm sút; học sinh ngồi sai lớp, thầy cô ngồi sai chỗ; các kiến thức, kỹ năng tối thiểu không đạt . và nhiều vấn đề bức xúc khác nữa gây ảnh hưởng đến uy tín, danh dự của đội ngũ thầy cô giáo và nhà trường, làm cả xã hội phải quan tâm, lo lắng. Để khắc phục vấn đề này, trước hết là mỗi thầy cô giáo ở từng bậc học, cấp học phải tự xem lại, tự tìm ra những nguyên nhân cơ bản mà trước hết là là ở chính đơn vị mình đang công tác để kịp thời điều chỉnh.
Mặc dù đã sớm tìm ra nguyên nhân. Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, biện pháp lớn để khắc phục tình trạng này, nhưng những tồn tại, yếu kém đó không dễ dàng khắc phục trong một sớm một chiều mà đòi hỏi phải có thời gian đồng thời tất cả các nhà trường, trước hết là các trường tiểu học (bậc học nền tảng) dưới sự chỉ đạo của của ngành giáo dục các cấp phải tìm ra giải pháp để nâng cao chất lượng giảng dạy và giáo dục của mình.
Cũng như các trường Tiểu học khác trong cả nước, trường Tiểu học Trần Bình Trọng huyện Krông Păc thuộc bậc tiểu học của hệ thống giáo dục Quốc dân. Vì vậy chất lượng giảng dạy của đội ngũ giáo viên nhà trường luôn là vấn đề mà chính quyền địa phương, ngành giáo dục Krông Pắc hết sức quan tâm. Ngoài việc góp phần đáp ứng yêu cầu chung của thời đại, của dân tộc, nhà trường còn phải phấn đấu đạt mức chất lượng tối thiểu giai đoạn I vào năm 2008 mà lãnh đạo ngành Giáo dục Krông Pắc đã giao (Theo Quyết định số 55/2007/QĐ- BGD&ĐT ngày 28/9/2007 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành). Khắc phục tình hình nói trên,việc tìm kiếm giải pháp nâng cao chất lượng giảng dạy của đội ngũ giáo viên trường Tiểu học Trần Bình Trọng – huyện Krông Pắc là vấn đề cấp thiết hiện nay.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ:
a. Mục tiêu:
Trên cơ sở đánh giá đúng chất lượng giảng dạy của đội ngũ giáo viên trường tiểu học Trần Bình Trọng làm căn cứ cho việc tìm kiếm mô hình giải pháp nâng cao chất lượng giảng dạy ở trường cho những năm tới.
b. Nhiệm vụ:
Khảo sát và phân tích thực trạng về chất lượng giảng dạy của nhà trường từ năm 2006 đến 2009 để tìm ra những ưu điểm cần tiếp tục phát huy và những tồn tại, yếu kém cần khắc phục. Từ đó đưa ra những giải pháp nâng cao chất lượng giảng dạy của nhà trường trong những năm tiếp theo.
3. Phạm vi nghiên cứu:
a. Đối tượng nghiên cứu:
Về chất lượng giảng dạy của đội ngũ giáo viên trường tiểu học Trần Bình Trọng.
b. Địa điểm nghiên cứu:
- Trường tiểu học Trần Bình Trọng huyện Krông Pắc, tỉnh Đăk Lắk.
c. Thời gian thực hiện đề tài:
- Từ ngày 28 tháng 11 đến 18 tháng 02 năm 2010.
4. Phương pháp nghiên cứu:
a. Phương pháp luận:
- Vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng, Nhà nước và của ngành về vấn đề Giáo dục và đào tạo.
b. Phương pháp cụ thể:
- Khảo sát thống kê, điều tra xã hội học những số liệu về các đối tượng nghiên cứu về những vấn đề có liên quan đến đề tài.
- Tiến hành phân tích, tổng hợp, so sánh về các số liệu, các vấn đề có liên quan đến chất lượng giáo dục của nhà trường.
5. Bố cục đề tài:
Đề tài gồm ba phần: Phần mở đầu; Phần nội dung chính; Phần kết luận và kiến nghị.
MỤC LỤC
TT NỘI DUNG TRANG
A MỞ ĐẦU 1
1 Tính cấp thiết của đề tài 1
2 Mục tiêu và nhiệm vụ 2
3 Phạm vi nghiên cứu 2
4 Phương pháp nghiên cứu 3
5 Bố cục đề tài 3
B NỘI DUNG 3
I CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC 3
1 Cơ sở lý luận 3
2 Thực trạng chất lượng giảng dạy ở trường Tiểu học Trần Bình Trọng từ năm 2006 đến 2009 5
3 Những thành tựu đã đạt được 10
4 Tồn tại và nguyên nhân 12
II PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIẢNG DẠY CỦA ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC TRẦN BÌNH TRỌNG, KRÔNG PẮC 2010-2013 14
1 Phương hướng 14
2 Mục tiêu 14
3 Những giải pháp nâng cao chất lượng giảng dạy cho đội ngũ giáo viên của trường Tiểu học Trần Bình Trọng
17
C KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 21
1 Kết luận 21
2 Kiến nghị 21
25 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 3380 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Những giải pháp nâng cao chất lượng giảng dạy của đội ngũ giáo viên ở trường Tiểu học, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ớng: “Ưu tiên hàng đầu việc nâng cao chất lượng dạy và học. Đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp dạy học, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và tăng cường cơ sở vật chất của nhà trường, phát huy khả năng sáng tạo và độc lập suy nghĩ của học sinh, sinh viên...”.
Cụ thể hoá chủ trương của Đảng, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk nhấn mạnh: “Tổng rà soát lại đội ngũ giáo viên ở từng cấp học, từng trường, từng địa phương để có kế hoạch chủ động bố trí, phân công hợp lý đội ngũ giáo viên có trình độ tương đối đồng đều nhằm nâng cao chất lượng dạy và học...”. để đạt mục tiêu đó trong giai đoạn hiện nay, nhất thiết phải nâng cao chất lượng giảng dạy ở từng nhà trường mà trước hết là các nhà trường thuộc bậc tiểu học – bậc học nền tảng của bậc học phổ thông, của hệ thống giáo dục Quốc dân.
Thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà giáo ưu tú, Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Đặng Huỳnh Mai đã đưa ra định hướng phát triển bền vững đối với Giáo dục tiểu học ở Việt Nam: “Nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập của từng trường tiểu học, thực hiện mức chất lượng tối thiểu và thực hiện các tiêu chuẩn để tạo niềm tin của nhân dân và địa phương đối với nhà trường...”
Mặc dù trong những năm qua, ngành Giáo dục và Đào tạo nói chung và Giáo dục tiểu học nói riêng đã có nhiều cố gắng và đạt được những thành tích đáng kể nhưng cũng còn bộc lộ nhiều yếu kém mà Đại hội đại biểu toàn Quốc lần thứ X của Đảng đã đánh giá: “Chất lượng Giáo dục còn nhiều yếu kém; khả năng chủ động, sáng tạo của học sinh, sinh viên ít được bồi dưỡng, năng lực thực hành của học sinh, sinh viên còn yếu ...” nhất là đối với bậc tiểu học.
Ở bậc tiểu học, do đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi học sinh tiểu học nên nhìn chung phương pháp giảng dạy còn nặng về truyền thụ kiến thức một chiều dẫn đến việc học của học sinh còn thụ động, chưa phát huy hết tính tích cực chủ động, sáng tạo của các em. Bên cạnh đó, tỉ lệ giáo viên có trình độ tin học thực sự sử dụng được máy vi tính lại quá ít, hầu như chưa biết sử dụng nên việc áp dụng tin học vào công tác soạn giảng, chuẩn bị phiếu học tập, sử dụng máy chiếu ... gặp rất nhiều khó khăn.
Ngoài ra, trung thực, thẳng thắn nhìn nhận thì chất lượng đội ngũ giáo viên tiểu học hiện nay chưa đồng đều, nhiều giáo viên còn yếu về trình độ chuyên môn. Một bộ phận giáo viên do điều kiện kinh tế khó khăn nên chưa thật sự an tâm công tác, chưa có đầu tư thoả đáng cho công tác giảng dạy. Mặc dù có thuận lợi hơn so với một số huyện vùng sâu, vùng xa,vùng biên giới của tỉnh Đắk Lắk, song Krông Pắc vẫn còn là một trong các huyện về điều kiện cơ sở vật chất đầu tư cho dạy và học còn thiếu thốn, lạc hậu chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển của thời đại. Tất cả những vấn đề trên đều có ảnh hưởng lớn,có vai trò quyết định đến chất lượng giảng dạy hiện nay của các nhà trường nói chung và trường tiểu học Trần Bình Trọng, Krông Pắc nói riêng.
