Vai trò của thành phần kinh tế Nhà nước là giữ các đài chỉ huy và các vị trí then chốt trong nền kinh tế, là nền tảng, là cơ sở và định hướng chăn nuôi chủ nghĩa cho toàn bộ nên kinh tế quốc dân. Điều đó đã được khẳng định và có định hướng trong đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam khoá VIII và khoá IX.
Vai trò đó được thể hiện như thế nào trong giai đoạn hiện nay, giai đoạn nền kinh tế mở, Đại hội Đảng đã thảo luận và đưa ra những biện pháp, những giải pháp để nâng cao hơn nữa vai trò của thành phần kinh tế Nhà nước với các thành phần kinh tế khác và vơí nền kinh tế quốc dân. Đặc biệt là tiến hành cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước.
33 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1627 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Những giải pháp nâng cao vai trò của thành phần kinh tế nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu
Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần không phải là một đặc điểm riêng có của nước ta, nó đã trở thành quy luật phổ biến của nền kinh tế thế giới. Tuy nhiên, mỗi nền kinh tế lại có một mục đích phát triển khác nhau, động cơ khác nhau, do đó phương hướng phát triển và bước đi có những điểm không giống nhau. Kinh nghiệm với những thành tựu và thất bại trong quá trình sử dụng nền kinh tế nhiều thành phần ở các nước phải được tiếp thu một cách có sáng tạo nhằm tìm ra những giải pháp phù hợp với thực tế Việt Nam và định hướng theo xã hội chủ nghĩa.
Mặt khác, Việt Nam cùng các nước trên thế giới đang bước vào thế kỷ 21. Thế kỷ mà tất cả các quốc gia trên thế giới đều phải cố gắng hết mình để hoà nhập cùng sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - kỹ thuật và công nghệ của nền văn minh mới. Đây là thời điểm quan trọng của nền kinh tế thế giới nói chung và nền kinh tế Việt Nam nói riêng. Nước ta chuẩn bị gia nhập tổ chức Thương mại thế giới WTO. Nền kinh tế Việt Nam phải nghĩ gì? làm gì? và chuẩn bị như thế nào để tham gia vào quá trình hội nhập không bị thua trên trường quốc tế và nếu không chuẩn bị một cách đầy đủ, thận trọng sẽ thua ngay tại sân nhà.
Tất cả những câu hỏi đó không ai, không thành phần kinh tế nào khác ngoài thành phần kinh tế Nhà nước có thể trả lời một cách chính xác và đầy đủ nhất bởi thành phần kinh tế Nhà nước ở nước ta có một thực lực hết sức to lớn, chiếm 3/4 tài sản quốc gia và đóng góp 40% GDP hàng năm. Nắm giữ các đài chỉ huy và các vị trí then chốt trong nền kinh tế đó là nền tảng, là cơ sở và định hướng xã hội chủ nghĩa cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Nhưng thành phần kinh tế này hoạt động có phần kém hiệu quả. Điều đó đang làm suy yếu tính định hướng, dẫn dắt, nêu gương của thành phần kinh tế Nhà nước đối với các thành phần kinh tế khác. Để giải quyết điều này và nâng cao vai trò của thành phần kinh tế Nhà nước cầu có những giải pháp cụ thể, sát thực và được thực hiện một cách nhanh chóng hơn.
Kết cấu bài gồm:
Phần I: Những lý luận chung về giải pháp nâng cao vai trò của thành phần kinh tế Nhà nước (TPKTNN).
Phần II: Thực trạng của TPKTNN hiện nay
Phần III: Những giải pháp nâng cao vai trò của TPKTNN.
Em xin chân thành cảm ơn Thầy Nguyễn Văn Ký giáo viên kinh tế chính trị đã hướng dẫn và giúp em hoàn thành bài tiểu luận này. Dù đã cố gắng hết sức, song đây là lần đầu tiên viết tiểu luận, kiến thức còn hạn hẹp, bài viết không tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót.
Em rất mong các thầy cô giáo cùng bạn đọc tham khảo và đóng góp ý kiến để em có thể thực hiện tốt hơn những bài viết tiếp theo.
Hà Nội, tháng 3 năm 2004.
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Thị Diệu Hương.
Phần I: Những lý luận chung về giải pháp nâng cao vai trò của thành phần kinh tế Nhà nước.
I- Thành phần kinh tế Nhà nước và bản chất của thành phần kinh tế Nhà nước.
1. Tính tất yếu khách quan của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ ở nước ta.
1.1. Cơ sở lý luận.
Sự tồn tại hay cơ cấu nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta bắt nguồn từ:
- Yêu cầu của qui luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Khi lực lượng sản xuất phát triển với tính chất và trình độ khác nhau, tất yếu sẽ tồn tại nhiều hình thức khác nhau về tư liệu sản xuất dẫn đến tồn tại nhiều quan hệ sản xuất khác nhau, và do đó tồn tại nhiều thành phần kinh tế.
- Khi tiến hành công cuộc xây dựng CNXH, chúng ta phải xây dựng quan hệ sản xuất mới XHCN, tức phải xây dựng và phát triển những thành phần kinh tế mới mang đặc trưng của quan hệ sản xuất mới. Đó là thành phần kinh tế Nhà nước và thành phần kinh tế tập thể.
Như vậy cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các thành phần cũ và mới hoạt động đan xen là một đặc điểm mang tính tất yếu.
1.2. Cơ sở thực tiễn.
- Thực tiễn lịch sử cho thầy, hầu như không một nước nào (kể cả đối với các nước kém phát triển, cũng như các nước phát triển) có một nền kinh tế thuần nhất, tức chỉ tồn tại duy nhất một kiểu quan hệ sản xuất.
Cho đến nay điều nhận định đó vẫn còn đúng. Ngay cả với chủ nghĩa tư bản (CNTB) hiện đại, bên cạnh thành phần kinh tế tư bản tư nhân" còn có các thành phần kinh tế khác như "kinh tế tư bản Nhà nước", "thành phần kinh tế cá thể".
- Thực tiễn phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta trong thời gian qua cũng cho thấy việc khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế, bên cạnh một số mặt tiêu cực thì nó đã đem lại nhiều lợi ích to lớn. Góp phần khai thác mọi tiềm năng của từng thành phần kinh tế cũng như sức mạnh tổng hợp của nó. Khai thác tiềm năng trong nước cũng như tận dụng sức mạnh kinh tế quốc tế để phát triển.
Tóm lại trong thời kỳ quá độ, nền kinh tế nước ta có cơ cấu nhiều thành phần là tất yếu. Vấn đề cơ bản, thành phần kinh tế đóng vai trò chỉ huy và vị trí then chốt trong nền kinh tế là nền tảng, cơ sở định hướng XHCN cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân là TPKTNN.
2. Thành phần kinh tế Nhà nước.
2.1. Thành phần kinh tế Nhà nước là gì?
TPKTNN là thành phần kinh tế dựa trên cơ sở quan trọng là sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất mà Nhà nước là đại diện.
- Trước đây thành phần kinh tế này gọi là " thành phần kinh tế quốc doanh".
- Chỉ có sở hữu Nhà nước với tư cách một lực lượng kinh tế, một chủ thể kinh tế trong nền kinh tế thị trường mới là sở hữu thuộc TPKTNN.
2.2. Các yếu tố cấu thành thành phần KTNN.
a. Yếu tố thứ nhất: Hệ thống các doanh nghiệp Nhà nước.
Đây là tổ chức kinh tế mà vốn ban đầu 100% là của Nhà nước. Các doanh nghiệp này hoạt động dưới sự kiểm soát và chi phối của Nhà nước. Nhà nước dựa vào sự chi phối các doanh nghiệp đểlấy đó làm căn cứ, công cụ can thiệp tích cực vào nền kinh tế, định hướng nền kinh tế phát triển cân đối và hiệu quả cao.
b. Yếu tố thứ hai: Hệ thống tài chính của Nhà nước.
