Với nền kinh tế ngày một hội nhập hơn và yêu cầu phải điều chỉnh cơ cấu xuất nhập khẩu hàng hoá - dịch vụ có độ co dãn lớn hơn trong tương lai (hàng hoá có chi phí và chất xám ngày càng cao). Việt Nam cần phải có một chính sách tỷ giá được xử lý linh hoạt hơn. Kinh nghiệm của các nước đã vấp phải các cú sốc và các cuộc khủng hoảng chỉ ra: một chính sách tỷ giá được xử lý linh hoạt sẽ có khả năng giám sốc cho nền kinh tế tốt hơn là một chính sách tỷ giá điều hành một cách cứng nhắc.
Điều cuối cùng là khi lựa chọn sách lược cho chính sách tỷ giá, chúng ta cần phải lượng hoá được những tác động của nó trong cả ngắn hạn và dài hạn. Có như vậy, chúng ta mới đánh giá được sát thực hiệu quả của một chính sách tỷ giá hối đoái.
37 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1453 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Những giải pháp nhằm hỗ trợ cho chính sách tỷ giá hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thế sự độc lập về tiền có vẻ là bề ngoài hơn là thật sự, ít ra là đối với các nước đang phát triển có hệ thống tài chính qui mô nhỏ, đương đầu với sự hỗn loạn thị trường bất ngờ, các nền kinh tế mới nổi phụ thuộc vào đồng vốn nước ngoài phải nâng lãi suất cao ngất trời để giữ cho đồng tiền nước mình không sụp đổ. Vấn đề lớn nhất đối với đồng tiền thả nổi chính là những rủi ro do sự mất ổn định. Đối với các nền kinh tế mới nổi, các thị trường tài chính nhỏ bé đồng nghĩa với sự không ổn định tỷ giá hối đoái là một vấn đề về cấu trúc chứ không phải là một vấn đề tạm thời. Nếu một quĩ tương hỗ nào đó bất ngờ quyết định một cuộc đầu tư quan trọng thì tỷ giá hối đoái cuả quốc gia sẽ tăng nhanh. Khởi đầu cho một thời kỳ tăng vọt không bền vững trong ngành bất động sản và ngân hàng, để lại những hậu quả to lớn đối với các nhà xuất khẩu.
... Hay cố định tỷ giá? Các nhà kinh tế ủng hộ tỷ giá hối đoái thả nổi cũng nhận ra những rủi ro do sự mất ổn định này gây ra. Họ cũng đã đề nghị các nền kinh tế mới nếu không nên khuyến khích dòng chảy vào của đồng vốn ngắn hạn để hạn chế đến mức tối thiểu sự mất ổn định tỷ giá hối đoái. ít nhất là đối với các nước có nền tài chính còn nhỏ bé, tỷ giá hối đoái thả nổi chỉ khả thi về lâu về dài một khi tốc độ hội nhập thị trường vốn được chậm lại.
Một số nhà kinh tế khác lập luận rằng tỷ giá hối đoái thả nổi không đem lại hiệu quả cho các nền kinh tế nhỏ mới nổi. Họ cho rằng tỷ giá hối đoái đựơc ràng buộc chặt chẽ sẽ có hiệu quả hơn và đề nghị các nền kinh tế nhỏ mới nổi lên tìm kiếm sự an toàn tài chính và sự ổn định tiền tệ về "qui mô" và về "tính đa dạng". Khi đề cập đến "tính đa dạng" họ muốn đề cập đến một mức độ sở hữu nước ngoài thích hợp trong khu vực tài chính, còn "qui mô" ở đây là muốn nói đến việc liên kết với các đồng tiền trong khu vực. Họ cho rằng các nước mới nổi nên nối kết đồng tiền của mình với đồng tiền hàng đầu của khu vực, chẳng hạn như đồng đôla với các quốc gia ở Châu Mỹ. Điều này có thể thực hiện bằng nhiều cách khác nhau, gắn chặt đồng tiền với đồng đôla trong một biên độ hẹp là một lựa chọn khá hợp lý. HồngKông và Argentina (hai quốc gia áp dụng chế độ này) đã chứng tỏ được rằng họ có thể chịu đựng được những dao động lớn trong niềm tin của các nhà đầu tư. Sở dĩ như thế là vì việc gắn chặt đồng tiền với đồng đôla đòi hỏi ngành ngân hàng phải thận trọng hơn và khuyến khích sở hữu nước ngoài trong khu vực tài chính. Một bước đi mạnh mẽ hơn là sử dụng đồng tiên chung. Các quốc gia riêng lẻ có thể góp đồng tiền của mình để tạo thành đồng tiền chung mới (như các nước châu âu đã làm).
Như vậy rõ ràng ở đây đã phải có sự lựa chọn: lựa chọn giữa hội nhập và quyền tự chủ quốc gia. Những quốc gia tham gia vào liên minh khu vực sẽ phải từ bỏ quên tự chủ của mình để đổi lấy hội nhập. Ngược lại, những quốc gia thả nổi tỷ giá hối đoái sẽ giữ vững quyền tự chủ nhưng thường phải đánh đổi lại bằng sự hạn chế trong hội nhập toàn cầu.
III.sẽ có một cơ chế tỉ giá chung?
Như vậy, thả nổi tỷ giá cho phép quốc gia theo đổi chính sách tiền tệ và một số chính sách kinh tế vĩ mô khác đã được xác định trước vì họ không phải dùng nó để bảo vệ tỷ giá hối đoái. Tuy nhiên thị trường có thể đẩy đồng tiền thấp dưới xa giá trị thực sự của nó dẫn đến đổi lạm phát về chi phí lớn cho dịch vụ nợ hoặc ở mức quá cao, gây tổn thất cho khả năng quốc gia và gây thâm hụt lớn cho cán cân thương mại. Cố định tỷ giá hối đoái có thể tránh được những vấn đề này nếu các nhà chức trách có thể thiết lập thành công tỷ giá ở mức bền vững và làm cho thị trường tin ở khả năng là họ sẽ giữ được cho nó ở mức đó. Hơn nữa cố định tỷ giá hối đoái có thể làm giảm các chi phí giao dịch trong thương mại quốc tế và đầu tư. Ngoài ra, tỷ giá hối đoái cố định có thể cung cấp một mỏ neo hữu dụng cho việc ổn định giá cả bởi việc nối một quốc gia nhỏp với nền kinh tế thế giới (đặc biệt là với một quốc gia lớn và giá cả tương đối ổn định như Mỹ và Đức).
Tuy nhiên, nếu chính phủ không có khả năng giữ tỷ giá hối đoái ở mức bền vững thì các luồng vốn tư nhân có thể đổ vào như rút ra rất nhanh gây ra áp lực phá giá lớn. Một cuộc bảo vệ thành công tỷ giá hối đoái có thể phải trả giá rất đắt, đòi hỏi quốc gia phải nâng cao lãi suất và như vậy làm chậm lại tốc độ tăng trưởng kinh tế. Trong nền kinh tế thế giới hiện đại với những luồng vốn tư nhân khổng lồ, các nhà kinh tế ngày càng đi đến quan điểm thống nhất là các quốc gia chỉ có thể được hưởng lợi từ chế độ tỷ giá cố định bằng hai cách: Kiểm soát hối đoái ngặt nghèo để trực tiếp giới hạn tác hại của đầu tư tư nhân, hoặc đưa ra những cam kết đáng tin cậy để làm thị trường tin rằng nó vẫn sẽ đứng vững dù có các cuộc tiến công đầu cơ dai dẳng và mạnh mẽ.
Cho đến nay, những gì đã xảy ra với nền kinh tế các nước cho thấy rằng hệ thống tài chính quốc tế lại đang nằm trong môi trường của một thế giới với cơ chế tỷ giá thả nổi lai có quá nhiều biến động và một cơ chế tỷ giá ấn định lại quá dễ dàng bị tổn thương bởi sức ép đầu cơ.