Thực tế đặt ra một câu hỏi lớn: Làm thế nào để nâng cao chất lượng giảng dạy của đội ngũ giáo viên trường Tiểu học Trần Bình Trọng ? Từ đó nhằm đưa nhà trường hoàn thành giai đoạn I mức chất lượng tối thiểu (Chuẩn Quốc gia giai đoạn I) là điều mà bản thân người cán bộ quản lý nói chung và cá nhân tôi nói riêng luôn trăn trở suy nghĩ để tìm ra giải pháp , định hướng phát triển bền vững cho nhà trường.
2. Thực trạng chất lượng giảng dạy ở trường tiểu học Trần Bình Trọng từ năm 2006 đến 2009
a. Một số nét về trường Tiểu học Trần Bình Trọng:
Trường tiểu học Trần Bình Trọng, từ trước năm 2009 tên cũ là trường Tiểu học Võ Thị Sáu được tách ra từ trường Phổ thông cơ sở Võ Thị Sáu (cấp I, II) năm 1989 do chủ trương tách cấp học ở các trường ghép của ngành. Trường thuộc hệ thống giáo dục công lập, chịu sự quản lý trực tiếp của phòng giáo dục Krông Pắc tỉnh Đắk Lắk.
Trường có diện tích 6.087m2 , nằm trên địa bàn của thôn Tân Thành, xã Hoà An, huyện Krông Pắc.
Xã Hoà An được thành lập từ ngay sau giải phóng 1975, khi mới thành lập, địa bàn xã rất rộng bao gồm cả địa bàn Thị trấn Phước An và xã EaYông hiện nay. Sau đó, xã Hoà An thu nhỏ lại do thành lập Thị trấn Phước An và xã EaYông được tách ra. Xã hiện có diện tích tự nhiên là khoảng 2.369.000 ha, trong đó đất nông nghiệp khoảng 1.233.000 ha. Đến nay, toàn xã có 18 thôn gồm có 2.686 hộ gia đình với khoảng 11.758 nhân khẩu.
Học sinh trong địa bàn nhà trường tuyển sinh là con em của nhân dân ở các thôn: Tân Thành, Tân Tiến, Tân Lập, Tân Lập A, Thôn 2, Thôn 3, Thôn 4. Dân cư chủ yếu là người kinh thuộc vùng Thăng Bình – Quảng Nam vào làm ăn, sinh sống (địa bàn trường phụ trách không có dân tộc tại chỗ). Qua điều tra có tới 95% hộ gia đình làm nông nghiệp, nhìn chung có trình độ học vấn thấp, điều kiện, hoàn cảnh kinh tế còn khó khăn. Thực tế, trong địa bàn một bộ phận hộ có kinh tế khá giả, thì tập trung gần mặt đường giao thông, con em họ thường chọn học trường có điều kiện vật chất khá hơn (trường chuẩn Quốc gia) để theo học. Theo thống kê, hàng năm, số học sinh thuộc địa bàn trường phụ trách, chọn trường khác học vào khoảng 30 đến 35 học sinh. Bởi vậy, số học sinh học đúng tuyến ở trường thường là gia đình có điều kiện kinh tế khó khăn hơn. Số hộ thuộc diện nghèo vẫn còn khá đông. Những năm học gần đây, số học sinh thuộc diện nghèo, khó khăn đột xuất phải nhận trợ cấp của Dự án PEDC (Dự án dành cho trẻ em có hoàn cảnh khó khăn) là khoảng 25%. Nhiều gia đình cả vợ chồng phải đi làm nương rẫy cà phê cách nhà rất xa, khoảng 10 đến 15 cây số, phải ở lại rẫy hàng tuần mới về nhà, nhất là trong các đợt vào mùa. Vì vậy việc quan tâm chăm sóc con cái học hành, việc tiếp cận thông tin và nhận thức về giáo dục còn nhiều hạn chế.
Mặt khác, cán bộ chính quyền địa phương và các đoàn thể mặc dù đã có nhiều quan tâm chỉ đạo công tác giáo dục của địa phương, song cũng mới chỉ tập trung quan tâm về xây dựng cơ sở vật chất. Kinh nghiệm chỉ đạo, lãnh đạo về giáo dục tại địa phương còn hạn chế nhất định như công tác điều tra, vận động phối hợp với gia đình để giáo dục học sinh ... Tất cả vấn đề nêu trên đã ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng, hiệu quả giáo dục của nhà trường.
Những năm học từ 1998 đến 2003, trường số lớp vào khoảng 18- 20 lớp hàng năm. Những năm sau đó số lớp giảm dần do nguồn trẻ giảm, đến năm học 2009-2010 số lớp chỉ còn 15. Kéo theo là đội ngũ giáo viên dôi dư, mặc dù đã được kiến nghị giải quyết song mỗi năm vẫn dôi dư từ một đến hai người. Vì vậy giải quyết phân phối việc làm và quản lý số giáo viên dôi dư là việc làm gây khó khăn thêm cho đội ngũ quản lý.
* Về tình hình học sinh:
Theo sự phân công nguồn tuyển sinh, năm học 2009-2010 nhà trường tuyển sinh mới vào lớp 1 và số học sinh cũ từ lớp 2 đến lớp 5 là 394 học sinh, được chia ra 15 lớp. Cụ thể như sau:
Khối lớp 1
Khối lớp 2
Khối lớp 3
Khối lớp 4
Khối lớp 5
Số lớp
Số HS
Số lớp
Số HS
Số lớp
Số HS
Số lớp
Số HS
Số lớp
Số HS
3
67
3
65
3
93
3
88
3
81
Nhìn chung các em học sinh đều ngoan, chăm học, biết vâng lời thầy cô giáo. Tuy nhiên do phần đông các em đều thuộc gia đình làm nông nghiệp, điều kiện gia đình khó khăn, thiếu sự quan tâm của gia đình về việc học tập. Một số học sinh còn phải có nhiệm vụ trông nhà, trông em, lo các công việc gia đình để bố mẹ đi làm rẫy nên các em không có thời gian, không có điều kiện để học tập,sinh hoạt theo chương trình học 2 buổi/ngày của nhà trường. Số các em này thường chỉ theo học một buổi sáng, buổi chiều thường nghỉ học để phụ giúp gia đình. Những khó khăn, trở ngại đó đã gây ảnh hưởng nhiều đến việc nâng cao chất lượng giáo dục của trường.
b. Về tình hình đội ngũ CB-GV-NV nhà trường:
* Biên chế số lượng:
Theo biên chế của ngành, năm học 2009-2010, tống số CB-GV-NV của trường có 31 người, đều là dân tộc Kinh, được phân công chức danh và nhiệm vụ như sau:
Chức danh
Số lượng
Trong số lượng chia ra
Nữ
Đảng viên
Hiệu trưởng
1
1
Phó hiệu trưởng
1
1
1
TPT Đội TNTP
1
1
1
Giáo viên
23
22
6
Kế toán
1
1
Văn thư
1
1
Thư viện
1
1
Thiết bị
1
1
Bảo vệ
1
TỔNG
31
28
9
* Về độ tuổi và các điều kiện khác:
Theo bảng số liệu trên, hiện nay nhà trường có 23 giáo viên được phân công tham gia trực tiếp giảng dạy ở các khối lớp. Tính đến năm học 2009-2010, giáo viên của trường có độ tuổi cao nhất là 45 tuổi, thấp nhất là 23 tuổi, tuổi đời bình quân của CB-GV trong nhà trường là 33 tuổi (không tính tuổi của nhân viên).
+ Cụ thể về độ tuổi của giáo viên: - Dưới 30: 02 ( nữ 02 )
- Từ 31 – 45 : 21 (nữ 20)
Với độ tuổi bình quân như vậy, xét về mặt tâm lý lứa tuổi của học sinh tiểu học thì các em ít hứng thú học hơn so với những thầy cô giáo còn trẻ. Ngoài ra còn phải kể đến giọng nói, hình thức và các yếu tố khác của mỗi thầy cô giáo cũng có những ảnh hưởng không nhỏ đến việc ham thích đi học, chú ý học tập của học sinh tiểu học.
Đội ngũ giáo viên của trường phần đông đều công tác tại trường đã lâu, đều đã lập gia đình nhưng hầu hết lại không cư trú tại địa phương nơi trường đóng. Ngoài ra, phần đông giáo viên của trường là người miền Bắc (vùng Nghệ An, Hà Tĩnh và một số ở Thái Bình, Hà Nam...). Bởi vậy việc am hiểu phong tục tập quán của các em học sinh người địa phương có những hạn chế nhất định, ảnh hưởng đến chất lượng giảng dạy (nhất là môn Tiếng Việt) của nhà trường.