ở nước ta Nhà nước đóng vai trò to lớn đảm bảo công bằng, nên tài chính Nhà nước trở thành lực lượng đáng kể. Từ ngân sách Nhà nước có thể hình thành các luồng đầu tư khác nhau, như đầu tư vào doanh nghiệp ngoài quốc doanh để thu lãi, trợ cấp xã hội, cho vay tín dụng v.v.. Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, khi vốn là một trong những nguồn lực sản xuất chủ yếu thì phần tài chính Nhà nước trở thành một lực lượng kinh tế lớn.
c. Yếu tố thứ ba: Hệ thống dự trữ, tài nguyên, đất đai, vùng biển thuộc sở hữu Nhà nước.
Do đặc thù xã hội mà ở nước ta toàn bộ đất đai, mặt biển và không phận đều thuộc sở hữu Nhà nước. Dù mục đích sử dụng chúng có khác nhau, nhưng không thể phủ nhận sở hữu đất đai, mặt biển, bầu trời... đã làm cho Nhà nước là chủ thể kinh tế mạnh. Không chỉ có khả năng tham gia vào các quá trình kinh tế mà còn có thể đóng vai trò điều tiết, định hướng và kiểm soát các quá trình đó.
d. Yếu tố thứ tư: Hệ thống dịch vụ Nhà nước.
Kể cả dịch vụ thu phí và dịch vụ không thu phí. Dịch vụ được xem xét với tư cách là hàng hoá vô hình, nhưng thoả mãn nhu cầu nào đó của con người, làm tăng chất lượng cuộc sống cũng như tăng GDP (dịch vụ ngân hàng, Nhà nước dịch vụ hải quan...) cho hoạt động (thị trường tiền, chứng khoán hay thị trường vốn...). Việc cung cấp dịch vụ làm tác động voà thị trường và thị trường lại tác động tới nền kinh tế. Điều đó làm tiềm lực kinh tế phát triển rất lớn.
Trong các yếu tố cấu thành TPKTNN, các yếu tố đều đóng vị trí khá quan trọng, góp phần lớn vào TPKTNN. Nhưng yếu tố quan trọng đặc biệt là hệ thống doanh nghiệp Nhà nước, là bộ phận quan trọng do Nhà nước đầu tư vốn. Tổ chức và quản lý các hoạt động sản xuất kinh doanh, là đơn vị có quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh.
3. Bản chất xã hội chủ nghĩa của TPKTNN.
- Đảng ta đã sử dụng cụm từ "Định hướng xã hội chủ nghĩa" với hàm ý nước ta đang ở giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ lên CNXH. Đặc trưng của thời kỳ này theo Lênin là thời kỳ mà nhiều thành phần cùng tồn tại.
- Vấn đề khác biệt mà lịch sử đã chỉ ra đối với TPKTNN là. Nếu như các thành phần khác với phương thức sản xuất khác thực hiện sự bóc lột đối với quảng đại quần chúng nhân dân, thì TPKTNN với phương thức sản xuất XHCN mà chúng ta hướng tới là giải phóng quảng đại quần chúng. Do đó TPKTNN đại diện cho lợi ích của nhân dân lao động, vì vậy TPKTNN buộc phải lựa chọn và tìm tòi bước đi để tiến tới trở thành nền tảng của chế độ mới.
- ẩn dấu đằng sau hình thái sở hữu Nhà nước, TPKTNN ở nước ta vẫn là chế độ sở hữu toàn dân, chế độ sở hữu XHCN.
- Mặt khác cũng cần phải lưu ý hai điểm sau đây:
Thứ nhất: TPKTNN được hiểu theo nội dung trên đây là giai đoạn thấp, khởi đầu của quan hệ sản xuất XHCN. Ngày nay với việc thừa nhận cơ chế thị trường, thừa nhận sự trao đổi sản phẩm thông qua giá trị như là hành vi phổ biến thì thiết chế Nhà nước cũng trở nên xa cách với người dân hơn, có tính độc lập tương đối. Chính vì thế tính sở hữu toàn dân thể hiện ở sở hữu Nhà nước được thể hiện một cách gián tiếp hơn qua một số khâu trung gian mang tính chính trị trực tiếp nhiều hơn tính kinh tế trực tiếp. Tính gián tiếp của sở hữu toàn dân đó có thể hiện giai đoạn thấp của quan hệ sản xuất XHCN.
Thứ hai: Do trong nền kinh tế thị trường nhiều thành phần, TPKTNN không chỉ đại diện cho lợi íchc ủa nhân dân lao động mà còn đại diện cho lợi ích của quốc gia, biểu hiện ở khả năng giải phóng sức sản xuất hiện có, sử dụng tốt nhất các nguồn lực và đem kết quả của việc sử dụng tốt các nguồn lực phục vụ cho các công dân nước mình.
Do lực lượng sản xuất của nước ta hiện nay đòi hỏi phải phát triển đa dạng các hình thức tổ chức sản xuất - kinh doanh phù hợp với trình độ phát triển khác nhau của lực lượng sản xuất, chỉ bằng cách đó chúng ta mới thoả mãn nhu cầu người dân ở mức tốt nhất. Cho nên Nhà nước ta không những phải tạo điều kiện cho thành phần kinh tế Nhà nước mà tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khác phát triển.
Quan điểm có tính nguyên tắc của chúng ta là tạo ra môi trường hoạt động bình đẳng cho mọi thành phần kinh tế nhằm khai thác hết nội lực và nhân tố hiệu quả của chúng ta, đồng thời cố gắng tìm tòi, thể hiện trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm cũng như khái quát lý luận để tìm ra những hìnhthức tổ chức sản xuất kinh doanh có hiệu quả.
II- Vai trò của thành phần kinh tế Nhà nước.
1. Vai trò chung của TPKDTNN.
Về mặt lý luận vai trò của thành phần kinh tế đại diện cho phương thức sản xuất mới đang dần thay thế phương thức sản xuất cũ đảm nhận. Trong nền kinh tế nhiều thành phần định hướng XHCN ở nước ta, vai trò chủ đạo đó tất yếu được đặt liền với thành phần kinh tế Nhà nước.
Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam đã khẳng định: "Tiếp tục đổi mới và phát triển có hiệu quả kinh tế Nhà nước để làm hết vai trò chủ đạo, làm đòn bẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và giải quyết những vấn đề xã hội, mở đường, hướng dẫn, hỗ trợ các thành phần kinh tế khác cùng phát triển, làm lực lượng vật chất để Nhà nước thực hiện chức năng điều tiết và quản lý vĩ mô, tạo nền tảng cho chế độ xã hội mới".
2. Vai trò của TPKTNN trong từng giai đoạn lịch sử.
2.1. Vai trò của TPKTNN trong lịch sử.
Bất cứ một Nhà nước nào cũng có vai trò kinh tế, song ở mỗi chế độ xã hội nhất định, vai trò kinh tế của Nhà nước có biểu hiện thích hợp với chế độ xã hội đó.
Các Nhà nước trước CNTB độc quyền Nhà nước, vai trò kinh tế chỉ dừng lại ở việc điều tiết bằng thuế và pháp luật là chủ yếu.
Đến CNTB độc quyền Nhà nước, Nhà nước tư bản ngoài việc can thiệp vào nền sản xuất xã hội thông qua thuế và pháp luật là chủ yếu, nó còn có vai trò kinh tế mới là tổ chức và quản lý các xí nghiệp thuộc khu vực kinh tế Nhà nước.
Chỉ đến Nhà nước XHCN - Nhà nước do dân, Nhà nước của dân, Nhà nước vì dân mới xuất hiện vai trò kinh tế đặc biệt vai trò kinh tế đó là: tổ chức và quản lý toàn bộ nền kinh tế quốc dân cả ở tầm kinh tế vĩ mô lẫn ởtầm kinh tế vi mô, trong đó quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước là chủ yếu. Sở dĩ Nhà nước XHCN có vai trò kinh tế nói trên là vi:
- Trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta, Nhà nước XHCN với tư cách là người đại diện cho lợi ích của nhân dân, của toàn xã hội có nhiệm vụ quản lý đất nước về hành chính - kinh tế - xã hội.
- Nhà nước XHCN là đại diện cho sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất, có nhiệm vụ quản lý các xí nghiệp thuộc khu vực kinh tế Nhà nước.
- Nền kinh tế hàng hoá vận động theo có chế thị trường, bên cạnh những mặt tích cực như thúc đẩy nền kinh tế… thì cũng còn có những mặt hạn chế như phân hoá giàu nghèo, bất công, thất nghiệp. Vai trò quản lý của Nhà nước sẽ góp phần vào việc chỉ huy, điều tiết, hạn chế những khuyết tật đó.