Trong điều kiện phát triển một nền kinh tế mở cửa, thì chính sách tỷ giá tiền tệ luôn là một trong những vấn đề trung tâm và nhạy cảm của đời sống kinh tế xã hội. Chính sách điều tiết tỷ giá theo kiểu chết cứng, ổn định hay thả nổi hoàn toàn đều có tác động tích cực và tiêu cực. (Trong đó tiêu cực nhiều hơn đến mục tiêu mà nó muốn hướng tới nói riêng và đến sự ổn định của nền kinh tế nói chung. Điều quan trọng là phải đặt chính sách tỷ giá trong sự thống nhất đồng bộ với các chính sách và định hướng phát triển chung của nền kinh tế, cũng như cần được điều chỉnh linh hoạt, kịp thời theo những biến động thị trường dựa vào các quan hệ cung cầu ở trong và ngoài nước sao cho các cân bằng vĩ mô (xuất - nhập khẩu, tỷ giá - lãi suất - thuế quan; tỷ giá - giá cả nội địa...) luôn được hài hoà và duy trì theo hướng tích cực. Có lẽ đã đến lúc cái chung chính sách tỷ giá bản tệ của một nước được "séo cố định vào đồng tiền của một nứoc khác dù là mạnh nhất, vì nó biến chính phủ của nước đó thành tù binh của chính mình, cũng tựa như khi áp dụng chính sách thả nổi hoàn toàn tỷ giá - tức là áp dụng công cụ của một nền kinh tế thị trường phát triển hoàn hảo, vào một nền kinh tế chưa thực sự hoàn thiện.
Vậy đâu là một giải pháp "an toàn nhưng hiệu quả" cho Việt Nam, điều này phải xuất phát từ chính thực tiễn và định hướng phát triển của nền kinh tế. Cho dù còn tồn tại nhiều ý kiến khác nhau, sự bất đồng trong quan điểm trong chính sách tỷ giá hối đoái thì chúng ta cũng không thể phủ nhận một điều rằng: Tỷ giá hối đoái là một công cụ quan trọng - thậm chí là một vũ khí lơi hai trong thương mại và vận hành nền kinh tế. Trên thế giới chúng ta đã được thấy vai trò của tỷ giá trong cuộc chiến tranh thương mại hết sức khốc liệt giữa Mỹ - Nhật - Tây Âu. Vẫn biết tỷ giá hối đoái là một vấn đề nhạy cảm. Nhưng cụ thể ra thì sự nhạy cảm đó được biểu hiện khi nào. Câu trả lời ở đây là: Không phải lúc nào chúng ta cũng có được tất cả những điều kiện thuận lợi cho việc thực thi một chính sách tỷ giá mà ngày hôm nay được coi là hoàn toàn hợp lý. Một sự lên giá đồng tiền đột phá trong quan hệ thương mại, hay một sự mất giá đồng loạt của những đồng tiền trong khu vực, hay những xáo trộn trong bản thân nền kinh tế của mỗi nước... đều đỏi hỏi phải có được những phản ứng tích cực trong chính sách về tỷ giá. ở Việt Nam, từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường mở cửa hội nhập với nền kinh tế thế giới, tỷ giá luôn là một vấn đề nóng bỏng và được nhiều người quan tâm. Chính sách tỷ giá đã được nhà nước ta sử dụng như một công cụ quản lý kinh tế vĩ mô. Trong thực tế cho thấy tại những thời điểm khác nhau, nếu không có quyết sách về tỷ giá kịp thời, phù hợp sẽ gây ảnh hưởng tiêu cực, kìm hãm quá trình đầu tư trong nước, làm thâm hụt cán cân thương mại và khó có thể thực hiện thành công những mục tiêu và nhiệm vụ cuả sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá thành công những mục tiêu và nhiệm vụ của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Và khi đã đặt mình vào hoàn cảnh "Sự đã rồi" thì mọi giải pháp đưa ra chỉ còn mang tính chất tình thế hay buông trôi để rồi hứng chịu tất cả. Trong phạm vi bài viết này, chúng em xin được đề cập đến một khía cạnh của vấn đề: Phá giá đồng nội tệ, cái được hay cái mất.
Chương III. ảnh hưởng phá giá nội tệ và kinh nghiệm của một số quốc gia
I. Nguyên nhân dẫn đến phá giá đồng tiền.
Đó là khi một đồng tiền được đánh giá quá cao hay quá thấp so với đồng tiền khác. Nếu đồng nội tệ được định giá quá cao làm cho nhập khẩu trở lên rẻ hơn giả tạo đối với người tiêu dùng và xuất khẩu trở nên đắt hơn đối với người sản xuất, từ đó làm giảm sản xuất nội địa, tăng thâm hụt ngân sách và tăng thất nghiệp. Đặc biệt, nếu việc định giá quá cao cố định và kéo dài sẽ là nguyên nhân quan trọng gây ra cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ do làm giảm sức cạnh tranh xuất khẩu, làm tăng mạnh dòng vốn vay bất chấp khả năng rủi ro thanh toán, kích thích nhập khẩu và tiêu dùng quá mức, nền kinh tế phát triển quá nóng và thiếu một loạt hệ quả tiêu cực làm theo.
Ngược lại, nếu nội tệ được định giá quá thấp sẽ làm tăng lạm phát, tăng chi phí dịch vụ nợ, tăng giá hàng nhập khẩu, làm tăng nguy cơ phá sản của các doanh nghiệp, tăng nạn thấp nghiệp, kéo theo sự mất ổn định lan truyền toàn bộ đời sống kinh tế - xã hội.
Việc nhấn mạnh một chiều các lợi ích do giá trị nội tệ quá cao hoặc quá thấp đem lại là chỉ tính đến những lợi ích ngắn hạn và chứa đựng trong nó tất cả những hiểm hoạ bùng nổ trong tương lai, khiến toàn bộ nền kinh tế phải trả giá đắt hơn những lợi ích thu được. Khi tỷ giá giữ ở mức hợp lý sẽ tạo ra quan hệ bình đẳng trong cạnh tranh, phân phối và thu nhập, sẽ khuyến khích phát triển sản xuất ... do vậy, trên thực tế chính phủ các nước đã phải thực hiện điều chỉnh tỷ giá danh nghĩa cho phù hợp tỷ giá hối đoái thực tế. Có nhiều phương pháp điều chỉnh tỷ giá, trong đó phá giá tiền tệ là một phương pháp điều chỉnh tỷ giá hối đoái danh nghĩa (theo hướng làm giảm giá nội tệ so với đồng ngoại tệ, đã tạo được khẳng định về mặt lý thuyết và đã được hầu hết các nước trên thế giới áp dụng. Tuy nhiên quyết định phá giá tiền tệ phải được cân nhắc thận trọng có tính đến tác động tích cực và tác động tích cực của nó để có những đối sách thích hợp.
II. Những tác động tích cực của việc phá giá đồng bản tệ.
Trước hết, phá giá sẽ giảm giá tương đối hàng xuất khẩu, do đó về lâu dài sẽ thúc đẩy xuất khẩu, giảm nhập khẩu, cải thiện cán cân thương mại từ đó tăng khối lượng dự trữ ngoại tệ của quốc gia. Phá giá sẽ làm tăng giá đồng USD, do vậy hạn chế việc đầu đồng USD, góp phần ổn định thị trường tiền tệ. Vào những năm 70 - 80, cứ chu kỳ 3 - 5 năm vào thời điểm biến động kinh tế thế giới (tăng, giảm giá dầu quốc tế, tăng lãi suất quốc tế) một số nước đang phát triển đã tiến hành phá giá từng đợt. Tuy nhiên kết quả của những đợt phá giá này rất khác nhau. Một số quốc gia khá thành công trong việc thực hiện phá giá chẳng hạn như: Năm 1979, trong tình trạng thâm hụt thương mại, chính phủ Braxin đã tăng tỷ giá hối đoái lên 30% và cán cân thương mại bắt đầu có thặng dư trong năm 1981 - 1982. Đến tháng 2/1983, chính phủ lại tăng tỷ giá tiền 30%. Kết quả thật khả quan năm 1984, cán cân thương mại dư thừa 11 tỷ USD và cán cân thanh toán quốc tế đạt mức cân bằng lên đầu tiên trong nhiều năm.
III. Những tác động tiêu cực của việc phá giá đồng bản tệ.
Việc phá giá có thể mang lại những kết quả tiêu cực, song nó cũng có thể gây ra những hiệu quả ghê gớm không lường.
Một là, phá giá sẽ làm tăng thêm lạm phát vì nó làm tăng giá các vật tư và thiết bị nhập, thu hẹp lãi của các doanh nghiệp sản xuất, sẽ ảnh hưởng đến nguồn thu tài chính dẫn đến bội chi ngân sách và làm cho lạm phát sẽ khó kiểm soát hơn. Đồng thời khi lạm phát tăng sẽ làm tăng tỷ giá. Càng phá giá càng không kiểm soát nổi tiền tệ và đất nước sẽ lâm vào vòng xoáy của mô hình: phá giá - tăng lạm phát - tăng bội chi ngân sách - tăng lạm phát - phá giá. Về vòng xoáy sau lớn hơn vòng xoáy trước.
Hai là: Phá giá dẫn đến tăng giá hàng nhập, hạn chế tốc độ tăng trưởng kinh tế, tăng tỷ lệ thất nghiệp.