Mặt khác, với cơ cấu biên chế số lượng theo quy định của Thông tư liên tịch số 35 liên Bộ Giáo dục & Đào tạo, Bộ Nội vụ và Bộ Tài chính như vậy nên có những công tác nhà trường không có chuyên trách mà chỉ làm kiêm nhiệm (công đoàn, khối trưởng, khối phó, thanh tra nhân dân) vì vậy hiệu quả công tác chưa cao.
c. Về chất lượng đội ngũ:
Chức danh
Số lượng
Trình độ đào tạo
Trình độ tay nghề
Đại học
Cao đẳng
Trung cấp
Giỏi tỉnh
Giỏi huyện
Hiệu trưởng
1
1
Phó hiệu trưởng
1
1
TPT Đội TNTP
1
1
Giáo viên
23
11
7
5
1
4
Kế toán
1
1
Văn thư
1
1
Thư viện
1
1
Thiết bị
1
1
TỔNG
30
14
7
9
1
4
Qua khảo sát, tuổi nghề của đội ngũ giáo viên tương đối cao, bình quân là 15 năm. Hầu hết đội ngũ giáo viên của trường đều yêu nghề, mến trẻ, có ý thức vươn lên trong công tác, chịu khó học hỏi, đầu tư cho soạn giảng, thường xuyên nghiên cứu, tự học tự rèn để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Bên cạnh đó vẫn còn một bộ phận giáo viên chưa thực sự tâm huyết với nghề, thiếu sự đầu tư cho bài giảng trước giờ lên lớp, chưa cố gắng học hỏi, nhiệt tình tận tụy vì học sinh. Giáo viên tổng phụ trách Đội TNTP cũng được rút từ giáo viên tiểu học để làm mà chưa được qua lớp bồi dưỡng công tác Đội TNTP vì vậy công tác quản lý, điều hành chung còn gặp không ít khó khăn.
d. Về cơ sở vật chất của trường:
* Về phòng học và các phòng chức năng:
Hiện nay, trường có tất cả 16 phòng học, trong đó 14 phòng cấp 4 và 02 phòng học tạm; trong đó số phòng học đạt chuẩn là 05 phòng.
Khu nhà hiệu bộ gồm 4 phòng: 01 phòng hiệu trưởng, 01 phòng hiệu phó, 01 phòng hội đồng, 01 phòng văn thư-kế toán-thủ quỹ.
Thư viện nhà trường là phòng tạm vốn được tu sửa, nâng cấp vào năm 2000 từ cái kho của hợp tác xã Hoà An, nay cũng đã xuống cấp trầm trọng.
Như vậy, xết về tiêu chuẩn phòng học để đạt chuẩn thì còn tới 11 phòng học chưa đạt chuẩn. Ngoài ra, trường còn thiếu các phòng chức năng như phòng nghe, nhìn...
* Về bàn ghế và các trang thiết bị dạy học khác:
Về số lượng bàn ghế để phục vụ cho giáo viên, học sinh và các bộ phận trong nhà trường hoạt động là đủ về số lượng nhưng chưa đạt về chất lượng theo quy định của ngành.Tổng số chỗ ngồi cho học sinh 640 chỗ trong đó đạt chuẩn là: 300 chỗ. Hiện, trường đã có một phòng máy vi tính với số lượng là 16 máy phục vụ cho dạy môn tin học. Số máy phục vụ cho công tác quản lí là 4 máy (1 máy xách tay). Nhà trường đã có 1 bộ máy chiếu phục vụ cho công tác giảng dạy. Tuy nhiên để đáp ứng được nhu cầu dạy và học trong tình hình mới thì số trang thiết bị dạy học trên vẫn còn thiếu thốn nhiều.
* Về diện tích sân chơi bãi tập cho giáo viên, học sinh:
Với diện tích hiện có của trường thì sân chơi bãi tập của học sinh đã đủ điều kiện để đạt chuẩn quốc gia. Diện tích trồng cây bóng mát tương đối lớn, có đủ độ che phủ và bóng mát để học sinh vui chơi và hoạt động tập thể. Tuy nhiên hiện nay trường chưa có công trình vệ sinh đúng quy định chuẩn. Hệ thống nước sạch phục vụ cho giáo viên và học sinh chưa đúng quy cách .
Trường đã có tường rào bao quanh để đảm bảo an ninh trật tự, tạo điều kiện cho công tác giảng dạy ,học tập chung của nhà trường.
e. Các tổ chức đoàn thể:
* Chi bộ Đảng:
Trường đã có chi bộ riêng với 8 đảng viên chính thức ( Trong đó 3 đảng viên được cử đi sinh hoạt tăng cường tại chi bộ trường mẫu giáo).Số quần chúng ưu tú là 01.Tổ chức chi bộ thực sự là hạt nhân lãnh đạo toàn diện các hoạt động của nhà trường, đặc biệt là công tác dạy- học. Nhiều năm liền chi bộ vẫn giữ vững danh hiệu “Trong sạch vững mạnh”. Tuy nhiên, việc lãnh đạo, chỉ đạo công tác dạy và học trong nhà trường chưa thực sự sâu sát trong việc bố trí, phân công đúng người, đúng việc để khai thác hết tiềm năng trí tuệ của mỗi cá nhân, từ đó xây dựng các ê- kíp làm việc ăn ý phát huy sức mạnh tập thể.
* Công đoàn cơ sở nhà trường:
Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Ban chấp hành công đoàn ngành giáo dục, tổ chức công đoàn nhà trường luôn phát huy tốt vai trò tham mưu, giám sát, vận động, xây dựng và làm tốt công tác chăm lo bảo vệ lợi ích chính đáng, hợp pháp của công đoàn viên . Duy trì nề nếp sinh hoạt, động viên CB-GV-NV tham gia các hoạt động phong trào thể dục thể thao, văn nghệ ; phát động các phong trào thi đua “dạy tốt – học tốt”, thi giáo viên dạy giỏi, thi an toàn giao thông, tìm hiểu Luật Lao động, Luật Bảo hiểm xã hội; giới thiệu đoàn viên ưu tú cho chi bộ Đảng,...Mặc dù chưa đạt giải cao trong một số Hội thi, Hội thao nhưng cũng đã động viên tinh thần cho các công đoàn viên.
* Hội cha mẹ học sinh, Hội khuyến học:
Hội cha mẹ học sinh không chỉ có nhiệm vụ cùng nhà trường giáo dục học sinh mà còn giúp nhà trường xây dựng cơ sở vật chất, động viên thầy cô giáo để nâng cao chất lượng giảng dạy, thực hiện công tác xã hội hoá giáo dục và thể hiện truyền thống “ Tôn sư trọng đạo” của dân tộc ta đã có từ bao đời nay.
Nhận thức được vị trí và tầm quan trọng đó, nhà trường đã làm tốt công tác tham mưu với chính quyền địa phương tổ chức đại hội Phụ huynh học sinh bầu chọn các cá nhân có điều kiện và uy tín nhất vào Ban chấp hành hội của từng lớp và của nhà trường. Những năm qua, Hội PHHS đã có vai trò lớn trong việc huy động thu các khoản kinh phí tự nguyện để cải thiện môi trường sư phạm nhà trường như: Làm sân, làm lối đi trong sân, tu sửa nâng cấp phòng học, xây dựng công trình vệ sinh, xây dựng nhà bảo vệ... ngoài ra còn đóng góp khen thưởng học sinh nghèo vượt khó, thăm hỏi động viên các thầy cô giáo trong các dịp lễ, Tết... ; tạo điều kiện cho nhà trường, đội ngũ thầy cô giáo hoàn thành nhiệm vụ.
Bên cạnh những việc đã làm được ở trên, vì công việc của Ban chấp hành hội nhiều, đòi hỏi phải có thời gian nhưng không có thù lao cho công tác Hội, bởi thế người tham gia làm công tác Hội cha mẹ học sinh hoàn toàn vì con em, vì lòng nhiệt tình với sự nghiệp giáo dục. Các phụ huynh nhận thức được vì thương con nên tham gia giúp đỡ nhà trường vì thế mọi hoạt động của họ đều thụ động, theo gợi ý của nhà trường mà không tự xây dựng chương trình kế hoạch thực hiện một cách bài bản, chủ động của tổ chức Hội. Mặt khác, do điều kiện hoàn cảnh gia đình, do nhận thức của các hội viên có chừng mực nhất định nên họ chưa thực hiện tốt vai trò và làm công tác xã hội hoá giáo dục.
Những thực trạng trên của công tác Hội cha mẹ học sinh nên nhà trường còn gặp nhiều khó khăn trong việc phối hợp các điều kiện hỗ trợ để nâng cao chất lượng giảng dạy.
3. Những thành tựu đã đạt được
a. Về phát triền số lượng học sinh
Hàng năm, trường đã huy động tối đa học sinh trong độ tuổi đến trường, tỉ lệ học sinh nghỉ bỏ học giữa chừng hầu như không còn: năm học 2006-2007 có 01 em; năm học 2008-2009 có 01 em.