2.2. Vai trò của TPKTNN trong thời kỳ quá độ.
Theo Đại hội VII của Đảng Cộng sản Việt Nam cho ta thấy thông qua vai trò điều tiết, định hướng, điều tiết thành phần kinh tế Nhà nước góp phần chi phối và biến đổi các thành phần kinh tế khác trong quĩ đạo định hướng XHCN.
Trong nền kinh tế của nước ta, TPKTNN phát huy vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế vĩ mô.
Đặc biệt là cơ bản hoàn thành việc củng cố, sắp xếp điều chỉnh cơ cấu, đổi mới và nâng cao hiệu quả các doanh nghiệp Nhà nước hiện có. Tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách đối với doanh nghiệp Nhà nước để tạo động lực phát triển và nâng cao hiệu quả.
TPKTNN giữ c ác lĩnh vực quan trọng nên tính chủđạo xuất phát từ vị trí chiến lược và khả năng chi phối môi trường kinh tế - xã hội, chứ không phải là nơi có lợi nhuận cao nhất hay số lượng tỷ trọng trong tổng sản phẩm quốc nội.
a. Vai trò mở đường cho mọi thành phần kinh tế khác.
Tạo điều kiện cho các ngành công nghiệp nặng, lĩnh vực phục vụ lợi ích công cộng, những vùng sâu, vùng xa của đất nước. Nhưng đó lạ là những khu vực cần phát triển để tạo nền tảng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, khu vực có nhiều tiềm năng cần khai thác, khu vực cần quan tâm để đảm bảo công bằng xã hội. Các doanh nghiệp Nhà nước có thể làm được điều đó do có sự hậu thuẫn của Nhà nước về vốn, kỹ thuật, nhân lực… Sự mở đường này là hạt nhân tạo các điều kiện tiền đề để cho các loại hình doanh nghiệp khác ra đời và phát triển.
Vai trò chủ đạo của các doanh nghiệp còn được xem xét ở việc thực hiện tốt luật pháp kinh tế được ban hành. Hay được xem xét trong góc độ đóng góp vào ngân sách Nhà nước. Tỷ trọng tổng sản phẩm củadn Nhà nước GDP.
Trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế nó còn đóng vai trò vào việc tạo ra các hình thức mới trong sản xuất kinh doanh của cả nước.
b. Thành phần kinh tế Nhà nước tạo động lực cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác.
Do thành phần kinh tế Nhà nước nắm giữ các lĩnh vực then chốt quan trọng nên thúc đẩy, tạo đà, giúp đỡ các doanh nghiệp tư nhân cùng góp phần tăng trưởng kinh tế.
Các doanh nghiệp thuộc TPKTNN đóng vai trò ứng dụng và chuyển giao kỹ thuật hiện đại không thể ứng dụng rộng rãi ngay, hay không thể phát huy ngay tác dụng. Chỉ có TPKTNN mới có đủ cơ sở về vốn, kỹ thuật đột phá thử nghiệm mà không có hy vọng đem lại lợi nhuận.
Doanh nghiệp Nhà nước đi đầu trong việc thực hiện trách nhiệm xã hội đối với cộng đồng.
c. Tạo điều kiện phát triển các mối quan hệ hợp tác và giúp đỡ các doanh nghiệp khác.
Do đặc điểm nền kinh tế phần lớn các doanh nghiệp nước ta không đủ khả năng sản xuất một sản phẩm công nghiệp hoàn chỉnh với kỹ thuật cao. Hệ thống doanh nghiệp Nhà nước hiện đóng vai trò hạt nhân trong nền kinh tế, trong một nóhm sản phẩm nào đó. Qua đó tạo các mối liên kết dọc ngang trong nền kinh tế.
Trong điều kiện hội nhập khu vực và quốc tế tạo nên xu hướng xây dựng quanh mình hệ thống về tính sản xuất trong đó doanh nghiệp Nhà nước khong những đảm nhận các khâu đòi hỏi kỹ thuật cao mà còn có trách nhiệm hướng các doanh nghiệp thành viên từng bước nâng cao kinh tế công nghệ.
Doanh nghiệp Nhà nước tiến hành liên doanh với nước ngoài đóng vai trò cầu nối hình thành tư bản Nhà nước, điều đó rất cần thiết cho việc phát huy nội lực, lôi kéo ngoại lực.
d. Tạo điều kiện cho việc xây dựng chế độ mới.
Vai trò này của TPKTNN thể hiện trước hết ở sự hạn chế các khuyết tật của kinh tế thị trường. Chạy theo lợi nhuận tối đa bỏ qua các ảnh hưởng xấu tới cộng đồng, ô nhiễm môi trường, thường không cung cấp các sản phẩm công cộng.
Vai trò thứ hai của TPKTNN đặc biệt quan trọng đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng, từng bước xây dựng, hoàn hiện cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH.
Phần II: Thực trạng của thành phần
kinh tế Nhà nước hiện nay
I- Thực trạng chung của TPKTNN ở nước ta hiện nay.
TPKTNN ở nước ta có một thực lực hết sức to lớn, chiếm hơn 3/4 tài sản quốc gia và đóng góp trên 40% GDP hàng năm, nắm giữ các đài chỉ huy và các vị trí then chốt trong nền kinh tế, đó là nền tảng, là cơ sở và sức mạnh để định hướng XHCN toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Việc tư nhân hoá khu vực kinh tế Nhà nước không gì khác hơn là làm cho nền tảng và sức mạnh kinh tế của CNXH yếu đi, tạo sự thắng thế cho định hướng tư bản chủ nghĩa.
Nhưng khách quan mà nhìn nhận thì TPKTNN ở Việt Nam hiện nay đang hoạt động tương đối kém hiệu quả, và chính điều này đã làm suy yếu tính định hướng dẫn dắt, nêu gương của nó với các thành phần kinh tế khác.
Cần phải thấy rằng gốc rễ của sự kém hiệu quả đó không phải ở bản chất của sở hữu Nhà nước như những ai đó đang rao giảng "đã là KTNN là kém hiệu quả", mà chính là do chúng ta chưa có được cơ chế thực hiện quyền sở hữu đó có hiệu quả nhất. Sự mỏng manh, chưa vững chắc trong vai trò chủ đạo của TPKTNN hiện nay có những nguyên nhân thuộc về quá khứ.
Nó biểu hiện ở qui hoạch đầu tư, đào tạo, bố trí và tuyển dụng lao động, ở sự ỉ lại trông chờ sự ban phát từ bên trên, ở sự kém năng động và thiếu quyết đoán trong các quyết định quản lý do đó quá nhiều tầng nấc từ bên trên can thiệp.
Chính điều đó đang là những lực cản gây ra sự yếu kém, trì trệ ít hiệu quả của TPKTNN.
Cùng với dư âm của quá khứ, việc chuyển đổi cơ chế cũng làm bộc lộ hơn những khuyết tật mà chúng ta cần phải xử lý, đó là tình trạng vô chủ trên thực tế vẫn còn tồn tại mặc dù về mặt lý thuyết chúng tađã phân biệt rõ ràng các quyền năng sở hữu, sử dụng, định đoạt và hướng lợi.
Việc sử dụng lãng phí công sản Nhà nước, quản lý lỏng lẻo, vô trách nhiệm, phân phối tuỳ tiện, chiếm dụng vốn lẫn nhau, ỉ lại vào sự đầu tư của Nhà nước, đánh quả, chụp giật, móc ngoặc vẫn còn tồn tại.
Dự kiểm kê, kiểm soát của Nhà nước và tập thể người lao động chưa được triển khai đồng bộ và thật sự có hiệu quả.
Nhiều giám đốc sử dụng ngay đồng tiền của Nhà nước để vô hiệu hoá sự kiểm kê kiểm soát đó.
II- Thực trạng của các doanh nghiệp Nhà nước (DNNN).
Các doanh nghiệp Nhà nước hiện nay đang là một lực lượng hùng hậu so với các thành phần kinh tế ở nước ta. Chúng giữ vai trò chủ đạo trong sự phát triển nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên nó cũng không tránh khỏi nhiều vấn đề bất cập cần được giải quyết, tháo gỡ và cần phải được đổi mới trong thời gian tới.