Phá giá làm cho giá cả hàng nhập trở lên đắt hơn. Trong khi đó, ở hầu hết các nước kém phát triển, tỷ lệ "nhập đầu vào" của sản xuất rất cao do họ muốn rút ngắn quá trình phát triển và tận dụng lợi thế của người đi sau. Như vậy khi phá giá vô hình dung đã làm cho giá thành sản xuất tăng, giảm sức cạnh tranh của hàng hoá trong nước. Mặt khác, khi nội tệ giảm giá mạnh sẽ khiến cho nhiều chủ đầu tư chuyển dịch tài sản từ nội tệ sang đồng ngoại tệ mạnh (USD) lúc này cầu về ngoại tệ cũng có nghĩa là góc nội tệ càng giảm. Để cân bằng lại và kiềm chế lạm phát do phá giá thì chính phủ phải tăng lãi suất tiền gửi nội tệ, tức là lãi suất tín dụng cho sản xuất tăng. Hậu quả là chi phí sản xuất sẽ tăng, hạn chế tốc độ tăng trưởng, thất nghiệp tăng. Tất cả tình hình trên tác động xấu đến xuất khẩu.
Mêxicô là một ví dụ về thất bại trong việc thực hiện phá giá: Năm 1976, tỷ giá tăng từ 12,5 Peso/1USD tới 22 Peso/1 USD, song do tỷ lệ lạm phát khá cao (1977: 17%; 1981: 28%) nên nhập khẩu gia tăng đáng kể , làm cho tỷ giá thực giảm, do vậy cán cân thương mại vẫn bị thâm hụt. Đến năm 1982, Mêxicô gặp khó khăn trong thanh toán nợ, thâm hụt tài chính 5% GDP, lạm phát lên tới 59%. Khi chính phủ lại quyết định phá giá một lần nữa, nhưng kết quả là tỷ giá hối đoái thực giảm xuống, cán cân thương mại xấu đi. Gần đây nhất việc phá giá đồng bản tệ (từ 3283 peso/1USD lên 7200 peso/1USD) đã làm cho tính chất của cuộc khủng hoảng kinh tế, tài chính trầm trọng (hàng chục tỷ USD chạy ra nước ngoài, gánh nặng nợ nước ngoài tăng 57%, Chính phủ phải vay 20 tỷ USD để hỗ trợ kinh tế theo điều kiện bất lợi...) Nguyên nhân là việc phá giá diễn ra trong lúc lạm phát đang ở mức rất cao (thời kỳ 1987 - 1994 mức lạm phát trung bình là 53,7%), thâm hụt cán cân thương mại rất lớn (năm 1994 thâm hụt gần 30 tỷ USD) và nguồn vốn nước ngoài giảm mạnh.
IV. Lời giải cho sự thành công trong phá giá đồng tiền.
Trong quá trình diễn ra cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu á, những nước thuộc thị trường mới nơi đã phải trải qua nhiều sức ép nặng nề đối với đồng bản tệ. Trong nhiều trường hợp đáng chú ý nhất, tất nhiên, chính tại Châu á - điều này đã dẫn tới việc bãi bỏ các tỷ giá cố định và dẫn tới những biến động lớn, tỷ giá nhiều đồng tiền sụt giảm nghiêm trọng vượt ra khỏi những dự đoán được xem là hợp lý trước khi xảy ra cuộc khủng hoảng. Nhưng trong những trường hợp khác, các nhà điều hành đã duy trì thành công các tỷ giá hối đoái cố định (Argentina và Hồng Kông) hoặc có những điều chỉnh với một mức độ linh hoạt nhất định (Braxin) hoặc có những sự sụt giá với những mức độ điều chỉnh linh hoạt hơn (Mexico trong giai đoạn sau này) hoặc thiết l ập lại sự ổn định tỷ giá hối đoái tương đối nhanh chóng ngay sau lần sụt giá ban đầu - (cộng hoà séc).
Vậy, điều gì đã làm nên những thành quả đó. Không khác hơn đó chính là do có sự phối hợp đồng bộ trên phạm vi vĩ mô những chính sách và có những quyết định đúng đắn, tích cực trong những hoàn cảnh, điều kiện cụ thể. Một sự nâng đỡ không đúng cách sẽ dẫn đến những đổ vỡ không đáng có, mà ở đây chính là việc quá bất cập trong thay đổi tỷ giá mà không xét đến tình hình tài chính - tiền tệ trong nước, một kết cục đi ngược lại những gì mà những nhà hoạch định mong muốn. Những mâu thuẫn bên trong, cũng như những vết thương chưa được tẩy rửa lại càng đã đem băng bó lại, sẽ càng làm tăng thêm tính trầm trọng và nguy hiểm của nó. Để giải quyết mâu thuẫn này, chúng ta hãy đặt chính sách tỷ giá như là một thành tố của chính sách tiền tệ, giải quyết điều chỉnh những mối quan hệ trong đó, đặc biệt là mối quan hệ giữa lãi suất và tỷ giá hối đoái. Chúng ta sẽ xem xét xem hai "bánh xe" công cụ này khi có được sự đồng bộ, cân đối lẫn nhau sẽ tác động tới sự vận hành và định hướng của "cỗ xe" kinh tế như thế nào.
Chương IV. Chính sách tiền tệ và tỷ giá hối đoái.
Thật ra, việc xem xét tỷ giá hối đoái trong mối quan hệ với chính sách tiền tệ là cần thiết đối với tất cả mọi quốc gia, dù lớn hay nhỏ, nhằm bảo vệ và đảm bảo lợi ích cho riêng mình. Việt Nam quan tâm đến mối quan hệ trên cũng không nằm ngoài hai mục đích này. Vấn đề chúng ta cần tìm hiểu ở đây là đối với một nền kinh tế nhỏ bé và non yếu như của Việt Nam trong xu hướng hội nhập kinh tế toàn cầu hiện nay, những đe doạ tiềm ẩn có thể đến từ đâu cũng như những mục tiêu, quên lợi gì Việt Nam cần phải đảm bảo trong chiến lược phát triển kinh tế của mình? Một cách tốt nhất để xem xét vấn đề này là xuất phát từ chính thực tiễn những gì đã xảy ra đối với nền kinh tế các nước trong khu vực - những nước có những nét tương đồng Việt Nam trong định hướng phát triển kinh tế ổn định, bền vững hướng vào xuất khẩu.
I. Trong điều kiện khủng hoảng tài chính - tiền tệ.
Đầu tiên chúng ta sẽ xem xét đến việc bảo vệ một đồng tiền đang phải chịu sức ép nặng nề. Trong trường hợp này việc thắt chặt chính sách tiền tệ nói chung là cần thiết. Đối với các nhà đầu tư, mức lãi suất cao hơn sẽ làm tăng lợi nhuận danh nghĩa từ các tài sản được tính bằng giá trị đồng tiền này, và làm cho việc đầu tư trở lên tốn kém hơn do việc tăng chi phí khi đi vay tiền. Một chính sách tiền tệ chặt chẽ hơn có thể sẽ hỗ trợ cho tỷ giá hối đoái bằng cách giảm bớt những dự báo về lạm phát trong tương lai, và nhờ thế cũng giảm bớt những dự báo về sự mất giá của đồng tiền. Một sự đối phó mạnh mẽ đối với sức ép tiền tệ cũng làm giảm bớt rủi ro vỡ nợ cho dân chúng trong nước khi đi vay bằng ngoại tệ. Nhưng như thế không có nghĩa là việc thắt chặt chính sách tiền tệ được coi như sự đối phó với sức ep lên đồng tiền. Chính sách tiền tệ thắt chặt sẽ làm tăng gánh nợ của những người đi vay bằng đồng nội tệ, điều này có thể gây áp lực lên tỷ giá hối đoái khi các nhà đầu tư phải chịu rủi ro tín dụng cao hơn và vì thế, dẫn đến một mức bù đến rủi ro cũng cao hơn cho chính đồng tiền đó. Như vậy khi một chính sách tiền tệ được thắt chặt hơn, sẽ có những ảnh hưởng xấu hơn trong trường hợp những nền kinh tế có khối lượng nợ bằng đồng nội tệ tương đối lớn, hoặc khi do có những vấn đề về mức độ tín nhiệm, những mức lãi suất cao buộc phải duy trì trong một thời gian dài. Hơn nữa những mức tăng lãi suất dường như không đủ để tạo ra một sự hỗ trợ lâu dài cho tỷ giá hối đoái, khi có thể có những mâu thuẫn lớn giữa tỷ giá hối đoái về các nguyên tắc kinh tế cơ bản, hoặc trong bối cảnh những nền kinh tế mà các mức lãi suất cao không bền vững, dù trong bất kỳ thời điểm nào.