*Chất lượng học sinh 4 năm qua:
Năm học
Hạnh kiểm tốt
Học lực khá giỏi
Hoàn thành chương trình tiểu học
(tốt nghiệp lớp 5)
Ghi chú
Số lượng
Tỉ lệ (%)
Số lượng
Tỉ lệ (%)
Số lượng
Tỉ lệ (%)
2005-2006
463/490
94,5
177/490
36,12
125/125
100
2006-2007
428/460
93,04
139/460
30,2
100/102
98,03
2007-2008
425/438
97,03
157/438
35,84
87/87
100
2008-2009
395/406
97,29
160/406
39,4
74/74
100
Ngoài những kết quả chất lượng học tập của học sinh có được nâng lên năm sau cao hơn năm trước. Các hoạt động ngoài giờ lên lớp để giáo dục đạo đức học sinh: Tổ chức viết thư UPU, quyên góp tặng quà cho đơn vị bộ đội nhân ngày 22/12, ủng hộ bạn nghèo, ủng hộ vùng bão lụt, thiên tai, xây dựng các công trình măng non để tạo cảnh quan nhà trường ... tất cả các hoạt động đó đều có kết quả cụ thể góp phần lớn vào việc giáo dục đạo đức cho học sinh cùng với các môn học khác.
b. Về chất lượng đội ngũ CB-GV-NV (không tính bảo vệ)
Năm học
Chia theo trình độ chuẩn
Chia theo tay nghề
Trên chuẩn
Chuẩn
Chưa chuẩn
GV giỏi tỉnh
GV giỏi huyện
2005-2006
05/29
19/29
05/29
01
03
2006-2007
06/27
16/27
05/27
01
04
2007-2008
13/22
09/22
/
01
04
2008-2009
8/25
17/25
/
01
04
Hiện nay,số cán bộ, giáo viên của trường đạt chuẩn và trên chuẩn là 100%. Trường có 01 giáo viên đã dược nhận huy chương vì sự nghiệp giáo dục; có 01 giáo viên đạt giáo viên giỏi cấp tỉnh và 04 giáo viên giỏi cấp huyện. Số giáo viên chưa đạt trên chuẩn đều đang theo học đại học để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Nhìn chung kinh nghiệm giảng dạy của đội ngũ giáo viên đã nâng lên rõ rệt theo thời gian do tinh thần ham học hỏi của mỗi cá nhân, đặc biệt là từ khi thay sách giáo khoa với phương pháp giảng dạy mới.
Công tác soạn bài, chuẩn bị lên lớp của đội ngũ giáo viên nói chung các năm qua cũng được quan tâm đầu tư; việc giảng dạy trên lớp của giáo viên cũng được nâng lên về chất lượng. Những năm gần đây, nhiều thế hệ học sinh đã ngày một ham thích đến trường hơn. Việc đầu tư học hỏi để tiếp cận phương pháp giảng dạy mới theo hướng tích cực, sáng tạo của học sinh cũng đã được thầy cô quan tâm và chất lượng nâng lên rõ rệt.
c. Về cơ sở vật chất của trường:
Được sự quan tâm của các cấp lãnh đạo ngành, chính quyền và các đoàn thể địa phương và phụ huynh học sinh, cách đây 5 năm nhà trường cơ sở vật chất còn tạm bợ: phòng học xuống cấp, nhà hiệu bộ chưa có, sân chơi còn là sân đất… Đến nay, trường đã có 5 phòng học đúng quy cách, đang xây dựng 06 phòng học kiên cố, khu nhà hiệu bộ đã cơ bản đạt yêu cầu, sân chơi đã được bê-tông hóa. Khuôn viên của nhà trường đang được quy hoạch trồng cây xanh bóng mát và cây cảnh phù hợp tạo cảnh quan môi trường sư phạm xanh - sạch - đẹp. Năm học 2009-2010 tiếp tục huy động Hội cha mẹ học sinh tự nguyện đóng góp xây dựng công trình vệ sinh nhằm sớm đưa nhà trường đạt chuẩn Quốc gia giai đoạn I vào năm 2010-2011.
d. Về chi bộ Đảng:
Chi bộ nhà trường được thành lập từ tháng 5 năm 1998 khi đó mới chỉ có 02 đảng viên là cán bộ giáo viên của trường (01 đảng viên tăng cường là người của địa phương cử đến). Đến nay, chi bộ Đảng nhà trường với tổng số đảng viên là 08. Chi bộ luôn phát huy vai trò sức chiến đấu của Đảng. Hằng năm, từ khi thành lập đến nay chi bộ vẫn luôn giữ vững danh hiệu chi bộ đạt “Trong sạch vững mạnh”.
e. Các tổ chức đoàn thể xã hội khác:
Mặc dù nhiệm vụ chính là thực hiện công tác giảng dạy theo quy định nhưng các hoạt động đoàn thể: Công đoàn, Hội khuyến học, Hội chữ tập đỏ vẫn được sự tham gia nhiệt tình của đội ngũ. Các hoạt động đoàn thể đã góp phần làm cho chất lượng công tác ngày càng được nâng cao với nội dung sinh hoạt phong phú và thiết thực. Các công tác như: kết nghĩa thôn buôn, tổ chức quyên góp, tặng quà, ủng hộ đồng bào bị bão lụt, xây dựng quỹ vì người nghèo, quỹ xây nhà “Mái ấm công đoàn”, quỹ hỗ trợ giúp đỡ nhau làm kinh tế gia đình, tổ chức thăm hỏi động viên các trường hợp của đội ngũ; tổ chức cho các hội viên tham gia các hội thi,hội thao do ngành và các đoàn thể các cấp tổ chức… Các hoạt động đó dược duy trì thành nề nếp sinh hoạt đều đặn và ngày càng nâng cao về chất lượng hoạt động. Những năm qua, nhà trường đã từng đạt giải cao trong các hội thi: Thi tìm hiểu Luật Bảo hiểm xã hội (giải Nhất cấp huyện), thi tuyên truyền viên về Hội chữ thập đỏ (giải Nhì cấp huyện),và nhiều cuộc thi khác đạt giải khuyến khích cấp huyện, cấp cụm: bóng chuyền nữ, văn nghệ quần chúng…
Ngoài ra, tổ chức hội cha mẹ học sinh, Hội khuyến học cũng đống góp một phần lớn vào thành tích của nhà trường trong công tác xã hội hóa giáo dục, trong công tác vận động đóng góp tự nguyện để xây dựng cơ sở vật chất nhà trường ngày một khang trang hơn: làm sân chơi, bãi tập, công trình vệ sinh; khen thưởng, quyên góp ủng hộ giúp đỡ học sinh nghèo vượt khó, thăm hỏi động viên thầy cô giáo… vì thế đã tạo điều kiện để đội ngũ cán bộ, giáo viên hoàn thành nhiệm vụ giảng dạy, dần nâng cao chất lượng đội ngũ.
4. Tồn tại và nguyên nhân:
a. Những tồn tại:
* Về công tác phát triển số lượng, chất lượng học sinh:
Về số lượng học sinh mặc dù đã huy động được số lượng học sinh đúng độ tuổi ra lớp với tỷ lệ cao (99,47% chỉ còn một số đối tượng khuyết tật nặng không thể học và một vài trường hợp nghỉ bỏ học do gia đình quá khó khăn) nhưng số học sinh trong địa bàn của trường phụ trách lại không học tại trường mà chọn trường có điều kiện cơ sở vật chất tốt hơn để theo học. Hàng năm, có khoảng 30 đến 35 học sinh theo học trái tuyến, điều này cũng ảnh hưởng đến số lượng học sinh của nhà trường, trong khi giáo viên dôi dư đang ngày một nhiều hơn.
Tỉ lệ học sinh yếu, lưu ban vẫn còn,bình quân khoảng 3% đến 4% hằng năm. Học sinh đúng 6 tuổi vào lớp 1 chưa đạt 100%. Công tác bồi dưỡng học sinh khá, giỏi và phụ đạo học sinh yếu chưa đạt hiệu quả và chỉ tiêu đề ra. Việc tổ chức học 2 buổi/ngày chưa xây dựng được thời khóa biểu phù hợp để tạo điều kiện cho giáo viên và học sinh dạy-học phát huy được hiệu quả, nâng cao chất lượng giảng dạy, học tập. Các hoạt động ngoài giờ lên lớp chưa tổ chức được để đem lại hiệu quả thiết thực, là hoạt động bổ trợ giúp học sinh phát triển toàn diện. Ngoài ra, trường cũng chưa thực hiện được đồng phục cho học sinh khi đến trường.
* Về tình hình đội ngũ cán bộ - giáo viên nhà trường:
Công tác quản lý, chỉ đạo còn yếu và thiếu kinh nghiệm. Chất lượng giảng dạy chưa cao; thời gian đầu tư cho việc soạn giảng còn hạn chế, nhất là việc làm và sử dụng đồ dùng dạy học; số lượng giáo viên dạy giỏi các cấp còn ít. Việc sử dụng vi tính để phục vụ cho công tác soạn giảng của giáo viên chưa đạt yêu cầu, nhiều giáo viên chưa biết sử dụng giáo án điện tử.