1. Những thành tựu đáng ghi nhận.
- Về cơ chế quản lý có một số thay đổi có thể nói đã tạo bước ngoặt cho các DNNN nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói chung. Từ 1986, nền kinh tế nước ta chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Điều đó có nghĩa là các DNNN được tự chủ hơn trong kinh doanh, họ chủ động về sử dụng và bảo toàn vốn, về việc tổ chức bộ máy nhân sự. Và vì vậy mà các doanh nghiệp hoạt động có trách nhiệm và hiệu quả hơn.
- Việc giảm số lượng và đổi mới mô hình các DNNN. Từ năm 1990 đến nay qua ba đợt sắp xếp, số lượng các DNNN đã giảm đi rõ rệt. Từ chỗ Nhà nước có 12.300 DNNN nay đã giảm đi 55% còn 5.655 doanh nghiệp. Từ 250 liên hiệp xí nghiệp, các Tổng Công ty chuyển thành 78 Công ty 91 và 78 Tổng Công ty 90.
Các DNNN đã giảm rõ rệt về số lượng, điều đó làm cho các thành phần kinh tế khác sẽ tăng lên và thúc đẩy nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần phát triển.
Hiện nay các Tổng Công ty 90, 91 có hơn 1000 doanh nghiệp thành viên, chiếm 65% vốn Nhà nước, sử dụng được 61% lao động. Doanh nghiệp có vốn dưới 1 tỷ giảm 2,75%, doanh nghiệp có vốn trên 1 tỷ tăng 2,5 lần. Số vốn bình quân 1 DNNN tăng 7 lần. Chứng tỏ Nhà nước đã đầu tư theo chiều sâu để đạt chất lượng cao. Do vậy các DNNN đã góp phần vào GDP 39,5% và vào ngân sách Nhà nước 59,2%. Và đây được coi như một thành tựu đáng mừng của nền kinh tế.
2. Những tồn đọng và hạn chế.
2.1. Thứ nhất: Quy mô các DNNN.
Về qui mô các DNNN được coi là rất nhỏ so với khu vực 1/4 số doanh nghiệp có vốn lớn hơn 10 tỷ VNĐ. Bình quan có 22 tỷ /1 doanh nghiệp.
Nếu số vốn này ta qui đổi ra USD thì quả là rất nhỏ.
2.2. Thứ hai: Trình độ công nghệ.
Trình độ công nghệ của chúng ta đã lạc hậu từ 10 - 30 năm. Một câu hỏi lớn đặt ra là với trình độ công nghệ như thế thì đến bao giờ ta mới đuổi kịp các nước tiên tiến khác.
Trong đó các tài sản cố định (TSCĐ) đang chờ thanh lý chiếm 38% số TSCĐ đã qua sửa chữa một hay nhiều lần chiếm 52%. Chứng tỏ số máy móc vừa cũ kỹ, lạc hậu lại vừa kém phẩm chất. Đây là nỗ lo của nền kinh tế vốn đã gầy yếu, lại ăn không đủ chất liệu có trở thành cơ thể cường tráng hay không? Vậy cần phải đổi mới như thế nào?
Qua thống kê cho thấy, các doanh nghiệp thực sự có lãi chỉ chiếm 40%. Số doanh nghiệp khi lỗ, khi lãi chiếm 31%. Còn lại 29% là thực sự thua lỗ, con số này quả là không nhỏ và thực sự là những cái xác thối chưa được chôn. Nếu để tồn tại nó sẽ ảnh hưởng rất lớn đến tiến trình phát triển của các DNNN.
2.3. Thứ ba: Tình hình nợ đọng ở các DNNN.
- Tình hình nợ quá hạn và tình trạng chiếm dụng vốn lẫn nhau chiếm tỷ trọng rất lớn vàđang là vấn đề lớn hiện nay.
Tính đến 01/01/2000 có 277 ngàn tỷ đồng chưa được xử lý nợ, nó vẫn còn nằm tồn đọng ở các doanh nghiệp.
Chỉ tính riêng các ngân hàng thương mại quốc doanh đến ngày 31/12/2000 còn 136 ngàn tỷ đồng chưa được xử lý.
- Số nợ lớn như vậy điều tất nhiên những đứa con DNNN lại trở về với ông bố là ngân sách Nhà nước trả nợ giúp, và vì vậy bội chi ngân sách là tất yếu và khủng hoảng kinh tế là không xa vời… Vậy cần phải có những giải pháp gì để tình trạng nợ nần không còn nhức nhối?
3. Cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước.
3.1. Cổ phần hoá nhìn lại một chặng đường.
Cổ phần hoá DNNN là một giải pháp quan trọng trong quá trình tổng thể đổi mới và sắp xếp lại DNNN bắt đầu thực hiện từ năm 1991 đến nay đã qua 10 năm và trải qua 3 giai đoạn:
a. Giai đoạn thứ nhất: Thực hiện từ 1991 - 1994.
Đây la giai đoạn "kiểm kê" toàn bộ DNNN, phân tích và đánh giá tình hình hoạt động của các doanh nghiệp và thực hiện đăng ký lại các DNNN. Căn cứ pháp lý cho đợt này là Nghị định 388 HĐBT (nay là cp) và Quyết định 202/CT. Đây cũng là giai đoạn thực hiện thí điểm việc cổ phần hoá DNNN với DNNN được chuyển thành Công ty cổ phần:
Công ty đại lý liên hiệp vận chuyển (1993)
Công ty cơ điện lạnh (1993)
Xí nghiệp giày Hiệp An (1994).
b. Giai đoạn thứ hai: Thực hiện từ 1995 - 1997
Trong giai đoạn này chủ yếu thực hiện các quyết định số 90/TTg số 91/TTg, chỉ thị số 500/TTg, tiếp tục giai đoạn trước đó, sắp xếp tổng thể để hình thành hệ thống DNNN, bỏ dần chế độ Bộ chủ quản và các cấp hành chính chủ quản.
Quá trình cổ phần hoá trong giai đoạn này đã được mở rộng đánh dấu bằng Nghị định 28/CP ngày 7/5/1996. Tuy nhiên tiến độ cổ phần hoá còn chậm. Trong giai đoạn này chúng ta có 20 doanh nghiệp được cổ phần hoá.
c. Giai đoạn thứ ba: Thực hiện từ 1998 đến nay.
Giai đoạn này được đánh dấu bằng chỉ thị số 20/1998/CT-TTg ngày 21/04/1998 của Thủ tướng Chính phủ về đẩy mạnh sắp xếp và đổi mới DNNN nói chung và cổ phần hoá nói riêng được đẩy mạnh với qui mô lớn, thể hiện là Chính phủ ban hành Nghị định số 44/1998/NĐ-CP ngày 19/06/1998.
Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ, tính đến ngày 31/12/2000 đã có 558 doanh nghiệp được chuyển đổi hình thức sở hữu, trong đó có 532 doanh nghiệp thực hiện cổ phần hoá, 26 doanh nghiệp thực hiện các hình thức giao, bán, khoán kinh doanh và cho thuê. Riêng trong năm 2000 đã hoàn thành cổ phần hoá và chuyển đổi sở hữu 188 doanh nghiệp, đạt 27,2% so với mục tiêu cổ phần hoá và chuyển đổi sở hữu là 692 doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp được cổ phần hoá thuộc các Bộ, ngành, Tổng Công ty 91 chiếm 27%, thuộc các địa phương chiếm 73%. Trong tổng số các doanh nghiệp đã cổ phần hoá, lĩnh vực công nghiệp, xây dựng, giao thông chiếm 57%, lĩnh vực thương mại dịch vụ chiếm 38%, lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp và thuỷ sản chiếm 5%.
Kết quả hoạt động của các DNNN thực hiện CPH cho thấy, do thời gian hoạt động của phần lớn doanh nghiệp CPH còn ngắn. Khi chuyển sang Công ty cổ phần lại rơi vào thời điểm tăng trưởng nền kinh tế của nước ta bị sụt giảm nên kết quả của một số doanh nghiệp sau CPH chưa cao. Tuy nhiên nếu xem xét đánh giá 40 doanh nghiệp đã CPH từ 1998 trở về trước thì phần lớn các doanh nghiệp có số doanh thu, lợi nhuận, nộp ngân sách, thu nhập của người lao động, số lượng công nhân viên đều tăng so với trước khi thực hiện CPH.