Điểm qua một số nước, ta thấy những nước thi hành chủ trương tăng quá cao lãi suất trong lúc đồng tiền mất giá mạnh (như Thái Lan, Hàn Quốc) đã gặp khó khăn nhiều hơn so với những nước chủ trương phối hợp chính sách tỷ giá với chính sách lãi suất (Trung Quốc, Malaixia). Việc Trung Quốc liên tục hạ lãi suất đã giúp nước này duy trì tốc độ tăng trưởng cao trong điều kiện không phá giá đồng nhân dân tệ. Một trong những lý do khiến Thái Lan gặp khó khăn là do đồng tiền được định giá quá cao và cân phải có sự thay đổi tỷ giá hối đoái. Tuy nhiên sự xiết chặt chính sách tiền tệ phải đi kèm với những điều chỉnh hợp lý về tỷ giá hối đoái.
II. Trong định hướng phát triển kinh tế hướng về xuất khẩu.
ổn định tỷ giá luôn là một tiền đề quan trọng để cho các nhà đầu tư an tâm, ít lo ngại rủi ro hối đoái. Nhưng ổn định không có nghĩa là neo chặt tỷ giá hối đoái ở một mức cố định kéo dài quá lâu, không còn phù hợp với các thông số khác của nền kinh tế. Chúng ta phải thường xuyên xử lý mối quan hệ giữa 3 thông số cơ bản: tỷ lệ lạm phát, lãi suất và tỷ giá hối đoái. Điều này có thể được thực hiện thông qua một loạt các thông số khác như: khả năng dự trữ ngoại tệ, cán cân thanh toán, chênh lệch giữa lãi suất nội tệ và ngoại tệ, chênh lệch về lạm phát giữa các nước, chênh lệch giữa tỷ giá hối đoái tự do và chính thức... Thi hành chính sách tỷ giá sao cho vừa thúc đẩy xuất khẩu với tư cách là động lực mạnh nhất của tăng trưởng kinh tế, vừa không phá vỡ các mục tiêu mà chính sách lãi suất thị trường đang hướng tới (đảm bảo tính lành mạnh của môi trường kinh doanh thị trường, tạo khả năng huy động tiết kiệm nội địa lớn, xác lập nguyên tắc khách quan để nguồn vốn được phân phối chủ yếu cho các dự án đầu tư hiệu quả cao - tiết kiệm vốn và tận dụng thế mạnh lao động, tạo vòng tuyến vững chắc ngăn chặn gia tăng lạm phát. Trong khi vốn duy trì được mức đầu tư cao. Thực ra theo nguyên lý thông thường của kinh tế học, hai mục tiêu này của chính sách tỷ giá là đối nghịch nhau. Song trên thực tế không phải là có cách để xử lý thành công tính đối nghịch này. Cụ thể, Đối với các nền kinh tế Đông á trong giai đoạn 1960 - 1990 đều theo đuổi chính sách tỷ giá không đánh giá cao đồng tiền tệ. Định hướng chính sách đó nhằm đảm bảo cho tỷ giá giữ được vai trò thúc đẩy xuất khẩu. Nhưng để không gây ra tình trạng bất ổn định trong hệ thống tiền tệ, việc điều chỉnh tỷ giá theo hướng "mềm hoá" không diễn ra thường xuyên, không thuần tuý do thị trường quyết định. Nhà nước chủ động can thiệp vào quá trình chính sách này là đặc điểm nổi bật của cách điều hành và sử dụng công cụ tỷ giá nhằm mục tiêu phát triển. Một số nước chủ trương tiến hành phá giá sau từng quãng thời gian dù dài (Đài Loan) một số nước lại lựa chọn hướng ổn định tỷ giá lâu dài trên cơ sở thiết lập mức tỷ giá "xuất phát" đủ mềm, tức là có khả năng thúc đẩy xuất khẩu trong nhiều năm (Thái Lan). Dù là khác nhau song hướng tiếp cập ở đây là thống nhất: tỷ giá phải thoả mãn một số yêu cầu như tính thị trường, duy trì sức cạnh tranh xuất khẩu của tỷ giá, đảm bảo cân bằng giữa sức mua đối nội (đo qua lãi suất) và sức mua đối ngoại (đo trực tiếp qua tỷ giá) của đồng nội tệ.
Như vậy vấn đề cốt lõi ở đây là làm sao cân bằng được xu hướng tác động ngược chiều giữa chính sách lãi suất và chính sách tỷ giá hối đoái một cách tích cực. Việc kết hợp chính sách lãi suất và chính sách tỷ giá - hai thành tố chủ yếu nhất của chính sách tiền tệ - theo hướng tao nên trục cốt lõi đảm bảo phối hợp các chính sách vĩ mô để cùng hướng đến mục tiêu chung: Phát triển bền vững hướng mạnh đến xuất khẩu.
Trên đây, chúng ta đã xem xét tỷ giá hối đoái trong mối quan hệ với các chính sách kinh tế vĩ mô khác. Rõ ràng, xem xét mối quan hệ này là cực kỳ quan trọng. Nó sẽ hướng cho chúng ta một cách tiếp cận logic và có khoa học trong việc thực hiện những mục tiêu kinh tế của đất nước. Tuy nhiên, thế vốn chưa đủ để có thể đạt được thành công. Việc nhận thức này lại phải xuất phát từ thực tiễn nền kinh tế của Việt Nam. Với một nền kinh tế dễ bị tổn thương với một đồng tiền chưa có khả năng chuyển đổi, hệ thống ngân hàng yếu kém và các doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ, một cơ cấu sản xuất và một cơ cấu hàng xuất khẩu luôn gây ra những áp lực lớn đối với việc phá gía đồng Việt Nam, thì việc có những điều chỉnh linh hoạt kịp thời trong tỷ giá là một điều vô cùng quan trọng. Theo dõi sự giao động của tỷ giá trong những năm qua có thể dễ dàng thấy rằng bằng cách phá giá từng bước đồng Việt nam, các nhà hoạch định chính sách của Việt Nam đang tạo ra những biện pháp khuyến khích cho dịch chuyển cơ cấu sản xuất hướng đến xuất khẩu, đồng thời tạo nên những điều kiện thuận lợi thực hiện từng bước quá trình tự do hoá tài khoản vãng lai tiến tới hội nhập.
Chúng ta sẽ điểm lại toàn bộ quá trình diễn biến của tỷ giá hối đoái trong vòng 10 năm qua để thâý rằng đó đã là những bước đi vô cùng cần thiết tạo động lực phát triển kinh tế, đồng thời chúng ta sẽ có được một định hướng về tỷ giá hối đoái cho tương lai.
Chương V. sự phát triển của Tỷ giá hối đoái Việt Nam
I. Nhìn lại sự phát triển của hệ thống tỷ giá ở Việt Nam.
Giai đoạn 1955 - 1989, mặc dù nhiều nước trên thế giới đang áp dụng cơ chế tỷ giá thả nổi về thả nổi có quản lý, nhưng các nước trong hệ thống XHCN (trong đó có Việt Nam) với cơ chế kế hoạch hoá tập trung, Nhà nước luôn can thiệp mạnh vào mọi mặt hoạt động kinh tế, lại là chế độ tỷ giá cố định. Bên cạnh tỷ giá chính thức (tỷ giá mậu dịch) nhà nước còn đưa ra hai loại tỷ giá khác là: tỷ giá phi mậu dịch về tỷ giá kết toán nội bộ. Như vậy chế độ tỷ giá ở Việt Nam trong giai đoạn này là chế độ đa tỷ giá. Hệ thông tỷ giá này đã gây không ít khó khăn cho việc quản lý điều hành của Nhà nước trong lĩnh vực tài chính, tiền tệ kinh tế đối ngoại, đồng thời để lại hậu quả nghiêm trọng cho nền kinh tế. Chính vì vậy, nhu cầu đổi mới cơ chế tỷ giá trở thành vấn đề cấp bách, sau đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, Nhà nước bắt đầu thực hiện công cuộc đổi mới nền kinh tế, từng bước xoá bỏ cơ chế kế hoạch hoá tập trung, chuyển dần sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Tỷ giá hối đoái cũng có những cách đặc biệt:
Tháng 3/1989: Nhà nước công bố chính thức xoá bỏ tỷ giá kết toán nội bộ, xoá bỏ mọi chế độ trợ giá cho các hoạt động ngoại thương. Tỷ giá chính thức được NHNN công bố căn cứ vào chỉ số lạm phát, lãi suất. CCTT tham khảo diễn biến tỷ giá trên thị trường tự do và giá vàng trên thị trường quốc tế và trong nước. Trên cơ sở tỷ giá này, các NHTM xây dựng một tỷ giá riêng cho mình trong giao dịch hàng ngày có biên độ giao động cho phép. Nhìn chung, những giải pháp trên đã góp phần cải thiện phần nào tình hình trên thị trường ngoại hối, xoá bỏ tình trạng bất hợp lý trong mua bán, thanh toán, đặc biệt là trong lĩnh vực xuất nhập khẩu. Tuy nhiên tỷ giá trên thị trường vẫn biến động mạnh, mà điển hình là cơn sốc tỷ giá vào cuối năm 1991. (1USD = 13.000đ) nguyên nhân chính làm cho USD tăng giá là do ảnh hưởng của tình hình CCTT quốc tế, sự thâm hụt tài chính của chính phủ và mức độ lạm phát nặng nề ở Việt Nam.