* Về cơ sở vật chất của trường:
Trường chưa có các phòng chức năng, hệ thống công trình vệ sinh chưa đảm bảo tiêu chuẩn, một số phòng học đã xuống cấp chưa có kinh phí để tu sửa, nâng cấp; hệ thống nước sinh hoạt chưa đảm bảo vệ sinh và chưa đúng quy cách; bàn ghế học sinh chưa đảm bảo đúng quy cách 100%. Các trang thiết bị phục vụ giảng dạy, học tập vẫn còn thiếu thốn chưa đáp ứng nhu cầu để giảng dạy theo phương pháp mới; công tác thiết bị dạy học chưa đảm bảo.
* Hoạt động của các tổ chức đoàn thể:
Nội dung hoạt động chưa phong phú, sát với thực tế và hấp dẫn các thành viên, đôi khi còn chồng chéo. Một bộ phận giáo viên chưa an tâm công tác; việc theo dõi diễn biến tư tưởng của đội ngũ còn hạn chế; tinh thần đấu tranh tự phê bình và phê bình chưa cao, chưa đem lại hiệu quả. Hội cha mẹ học sinh hoạt động chưa đều, công tác xã hội hóa giáo dục của nhà trường chưa đạt hiệu quả cao.
b. Nguyên nhân
- Năng lực quản lý, chỉ đạo, điều hành của cán bộ quản lý còn yếu. Chưa xây dựng được kế hoạch dài hạn, trung hạn một cách khoa học và khả thi; chưa kiên quyết, nhạy bén, sáng tạo trong chỉ đạo, điều hành công việc và thực hiện công việc theo kế hoạch. Việc bố trí sắp xếp, sử dụng nhân lực, vật lực chưa phát huy hết tiềm lực sẵn có hoặc chưa phù hợp để đảm bảo phát huy tối đa nội lực tạo nên sức mạnh tập thể.
- Điều kiện, hoàn cảnh của nhân dân địa phương đa số vẫn còn nhiều khó khăn. Trình độ dân trí của nhân dân còn thấp hoặc không đều nên nhận thức về việc xã hội hóa giáo dục của họ còn rất hạn chế, đặc biệt là đối với bậc tiểu học.
- Trình độ lý luận, tin học và nhận thức về giáo dục nói chung của đội ngũ vẫn còn hạn chế: chưa thấy rõ tầm quan trọng, chưa thật sự đầu tư có hiệu quả vào giảng dạy; điều kiện cơ sở vật chất chưa đáp ứng nhu cầu của thời đại: các thiết bị giảng dạy phục vụ dạy – học còn thiếu về số lượng và chưa đảm bảo về chất lượng.
- Điều kiện của đội ngũ cán bộ giáo viên vẫn còn nhiều khó khăn. Về trình độ tay nghề của đội ngũ giáo viên chưa đồng đều, một số tay nghề còn hạn chế; việc tiếp cận phương pháp dạy học mới của giáo viên chưa nhanh nhạy, chưa hiệu quả.
- Một bộ phận học sinh còn chưa chủ động, sáng tạo trong học tập theo phương pháp học tập mới, còn tỏ ra nhút nhát thụ động ít chịu khó tìm tòi, độc lập suy nghĩ, sáng tạo học hỏi. Tất cả điều đó đều làm ảnh hưởng lớn đến chất lượng giảng dạy của nhà trường.
II. PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIẢNG DẠY CỦA ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC TRẦN BÌNH TRỌNG, HUYỆN KRÔNG PẮC TỪ NĂM 2010 ĐẾN 2013
1. Phương hướng
Nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy của đội ngũ nhà trường, trong những năm học tiếp theo từ 2010 đến 2013 tiếp tục phấn đấu nâng dần chất lượng đội ngũ về mọi mặt, hướng tới phát triển trường đạt chuẩn Quốc gia giai đoạn I vào năm 2010.
Tiếp tục triển khai cuộc vận động: “ Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” lồng ghép với cuộc vận động: “ Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục”, cuộc vận động: “ Mỗi thầy cô giáo là một tấm gương đạo đức tự học và sáng tạo” và phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”.
Tập trung chỉ đạo việc quản lý, tổ chức dạy học và đánh giá kết quả học tập của học sinh theo chuẩn kiến thức kỹ năng; tiếp tục đổi mới phương pháp dạy học; thực hiện dạy tích hợp các môn học; đổi mới đánh giá xếp loại học sinh; chú trọng giáo dục đạo đức, kỹ năng sống cho học sinh; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học và quản lý; tiếp tục tổ chức đánh giá sự phù hợp của chương trình, sách giáo khoa cấp tiểu học.
2. Mục tiêu
Chất lượng giảng dạy của đội ngũ giáo viên của trường 4 năm qua đã có những chuyển biến đi lên đáng kể, tuy nhiên vẫn chưa đạt được mức chất lượng tối thiểu theo quyết định số , theo quy định của ngành giáo dục đề ra. Để tiếp tục nâng cao chất lượng giảng dạy của đội ngũ giáo viên trường Tiểu học Trần Bình Trọng trong giai đoạn hiện nay nhằm đạt chuẩn Quốc gia giai đoạn I vào năm 2010, mục tiêu chính của nhà trường như sau:
* Về chuyên môn nghiệp vụ quản lý:
Hiệu trưởng và phó hiệu trưởng phải có trình độ trên chuẩn (trình độ cử nhân khoa học về sư phạm tiểu học). Đồng thời phải qua lớp bồi dưỡng cán bộ quản lý giáo dục và hoàn thành chương trình Trung cấp Lý luận chính trị. Phải am hiểu và có trình độ hiểu biết nhất định về tâm lý, nghệ thuật của người lãnh đạo quản lý. Phải thường xuyên trau dồi đạo đức cách mạng, có tâm huyết với ngành nghề để luôn là người có phẩm chất đạo đức trong sáng, lối sống, phong cách người lãnh đạo chuẩn mực.Có như vậy mới luôn được cán bộ, giáo viên, nhân dân, chính quyền địa phương tín nhiệm về chính trị, đạo đức và chuyên môn nghiệp vụ.
* Về thực hiện các nhiệm vụ quản lý
Xây dựng kế hoạch dài hạn, trung hạn để nhằm mục tiêu phát triển bền vững nhà trường. Đồng thời từng năm học, cần xây dựng kế hoạch cụ thể từng thời kỳ hướng đến mục tiêu trung hạn và dài hạn sao cho mang tính khả thi cao.Quan tâm đầu tư chỉ đạo thực hiện kế hoạch đã xây dựng nhằm mang lại hiệu quả cao nhất. Đầu tư vào các hoạt động chuyên môn: thao giảng, dự giờ, sử dụng tốt đồ dùng dạy học, áp dụng khoa học công nghệ, tin học vào soạn giảng, đúc rút tổng kết viết sáng kiến kinh nghiệm…; thường xuyên tổ chức sinh hoạt chuyên môn sát thực tế để đồng nghiệp trao đổi kinh nghiệm, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ từ đó nâng dần chất lượng giảng dạy của nhà trường.
Tham mưu nâng cấp về cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ giảng dạy, học tập nhằm góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy.
Làm tốt công tác lưu trữ hồ sơ, đảm bảo tốt việc theo dõi số lượng, chất lượng học sinh từng năm học và nhiều năm học. Quản lý tốt cơ sở, trang thiết bị của nhà trường vì đó là phương tiện không thể thiếu để thực hiện nâng cao chất lượng giảng dạy của đội ngũ.
Công tác quản lý phải thực hiện nguyên tắc tập trung - dân chủ trong lãnh đạo, chỉ đạo; thực hiện công khai tài chính đảm bảo luôn minh bạch, trong sáng.
* Về đội ngũ giáo viên
Hiện đội ngũ đã có 100% đạt trình độ chuẩn và trên chuẩn. Tính về bằng cấp thì đã đảm bảo.Nhưng trong thực tế muốn nâng cao chất lượng giảng dạy, mỗi thầy cô giáo cần nghiêm chỉnh soi mình vào chuẩn nghề nghiệp giáo viên tiểu học (Quyết định số 14/2007/BGD&ĐT ngày 04 tháng 5 năm 2007 của Bộ trưởng Bộ giáo dục và Đào tạo) làm thước đo để phấn đấu đạt chuẩn.
Toàn bộ đội ngũ giáo viên của trường cần tích cực và nhanh chóng học vi tính để có kỹ năng sử dụng vi tính trong công tác soạn, giảng.
Mỗi CB-GV phải nêu cao tinh thần trách nhiệm trong công tác, có lối sống trung thực, lành mạnh, có tinh thần đoàn kết, hợp tác, có quan hệ tốt với gia đình học sinh và cộng đồng; cương quyết không để vi phạm tư cách đạo đức, lối sống gây ảnh hưởng đến đạo đức người thầy làm giảm sút lòng tin của nhân dân.