Mặc dù, số lượng các DNNN được CPH trong những năm gần đây tăng lên nhanh chóng, nhưng so với mục tiêu đề ra và so với các DNNN không thuộc diện Nhà nước nắm giữ 100% vốn, thì tiến trình CPH vẫn còn quá chậm.
3.2. Nguyên nhân của việc CPH còn chậm.
Một là: Cơ chế chính sách CPH chậm được ban hành và thiếu đồng bộ, thiếu tính cụ thể, qui trình xác định giá trị doanh nghiệp quá phức tạp, còn nhiều mặt chưa phù hợp với cơ chế thị trường.
Hai là: Trước yêu cầu mới các doanh nghiệp còn nhiều lúng túng, bỡ ngỡ.
Ba là: Một số Bộ và địa phương chưa nhận thức rõ và đầy đủ về ý nghĩa chủ trương CPH. Do đó thiếu chủ động và chưa kiên quyết triển khai.
Bốn là: Công tác tuyên truyền giáo dục về CPH từ trong Đảng, trong bộ máy Nhà nước từ trung ương đến địa phương chưa được đẩy mạnh và chưa hiệu quả. Từ đó dẫn đến coi nhẹ và không nhìn nhận được hết vai trò của CPH.
Năm là: Môi trường kinh tế chưa thật sự bình đẳng, chưa tạo được một mặt bằng thống nhất về cơ chế chính sách, thành phần kinh tế cùng cạnh tranh phát triển, cơ chế tài chính cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, Công ty cổ phần chưa có.
Sáu là: Việc thực hiện công khai tài chính của các doanh nghiệp chưa được thường xuyên. Các thông tin tài chính về CPH chưa được sự hướng dẫn phổ biến ra ngoài mà chủ yếu là trong nội bộ doanh nghiệp và các cơ quan liên quan. Đây là trở ngại chính làm cho công tác CPH chưa được sự hưởng ứng, tham gia đông đảo của công chúng đầu tư bên ngoài doanh nghiệp CPH.
Mặt khác việc bán cổ phiếu do chính doanh nghiệp thực hiện nên còn thiếu tính minh bạch, khách quan.
Bảy là: Các chế độ chính sách ưu đãi, khuyến khích chưa thực sự là động lực thúc đẩy các doanh nghiệp tham gia CPH.
3.3. Cổ phần hoá DNNN kết quả và những vướng mắc.
Cổ phần hoá DNNN là huy động vốn trong và ngoài nước thay đổi phương thức quản lý, thay đổi trang thiết bị đầu tư mở rộng sản xuất, đồng thời tạo điều kiện để người lao động tham gia quản lý nhằm thúc đẩy các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả hơn.
a. Những kết quả bước đầu đáng ghi nhận.
- Hình thành một mô hình doanh nghiệp mới, gắn bó chặt chẽ quyền lợi và trách nhiệm.
Với việc thay đổi phương thức quản lý, chế độ bình bầu chọn giám đốc, hội đồng quản trị và những chức danh lãnh đạo của doanh nghiệp đã làm đội ngũ này có trách nhiệm hơn. Các nhà lãnh đạo hết sức năng động, xông xáo bám sát thị trường để làm sao cho doanh nghiệp của mình ngày càng phát triển.
Đội ngũ công nhân viên chức được sàng lọc, tinh gọn lại là các cổ đông của chính Công ty nên chất lượng cũng như ý thức làm chủ, tự giác tiết kiệm được nâng lên rõ rệt. Tại Công ty cổ phần Phú Gia (Hà Nội), sau cổ phần hoá hàng tháng tiết kiệm được hơn 50% tiền điện và 30% chi phí hành chính khác. Chuyển biến tích cực này cũng được diễn ra ở các doanh nghiệp cổ phần hoá khác.
- Hiệu quả kinh doanh được nâng cao, lợi ích Nhà nước, doanh nghiệp và cá nhân đều được đáp ứng.
Theo dõi hoạt động của các DNNN được cổ phần hoá, đều đã nhận thấy là hiệu quả sản xuất kinh doanh được nâng lên rõ rệt. Các chỉ tiêu vốn, lợi nhuận, nộp ngân sách việc làm, thu nhập bình quân đều tăng đáng kể. Tại DNNN đầu tiên được cổ phần hoá là đại lý liên hiệp vận chuyển thuộc Tổng Công ty hàng hải Việt Nam vào năm 1993, sau 7 năm hoạt động giá trị tài sản tăng từ 12 tỷ lên 140 tỷ đồng giải quyết việc làm cho 350 người lao động.
Nhờ kết quả sản xuất kinh doanh tốt, các doanh nghiệp được cổ phần hoá thực sự trở thành mô hình "ba trong một",vừa cứu vãn được nguy cơ đổ vỡ của doanh nghiệp, vừa tăng khoản nộp cho ngân sách Nhà nước, vừadb thu nhập cho người lao động.
Xét dưới góc độ lợi ích của Nhà nước, thì không chỉ có tăng nguồn thu do các doanh nghiệp trích nộp nhiều hơn màNhà nước không còn phải làm "bà đỡ", không tốn phí bao cấp ưu đãi tài chính và ngay cả khi bán cổ phần, Nhà nước vẫn thu được nguồn vốn đáng kể.
b. Những vướng mắc cần được khắc phục.
Khuôn khổ pháp lý cho cổ phần hoá còn nhiều bất cập. Các qui định về chế độ đối với các doanh nghiệp sau khi cổ phần hoá vẫn chưa rõ ràng. Các qui định được sửa đổi và bổ sung thường thì càng về sau càng có lợi, càng có nhiều ưu đãi. Chính vì vậy mặt tâm lý, các doanh nghiệp không muốn triển khai nhanh mà chờ đợi để được hưởng ưu đãi nhiều hơn.
Kết quả trong năm 2000, chỉ tiêu kế hoạch là cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước, nhưng chỉ thực hiện được 22%. Điều đó cho thấy tốc độ cổ phần hoá còn hết sức chậm chạp.
- Công tác chuẩn bị, công tác chỉ đạo cổ phần hoá tiến hành chậm chạp và không tích cực.
Nhiều doanh nghiệp cũng như nhiều cấp quản lý vẫn nghĩ cổ phần hoá mất đi nhiều quyền lợi. Việc tìm đối tác liên doanh liên kết ở các Công ty cổ phần cũng gặp nhiều khó khăn. DNNN vẫn được ưu đãi hơn về nhiều mặt như vay vốn không cần thế chấp. Tất cả những điều này tác động vào tâm lýcủa các doanh nghiệp chuẩn bị bước vào cổ phần hoá rất lớn.
Trong một thời gian dài việc tổ chức điều hành CPH được tiến hành một cách rời rạc, bị động. Ban đổi mới DNNN chưa hoạt động chuyên trách, đội ngũ quá mỏng chưa đủ trình độ và kinh nghiệm để giải quyết các vấn đề phức tạp.
Việc đánh giá tài sản của doanh nghiệp thường là khâu kéo dài nhất và còn có nhiều bất cập chưa có hướng giải quyết dứt điểm. Phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp tuy có qui định căn cứ vào tài sản thực tế tại thời điểm cổ phần hoá để tính theo giá thị trường.
Những vướng mắc đối với người lao động. Chưa nói đến những người bị giảm biên chế mà ngay với người lao động còn ở lại doanh nghiệp thì cũng có rất nhiều vấn đề băn khoăn về tâm lý.
Bên cạnh các quyền lợi trực tiếp như lương, thưởng thì các quyền lợi khác như phúc lợi, học hành.. có được như cũ hay không hoặc một vấn đề khác là cán bộ công nhân viên nhiều năm làm việc trong biên chế Nhà nước, có ngạch bậc và quyền lợi chính trị khác, khi chuyển sang cổ phần hoá các quyền lợi này sẽ ra sao.
Phần III: Những giải pháp nâng cao
vai trò của thành phần kinh tế Nhà nước
I- Những giải pháp nâng cao vai trò của TPKTNN.