Nhằm thúc đẩy thị trường giao dịch ngoại tệ chính thức, NHNN đã hình thành một sàn giao dịch ngoại tệ tại Thành phố Hồ Chí Minh vào cuối tháng 8/1991 tại Hà Nội vào tháng 11/1991. NHNN đã qui định biên độ giao dịch tối đa so với tỷ giá chính thức và được NHNN công bố là 10,5%. Tuy nhiên do sự không hiệu quả của hai sàn giao dịch này, nên ngày 14 - 10 - 1994. NHNN đã ra quyết định số 204/QĐ - NHNN hình thành một thị trường liên ngân hàng cho các giao dịch ngoại hối thay cho 2 sàn giao dịch cũ. NHNN vẫn tiếp tục qui định biên độ giao dịch tỷ giá mua và bán là 10,5%, kết quả của những biện pháp cải cách này là hết sức khả quan, hầu hết các NHTM lớn đều tham gia vào thị trường liên ngân hàng cùng với lượng giao dịch trung bình một ngày khoảng 3 triệu USD.
Năm 1996, mức thâm hụt cán cân thương mại ở nước ta lên đến 4 tỷ USD, mức thâm hụt cán cân thương mại ở nước ta đến 4 tỷ USD, tỷ lệ nhập siêu so với GDP lên đến 16%, cao gần rưỡi so với các nước có mức độ nhập siêu cao nhất thế giới, nhu cầu USD tăng tạo sức ép giảm giá VND. Do vậy, NHNN đã mở rộng biên độ giao động của tỷ giá từ 0,5% trước đây lên 4% và vào tháng 2/1997 biên độ này là 5% bên canh đó tỷ giá chính thức cũng được nâng dần lên. Nhìn chung, từ đầu năm 1997 tỷ giá USD/NVD liên tục tăng lên, không còn ổn định như thời gian từ 1993 - 1996. Ngày 2/7/1997, ngòi nổ của cuộc khủng hoảng tiền Châu á bắt đầu phát ra từ Thái Lan, là một nước trong cùng khu vực, Việt Nam cũng bị ảnh hưởng đến tình hình buôn bán, thanh toán và kể cả về tâm lý. Ngày 13/10/1997, NHNN quyết định nới rộng biên độ tỷ giá mua bán ngoại tệ lên 10% so với tỷ giá chính thức. Cầu ngoại tệ trên thị trường rất cao nên hầu như khu vực mua bán ngoại tệ của các NHTM thường xuyên bán sát mức trần cho phép. Mặc dù vậy nhưng giá trên thị trường tự do còn cao hơn nhiều (có lúc lên đến 14000 đ/1USD).
Đứng trước tình hình này, những tháng đầu năm 1998, NHNN đã đưa ra một loạt các biện pháp nhằm ổn định thị trường, đặc biệt là hai lần chủ động điều chỉnh tỷ giá: lần 1, ngày 16/12/1998 nâng tỷ giá từ 11.175đ/1USD lên 11.800đ/1USD làm tỷ giá giao dịch của NHTM xấp xỉ với tỉ giá trên thị trường tự do lên 2, ngày 07/8/1998 tỷ giá chính thức được nâng từ 11.888đ/1USD lên 12.998đ/USD tăng 16,3%. Bên cạnh đó biên độ giao dịch ngoại tệ cũng được thu hẹp lại còn 7% chứ không phải là 10% như trước đây nữa. Việc làm này đã làm thu hẹp khoảng cách giữa tỷ giá trên thị trường tự do và tỷ giá của các NHTM.
Vào những tháng cuối năm 1998, tỷ giá của hai thị trường này thường xuyên xấp xỉ nhau. Và gần đây nhất vào đầu năm 1999, NHNN để đưa ra những biện pháp cải cách chính sách điều hành tỷ giá mạnh mẽ do những áp lực giảm sút sức cạnh tranh trong thương mại quốc tế, mà nguyên nhân chính là từ cuộc khủng hoảng tiền tệ trong khu vực đem lại. Do những áp lực tạo ra từ việc định giá tỷ giá quá cao, NHNN lần này đã đưa ra những cải cách có tính chất mạnh mẽ hơn: xoá bỏ tỷ giá chính thức được công bố bởi NHNN hàng ngày, thay vào đó NHNN đã tôn trọng qui luật hoạt động của thị trường hơn, thông qua việc qui định các NHTM chỉ được phép giao dịch ngoại tệ trên biên độ 10,1% so với tỷ giá đóng cửa của thị trường liên ngân hàng của ngày giao dịch cần thiết. Quyết định này được công bố bằng hai quyết định số 64,65/1999/QĐ - NHNH vào ngày 25/2/1999.
II. Vài suy nghĩ về cơ chế điều hành tỷ giá tại Việt Nam.
Như vậy, cải cách chính sách điều hành tỉ giá tại Việt Nam có thể được chia làm hai thời kỳ chính: 1. Cho đến tháng 8/1991, NHNN vốn điều chỉnh tỷ giá chính thức trong biên độ 10 đến 20% của thị trường chợ đen; 2. Từ ngày 9/1991 cho đến nay, NHNN đã để tỷ giá hối đoái được định đoạt trên thị trường liên ngân hàng. Phải thừa nhận rằng thời gian qua, NHNN Việt Nam đã đưa ra những bước đi thích hợp trong việc điều chỉnh tỷ giá và đã gặt hái được những thành công nhất định, đặc biệt là trong lĩnh vực ổn định thị trường ngoại tệ, góp phần tích cực vào những thành tựu chung của nền kinh tế. Chúng ta có thể thấy rất rõ những ưu điểm nổi bật của những cải cách tỷ giá đó là:
Thứ nhất, tỷ giá NHNN công bố hàng ngày là tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường liên ngân hàng, điều này phản ánh tỷ giá được hình thành khách quan hơn, phản ánh đúng hơn cung - cầu ngoại tệ trên thị trường. Trước đây, mặc dù vẫn nói: tỷ giá chính thức của NHNN công bố cũng được căn cứ vào giá thị trường tự do, tình hình cung và cầu về ngoại tệ. Song nó vẫn có cái gì đó thật mơ hồ, mang nặng tính chủ quan nhiều hơn. Chúng ta có thể thấy rõ điều này khi nhìn vào những biến động tỷ giá của các NHTM:
Ngày (năm 1998)
21/2
27/2
28/2
2/3
5/3
9/3
Tỷ giá chính thức
11.803
11.804
11.801
11.790
11.798
11.803
Tỷ giá của NHTM
12.983
12.984
12.981
12.979
12.978
12.983
Một loạt các con số trên cho thấy tỷ giá của các NHTM luôn bám sát mứ trần cao nhất mà NHNN cho phép (giá công bố chính thức x 110%), thậm chí tỷ giá chính thức chỉ cần thay đổi một đồng thì tỷ giá của các NHTM cũng bám theo. Lý do ở đây là: Vượt thì không được phép, nhưng thấp hơn mức trần thì các NHTM cũng không thể chấp nhận được. Điều này chứng tỏ có cái gì đó thật là gò bó, cứng nhắc, khó có thể chấp nhận đối với cơ chế tỷ giá hiện hữu. Còn một khi tỷ giá công bố chính là tỷ giá hình thành trên thị trường liên ngân hàng, thì sẽ thật nhẹ nhàng, các NHTM không còn phải phòng thủ nữa, bởi tỷ giá này chính là điểm gặp gỡ giữa cung và cầu ngoại tệ của các ngân hàng.