Tham gia đầy đủ các lớp bồi dưỡng nhằm nâng cao tay nghề, bồi dưỡng về lý luận chính trị Mác-Lênin, tích cực “học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”.
Mỗi giáo viên phải nghiêm túc trong giảng dạy và thực hiện đúng chương trình và kế hoạch dạy học, tăng cường đầu tư cải tiến phương pháp giảng dạy phù hợp với đối tượng học sinh. Có tinh thần hợp tác giữa các đồng nghiệp để cùng nhau tiến bộ.
Mỗi giáo viên đều phải đối xử công bằng đối với học sinh, đánh giá khách quan kết quả học tập, tu dưỡng của học sinh.
Giáo viên phải xây dựng kế hoạch bồi dưỡng học sinh khá giỏi và kế hoạch phụ đạo học sinh yếu nhằm không ngừng nâng cao chất lượng học sinh.
* Về cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học
Tiếp tục đầu tư thêm máy vi tính phục vụ cho công tác soạn giảng, cho phòng máy vi tính để dạy môn tự chọn cho học sinh. Tham mưu với lãnh đạo địa phương,lãnh đạo ngành xây dựng thêm các phòng chức năng: phòng nghe nhìn, phòng thư viện,… nhằm phấn đấu đủ tiêu chuẩn đạt trường chuẩn Quốc gia giai đoạn I.
Đầu tư mua sắm thêm trang thiết bị phục vụ cho công tác giảng dạy: đảm bảo ánh sáng, quạt điện, rèm cửa sổ che nắng, trang bị tủ đựng thiết bị, đồ dùng của học sinh các lớp.
Tiếp tục đầu tư cho thư viện cơ bản đủ thiết bị dạy học dùng chung của bậc học, tăng cường thêm số lượng các đầu sách giáo khoa, sách giáo viên và sách tham khảo khác để phục vụ giáo viên và học sinh. Đảm bảo tất cả học sinh đều có đủ sách giáo khoa và đồ dùng tối thiểu để học tập. Phấn đấu đến năm 2010-2011 trường đủ điều kiện về cơ sở vật chất đạt chuẩn Quốc gia giai đoạn I.
* Về công tác xã hội hóa giáo dục:
Làm tốt công tác phối hợp với chính quyền địa phương để thực hiện công tác giáo dục đồng thời tham mưu với hội đồng giáo dục xã tích cực huy động sức đóng góp tự nguyện của phụ huynh để tu sửa, làm mới một số công trình nhằm làm khang trang dần cảnh quan môi trường sư phạm nhà trường, đồng thời tăng cường công tác bảo vệ cơ sở vật chất trang thiết bị của nhà trường giữ gìn môi trường xanh - sạch - đẹp.
* Về chất lượng giáo dục:
Đầu tư nhiều hơn nữa cho công tác giảng dạy lớp đảm bảo phù hợp với từng đối tượng học sinh, kiên quyết không để một học sinh nào đứng ngoài lề học tập. Phấn đấu 100% học sinh đều “được học và học được”. Đảm bảo học sinh đạt được yêu cầu cơ bản của từng môn học. Thực hiện kiểm tra, đánh giá học sinh đúng thực chất, kiên quyết chống bệnh thành tích và vi phạm trong thi cử.
Chỉ đạo thực hiện các hoạt động ngoài giờ lên lớp sao cho phong phú, hấp dẫn, thiết thực nhằm thu hút được các em học sinh ham thích đến trường.
Tổ chức điều tra để phổ cập đúng độ tuổi, huy động triệt để học sinh trong độ tuổi tiểu học đến trường và học hết lớp, hết cấp, chống bỏ học giữa chừng.
Hàng năm, phấn đấu đạt tỷ lệ lên lớp 97% trở lên, trong đó tỷ lệ học sinh khá giỏi từ 45 đến 50% ; hạnh kiểm tốt (thực hiện đầy đủ) 97% trở lên; tỷ lệ học sinh hoàn thành chương trình Tiểu học (tốt nghiệp lớp 5) đạt 98 – 100%.
3. Những giải pháp nâng cao chất lượng giảng dạy cho đội ngũ giáo viên của trường Tiểu học Trần Bình Trọng
Một là: Nâng cao trình độ chuyên môn và Lý luận chính trị cho giáo viên. Thực hiện nghiêm túc và hiệu quả chỉ thị số 06 – CT/TW của Bộ Chính trị về cuộc vận động “ Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” và chỉ thị số 33/2006/CT – TTg của Thủ tướng Chính phủ về chống tiêu cực và khắc phục bệnh thành tích trong giáo dục, tiếp tục thực hiện cuộc vận động “ Nói không với tiêu cực và bệnh thành tích trong giáo dục” do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành:
Tiếp tục tổ chức học tập, quán triệt nghị quyết của các cấp ủy Đảng đến từng CB-GV-NV, các bậc phụ huynh. Qua đó hiểu rõ quan điểm, đường lối phát triển giáo dục đào tạo của Đảng, Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay. Từ đó khắc phục khó khăn, yên tâm công tác, nâng cao tinh thần trách nhiệm và ý thức tự giác để thực hiện tốt nhiệm vụ mỗi năm học đề ra.
Mỗi CB-GV-NV phải nghiêm túc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, nâng cao hơn nữa đạo đức cách mạng “hết lòng hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân” ; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí xa hoa, kiên quyết chống tham ô, tham nhũng, tiêu cực; chấp hành nghiêm chỉnh Pháp luật của Nhà nước; không ngừng học tập bồi dưỡng để nâng cao trình độ về mọi mặt; kiên quyết chống các tệ nạn xã hội.
Giáo dục học sinh thực hiện tốt “5 điều Bác Hồ dạy Thiếu niên nhi đồng” ; giáo dục học sinh thường xuyên tu dưỡng rèn luyện đạo đức chấp hành tốt nội quy của nhà trường và các quy định của pháp luật.
Xây dựng kế hoạch phù hợp với điều kiện của nhà trường, tổ chức ký cam kết thực hiện đối với tất cả các bộ phận nhằm tiếp tục thực hiện cuộc vận động “Hai không” với bốn nội dung “Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục, nói không với vi phạm đạo đức nhà giáo và việc ngồi nhầm lớp” ; thực hiện cuộc vận động “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” đạt kết quả tốt nhất.
Tổ chức cho toàn thể CB-GV-NV nghiên cứu và thực hiện tốt công tác thi đua khen thưởng theo Nghị định số 121/2005/NĐ-CP ngày 30/9/2005 của Chính phủ và các văn bản hướng dẫn công tác thi đua của toàn ngành năm học 2009-2010. Tăng cường hoạt động của Hội khuyến học trong nhà trường để kịp thời động viên khen thưởng học sinh.
Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra chuyên đề, toàn diện trong nhà trường, xây dựng “chuẩn” để đánh giá xếp loại thi đua phù hợp với tình hình thực tế của nhà trường.
Hai là: Tiếp tục thực hiện đổi mới phương pháp giáo dục theo hướng tích cực, sáng tạo của học sinh, khắc phục tình trạng ngồi sai lớp. Chỉ đạo thực hiện tốt các loại thiết bị hiện có và tự làm để nâng cao chất lượng dạy học, đầu tư đổi mới công tác kiểm tra, đánh giá xếp loại học sinh theo Thông tư 32/2009/TT-BGDĐT ngày 27/10/2009 . Tăng cường hơn nữa giáo dục toàn diện học sinh, tập trung giáo dục đạo đức, lối sống, giáo dục Pháp luật:
Tiếp tục đổi mới phương pháp giảng dạy, tăng cường giáo dục toàn diện học sinh thông qua các môn học; chú trọng giáo dục đạo đức, lối sống; nhanh chóng đổi mới công tác kiểm tra thi cử đảm bảo vừa nghiêm túc vừa phân loại đánh giá thực chất chất lượng học sinh.
Tổ chức cam kết bàn giao số lượng, chất lượng học sinh giữa giáo viên chủ nhiệm lớp cũ và giáo viên chủ nhiệm lớp mới để mỗi giáo viên có trách nhiệm cao hơn về sản phẩm giáo dục của mình. Kiên quyết không để học sinh ngồi sai lớp; duy trì tốt kỷ cương, nề nếp trong nhà trường.
Có kế hoạch thực hiện việc giáo dục trẻ em có hoàn cảnh khó khăn; tạo điều kiện để giúp học sinh khuyết tật, học sinh khó khăn, học sinh là người dân tộc thiểu số “được học và học được”.
Chủ động xây dựng kế hoạch tổ chức các kỳ thi, hội thi cho giáo viên và học sinh: thi kể chuyện, thi chữ viết đẹp, tuyên truyền măng non,… Thi giáo viên dạy giỏi, giáo viên đọc diễn cảm, thi làm đồ dùng trực quan…Xây dựng ngân hàng đề thi để chủ động trong các đợt kiểm tra định kỳ các môn học.