Tăng cường sức mạnh là tính hiệu quả của TPKTNN bằng cả sự đầu tư, đổi mới và bằng cả chính sách vi mô. Phải coi đầu tư, tăng cường sức mạnh và tính hiệu quả của TPKTNN là mục tiêu ưu tiên số một. Đây là thực chất của cuộc đua tranh kinh tế nhằm dành thắng lợi cho định hướng XHCN giữa khu vực KTNN với các khu vực kinh tế khác ở nước ta trong thời kỳ quá độ. Sức mạnh của KTNN còn phải được thể hiện ở tính dẫn dắt và nêu gương, chúng ta có thể và cần phải sử dụng "Chế độ tham dự" để đảm bảo tính chủ đạo của KTNN.
Để nâng cao tính hiệu quả của các doanh nghiệp Nhà nước một công việc hết sức bức thiết là đào tạo và sử dụng cán bộ quản lý doanh nghiệp, hết sức coi trọng năng lực điều hành, ý thức trách nhiệm trước Nhà nước và tập thể lao động, có ý thức chính trị rõ ràng và đạo đức cộng sản trong sáng. Cần thay thế chế độ bổ nhiệm bằng chế độ tuyển dụng và đề cử của tập thể lao động. Định ra hệ thống tiêu chuẩn đánh giá giám đốc rõ ràng, gắn trách nhiệm với nghĩa vụ và quyền lợi, tăng cường hiệu lực của công tác kiểm kê, kiểm soát, thực hiện nghiêm chế độ kế toán kiểm toán.
Xác định cơ chế thực hiện quyền sở hữu của Nhà nước, làm rõ hơn các quyền năng sở hữu, sử dụng, định đoạt và hướng lợi, khắc phục tình trạng vô chủ hoặc biến tài sản do Nhà nước làm chủ sở hữu thành tài sản của bộ phận quản lý ở doanh nghiệp.
Đảm bảo quyền tài sản rõ ràng cho các doanh nghiệp mà thực chất là phân định rõ ràng quyền sở hữu của Nhà nước có tư cách pháp nhân tại doanh nghiệp, từ đó mà thẩm định rõ chức năng quản lý tài sản của Nhà nước với quản lý kinh doanh của các doanh nghiệp, tăng cường tính tự chịu trách nhiệm, tự quyết định, cạnh tranh bình đẳng với các thủ thể kinh tế sản xuất kinh doanh khác ngay trong khu vực kinh tế Nhà nước cũng như các thành phần kinh tế khác. Tiếp tục làm lành mạnh hoá tình trạng tài chính ở doanh nghiệp, loại bỏ dần tình trạng nợ nần dây dưa, chiếm dụng vốn lẫn nhau, lời giả, lỗ thật.
Đẩy nhanh quá trình sắp xếp lại và cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước dựa trên các tiêu chí: hiệu quả, đảm bảo xã hội, giữ định hướng, khả năng về vốn tái đầu tư của Nhà nước. Những doanh nghiệp có 100% vốn Nhà nước hoặc Nhà nước giữ vai trò chi phối phải trở thành doanh nghiệp chuẩn mực trong kinh doanh là những tấm gương về đảm bảo xã hội, từ đó mà phát huy gây ảnh hưởng tới tất cả các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác, bằng tính xã hội chủ nghĩa của mình nhằm chuyển hoá từng bước theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân, không làm cho quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước trở thành quá trình tư nhân hoá.
Đánh giá lại khả năng thực tế của các tổng công ty 90, 91 với những tổng Công ty hoạt động yếu kém, đặc biệt là các tổng Công ty 91 để có thể giải tán hoặc sát nhập không nên duy trì sự độc quyền ở mức không cần thết của các Tổng Công ty Nhà nước vì sự độc quyền đó đang làm phương hại đến sự lành mạnh hoá các quan hệ thị trường và làm giảm tính hiệu quả, tính năng động của nền kinh tế. Cùng với sự đánh giá, sắp xếp lại các Tổng Công ty, cần làm rõ chức năng và quyền hạn của hội đồng quản trị phải thực sự qui tụ được những thành viên có đủ năng lực và uy tín, am hiểu các hoạt động sản xuất kinh doanh của Tổng Công ty. Hội đồng quản trị tự có chức năng giám sát tài sản, quyết định hướng kinh doanh, phân phối, bổ nhiệm, bãi nhiệm Tổng giám đốc. Gắn chặt chế độ tiền lương, tiền thưởng của hội đồng quản trị và tổng giám đốc với hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Để làm tốt vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước, hệ thống tài chính, tín dụng, ngân hàng Nhà nước cần phải được làm lành mạnh hoá, khắc phục tính dễ tổn thương của nền kinh tế do sự yếu kém của hệ thống này mang lại. Hệ thống dự trữ quốc gia, các quĩ bảo hiểm, các quĩ dự phòng cũng cần được sử dụng có hiệu quả và tính toán phù hợp với tình hình để có thể dùng nó can thiệp kịp thời khi có bất trắc, đồng thời không gây nên những ứ đọng về tài sản và vốn không cần thiết.
Cần triệt để khắc phục tình trạng cân bằng trong phân phối thu nhập ở các doanh nghiệp Nhà nước, đảm bảo lợi ích của những người lao động, thông qua quan hệ lợi ích giữa người lao động và doanh nghiệp mà kích thích tính tích cực, chủ đọng, sáng tạo, tinh thần trách nhiệm đối với quá trình sản xuất kinh doanh của những người lao động. Cần phải lấy phân phối theo lao động làm nguyên tắc, tăng cường khuyến khích lợi ích vật chất bằng tiền thưởng, kết hợp hài hoà với chế độ phúc lợi. Để đảm bảo nguyên lý phân phối theo lao động cũng cần mở rộng khoảng cách giữa các bậc lương, qui định mức lương tối thiểu đủ để tái sản xuất sức lao động cho người lao động. Xác định rõ mối quan hệ trong phân phối giữa người lao động, giữa Nhà nước và doanh nghiệp, xác định rõ tiêu chí nộp thuế và các nghĩa vụ sau thuế đối với Nhà nước.
Nâng cao hơn nữa vai trò của những người lao động thực thi quyền lực của mình ở doanh nghiệp với tư cách là những người làm chủ đích thực của tài sản Nhà nước ở doanh nghiệp.
Tăng cường vai trò định hướng của thành phần kinh tế Nhà nước thông qua không chỉ sự dẫn dắt, nêu gương, ở tính hiệu quả kinh tế - xã hội, tạo lập môi trường thuận lợi cho các thành phần kinh tế khác cùng phát triển mà quan trọng hơn là sự xâm nhập làm chuyển biến, tăng tính xã hội chủ nghĩa ngay ở các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa thông qua việc hỗ trợ đầu tư, tham gia sở hữu một phần, hoặc biến họ thành những vệ tinh trong sản xuất kinh doanh, có quyền lợi gắn chặt với thành phần kinh tế Nhà nước.
II. Một số giải pháp cải cách các doanh nghiệp Nhà nước.
1. Khẳng định vai trò chủ đạo của nền kinh tế Nhà nước và vai trò nòng cốt của doanh nghiệp Nhà nước.
Vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế Nhà nước thể hiện:
Thành phần kinh tế Nhà nước là người nắm giữ phần tài sản quan trọng của nền kinh tế.
Thành phần kinh tế Nhà nước mang tính chất tiên phong, mở đường, dẫn dắt các thành phần kinh tế khác phát triển, thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
TPKTNN là lực lượng điều tiết những trục trặc của nền kinh tế thị trường bù đắp sự mất cân đối, các lỗ hổng do mặt trái của kinh tế thị trường gây nên.
Các doanh nghiệp trong KTNN phải gương mẫu thực hiện các chủ trương, chính sách của Nhà nước, chấp hành nghiêm pháp luật.
Muốn vậy phải có chính sách trọng điểm, thực tế không thể cùng một lúc giải quyết được hết thảy các vấn đề vướng mắc, đặc biệt là khó khăn về vốn, cả trước mắt cũng như lâu dài. Do đó phải tiến hành thêm một bước phân loại các DNNN theo nhóm để có chính sách phù hợp.