Thứ ba, trước đây, do tỷ giá NHNN công bố cứng nhắc, không thực sự phản ánh, quan hệ cung cầu nên nếu thấy giá mua ngoại tệ của các ngân hàng thấp thì các doanh nghiệp mang ngoại tệ ra thị trường tự do bán - ngược lại nếu mua ngoại tệ của ngân hàng quá khó khăn thì mua trên thị trường tự do. Vì thế, chỉ cần có những biến động nhỏ trong nền kinh tế cũng đủ tác động để mở ra một khoảng cách giữa tỷ giá của thị trường tự do và tỷ giá của các NHTM. Nhưng với cơ chế điều hành mới, tỷ giá mà NHNN công bố, bác bỏ nó xuất phát từ cung cầu ngoại tệ giữa các ngân hàng nên nó sẽ gần gũi hơn với tỷ giá thị trường tự do và như vậy những biến động để có thể tạo ra khoảng cách giữa tỷ giá thị trường tự do và tỷ giá của các NHTM sẽ khó có thể xảy ra hơn.
Thứ ba, với cơ chế điều hành tỷ giá trước đây, vì NHNN muốn giữ ổn định, không thay đổi, trong khi đó khả năng cung ứng ngoại tệ của NHNN cũng như các NHTM thấp nên nhu cầu ngoại tệ của các doanh nghiệp cũng thường xuyên không được đáp ứng, điều này đã làm cho nhiều doanh nghiệp phải lao đao khi phải đối mặt với các nhu cầu thanh toán đến hạn với nước ngoài. Còn với cơ chế điều hành tỷ giá như hiện nay thì bản thân tỷ giá tự nmó đã được điều chỉnh theo quan hệ cung cầu, hay nói cách khác chính nhu cầu của các doanh nghiệp là cơ sở xác định tỷ giá và vị trí đó cung và cầu đều được thoả mãn.
Thứ tư, khi tỷ giá không xuất phát từ quan hệ cung cầu thì mỗi lần nhà nước điều chỉnh tỷ giá đều tạo sức ép tâm lý nặng nền, nhất là khi tỷ giá không được điều chỉnh thường xuyên , đến khi điều chỉnh sẽ tạo ra một bước nhảy đột ngột, người ta bắt đầu nghi ngờ về một chủ trương nào đó, lòng tin vào đồng tiền có thể vì thế mà bị dao động, tình trạng đầu cơ, găm giữ ngoại tệ sẽ có cơ hội phát triển. Nhưng với cơ chế mới, tỷ giá được hình thành theo quan hệ cung cầu, để giữ tỷ giá ổn định hay điều chỉnh tỷ giá theo mục tiêu nào đó, NHNN chỉ việc điều chỉnh cung hoặc cầu bằng cách bán ngoại tệ ra hoặc mua ngoại tệ vào và như vâỵ tất cả đều hết sức tự nhiên, giảm bớt tâm lý hoang mang dao động.
Thứ năm, trong cơ chế mới, tỷ giá không phải là được điều chỉnh mà là được hình thành trên thị trường, rõ ràng là nó mềm dẻo hơn, linh hoạt hơn và vì thế nó phù hợp với thông lệ quốc tế, góp phần tăng cường sự hoà nhập của nền kinh tế nước ta vào cộng đồng kinh tế thế giới.
Từ những điểm nêu trên cho thấy cơ chế điều hành tỷ giá mới của NHNN không chỉ khắc phục được những hạn chế của cơ chế cũ mà còn hết sức phù hợp với một nền kinh tế mở như điều kiện của nước ta hiện nay.
Như vậy Việt Nam đã chuyển đổi từ chế độ tỷ giá cố định sang chế độ tỷ giá neo, dựa trên cơ sở biến động của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. Thông qua thời gian nói trên (từ năm 1991 đến nay) chế độ điều hành tỷ giá của Việt Nam như vậy là tương đối hợp lý. Tuy nhiên để chế độ mới về điều hành tỷ giá có thể thực sự phát huy tác dụng cần thiết phải có những giải pháp kèm theo.
III. Những giải pháp kèm theo nhằm hỗ trợ cho chính sách tỷ giá hiện nay.
a. NHNN phải có dự trữ ngoại tệ đủ mạnh.
Đây là giải pháp mà từ trước tới nay chúng ta vẫn rất quan tâm. Tuy nhiên mỗi giai đoạn nó mang ý nghĩa có phần khác nhau. Trước đây tỷ giá là do NHNN định ra công bố, nó còn mang nặng tính chất hành chính cho nên nó có tác động đến cung cầu nhiều hơn so với sự tác động của cung - cầu đến với nó. Cung cầu có thể thay đổi, song tỷ giá vẫn có thể giữ nguyên như cũ (nếu NHNN thấy như vậy là cần thiết) vì thế, có những lúc dự trữ ngoại tệ của ta rất mỏng manh những tỷ giá danh nghĩa vẫn không hề bị biến động. Với cơ chế mới về điều hành tỷ giá thì mọi vấn đề lại không phải như vậy, khi cung cầu ngoại tệ trên thị trường thay đổi thì tỷ giá trên thị trường sẽ thay đổi nếu NHNN muốn giữ tỷ giá ổn định thì buộc phải can thiệp. Nếu cung lớn hơn cầu, NHNN chỉ việc tung VNĐ ra mua ngoại tệ, làm tăng nguồn dự trữ ngoại tệ của NHNN. Nhưng ngược lại, nhu cầu ngoại tệ lại cao hơn cung ngoại tệ, (khả năng này xảy ra nhiều hơn, thì không còn cách nào khác, để giữ tỷ giá, NHNN buộc phải tung ngoại tệ ra bán. Song không chỉ như vậy, dự trữ ngoại tệ còn cần phải đủ mạnh để sẵn sàng đối phó với những âm mưu kích động yếu tố đầu cơ trên thị trường. Bài học của Thái Lan còn đó, một số ngân hàng và công ty tài chính nước ngoài đã lợi dụng sự mất ổn định kinh tế và sự yếu kém của hệ thống ngân hàng Thái Lan để thực hiện các giao dịch đầu cơ châm ngòi nổ cho cuộc khủng hoảng và làm cho cuộc khủng hoảng thêm trầm trọng. Nếu dự trữ ngoại tệ của NHNN không đủ mạnh để can thiệp trong những lúc cần thiết từ hoặc là lai phải quay lại điểm xuất phát của nó - dùng biện pháp hành chính để giữ tỷ giá, hoặc là thả nổi cho tỷ giá tự nó trôi nổi trên thị trường.
b. Xử lý tốt mối quan hệ giữa lãi suất và tỷ giá.
Giữa lãi suất và tỷ giá có mối quan hệ ràng buộc khá chặt chẽ, nếu tỷ giá có xu hướng giảm thì người ta bắt đầu quan tâm đến lãi suất, nếu lãi suất có xu hướng giảm thì ngược lại, người ta lại quan tâm đến tỷ giá. Các hành vi bán - mua - gửi - rút ngoại tệ hơn quan hệ xoắn xuýt với nhau và nó sẽ tạo ra dòng chuyển giữa VND và ngoại tệ. Dù vậy quan hệ đến tỷ giá thì không thể không quan tâm đến lãi suất và ngược lại. Thực tế cũng đã cho chúng ta thấy rõ điều này: Những tháng đầu năm 1997 diễn biến của tỷ giá, của lãi suất hoàn toàn có lợi cho sự chuyển dịch của VND thành USD. hay trong năm 1998, việc điều chỉnh tỷ giá lên 16% làm cho lợi tức dự tính của việc giữ ngoại tệ tăng hơn so với lợi tức dự tính của việc giữ VNĐ đã dẫn đến việc chuyển đổi từ VND sang ngoại tệ làm ảnh hưởng tới nguồn vốn khá dụng VND của các tổ chức tín dụng. Nhu cầu gần gũi ngoại tệ đã tạo ra sức mua giá trị trên thị trường, cầu ngoại tệ tăng lên và vì vậy tỷ giá có xu hướng bị đẩy lên. Như vậy tình trạng đó không những làm giảm khả năng mua ngoại tệ của các ngân hàng mà thậm chí còn làm cho NHNN phải tung dự trữ ngoại tệ ra để giữ tỷ giá. Chính vì lẽ đó nên phải quan tâm đến mối quan hệ giữa lãi suât và tỷ giá. Chúng ta đã có một bước tiến trong việc xác định tỷ giá trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng làm cơ sở xác định giá mua, bán ngoại tệ của NHTM đồng thời xác định lãi suất trên thị trường lên ngân hàng làm cơ sở để NHTM xác định lãi suất cho vay và tiền gửi của mình.
c. Các cơ chế quản lý ngoại hối được hoàn chỉnh hơn.
- Quản lý nguồn ngoại tệ cho các doanh nghiệp một cách có hiệu quả mà đồng thời không làm giảm tính chủ động của các doanh nghiệp trong việc chi tiêu đối với những món nhỏ, không cần trình báo.