Triển khai viết sáng kiến kinh nghiệm khả thi, đạt hiệu quả thiết thực, tổ chức sinh hoạt chuyên đề trao đổi, trau dồi về chuyên môn nghiệp vụ, tổ chức thao giảng, dự giờ sao cho đạt hiệu quả thiết thực có đánh giá các tiết dạy theo quy định của ngành.
Giữ vững chất lượng Phổ cập giáo dục Tiểu học, chống tái mù chữ. Tiếp tục điều tra phổ cập đúng độ tuổi, cập nhật thường xuyên số liệu học sinh trong độ tuổi PCGD – XMC để mở lớp.
Tăng cường tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp, lên lịch thời khóa biểu để tổ chức khoa học các hoạt động này; giáo dục học sinh bảo vệ môi trường, bảo vệ của công; tích cực chống các tệ nạn xã hội; giáo dục học sinh nghiêm chỉnh chấp hành luật giao thông…
Ba là: Tăng cường vai trò lãnh đạo của chi bộ Đảng, sự quản lý của Ban giám hiệu và nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên:
Tiếp tục triển khai Chỉ thị 40-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng, Quyết định số 09/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục; Chỉ thị 06-CT/TV của Thường vụ Tỉnh ủy về xây dựng nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lí giáo dục. Cán bộ quản lý phải đạt trình độ chuyên môn trên chuẩn và phải hoàn thành chương trình bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý nhà trường.
Tổ chức, phân công nhiệm vụ cụ thể đối với từng cán bộ, giáo viên, nhân viên trong nhà trường sao cho phù hợp chuyên môn, trình độ, sở trường của mỗi cá nhân. Lập kế hoạch dạy học đúng phân phối chương trình, phù hợp với đối tượng học sinh; lập thời khóa biểu phù hợp với điều kiện cụ thể của trường đảm bảo thời gian lao động đúng quy định cho từng giáo viên và đảm bảo đúng yêu cầu đối với đặc thù các môn học.
Tiếp tục triển khai và hướng dẫn thực hiện việc đánh giá xếp loại giáo viên theo Quyết định số 14/2007/BGD&ĐT ngày 04 tháng 5 năm 2007 của Bộ trưởng Bộ giáo dục và Đào tạo. Tiếp tục động viên cán bộ giáo viên không ngừng học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, học thực hành vi tính để không ngừng nâng cao chất lượng giảng dạy.
Tham mưu với chi bộ Đảng, phối hợp cùng Ban chấp hành Công đoàn chỉ đạo các tổ chuyên môn, tổ công đoàn làm tốt công tác thanh tra, kiểm tra kịp thời phát hiện sai sót từ đó chỉ ra cách thức sửa chữa sớm nhất tránh tổn thất lớn hơn; giải quyết các kiến nghị, thắc mắc trong đội ngũ, tránh để xảy ra khiếu nại, tố cáo vượt cấp; xây dựng khối đoàn kết nội bộ vững chắc trong nhà trường.
Bốn là: Tăng cường công tác hành chính, quản trị, tài chính, cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học của nhà trường theo yêu cầu chuẩn Quốc gia giai đoạn I:
Đẩy mạnh việc ứng dụng khoa học công nghệ , tin học ứng dụng vào công tác quản lý nhân sự, học sinh. Sử dụng, phát huy hiệu quả của phần mềm quản lý SREM, PEMIS, PMIS trong việc quản lý nhân sự, học sinh. Lập Email, xử lý thông tin qua mạng Internet để tiết kiệm thời gian, kinh phí trong việc đi lại để chuyển tải thông tin.
Tăng cường đầu tư cho thư viện, bổ sung thiết bị dạy học, xây dựng tủ sách pháp luật; vận động đội ngũ CB-GV-NV và học sinh đóng góp đầu sách, phân loại sách, thiết bị, làm thư mục và sắp xếp hệ thống sách theo quyết định 01/2003/QĐ-BGD&ĐT của Bộ Giáo dục và Đào tạo về các tiêu chuẩn của thư viện để phục vụ giáo viên và học sinh.
Làm tốt công tác quản lý hồ sơ, công văn và các văn bản hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ năm học.
Phân công quản lý và sử dụng có hiệu quả cơ sở vật chất của nhà trường; tham mưu với các cấp lãnh đạo để xây dựng công trình vệ sinh, công trình nước sạch phục vụ cho các hoạt động giáo dục trong nhà trường; đầu tư mua sắm thêm một số trang thiết bị: máy tính, máy chiếu để phục vụ giảng dạy.
Lập dự toán thu chi phù hợp với điều kiện của trường; nghiêm túc thực hiện đúng nguyên tắc thu chi tài chính theo quy định. Mở đầy đủ các loại hồ sơ, sổ sách theo quy định của luật tài chính hiện hành. Thực hiện đầy đủ, kịp thời các chế độ chính sách đối với CB-GV-NV theo quy định.
Năm là: Xây dựng cảnh quan môi trường sư phạm
Thực hiện cuộc vận động “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”: xây dựng trường lớp “xanh-sạch-đẹp”đủ nhà vệ sinh cho giáo viên và học sinh. Thường xuyên giáo dục học sinh giữ gìn cảnh quan môi trường sư phạm nhà trường; tích cực trồng cây xanh tạo cảnh quan phù hợp; lao động vệ sinh gìn giữ môi trường xung quanh; thực hiện trang trí các phòng học, phòng ban nhẹ nhàng, hài hòa,có tính giáo dục cao, đúng quy định văn hóa nơi công sở.
Bước đầu vận động tuyên truyền tạo điều kiện để đội ngũ CB-GV-NV và học sinh thực hiện trang phục một số buổi trong tuần theo đúng quy định theo quy định về văn hóa nơi công sở.
Duy trì nề nếp lao động vệ sinh, chăm sóc cây trồng thường xuyên đạt hiệu quả.
Sáu là: Bố trí sắp xếp đội ngũ giáo viên phù hợp
Giáo viên tiểu học có vị trí vai trò quan trọng quyết định chất lượng, hiệu quả giáo dục của nhà trường. Bởi vậy việc bố trí, sắp xếp giáo viên phù hợp sao cho phát huy được tối đa khả năng, sở trường của từng giáo viên là điều rất quan trọng. Lựa chọn các giáo viên có tay nghề vững, có uy tín cao, có kinh nghiệm bổ nhiệm làm tổ khối trưởng, khối phó để lãnh đạo tập thể khối đạt chất lượng, hiệu quả. Điều động giáo viên giỏi, có kỹ năng thực hành vi tính tốt, có óc tổng hợp, phân tích các hoạt động trong nhà trường làm kiêm công tác thư ký Hội đồng sư phạm trường… ; bố trí sắp xếp khoa học, hợp lý trong vốn nhân sự của nhà trường vào các công việc kiêm nhiệm: thủ quỹ, thiết bị, y tế học đường… Ngoài ra, cần phân công định hướng quỹ thời gian thực hiện công việc cho từng bộ phận từng thành viên để họ có căn cứ theo đó làm việc đạt hiệu quả.
Bảy là: Đẩy mạnh công tác xã hội hóa giáo dục
Xã hội hóa công tác giáo dục là “Huy động toàn xã hội làm giáo dục, động viên mọi tầng lớp nhân dân tham gia đóng góp xây dựng nền giáo dục Quốc dân dưới sự quản lý của Nhà nước”
Xã hội hóa công tác giáo dục thể hiện tư tưởng chiến lược phát triển lâu dài và có hiệu quả cao. Nhờ có công tác xã hội hóa giáo dục mà những năm qua, nhà trương đã làm được nhiều vấn đề góp phần lớn vào việc nâng cao chất lượng giáo dục chung của nhà trường. Để tiếp tục phát huy mặt mạnh của công tác này, cần tuyên truyền phổ biến nhiều hơn nữa đến các tầng lớp nhân dân địa phương để huy động triệt để sự nhiệt tình đóng góp của học cho sự nghiệp giáo dục của địa phương, để mỗi người dân thực sự hiểu được vai trò của bản thân đối với sự nghiệp giáo dục nói chung.
Tăng cường vai trò của Hội cha mẹ học sinh, Hội khuyến học trong việc vận động phụ huynh đóng góp xây dựng trường sở, giữ gìn an ninh trật tự trong khuôn viên trường. Tham mưu với các cấp chính quyền địa phương duy trì tốt Hội đồng giáo dục xã, động viên khen thưởng những phụ huynh có nhiều đóng góp cho sự nghiệp giáo dục của nhà trường.
Nhà trường cần có kế hoạch làm việc cụ thể và quan tâm nhiều hơn đến việc định hướng hoạt động của Hội cha mẹ học sinh, Hội khuyến học để họ hoạt động có kế hoạch phù hợp, thiết thực và đạt hiệu quả hơn.
C - KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. KẾT LUẬN:
Đất nước ta đang trên đà phát triển. Sự nghiệp đổi mới đất nước mà Đảng ta đang khởi xướng và lãnh đạo thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Để đạt được mục tiêu lớn đó đòi hỏi phải có con người thực hiện. Nhân tố con người được đặt vào vị trí trung tâm của chiến lược kinh tế - xã hội, xây dựng và phát triển đất nước. Như vậy có nghĩa là sự phát triển nguồn lực con người quyết định sự phát triển xã hội. Đảng ta đã xác định đúng đắn đường lối phát triển đất nước phải “Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững”.
Cùng với khoa học công nghệ, giáo dục và đào tạo là Quốc sách hàng đầu; là chìa khóa mở cửa vào tương lai, là động lực thúc đẩy, là điều kiện cơ bản để đảm bảo cho việc thực hiện những mục tiêu kinh tế-xã hội, xây dựng và bảo vệ đất nước. Coi trọng và đầu tư cho giáo dục là một trong những hướng chính của đầu tư phát triển đất nước. Phát triển giáo dục nhằm nâng cao trình độ dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, đào tạo ra những người có kiến thức văn hóa, khoa học, có kỹ năng nghề nghiệp, lao động tự chủ, sáng tạo, có kỷ luật, giàu lòng nhân ái, yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội; sống lành mạnh; đáp ứng nhu cầu phát triển đất nước trong giai đoạn hiện nay và trong tương lai. Muốn có được những con người như vậy, trước hết phải nói đến vai trò của đội ngũ giáo viên nói chung trong đó có đội ngũ giáo viên tiểu học nói riêng. Họ là lực lượng quyết định chất lượng giáo dục của mình.
Để giúp họ có điều kiện hoàn thành tốt trọng trách này, trước hết Đảng và Nhà nước phải có những chủ trương, chính sách cụ thể, thiết thực nhằm động viên họ cả về vật chất lẫn tinh thần để họ toàn tâm, toàn lực vì sự nghiệp giáo dục.Thực hiện những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, ngành giáo dục cần có kế hoạch rà soát, thanh lọc và giải quyết các chế độ chính sách phù hợp để đội ngũ giáo viên thật sự là những người tiên phong, những tấm gương sáng, xứng đáng với sự kính trọng của toàn xã hội, những người được cả xã hội gọi là “Thầy”.
Đối với nhà trường mà trước hết là tập thể lãnh đạo nhà trường cần phải có kế hoạch cụ thể , phù hợp để sắp xếp tạo mọi điều kiện cho đội ngũ thầy cô giáo được tham gia bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn và nâng cao chất lượng giảng dạy.
“Nâng cao chất lượng giảng dạy” hiện nay đang là đòi hỏi bức thiết đối với trường Tiểu học Trần Bình Trọng nói riêng và của toàn ngành nói chung. Mỗi cá nhân trong tập thể sư phạm nhà trường cần tập trung hơn nữa đầu tư cho công tác giảng dạy hướng đến mục tiêu mà toàn thể đội ngũ đã đặt ra trong những năm tiếp theo 2010 đến 2013.
2. KIẾN NGHỊ:
Mặc dù trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách đầu tư cho Giáo dục và Đào tạo cả nước, đặc biệt là chế độ tiền lương và phụ cấp ngành nghề, khu vực. Nhưng hiện nay điều kiện của đội ngũ thầy cô giáo nói chung và thầy cô giáo tiểu học vẫn còn chưa đáp ứng được nhu cầu, nhất là ở các vùng có điều kiện kinh tế khó khăn. Bởi vậy chất lượng giảng dạy tuy có được nâng lên nhưng cũng chưa ngang tầm thời đại. Với khuôn khổ hạn hẹp của bài viết, người viết cũng mạnh dạn có những kiến nghị sau đây với các cấp lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Chính quyền địa phương và ngành giáo dục nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy của đội ngũ giáo viên nhà trường:
- Đảng và Nhà nước cần đầu tư ngân sách nhiều hơn nữa để ngành giáo dục có điều kiện nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo. Bên cạnh đó cũng cần phải có những biện pháp cụ thể để kiểm tra việc thực hiện ngân sách được giao đối với ngành giáo dục để việc sử dụng ngân sách mang lại hiệu quả cao nhất.
- Ngành giáo dục cần xây dựng những tiêu chuẩn để tuyển chọn đội ngũ nhà giáo, nhất là đối với bậc tiểu học. Để đội ngũ nhà giáo thực sự là những con người vừa “hồng” vừa “chuyên”, những người đẹp cả hình thức lẫn tâm hồn để xứng đáng là bậc “Thầy” mà xã hội đã tôn trọng trao cho.
- Bộ giáo dục và Đào tạo cần chỉ đạo thực hiện các tiêu chí đánh giá xếp loại giáo viên đã ban hành: Quyết định số 14/2007/QĐ-BGD&ĐT ngày 04/5/2007, đồng thời đối với cán bộ quản lý tiểu học cần hoàn thiện và đưa vào áp dụng các tiêu chuẩn đối với người cán bộ quản lý để cán bộ, giáo viên cơ sở phấn đấu thực hiện.
- Chính quyền địa phương các cấp cần quan tâm hơn nữa đến giáo dục, tuyên truyền rộng rãi đến nhân dân để họ nhận thức đúng vị trí, vai trò của giáo dục trong giai đoạn hiện nay. Đồng thời lãnh đạo chỉ đạo làm tốt hơn nữa công tác xã hội hóa giáo dục ở địa phương mình để giúp các nhà trường hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
- Các tổ chức đoàn thể xã hội, mỗi phụ huynh học sinh cần quan tâm chung tay, chung sức cùng nhà trường phối kết hợp nhịp nhàng trong việc động viên, giáo dục con em mình ra sức học tập sáng tạo vì tương lai của chính bản thân và của cả cộng đồng.
Krông Pắc, tháng 02 năm 2010
ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG
HIỆU TRƯỞNG
Trần Văn Hùng
MỤC LỤC
TT
NỘI DUNG
TRANG
A
MỞ ĐẦU
1
1
Tính cấp thiết của đề tài
1
2
Mục tiêu và nhiệm vụ
2
3
Phạm vi nghiên cứu
2
4
Phương pháp nghiên cứu
3
5
Bố cục đề tài
3
B
NỘI DUNG
3
I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC
3
1
Cơ sở lý luận
3
2
Thực trạng chất lượng giảng dạy ở trường Tiểu học Trần Bình Trọng từ năm 2006 đến 2009
5
3
Những thành tựu đã đạt được
10
4
Tồn tại và nguyên nhân
12
II
PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIẢNG DẠY CỦA ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC TRẦN BÌNH TRỌNG, KRÔNG PẮC 2010-2013
14
1
Phương hướng
14
2
Mục tiêu
14
3
Những giải pháp nâng cao chất lượng giảng dạy cho đội ngũ giáo viên của trường Tiểu học Trần Bình Trọng
17
C
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
21
1
Kết luận
21
2
Kiến nghị
21
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Trung cấp Lý luận Chính trị môn Văn hoá-Xã hội, môn Nhà nước Pháp luật
NXB Chính trị Quốc gia
2. Luật Giáo dục 2005
3. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn Quốc lần thứ VIII, IX, X của Ban chấp hành Trung ương Đảng CSVN
4. Luật giáo dục và các văn bản hướng dẫn thi hành
NXB Viện Khoa học Giáo dục Hà Nội – 1999
5. Một số vấn đè về đổi mới quản lý Giáo dục Tiểu học vì sự phát triển bền vững- Tài liệu bồi dưỡng Hiệu trưởng trường tiểu học và cán bộ quản lý Giáo dục tiểu học
NXB Giáo dục
6. Giáo trình giáo dục học tiểu học I- Đại học Huế
7. Văn háo và Giáo dục, Giáo dục và Văn hoá
NXB Giáo dục – GS TS Phạm Minh Hạc
8. Các tạp chí phát triển giáo dục của Viện chiến lược và chương trình giáo dục của Bộ Giáo dục và Đào tạo
9. Tập san Giáo dục và Đào tạo Đắk Lắk
10. Báo Giáo dục và Thời đại số Chủ nhật.
11. Tạp chí Tài hoa trẻ số tháng 11,12/2009.
12. Những nhiệm vụ trọng tâm của Giáo dục Mầm Non, Giáo dục Phổ thông, Giáo dục Thường xuyên và Giáo dục Chuyên nghiệp từ 2003-2004 đến nay.
13. Báo cáo Tổng kết các năm học: 2005-2006, 2006-2007- 2007- 2008, 2008-2009 của trường Tiểu học Trần Bình Trọng, Krông Pắk.
14. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ xã Hoà An lần thứ XII, Krông Pắc.
15. Nghị quyết Đại hội chi bộ trường Tiểu học Trần Bình Trọng, Krông Pắc nhiệm kỳ 2008-2010
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tran Thi Chien TH Tran Binh Trongkrongpak.doc