2. Tiếp tục đổi mới các cơ chế, chính sách quản lý của Nhà nước đối với DNNN.
2.1. Tăng cường đầu tư.
Tiến hành tăng cường đầu tư, hỗ trợ cho các DNNN về đổi mới và kiểm soát công nghệ. Đây chính là yếu tố quan trọng quyết định đến tính chất sống - còn củadn, Chính phủ cần tập trung giúp đỡ DNNN trong việc huy động vốn đầu tư, đổi mới công nghệ để tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp, đồng thời cũng cần đưa ra các yêu cầu kiểm tra, kiểm soát việc đổi mới trang thiết bị và công nghệ của DNNN. Cần chú ý tới việc xây dựng nhà máy, nhập công nghệ mới phải gắn với việc qui hoạch và xây dựng vùng nguyên liệu một cách đồng bộ. Cấm nhập các công nghệ lạc hậu để tránh việc biến nước ta thành bãi rác công nghiệp của các nước phát triển.
2.2. Đổi mới chế độ vay tín dụng.
Cần đối mới chế độ vay tín dụng hiện nay để DNNN có điều kiện tăng vốn đầu tư, giải quyết tình trạng thiếu vốn triền miên, phải vay vốn ngắn hạn của ngân hàng để đầu tư dài hạn cho DNNN như hiện nay. Về phía ngân hàng phải hạ lãi suất cho vay giúp các doanh nghiệp có điều kiện mở rộng sản xuất, tăng nhanh vòng quay của vốn. Nhà nước cần có cơ chế để nắm bắt được đầy đủ thực trạng sử dụng vốn tín dụng, việc bảo toàn vốn và cũng cần có cơ chế chính sách cụ thể tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tự huy động vốn trong và ngoài nước, đặc biệt là nguồn vốn còn nhàn rỗi trong dân cư. Đồng thời, cần chú trọng công tác kiểm toán nội bộ và kiểm toán Nhà nước tăng cường chế độ kiểm tra sử dụng vốn của Nhà nước thông qua các báo cáo tài chính của doanh nghiệp.
2.3. Nâng cao quyền tự chủ của doanh nghiệp.
Việc nâng cao quyền tự chủ của doanh nghiệp Nhà nước là cần thiết, nhưng với tư cách là đại diện chủ sở hữu thì việc ban hành đồng bộ các cơ chế và tổ chức giám sát của các cơ quan chức năng Nhà nước là cần thiết. Nhà nước cần có chính sách giải quyết đúng đắn vấn đề lao động hiện nay trong doanh nghiệp Nhà nước. Đây không chỉ là vấn đề riêng của doanh nghiệp mà còn là vấn đề chung của toàn xã hội. Trong thờigian tới, các doanh nghiệp Nhà nước cần chủ động hơn nữa thông qua các hình thức hợp tác, liên doanh, liên kết với nước ngoài, với các khu vực ngoài quốc doanh để có thể cung cấp một bộ phận lao động dôi dư có tay nghề cho các khu vực đó, nhất là khu vực kinh tế tư nhân đang được khuyến khích đầu tư sản xuất, thu hút nhiều lao động.
Tổ chức tốt công tác tư vấn cổ phần hoá kết hợp với việc đào tạo và tập hợp đội ngũ chuyên viên giỏi, đồng bộ, am hiểu sâu để giúp các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hoá, xây dựng phương án kinh doanh sau cổ phần hoá.
b. Nhanh chóng hoàn thiện khung pháp lý và các cơ chế chính sách liên quan đến cổ phần hoá.
Cần xem xét soạn thảo, sớm ban hành một văn bản có tính pháp lý cao về cổ phần hoá (pháp lệnh hay luật) để thể chế hoá chủ trương v với các quy định rõ ràng cụ thể về các vấn đề có liên quan.
Giải quyết thoả đáng đối với số lao động dư thừa trong quá trình cổ phần hoá, có thể lập quỹ đền bù từ các nguồn tài chính như tiền bán cổ phiếu, ngân sách Nhà nước hoặc các nguồn tài trợ khác.
Để đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá, cần tiếp tục nghiên cứu phân cấp thẩm quyền quyết định giá trị doanh nghiệp, phương án cổ phần hoá, giấy phép thành lập đăng ký kinh doanh.
Sớm tổng kết rút kinh nghiệm về hoạt động của thị trường chứng khoán để hoàn thiện cơ chế hoạt động của thị trường này như một công cụ thúc đẩy, khuyến khích quá trình cổ phần hoá.
c. Đẩy nhanh việc tuyên truyền cổ động cho cổ phần hoá.
Cổ phần hoá là một chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước, mục tiêu của việc tuyên truyền là làm cho các cấp, các ngành, từng doanh nghiệp và người lao động nhận thức sâu sắc về cổ phần hoá như là một xu thế tất yếu và sẽ đem lại lợi ích lâu dài cho cả Nhà nước, các doanh nghiệp cũng như người lao động.
Các hình thức có thể sử dụng như trên các phương tiện thông tin đại chúng, các hội thảo khoa học, đặc biệt là các bản báo cáo rút kinh nghiệm của các doanh nghiệp đã hoạt động có hiệu quả sau khi đã cổ phần hoá.
Việc thực hiện cổ phần hoá là một chủ trương lớn và đòi hỏi phải tiến hành trong một thời gian dài và có sự thống nhất trong chỉ đạo. Thế nhưng, để đảm bảo tiến trình cổ phần hoá là hết sức khó khăn, điều đó đòi hỏi nỗ lực hơn nữa của các cơ quan hữu quan cũng như từ phía các doanh nghiệp.
3. Giải pháp tài chính góp phần thúc đẩy hiệu quả tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước hiện nay.
Hiện nay ban đổi mới quản lý doanh nghiệp trung ương đã xây dựng được lịch trình đổi mới, sắp xếp doanh nghiệp Nhà nước trong đó vấn đề cổ phần hoá và chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp Nhà nước nói chung được đặt ở vị trí trung tâm.
Trong ba năm 2001-2003 dự kiến sẽ cổ phần hoá, đa dạng hoá sở hữu khoảng 1.500 doanh nghiệp Nhà nước , chiếm trên 65% trong tổng số gần 2.290 doanh nghiệp Nhà nước thuộc diện sắp xếp của thời kỳ này.
Ba năm tiếp theo 2004-2006 dự kiến sẽ cổ phần hoá, giao bán, khoán, cho thuê hơn 910 doanh nghiệp Nhà nước. Cùng với các hình thức khác trong khoảng 6 năm từ 2001 đến 2006, sẽ sắp xếp khoảng 3.300 doanh nghiệp Nhà nước.
Tuy nhiên, nguy cơ chậm trễ trong việc tiến hành cổ phần hoá vẫn còn tiềm tàngdo những vướng mắc về mặt tài chinh, vì vậy việc hoàn thiện các giải pháp tài chính được đặt ra như một yêu cầu bức thiết nhằm góp phàan thúc đẩy quá trình cổ phần hoá. Ngoài việc thực hiện các giải pháp đồng bộ như phân loại doanh nghiệp Nhà nước, hoàn hiện các chính sách cổ phần hoá theo hướng phù hợp với luật doanh nghiệp, cần giải quyết các vấn đề công nợ, lành mạnh hoá tài chính doanh nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp sau khi chuyển sang công ty cổ phần.
3.1. Công khai hoá trong tài chính.
Công khai thông tin tài chính tức là thông báo cho các nhà đầu tư những thông tin quan trọng về tình hình tài chính để các nhà đầu tư quan tâm xem xét đánh giágiá trị công ty và đưa ra các quyết định để đầu tư . Việc công khai thông tin về công ty bảo đảm tính công bằng trong mua bán, từ đó bảo vệ nhà đầu tư và hình thành nên giá cổ phiếu. Về mặt tài chính, công khai thông tin bao gồm thông tin về cơ cấu vốn, cơ cấu tài sản, hiệu quả kinh doanh, kết quả thu nhập và phân phối thu nhập, dự đoán xu hướng vận động của các chỉ tiêu tài chính quan trọng trong tương lai. Để thực hiện điều này cần phải.
- Ra quyết định bắt buộc về công khai tài chính, bao gồm nội dung công khai, hình thức công khai, thời gian công khai, số liệu công khai phải được cơ quan kiểm toán xác nhận.