- Quan tâm hơn đến nguồn ngoại tệ đang được dùng để buôn bán bất hợp pháp, ngăn chặn hiện tượng chảy máu ngoại tệ, có biện pháp xử lý thích đáng những trường hợp vi phạm chế độ quản lý ngoại hối...
- Tất cả các nhu cầu mua ngoại tệ hợp lý đều phải đáp ứng đầy đủ.
- Chú ý đến những biện pháp tạo sự tiện ích để khuyến khích và khơi tăng nguồn thu kiều hối.
Tóm lại, mỗi giai đoạn khác nhau, nhà nước có thể đưa ra một số cơ chế tỷ giá khác nhau và các giai đoạn khác nhau về quản lý ngoại hối. Tuy nhiên giai đoạn nào cũng vậy luôn có những yếu tố cơ bản xuyên suốt, cần phải nắm bắt cho được những yếu tố đó để có thể đưa ra một chính sách thực sự bao quát và phù hợp. Trên cơ sở đó, nhà nước có thể kiểm soát được các luồng di chuyển ngoại tệ, thu hút ngoại tệ làm tăng nguồn dự trữ ổn định tỷ giá, thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia và khắc phục tình trạng đôla hoá trong nền kinh tế.
IV. Chính sách tỷ giá trước những thách thức đe doạ hiện tại và định hướng cho tương lai.
Xét cho những mục tiêu ngắn hạn trước mắt , một chính sách quản lý tỷ giá hối đoái như hiện nay là phù hợp - điều này được thể hiện qua một loạt các phân tích mà chúng ta đã đề cập ở trên. Tuy nhiên việc sử dụng chính sách tỷ giá neo (và trong tương lai khi mà thực hiện được việc tiến hành tự do hoá hoàn toàn tài khoản vốn, tạo tiền đề cho việc thực thi điều hành chế độ tỷ giá thả nổi) thì việc điều hành vĩ mô tại Việt Nam cùng vốn phải rất nhiều khó khăn mà thách thức lớn nhất lại chính là lạm phát. Bởi vì trong điều kiện thị trường lao động cứng nhắc như của Việt Nam trong giai đoạn Việt Nam thì phương pháp tối ưu để chính phủ gây những cú huých mạnh mẽ thúc đẩy khu vực tư nhân phát triển là thông qua phá giá. Bởi vì bằng cách thực hiện phá giá, chính phủ có thể nhận ra sự giảm đi trong tỷ lệ tiền lương thực (là tỷ lệ tiền lương sau khi được điều chỉnh so với tỷ lệ lạm phát) và vì vậy tăng được việc làm và sự bùng nổ trong sản lượng. Giai đoạn lạm phát cao là một vấn đề được lưu tâm hàng đầu (1989 - 1994 trong quản lý vĩ mô thì chế độ tỷ giá cố định thực sự là một công cụ điều hành kinh tế vĩ mô đáng tin cậy. Bởi vì chế độ tỷ giá cố định đòi hỏi phải thiết lập những qui tắc không được phép vi phạm giữa khu vực tài chính công (chi tiêu ngân sách) , và khu vực tiền tệ (hoạt động ngân hàng trung ương). Nguyên tắc này nêu rõ không được phép in tiền để bù đắp cho thâm hụt ngân sách, chỉ khi nào nguyên tắc này được giữ vững thì khi đấy chế độ điều hành tỷ giá cố định mới phát huy được vai trò của nó. Bởi vì dưới chế độ tỷ giá cố định thì bất kỳ việc ưu tiên nào để tài trợ cho thâm hụt ngân sách đều có thể làm suy yếu dự trữ ngoại tệ quốc gia, trong trường hợp thâm hụt ngân sách mà dai dẳng như hiện nay thì khả năng không có dự trữ ngoại tệ là điều không thể tránh khỏi, nếu Việt Nam cứ tiếp tục duy trì chế độ tỷ giá cố định. Trong môi trường vĩ mô vẫn còn bấp bênh như trong giai đoạn hiện nay, thì chế độ tỷ giá cố định hay chế độ tỷ giá cao (dựa trên sự biến động của tỷ giá liên ngân hàng) mà Việt Nam đang theo đuổi và sẽ rất có khả năng bị sụp đổ sau một cú sốc do tâm lý lo sợ phá giá và sự quay trở lại của lạm phát cao của cư dân và các tổ chức kinh tế, nên buộc họ phải chuyển tiền của mình vào đầu cơ ngoại tệ. Trong tương lai, từ nay đến năm 2010, khi Việt Nam có thể thực hiện việc chuyển đổi tiền tệ tự do trên tài khoản vãng lai và tiến tới cả trên tài khoản vốn (tức là cho phép các luồng vốn luân chuyển tự do trong nền kinh tế) thì việc quản lý tỷ giá không còn là một nhiệm vụ đơn gianả với các nhà quản lý vĩ mô. Bởi vì trong những trường hợp tỷ giá không đạt đến mức cân bằng thì các nhà đầu tư rất có thể nhằm vào các hoạt động đầu cơ ồ ạt nhằm bảo vệ tài sản của họ khỏi bị mất giá.
Một khía cạnh khác, mặc dù các nhà quản lý tiền tệ Việt nam cho rằng chế độ tỷ giá của Việt Nam là chế độ tỷ giá của Việt Nam là chế độ không bản vị bất cứ một đồng ngoại tệ nào, nhưng trong thực tế của nền kinh tế thì thực chất chế độ tỷ giá của đồng Việt Nam là một chế độ bản vị đồng đôla Mỹ. Bởi vì 96,9% trong thanh toán cán cân thanh toán của Việt Nam là bằng đồng đôla Mỹ. Do đó đòi hỏi dự trữ ngoại tệ của NHNN, thanh toán trong thương mại quốc tế, các chính sách quản lý nợ nước ngoài cũng như việc huy động đầu tư trực tiếp nước ngoài... tại Việt Nam đều phải được xác định trên cơ sở đồng đôla Mỹ.
Cùng với tỷ lệ lạm phát trong nước cao và việc tăng giá đồng Việt Nam vào giữa năm 1995 so với các đồng tiền mạnh khác, đặc biệt là đồng Yên Nhật, đồng DM, tuy nhiên vẫn giữ một phần số rất cao so với đồng đôla Mỹ, nên đã có kết quả là chính sách tỷ giá của Việt Nam có xu hướng đánh giá quá cao tỷ giá thuế của đồng Việt Nam so với đồng đôla Mỹ trong một thời gian dài. Chính sự đánh giá cao này là một nhân tố quan trọng góp phần làm chậm tốc độ xuất khẩu và thâm hụt tài khoản vãng lai kéo dài. Trong thực tế Việt Nam có khá nhiều liên kết cùng với các khu vực khác trên thế giới trong lĩnh vực thương mại và đầu tư nước ngoài. Điều đó thể hiện việc ổn định tỷ giá hối đoái như trong giai đoạn hiện nay thông qua đồng đôla Mỹ không phải là một chế độ quản lý tỷ giá hợp lý. Không phải Mỹ mà là Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc và các nước ASEAN mới là những đối tác thương mại chính của Việt Nam. Từ cơ cấu thương mại này có thể dễ dàng nhận thấy để ổn định hoá tỷ giá và duy trì được một chế độ tỷ giá hợp lý trong tương lai từ nay cho đến năm 2010 thì Việt Nam nên tìm ra một rổ tiền tệ tối ưu trong đó không chỉ có đồng đôla Mỹ mà còn có cả đồng Yên Nhật, đồng Euro và các đồng tiền khu vực. Hay nói cách khác, Việt Nam cũng như các nước ASEAN khác cần tạo nên một đồng tiền có khả năng chuyển đổi cao trong khu vực, bởi vì tỷ lệ đầu tư và thương mại của Việt Nam và các nước trong khu vực là rất lớn. Bằng cách làm như vậy Việt Nam và các nước ASEAN sẽ có thể tránh được những rủi ro do biến động tỷ giá gây ra, đồng thời cũng giảm thiểu được mức độ ảnh hưởng của các nền kinh tế công nghiệp khi các nước này thay đổi chính sách vĩ mô của nó.