- Thành lập tạp chí chuyên ngành về cổ phần hoá trực thuộc Bộ Tài chính - Tạp chí là nơi phản ánh đầy đủ nhất về hoạt động của các doanh nghiệp trong việc chuẩn bị cho quá trình cổ phần hoá cũng như những thông tin chi tiết về tình hình tài chính của doanh nghiệp. Đây cũng là diễn đàn để trao đổi kinh nghiệm và quảng bá kiến thức cổ phần hoá tới mọi tầng lớn dân cư trong xã hội.
3.2. Cơ cấu lại nợ và thị trường hoá các khoản nợ.
- Về cơ cấu lại nợ trong doanh nghiệp.
Một khi công nợ của doanh nghiệp chưa được giải quyết và buộc các công ty cổ phần hoá gánh chịu thì không thể triển khai cổ phần hoá được cho nên cần phải phân loại nợ và việc xử lý tiếp theo phải căn cứ vào nguyên nhân các khoản nợ phát sinh. Nếu nợ do nguyên nhân chủ quan của doanh nghiệp và nếu xác định được người phải bồi thường vật chất thì phải quyết định rõ ràng mức bồi thường. Nếu không quy được trách nhiệm cá nhân thì hội đồng quản trị hoặc giám đốc doanh nghiệp tự quyết định xử lý các khoản nợ. Đối với các khoản vay ngân hàng thương mại quốc doanh thì dùng tiền thu được do chuyển đổi sở hữu để trả nợ. Trong trường hợp thiếu thì quỹ hỗ trợ và cổ phần hoá hoá doanh nghiệp nên giúp đỡ. Trong trường hợp công nợ tồn đọng mà doanh nghiệp cổ phần hoá chưa giải quyết hết thì có thể giao lại cho công ty cổ phần tiếp tục xử lý với điều kiện công ty cổ phần được hưởng một tỷ lệ chiết khấu thích hợp.
- Về việc tiến hành thị trường hoá các khoản nợ.
ở Việt Nam tình trạng công ty nợ "lòng vòng" vào khoảng trên dưới chục nghìn tỷ đồng vẫn chưa giải quyết xong là vì công cụ thương phiếu và hoạt động chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu chưa phát triển. Vì vậy phải tiến hành pháp chế hoá chi tiết và hướng dẫn cho các doanh nghiệp sử dụng công cụ thương phiếu để giúp họ thoát khỏi tình trạng khó khăn về tài chính và lành mạnh về tài chính khi công ty cồ phần đi vào hoạt động. Việc thành lập công ty mua bán nợ là một giải pháp quan trọng để giải quyết triệt để các khoản công nợ. Công ty mua bán nợ đứng ra làm trung gian mua lại những khoản nợ phải trả còn dây dưa của các doanh nghiệp rồi tự tìm cách thu xếp thanh toán với các con nợ (là doanh nghiệp có nợ phải trả).
3.3. Công tác định giá doanh nghiệp.
Cần phải xây dựng nhiều phương pháp định giá doanh nghiệp làm cho công tác định giá linh hoạt hơn và khách quan hơn. Thật vậy việc định giá chỉ theo một phương pháp mặc dù tạo nên sự thống nhất nhưng ít mang lại các cơ hội lựa chọn phù hợp với đặc điểm riêng của mỗi doanh nghiệp. Khi định giá các doanh nghiệp sẽ lấy một phương pháp chuẩn đồng thời sử dụng thêm một số phương pháp khác để kiểm tra xem xét việc định giá đã hợp lý chưa, mức độ chênh lệch là bao nhiêu. Thậm chí nên tiến mạnh hơn tới phương pháp đấu thầu vì phần lớn các doanh nghiệp cổ phần hoá hiện nay không đủ tiêu chuẩn để niêm yết trên thị trường chứng khoán, trong khi đó chương trình cổ phần hoá thời gian tới sẽ được tiến hành rộng rãi với sự tham gia của nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ. Cơ chế định giá phức tạp như hiện nay sẽ gây tốn kém chi phí và mất nhiều thời gian. Vì vậy việc áp dụng phương pháp đấu thầu để định giá doanh nghiệp sẽ góp phần thúc đẩu quá trình cổ phần hoá do cơ chế định giá đơn giản hơn.
3.4. Nới rộng biên độ mua cổ phiếu.
Trong thời gian tới cần phải nới rộng mức khống chế tỷ lệ cổ phần bán cho nhà đầu tư, tiến tới bỏ quy định khống chế tỷ lệ mua cổ phần trong doanh nghiệp cổ phần hoá đối với cán bộ lãnh đạo doanh nghiệp, các cá nhân, pháp nhân ngoài doanh nghiệp, các nhà đầu tư nước ngoài. Việc bỏ quy định hạn chế mức mua cổ phần lần đầu và mức mua cổ phần ưu đãi của cán bộ quản lý doanh nghiệp, tạo điều kiện cho quá trình cổ phần hoá, đồng thời tăng thêm niềm tin cho các cổ đông trong và ngoài doanh nghiệp. Việc loại bỏ mức khống chế mua cổ phần sẽ thu hút được nhiều cổ đông có tiềm lực tài chính và kinh nghiệm quản lý để tạo đà tiến cho doanh nghiệp với hiệu quả cao, quy mô phát triển nhanh.
3.5. Tăng khả năng huy động vốn cho các công ty cổ phần.
Việc phát triển doanh nghiệp luôn gắn với nhu cầu tăng vốn, sự thành công về lâu dài của doanh nghiệp cổ phần hoá phụ thuộc vào tính sẵn có của nguồn vốn đầu tư. Nhà nước cần xác định cơ chế chính sách thuận lợi cho công ty cổ phần, tăng khả năng tạo nguồn tài chính. Bên cạnh đó, Nhà nước cần hỗ trợ các doanh nghiệp sau cổ phần hoá thông qua các lớp đào tạo, các tài liệu chuyên môn để nâng cao khả năng điều hành doanh nghiệp, đặc biệt là trong lĩnh vực quản trị tài chính doanh nghiệp, trong nghiệp vụ phát hành cổ phiếu, trái phiếu, vay vốn ngân hàng.
Việc triển khai cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước trong thời gian qua tuy có những kết quả khả quan nhưng vẫn tồn tại những bất cập đòi hỏi phải có những giải pháp tổng thể để xử lý, đặc biệt là các giải pháp tài chính. Chính vì vậy, các cơ quan hữu quan phối hợp một cách nhịp nhàng hơn nữa để góp phần đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước trong các giai đoạn tiếp theo.
Lời kết
Vai trò của thành phần kinh tế Nhà nước là giữ các đài chỉ huy và các vị trí then chốt trong nền kinh tế, là nền tảng, là cơ sở và định hướng chăn nuôi chủ nghĩa cho toàn bộ nên kinh tế quốc dân. Điều đó đã được khẳng định và có định hướng trong đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam khoá VIII và khoá IX.
Vai trò đó được thể hiện như thế nào trong giai đoạn hiện nay, giai đoạn nền kinh tế mở, Đại hội Đảng đã thảo luận và đưa ra những biện pháp, những giải pháp để nâng cao hơn nữa vai trò của thành phần kinh tế Nhà nước với các thành phần kinh tế khác và vơí nền kinh tế quốc dân. Đặc biệt là tiến hành cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước.
Trong bài tiểu luận này em chỉ xin đề cập đến một vài khía cạnh và một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò của thành phần kinh tế Nhà nước trong tiến trình hội nhập quốc tế.
Do thời gian và trình độ nghiên cứu còn nhiều hạn chế, bài tiểu luận của em không tránh khỏi những thiếu sót. Em mong các thầy cô giáo trong bộ môn xem xét và đóng góp ý kiến đề bài tiểu luận của em hoàn chỉnh hơn.
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của thầy giáo bộ môn đã hướng dẫn em hoàn thành bài tiểu luận này.
Hà Nội, tháng 3 năm 2004
Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình Kinh tế chính trị giai đoạn 1, 2
2. Giáo trình Kinh tế chính trị Mác - Lênin - NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 1999.
3. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong điều kiện hội nhập khu vực và thế giới - NXB Chính trị quốc gia Hà Nội, 1999
4. Văn kiện Đại hội Đảng khoá VIII, IX
5. Tạp chí Nghiên cứu kinh tế
6. Thời báo Kinh tế Việt Nam
7. Tạp chí Khoa học sinh viên
Mục lục
Trang
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35537.doc