V. Những giải pháp cho những vấn đề cần tiếp tục trong tương lai.
Trong tương lai, để có thể gia nhập APEC và WTO thì một trong những điều kiện tiên quyết là phải hình thành được khả năng chuyển đổi tiền tệ trên tài khoản vãng lai và tài khoản vốn. Để duy trì cán cân thanh toán bền vững, nâng cao tính cạnh tranh của nền kinh tế thì Việt Nam phải buộc từng bước thực hiện việc tự do hoá các giao dịch ngoại hối và các luồng chu chuyển vốn. Mà muốn quá trình này được thực hiện thành công thì chính sách tỷ giá của Việt nam cũng phải được chuyển đổi cho phù hợp với các chính sách đổi mới kinh tế. Tuy nhiên nó cũng có thể gây ra những hiệu quả nghiêm trọng, mà cụ thể là tạo ra những luồng chu chuyển vốn chảy vào và chảy ra khỏi nền kinh tế một cách nhanh chóng và hiệu quả là làm cho tỷ giá của Việt Nam trở lên mất ổn định. Chỉ bằng cách hình thành một chế độ điều hành tỷ giá mềm dẻo linh hoạt dựa trên một số các ngoại tệ có tính toán kỹ đến quan hệ với thanh toán quốc tế, đầu tư trực tiếp nước ngoài, vay nợ nước ngoài, dự trữ ngoại tệ... thì nền kinh tế Việt Nam mới duy trì được sự ổn định bền vững.
Rõ ràng nếu xét theo định hướng lâu dài thì một chế độ điều hành tỷ giá như hiện nay của NHNN là bất hợp lý, không có tác dụng hỗ trợ đối với cán cân thanh toán tại Việt Nam. Để có thể sửa đổi những vấn đề này thì một số mặt sau cần phải được giải quyết.
- Cần tôn trọng qui luật thị trường hơn bằng cách từng bước để thị trường cân đối cung cầu ngoại tệ và giá của ngoại tệ (tỷ giá). NHNN chỉ can thiệp vào thị trường ngoại hối khi thị trường có những biến động tiêu cực do các hành vi đầu cơ tạo ra.
- Từng bước tạo lộ trình cần thiết để tiến đến tự do hoá tài khoản vãng lai và tài khoản vốn, và song song với quá trình này là việc chuyển đổi chế độ tỷ giá neo sang chế độ tỷ giá thả nổi. Để thực hiện được các điều kiện trên thì phải có được một nền kinh tế đủ "mở" với thế giới. Nói cách khác việc điều hành chế độ tỷ giá phải phù hợp với trình độ phát triển và khả năng cạnh tranh của nền kinh tế.
- Tỷ giá ở Việt Nam thực sự là một chế độ bén vị đôla Mỹ, trong khi đó cơ cấu thanh toán và đầu tư nước ngoài và nợ thì tỷ trọng đôla Mỹ không phải có một quyền số thống trị. Như vậy tỷ giá mà NHNN đặt ra cho nền kinh tế trong giai đoạn hiện nay không phải là tỷ giá thực. Vấn đề đặt ra là phải xây dựng một rổ tiền tệ hợp lý trên cơ sở mối quan hệ thương mại, đầu tư và vay nợ.
- Việc phá giá tại Việt Nam cho đến nay vẫn chưa tạo ra được những tác động hoá, các cú sốc đối với cán cân thanh toán, bởi vì giữa tỷ giá và cán cân thanh toán có mối quan hệ không chặt chẽ, nên những động thái trong việc thay đổi chính sách tỷ giá chưa có đủ tiềm lực và lực để tạo lên những vụ nổ lớn đối với cán cân thanh toán, và những tác động chỉ có ý nghĩa trong một thời gian tương đối ngắn.
- Bên cạnh việc thực thi chính sách tỷ giá linh hoạt, thì cũng cần phải có những chính sách đồng bộ như: thực hiện tự do hoá thương mại, từng bước hạ và xoá hàng rào thuế quan, khuyến khích các ngành sản xuấta hàng hoá thay thế hàng nhập khẩu và hướng đến xuất khẩu, lành mạnh hoá hoạt động ngân hàng, đặc biệt là các hoạt động liên quan đến thanh toán quốc tế và kiểm soát các giao dịch ngoại tệ.
kết luận
Việc lựa chọn chính sách tỷ giá hối đoái phù hợp cho mỗi giai đoạn không đơn giản chỉ là việc đo lường cái được, cái mất một cách trực tiếp. Tỷ giá là một biến số có những tác động rất phức tạp, vừa trực tiếp, vừa gián tiếp đến cả những cân đối bên ngoài và bên trong nền kinh tế. Vấn đề là nền kinh tế của chúng ta đang ở trạng thái nào và mục tiêu trong ngắn hạn và dài hạn của chúng ta là muốn tiến về đâu và bằng cách nào để đạt được những mục tiêu đó. Thực tiễn phát triển và lựa chọn chính sách tỷ giá hối đoái của nhiều nước trong 30 năm qua (từ chế độ Bretton Woods sụp đổ) khẳng định không có chính sách nào trong số các chính sách tỷ giá hối đoái hiện nay được xem là có ưu thế tuyệt đối. Mỗi loại chính sách tỷ giá hối đoái đều có những điểm mạnh và yếu nhất định. Những kinh nghiệm của các nước cũng cho thấy rõ: Một chính sách tỷ giá hối đoái sử dụng tuyển chuyển phù hợp với điều kiện của từng giai đoạn thì sẽ có nhiều tác động tích cực đến quá trình tăng trưởng và phát triển. Xét trên nhiều góc độ khác nhau, việc xử lý chính sách tỷ giá hối đoái của chúng ta trong thời gian qua là tương đối hợp lý và do đó đã có những đóng góp tích cực váo quá trình tăng trưởng. Tuy nhiên cũng phải nhận thấy rằng quá trình điều chỉnh tỷ giá hối đoái trong thời gian qua còn có những lúc chậm, bị động và chưa đủ sức. Trong điều kiện nền kinh tế mới mẻ của từng phần, nhưng hạn chế này phần nào đã không được bộc lộ và gây ra những hậu quả nghiêm trọng. Nhưng nếu cứ liên tục như vậy trong tương lai khi chúng ta đã mở cửa phiếu hoá thì hậu quả của một chính sách tỷ giá kém linh hoạt sẽ có nguy cơ lấn át những tác động tích cực mà một chính sách tỷ giá cố định tương đối cao tạo ra.
Có một vấn đề mà các nhà hoạch định chính sách luôn phải đối mặt khi điều chỉnh tỷ giá hối đoái là tính linh hoạt và tính ổn định. Một chính sách tỷ giá đủ linh hoạt có thể giúp giảm sốc cho nền kinh tế lại có nguy cơ tạo ra tâm lý đề phòng của các tác nhân kinh tế do tính bất ổn định của tỷ giá hối đoái và dẫn đến làm giảm chính những tác động tích cực mà chính sách tỷ giá linh hoạt có thể tạo ra. Mâu thuẫn này thường gây khó khăn khi các nhà hoạch định chính sách tìm phương sách cho tỷ giá hối đoái. Nhưng cuối cùng thì vấn phải có một cách lựa chọn. Cách tốt nhất là có thể kết hợp với nhân tố mức độ điều chỉnh để làm giảm tác động của mâu thuẫn này.
Nếu có mức độ điều chỉnh phản ánh đủ những khả năng biến động của tỷ giá trong tương lai, thì có thể tạo ra sự ổn định tương đối trong tỷ giá linh hoạt.
Với nền kinh tế ngày một hội nhập hơn và yêu cầu phải điều chỉnh cơ cấu xuất nhập khẩu hàng hoá - dịch vụ có độ co dãn lớn hơn trong tương lai (hàng hoá có chi phí và chất xám ngày càng cao). Việt Nam cần phải có một chính sách tỷ giá được xử lý linh hoạt hơn. Kinh nghiệm của các nước đã vấp phải các cú sốc và các cuộc khủng hoảng chỉ ra: một chính sách tỷ giá được xử lý linh hoạt sẽ có khả năng giám sốc cho nền kinh tế tốt hơn là một chính sách tỷ giá điều hành một cách cứng nhắc.
Điều cuối cùng là khi lựa chọn sách lược cho chính sách tỷ giá, chúng ta cần phải lượng hoá được những tác động của nó trong cả ngắn hạn và dài hạn. Có như vậy, chúng ta mới đánh giá được sát thực hiệu quả của một chính sách tỷ giá hối đoái...
Tài liệu tham khảo
Lý thuyết tiền tệ (Học viện – Ngân hàng)
Nghiệp vụ Ngân hàng Trung ương (Học viện Ngân hàng)
Tiền tệ và tín dụng - Lê Minh Danh
Tài chính tiền tệ - Đại học Quốc gia Hồ Chí Minh
Tiền tệ và thị trường Tài chính (SM)
Nghiệp vụ kinh doanh Ngân hàng (Học viện Ngân hàng)
Một số tài liệu tham khảo khác.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33677.doc